main billboard

Bước sang năm 1975, chiến sự ở Miền Nam đột nhiên chuyển biến mau chóng, Quân lực VNCH bắt đầu triệt thoái dần về phía Nam. Sang Tháng 4 thì chiến thắng của Cộng Sản đã cận kề. Nương theo đà thắng lợi của Cộng quân, “Nhóm Công Giáo Tiến Bộ” ở Sài Gòn bắt đầu hành động.

hihoa ngay30 4

Bước sang năm 1975, chiến sự ở Miền Nam đột nhiên chuyển biến mau chóng, Quân lực VNCH bắt đầu triệt thoái dần về phía Nam. Sang Tháng 4 thì chiến thắng của Cộng Sản đã cận kề. Nương theo đà thắng lợi của Cộng quân, “Nhóm Công Giáo Tiến Bộ” ở Sài Gòn bắt đầu hành động.  

Thành phần của “Nhóm Công Giáo Tiến Bộ” đã kí tên vào bức tâm thư “Gởi Anh Chị Em Công Giáo Miền Nam Việt nam” (nội dung cáo buộc Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre một số tội và đòi Ngài phải ra đi) gồm có 8 tổ chức:

Phong Trào Thanh Lao Công

Phong Trào Công Giáo và Dân Tộc

Đoàn Sinh Viên Dự Tập Dòng Chúa Cứu Thế (rất ít)

Nhóm Liên Tu Sĩ Trẻ (rất ít)

Phong Trào Công Giáo Xây Dựng Hoà Bình (ma)

Phong Trào Thanh Niên Công Giáo Đại Học (rất ít)

Tổng Đoàn Thanh Niên Công Giáo (ma)

Liên Đoàn Sinh Viên Công Giáo (rất ít)

Thực sự thì hầu hết các tổ chức kể trên chỉ có dăm ba thành viên, thậm chí chỉ là tổ chức ma mới thành lập hoặc là một người mà tham gia mấy tổ chức, nhưng đã được những kẻ giật dây nặn ra, cốt để gây thanh thế.

Hai thành phần chính yếu trong “Nhóm Công Giáo Tiến Bộ” là các linh mục và các sinh viên Công Giáo “tiến bộ”. Các linh mục “tiến bộ” gồm có: Trương Bá Cần, Huỳnh Công Minh, Phan Khắc Từ, Vương Đình Bích, Thanh Lãng, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Nghị, Nguyễn Thiện Toàn, Trần Viết Thọ, Nguyễn Quang Lãm, Nguyễn Văn Hoà, Hoàng Kim, Nguyễn Văn Trinh, Nguyễn Văn Huệ, Đinh Bình Định... Đông hơn cả là nhóm sinh viên Công Giáo “tiến bộ”. Những tay tranh đấu hung hăng nhất trong nhóm này là Nguyễn Văn Ngọc, Đoàn Khắc Xuyên, Nguyễn Xuân Hàm, Vũ Sĩ Hùng, Nguyễn Chí Thành,Nguyễn Ziên Hồng, Phạm Văn Phổ, Nguyễn Văn Hồng, Trịnh Viết Trung, Dương Thị Hoè, Phi Nga… (Xem Công Giáo Miền Nam Việt Nam sau 30-4-1975 của Nguyễn Antôn. Dân Chúa xuất bản, 1988. Trang 225).

Theo một số tác giả từng là chứng nhân tình hình sau 30-4-1975 thì Cộng Sản đã dùng chiến thuật dùng chính người Công Giáo để đánh phá Giáo Hội Công Giáo Miền Nam, mà tên giáo gian đầu sỏ chính là Nguyễn Đình Đầu. Một trong số các tác giả ấy là Lữ Giang, tức thẩm phán Nguyễn Cần (VNCH), đã viết:  “Nguyễn Đình Đầu , một cán bộ Việt Cộng nội tuyến trong hàng ngũ Công Giáo, ở trong nhóm Sống Đạo, đã đứng đàng sau sắp xếp và tổ chức các trận đánh phá này”  (Lữ Giang. Những BÍ Ẩn Đàng Sau Các Cuộc Thánh Chiến Tại Việt Nam. 1994. Trang 200)…  Ông viết tiếp:  “Trong cuốn ‘30 tháng 4’ do nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 1985, ký giả Võ Trần Nhã của Việt Cộng cho biết Nguyễn Đình Đầu là người yểm trợ đắc lực cho việc đưa miền Nam vào tay Cộng Sản” và “… Sau khi Việt Cộng chiếm miền Nam, bên ngoài Nguyễn Đình Đầu không giữ chức vụ gì quan trọng, nhưng bên trong Nguyễn Đình Đầu đã đứng ra tổ chức và giật giây các chiến dịch chống phá Giáo Hội Công Giáo. Từ vụ hô hào trục xuất Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre, đòi bãi chức Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, đến việc lên án các vụ Vinh Sơn, Đắc Lộ, Dòng Đồng Công… đều có bàn tay thúc đẩy của Nguyễn Đình Đầu” ( Lữ Giang. Sđd. Trang 220, 221).

Chúng tôi chưa biết Nguyễn Đình Đầu có phải là đảng viên Cộng Sản hay không, nhưng chắc chắn ông ta là kẻ theo Cộng Sản. Loại người này sống ở miền Nam, nhưng dùng các quyền tự do được hưởng để chống phá miền Nam và tiếp tay cho Cộng Sản Bắc Việt cưỡng chiếm miền Nam. Thực sự, họ còn nguy hiểm hơn là chính những cán bộ Cộng Sản, bởi vì kẻ nội thù đâm sau lưng thì khó đỡ hơn kẻ ngoại thù chém chúng ta ngay trước mặt.

Mục tiêu đấu tranh đầu tiên của “Nhóm Công Giáo Tiến Bộ” nhắm vào Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre. Họ đòi trục xuất Ngài ra khỏi Việt Nam. Trục xuất Đức Khâm Sứ là đại diện của quốc gia Vatican, của Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ tức là muốn cắt đứt liên hệ giữa Vatican với nước Việt Nam Cộng Sản, cắt đứt ảnh hưởng của Giáo Hội Mẹ với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Nhóm “Công Giáo Tiến Bộ” muốn chứng tỏ lòng thần phục đối với chính quyền Cộng Sản sắp được thành lập ở Miền Nam và muốn dâng công đầu tiên là thiết lập một Giáo Hội Công Giáo tự trị theo kiểu Giáo Hội Công Giáo tự trị bên Tầu Cộng. (1)

Tranh đấu hoặc đánh phá phải có lí do. Không có thì phải tạo ra. Nhóm “Công Giáo Tiến Bộ” tố cáo Đức Khâm Sứ phạm nhiều tội.

Khởi đầu, nhóm này kí tên và phổ biến một bức tâm thư, không đề ngày tháng, nêu rõ lí do và mục tiêu đấu tranh như sau: “Khâm Sứ Henri Lemaitre là người trước đây đã hỗ trợ mạnh mẽ cho chính sách thực dân mới của Hoa Kỳ và cho chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu… Từ trước tới nay, các Khâm Sứ đã xen vào nội bộ của Giáo Hội Việt Nam quá nhiều trái với tinh thần Vatican 2. Giải thoát các Giám Mục MNVN cho khỏi áp lực và xâm lấn của Khâm Sứ Toà Thánh là giúp cho Giáo Hội Việt Nam được trưởng thành.” (Nguyễn AnTôn. Công Giáo Miền Nam Việt Nam sau 30-4-75. Dân Chúa xuất bản, 1988. Trang 218).

Trong một bản cáo trạng in roneo, LM Thanh Lãng quy kết: “Từ trước đến nay, ở Miền Nam có 5 vị Khâm Sứ Toà Thánh thì Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre có thành tích bất hảo nhất vì tính chất thực dân, có đường giây điện thoại đỏ với Toà Đại Sứ Mỹ tại Việt Nam và dính líu với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu” (Nguyễn AnTôn . Sđd. Trang 220).

Lúc ấy, trong Toà Khâm Sứ có Đức Kâm Sứ Henri Lemaitre, một linh mục phụ tá người Ba Lan và linh mục bí thư Trần Ngọc Thụ. Đức Khâm Sứ là mục tiêu “nhắm bắn” chính, còn linh mục phụ tá người Ba Lan và linh mục bí thư người Việt là mục tiêu phụ, đương nhiên 2 vị là những chứng nhân từ đầu đến cuối.

Để đạt mục tiêu trục xuất Đức Khâm Sứ, “Nhóm Công Giáo Tiến Bộ” đã tổ chức 3 cuộc biểu tình đấu tranh:

Lần thứ nhất: Ngày 02-4-1975, họ kéo tới biểu tình trước Toà Khâm Sứ đường Hai Bà Trưng. Họ đòi Đức Khâm Sứ phải ra đi. Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre vẫn bình tĩnh, nhẫn nại và can đảm. Ngài từ chối yêu sách của nhóm tranh đấu và dứt khoát không rời khỏi Việt Nam nếu chưa có lệnh của Toà Thánh. Lúc này, Cộng Sản chưa chiếm được Sài Gòn, cho nên “Nhóm Công Giáo Tiến Bộ” chưa có hành động thô bạo.

Lần thứ hai: Ngày 14-5-1975, tức là lúc Miền Nam đã lọt vào tay Cộng Sản, nhóm đấu tranh tỏ ra hết sức hung bạo. Đi đầu là Nguyễn Phúc Khánh, bọn họ trèo tường đột nhập Toà Khâm Sứ, dùng búa đập bể ổ khoá cổng để đám đông tràn vào. Mấy tay xông xáo hơn đã trèo lên mái nhà căng biểu ngữ và hạ cờ Toà Thánh xuống. Bọn họ dùng lời lẽ của phường bất hảo để thoá mạ, hò hét. Mỗi lần hô “Đả đảo! Đả đảo!”, “Henri Lemaitre cút đi, cút đi…!” thì cả bọn đồng loạt giơ lên cao những nắm đấm, y hệt một hoạt cảnh bần cố nông đấu tố địa chủ ở Miền Bắc hồi 1954. Sau đó, họ dùng vũ lực xô đẩy Đức Khâm Sứ, linh mục phụ tá nguời Ba Lan và linh mục bí thư Trần Ngọc Thụ ra khỏi cổng Toà Khâm Sứ, rồi đóng cửa lại.

Trong đợt đấu tranh bạo động này, người ta nhận diện 3 linh mục nổi bật: LM Phan Khắc Từ xách động bên trong Toà Khâm Sứ, LM Huỳnh Công Minh chụp hình liên tục (để báo cáo), còn LM Thanh Lãng thì đứng bên kia đường để “lược trận”. (2)

Rập theo chủ trương của Cộng Sản là dùng bất cứ phương tiện nào miễn là đạt mục đích. Trong những lần đối thoại giữa đôi bên, những tay cầm đầu “Nhóm Công Giáo Tiến Bộ” bất chấp tất cả, đã dám đe doạ Đức Khâm Sứ: “…nếu Đức Khâm Sứ không chịu từ chức và ra đi, thì người ta bắt buộc phải dùng đến một biện pháp “rất đáng tiếc” (Nguyễn Antôn. Sđd. Trang 220).

Lần thứ ba: Tối ngày 03-6-1975, “Nhóm Công Giáo Tiến Bộ” lại tổ chức biểu tình tại Toà Khâm Sứ.

Lần này xẩy một sự việc đau lòng. Đó là khi nghe tin Toà Khâm Sứ lại bị “Nhóm Công Giáo Tiến Bộ” quậy phá, hàng ngàn giáo dân trẻ thuộc giáo xứ Bùi Phát kéo nhau đi giải vây cho Đức Khâm Sứ. Đoàn người bị bộ đội Cộng Sản ngăn chặn tại cầu Trương Minh Giảng, một giáo dân bị bắn chết, LM Vũ Bình Định, phó xứ Bùi Phát, bị bắt giữ.

Chiến dịch đánh phá của “Nhóm Công Giáo Tiến Bộ” đã lộ nguyên hình họ là những tên “Giu Đa bán Chúa” bởi vì hành động của họ tạo nên cái cớ rất tốt, rất đúng lúc để chính quyền Cộng Sản ra tay.

Thật vậy, ngay sáng hôm sau, ngày 04-6-1975, Bộ Ngoại Giao Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời MNVN đã mời Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre đến để bảo cho biết: “Ngài nên lánh khỏi Việt Nam trong một thời gian, và càng sớm càng tốt, nếu không sự hiện diện của Ngài sẽ không còn được bảo đảm” (Nguyễn Antôn. Sđd. Trang 221). Theo ngôn ngữ ngoại giao phải hiểu đây là lệnh trục xuất. Đức Khâm Sứ phải lấy máy bay để rời khỏi Sài Gòn vào hôm sau, 05-6-1976.

Đức Khâm Sứ đi rồi, linh mục phụ tá người Ba Lan yêu cầu linh mục bí thư Trần Ngọc Thụ phải vào ở thường trực trong Toà Khâm Sứ để phụ với ông đối phó với tình hình mới.

Nghe biết tin này, từ Vatican, Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Toà Thánh Jean Villot gửi cho Bộ Trưởng Ngoại Giao Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hoà MNVN một bức thư nói: “… rất đau lòng khi hay tin… và sẵn sàng mở những cuộc tiếp xúc cần thiết…” (Nguyễn Antôn. Sđd. Trang 222).

Sau khi Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre rời Việt Nam, ngài được bổ nhiệm làm khâm sứ Toà Thánh ở Uganda, rồi ở nhiều nước Bắc Âu. Nhiệm sở cuối cùng của Ngài là ở Hoà Lan. Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre nghỉ hưu năm 1997 và qua đời năm 2003.

Đức Khâm Sứ đi rồi thì ít lâu sau đến lượt vị linh mục phụ tá người Ba Lan. Chúng tôi không ghi nhận được thêm tin tức gì về vị linh mục phụ tá Đức Khâm Sứ, kể từ khi ông bị trục xuất khỏi Sài Gòn.

Người chủ Toà Khâm Sứ bị trục xuất. Vị linh mục phụ tá người Ba Lan cũng đã phải ra đi. Toà Khâm Sứ chỉ còn là cái xác nhà. Cha bí thư Trần Ngọc Thụ có thể trụ lại được không? Ra khỏi Toà Khâm Sứ, Cha Thụ có thể đi đâu? Dù ở đâu, Cha có được yên thân không để làm việc mục vụ?

Một sự thật sau này mới biết là Đức Khâm Sứ đã tiên liệu xin quốc tịch Vatican cho Cha Thụ từ trước, để hòng khi hữu sự. Quả đúng như vậy. Cha Thụ có quốc tịch Vatican nhưng Cha giấu mọi người. Cha vốn nổi tiếng kín đáo, không bao giờ tiết lộ những chuyện không cần tiết lộ. Nhưng mà giờ đây, việc phải đến đã đến. Đã đến lúc Cha phải quyết định đi hay ở. Cha không giấu kín được nữa. Dù còn vấn vương, không muốn ra đi thoát thân một mình, nhưng Cha phải tìm ra đáp số hợp tình hợp lí nhất cho việc ở hay đi.

Các đấng các bậc thân quen nói Cha nên ra đi. Bà con và tất cả mọi người thương ông, muốn ông được an toàn cho nên đã giục giã ông nên đi.

Cuối cùng, Cha Thụ quyết định ra đi.

Tại phi trường Tân Sơn Nhất, trước khi lên máy bay, đột nhiên có một viên chức thuộc Bộ Ngoại Giao của chính quyền Cộng Sản tới nói: “Chúc linh mục thượng lộ bình an. Sau này, nếu khi nào linh mục muốn trở về thì cứ cho chúng tôi biết!”

Đâu ngờ, đây là lần ra đi không hẹn ngày về của Cha Thụ.

Đúng là “nói dối như Vẹm!”, sau này, ở Roma, nhiều lần Cha Thụ xin visa tại Toà Đại Sứ CSVN để trở về thăm Việt Nam, thăm cố hương Phát Diệm, thăm mộ phần cha mẹ ở họ Đông Hoà, xứ Văn Hải, nhưng chưa bao giờ CSVN cấp giấy cho Cha.

Bù lại, vì ra đi nên sau này Cha Thụ mới có cơ hội làm nhiều việc quan trọng hơn cho GHCG hoàn vũ và cho GHCGVN.

Trần Vinh

Ghi chú:

(1) Trong cùng thời gian này, nhóm “Công Giáo Tiến Bộ” phát động song hành 2 cuộc đấu tranh nhắm vào 2 mục tiêu: một là trục xuất Đức Khâm Sứ; hai là buộc Đức TGM Phanxicô Nguyễn Văn Thuận phải từ chức Phó Tổng Giám Mục Sài Gòn (do sắc phong của Toà Thánh ngày 25-4-1975). Nhiều sách vở đã kể về vụ Đức TGM Nguyễn Văn Thuận bởi vì Ngài quá nổi tiếng. Giáo Hội đang xúc tiến việc tuyên thánh cho Ngài. Ở đây, chúng tôi chỉ tường thuật vụ Đức Khâm Sứ, bởi vì chủ đề loạt chuyện của chúng tôi trong sách này là LM Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ, bí thư Toà Khâm Sứ. Cha Thụ cũng là chứng nhân của các vụ việc xẩy ra liên quan tới Đức Khâm Sứ.

(2) Về cuối đời, LM Thanh Lãng đã viết di chúc, khiêm nhường ăn năn sám hối, xin Chúa và Giáo Hội “tha tội”. LM Thanh Lãng cũng “công khai sám hối xin lỗi Đức Cha Nguyễn Văn Thuận, … anh em linh mục và …toàn thể dân Chúa”.

GS. Nguyễn Văn Lục, em ruột GS. Nguyễn Văn Trung, trong bài Tổng Giám mục Nguyễn Văn Thuận Nguyên Nhân 13 Năm Lưu Đầy Khổ Nhục, đã công bố một phần bản di chúc 13 trang của LM. Thanh Lãng trao cho GS. Nguyễn Văn Trung, nguyên văn như sau:

“Tôi xin công khai sám hối với Chúa và Hội thánh Toàn cầu và Việt Nam. Lạy Chúa xin tha thứ cho con mọi lầm lẫn và ban cho con lòng tin, lòng trông cậy và ơn tha thứ.

Tôi xin công khai sám hối xin lỗi Đức cha Nguyễn Văn Thuận, xin Chúa giữ gìn và trả công cho Đức cha.

Tôi xin công khai sám hối xin lỗi tất cả và tình anh em linh mục mà tôi vô tình hay cố ý, làm mất lòng.

Tôi xin công khai và xin lỗi toàn thể dân Chúa mà tôi hối tiếc là chưa được phục vụ trong Mục vụ.

Tôi xin mọi người tha tội cho tôi để Hội Thánh và Chúa tha tội cho tôi”.

Ngày 28-11-1988, Đinh Xuân Nguyên, Thanh Lãng”. (DCVOnline.net)

(Trích trong sách Đức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ sẽ phát hành cuối năm 2017. Chủ biên: Đức Ông Phanxicô Phạm Văn Phương. Biên tập: Trần Vinh)