Cuộc chiến Việt nam không phải chỉ là đơn thuần cuộc chiến giữa Việt Nam và Hoa Kỳ mà còn có cả sự tham dự của cả Trung Quốc và Liên Xô trong bối cảnh chiến tranh lạnh và của cuộc xung đột Trung-Xô.



sach vnwar

Xem phim The Vietnam War, rồi đọc một cuốn sách về lịch sử cuộc chiến tranh Việt Nam “Ha Noi’s War: The International of war for peace in Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Liên Hằng, xuất thân từ một gia đình tị nạn Cộng sản di tản một ngày trước khi Sài Gòn thất thủ lúc đó Liên Hằng mới có 5 tháng tuổi. Trong khi phim The Vietnam War chú trọng các lý do là nguyên nhân dẫn đến sự can thiệp của Hoa Kỳ vào chiến trường Việt Nam và tiến trình Mỹ hóa chiến tranh Việt Nam thì cuốn sách “Ha Noi’s War” xem xét bối cảnh quốc tế của cuộc chiến, cách thế giới lãnh đạo Cộng sản miền Bắc theo đuổi chiến tranh và thời điểm kết thúc sự can thiệp của người Mỹ.

Theo giáo sư Liên Hằng, trên thực tế ông Hồ Chí Minh chỉ đóng vai trò biểu tượng trong khi ông Lê Duẩn mới là nhân vật ngự trị trên Cộng sản Việt Nam và là kiến trúc sư, chiến lược gia cũng là người lãnh đạo tối cao huy động toàn quốc trong nỗ lực chiến tranh. Cùng với cánh tay mặt của ông là Lê Đức Thọ, Lê Duẩn đã cai trị chế độ Miền Bắc với bàn tay sắt và coi những ông Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp là những đối thủ chính trị lớn nhất có thể đe dọa quyền lực của ông. Lê Duẩn đã dùng nhiều biện pháp để gạt bỏ hai ông chủ tịch Hồ Chí Minh và đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng các tay chân bộ hạ trong khi thi hành những quyết định quan trọng nhất trong cuộc chiến..

Cuộc chiến Việt nam không phải chỉ là đơn thuần cuộc chiến giữa Việt Nam và Hoa Kỳ mà còn có cả sự tham dự của cả Trung Quốc và Liên Xô trong bối cảnh chiến tranh lạnh và của cuộc xung đột Trung-Xô. Trong ba thành phần Việt Nam tham chiến là Việt Nam Cộng Hòa, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thì Hà Nội đã đóng vai trò chủ động trong việc điều hành chiến tranh hoặc thúc đẩy Hoa Kỳ tiến đến bàn hội nghị.

Sau này, chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã khánh thành đền thờ Lê Duẩn ở xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh trị giá 5 tỷ với khẩu hiệu được khắc chữ trên cổng chính: “Đền Thờ Tổng Bí Thư Lê Duẩn. Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô và Trung Quốc. Toàn đảng toàn quân toàn dân cùng học tập tư tưởng đồng chí Lê Duẩn”.

Như vậy, vị trí tay sai gây chiến tranh xâm lược để phục vụ ngoại bang có phải là tội ác diệt chủng đối với dân tộc Việt Nam. Bao nhiêu triệu người bị chết trong chiến tranh? Bao nhiêu người bị chìm thây dưới biển Đông để tìm tự do lánh xa chế độ tàn bạo? Chiến tranh mà Đảng Cộng Sản Việt Nam gây ra thật là đắt giá.

The Vietnam War là bộ phim tài liệu lịch sử gồm 10 tập do hai đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick thực hiện. Vì phim làm ra với mục đích để cho dân chúng Hoa Kỳ xem nên bộ phim thiếu hẳn phần trình bầy về phía Việt Nam Cộng Hòa những thiệt hại thương vong cũng như gánh nặng cuộc chiến đè năng trên vai của người lính VNCH. Dù đạo diễn tỏ ra cố gắng khách quan nhưng những cuộc phỏng vấn các nhân vật liên quan đến cuộc chiến đã làm tỏ lộ rõ những thâm ý còn sót lại từ thời kỳ những cuộc vận động phản chiến lôi kéo dư luận của cà nước Hoa kỳ. Cả hai đã chọn lựa những nhân chứng theo một dụng ý riêng tuy rằng nói rằng sẽ đầy đủ cả bốn phe tham chiến Hoa Kỳ, VNCH, Cộng sản Bắc Việt và Việt Công miền Nam. Bộ phim tài liệu này phỏng vấn 51 người Hoa Kỳ, 14 Cộng sản Bắc Việt, 6 Việt Cộng miền nam và 8 phía VNCH.

Trong 8 nhân vật VNCH, gồm 5 quân nhân: Trung tướng Lâm Quang Thi, Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn 1, Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất, Chỉ Huy Trưởng BĐQ Quân Đoàn 2, Trung Tá Trần Ngọc Châu, Tỉnh Trưởng Kiến Hòa sau là Tổng Thư Ký Quốc Hội bị chế độ VNCH vì tội danh làm gián điệp và phản quốc, Trung Tá Trần Ngọc Huế, bị bắt tại trận Hạ Lào, Thiếu tá Trần Ngọc Toàn, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 4 Thủy Quân Lục Chiến. Về dân sự có Đại Sứ Bùi Diễm, ông Phan Quang Tuệ con trai của Phó Thủ Tướng Phan Quang Đán, và bà Dương Vân Mai Elliot, có chồng Mỹ, là nhân viên của Rand Corp và có nhiều công tác với CIA.

Những nhân vật được phỏng vấn trên, số lượng khiêm nhượng so với tổng số các nhân vật được phỏng vấn trong toàn bộ phim, mà phát biểu cũng không làm minh bạch được một cuộc chiến tự vệ giữ gìn tự do của VNCH trước sự xâm lăng của làn sóng đỏ mà Cộng sản Bắc Việt gây ra theo chủ trương của Cộng sản Đệ Tam quốc tế. Ngoài bà Dương Vân Mai xuất hiện nhiều lần và trả lời khá dài còn những người khác phần đông trả lời ngắn nên không diễn tả hết được ý tưởng cần phải nói ra. Do đó, sự mất cân bằng đã làm người xem phim thấy thật rõ trong 10 bộ phim của The Vietnam War.

Peter Zinoman, giáo sư môn Lịch sử và Đông Nam Á học của Đại học UC Berkeley đã nhận xét rằng phim The Vietnam War với chủ trương “dĩ Mỹ vi trung” nên bỏ quên nhiều phần về phía người Việt Nam. Xét về những thiệt hại kinh khủng về vật chất, môi trường và nhân mạng gần ba triệu người cả hai bên Nam Bắc thiệt hại trong chiến tranh. Hệ quả của cuộc chiến đối với người Việt lớn hơn so với người Mỹ được thể hiện rõ qua khoảng thời gian trung bình mà mỗi bên phải trải nghiệm. Trong khi phần lớn người Mỹ tham chiến ở Việt Nam khoảng trên dưới 1 năm trong thời kỳ 1965-1973 thì người Việt sinh ra sau Thế Chiến Thứ Hai phải sống trong suốt ba mươi năm từ 1945 đến 1975.

Xét về sự nổi trội về con số người Việt lẫn tầm mức thiệt hại không thể sánh được mà họ là nạn nhân, việc đặt người Việt vào vai trò trung tâm trong thời đoạn lịch sử đen tối này ít ra cũng phải là mệnh lệnh đạo đức khiêm tốn.

Giáo sư Zinoman cũng nhận định phim Vietnam War đã tường thuật thiếu vắng vô số các lực lượng đối lập với Hồ Chí Minh trong phong trào chống thực dân Pháp. Đối với nhiều học giả cuộc xung đột đẫm máu giữa phe Cộng sản do Hồ Chí Minh lãnh đạo và các lực lượng chống Cộng khác trong cả cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946-1954) và lần thứ hai (1954-1975) chỉ có thể hiểu được trong bối cảnh tiếp nối của xung đột chính trị từ cuối thời thuộc địa. Thiếu vắng khía cạnh này, sự hình thành của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam, lực lượng chống Cộng quan trọng nhất thời hậu thuộc địa có vẻ chỉ là sản phẩm độc quyền của Mỹ trong cuộc kiếm tìm đồng minh thời Chiến Tranh Lạnh chứ không phải là một tinh thần chủ nghĩa quốc gia chống Cộng bản địa với gốc rễ lịch sử có từ thời thuộc địa.

Bộ phim còn một thiếu sót “cố tình” to lớn là không đề cập đến vua Bảo Đại và Quốc Gia Việt Nam tập họp của nhiều lưc lượng chống Cộng thành lập năm 1950 dù do Pháp hậu thuẫn nhưng được sự ủng hộ của những người khuynh hướng quốc gia chống lại sự độc quyền yêu nước của Cộng sản Việt Nam sau năm 1954.

Cũng như phim đã mô tả thời kỳ Đệ Nhất Cộng Hòa với Tổng Thống Ngô Đình Diệm với nhiều nét tiêu cực. Trong khi, nhiều sử gia đã nhận định thời kỳ Đệ Nhất Cộng Hòa, nhất là những năm đầu là thời gian thịnh vượng và xây dựng ổn định nhất về cả mọi mặt chính trị, kinh tế, quân sự, gíao dục, xã hội…

Một ý kiến khác. Trong bài viết đăng trên Washington Post “Five Myths about the Vietnam War”, Lan Cao, giáo sư môn luât kinh tế quốc tế tại Chapman University, con gái của cố Đại tướng Cao Văn Viên, cho là phim The Vietnam War vẫn chưa làm sáng tỏ những gì mà bà gọi là huyền thoại.

Như huyền thoại về vai trò của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là lực lượng du kích tự phát. Trên thực tế, lực lượng này do Cộng sản miền Bắc lập ra và chi viện từ viện trợ của các nước Cộng sản đổ vào. Theo CIA, từ năm 1954 đến năm 1968, Trung Quốc và Liên Xô cung cấp cho miền Bắc Việt Nam 3.2 tỉ đô la viện trợ quân sự và kinh tế. Các nguồn khác cho thấy con số này gấp đôi con số đó.

Huyền thoại những người tị nạn đến Hoa Kỳ là những người tinh hoa của miền Nam Việt Nam. Mặc dù nhóm người di tản năm 1975 được gọi là làn sóng tị nạn đầu tiên có trình độ học vấn và thuộc giai cấp trung lưu, nhiều người đến qua các nỗ lực di tản do Hoa Kỳ tài trợ vì có liên hệ với các cơ quan thuộc chính phủ Mỹ mà Washington hứa sẽ giúp đỡ tài trợ, nhưng các làn sóng tị nạn sau gồm chừng 2 triêu người đến từ mọi vùng từ thôn quê đến thành thị và có trình độ thấp hơn. Làn sóng tị nạn thứ ba chừng khoảng 160 ngàn người gồm diện con lai, tù nhân chính trị và những người tù mà VC gọi là cải tạo.

Huyền thoại binh lính Hoa Kỳ sang tham chiến ở Việt Nam hầu như là tất cả bị bắt lính ép buộc vào quân ngũ. Nhưng thống kê cho biết từ năm 1964 đến 1973, số lượng lính tình nguyện nhiều gấp bốn lần số người đi lính quân dịch. Và quân đội cũng không dựa chủ yếu vào các công dân có hoàn cảnh khó khăn hoặc người Mỹ da đen gốc Phi Châu. Theo một báo cáo chính thức của Uỷ Ban Đặc Trách về lực lượng võ trang tình nguyện thì trong số gần 1 triệu bảy trăm ngàn quân nhân tình nguyênn tham chiến tại Việt Nam năm 1969 thì 77 phần trăm đã tốt nghiệp trung học, 88 phần trăm là người da trắng và chỉ có 12.7 phần trăm là người Mỹ da đen gốc châu Phi.

Huyền thoại VC chiếm được Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ vào Tết Mậu Thân. Sự thực, đặc công VC chỉ tràn vào được bên trong khuôn viên và chiếm được tầng 1 trong 6 tiếng đồng hồ và tất cả đặc công đều bị tử trận. Huyền thoại này đã được phe Cộng sản và phe phản chiến sử dụng để lôi kéo dư luận Hoa Kỳ thúc đẩy việc Hoa Kỳ bỏ rơi đồng minh VNCH.

Huyền thoại lính VNCH không chịu chiến đấu và có tinh thần chủ bại. Nhưng thực tế, trái ngược hẳn. Truyền thông phản chiến tại Hoa Kỳ đã tạo cái nhìn ác cảm đối với người lính VNCH. Tướng Barry R McCaffrey, cố vấn cho binh chủng Nhảy Dù của QLVNCH cho rằng “sự hy sinh sự dũng cảm và cam kết của quân đội miền Nam Việt Nam đã mất đi rất nhiều vì ý thức về chính trị và phương tiện truyền thông của Mỹ”.

Giáo sư Lan Cao kết luận phim Vietnam War của hai đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick đã không xóa tan được những huyền thoại như thế thì liệu có cho khán giả sự tin tưởng vào những sự thực lịch sử mà bộ phim đã mô tả hay không?

sach hnwar

Tôi đọc một cuốn sách về lịch sử chiến tranh Việt Nam của một nữ giáo sư sử học Hoa kỳ gốc Việt Nam xuất bản trong năm 2012 vừa qua đã đoạt giải thưởng Edward M.Coffman. Tác phẩm “Hanoi’s War: An International History of the War for Peace in Việt Nam” và tác giả Nguyễn Thị Liên Hằng.

Giải Edward M. Coffman là một giải thưởng hàng năm về sử học của The Society for Military History cho những tác phẩm đầu tay của những tác giả trong nội dung hòa hợp được những vấn đề liên quan với xã hội, chính trị, kinh tế, và lịch sử ngoại giao. Giải thưởng được lấy tên của một Professor Emeritus của đại học University of Wisconsin- Madison, Edward M. Coffman, một quân sử gia nổi tiếng của Hoa Kỳ.

Nguyễn Thị Liên Hằng là giáo sư sử học của đại học University of Kentucky, tốt nghiệp Ph.D. tai đại học Yale và đã được nhiều fellow ship trong đó có fellow- ship Fubright về Việt Nam khảo cứu trong hai năm 2001 và 2002. Cô di tản khỏi Việt Nam khi mới vừa 5 tháng tuổi và trong giờ chót thứ 25 của thành phố Sài Gòn trước khi bị thất thủ.

Cô là giáo sư dạy về lịch sử bang giao quốc tế của Hoa Kỳ đặc biệt là chú trọng vào vùng Ðông Nam Á, nhất là thời kỳ chiến tranh lạnh, tác phẩm Hanoi’s War là tác phẩm đầu tiên. Tác phẩm thứ hai đang viết với những khám phá về hệ thống quốc tế của phong trào phản chiến trong thời kỳ chiến tranh cũng như vai trò và vị trí của những khuôn mặt nổi bật của một thời ngoại giao với những tài liệu khảo sát từ văn khố Hoa Kỳ và các nước Âu Châu.

Chiến tranh Việt Nam chiếm một phần quan trọng trong quân sử Hoa kỳ. Một cuộc chiến với nhiều bí ẩn và từ từ được lộ ra từ những văn kiện bí mật của văn khố các quốc gia liên quan đến cuộc chiến. Hàng trăm cuốn sách phân tích về cuôc chiến này với nhiều khuynh hướng đặt trong bối cảnh của quan điểm chính trị riêng biệt. Trong khi hầu như là hầu hết các sử gia nghiên cứu về chiến tranh Việt nam đều chú trọng vào nguyên ủy sự can thiệp của Hoa Kỳ và Mỹ hóa những xung đột tạo ra, Nguyễn Thị Liên Hằng lại chú ý trước tiên đến những quan hệ quốc tế mà các nhà lãnh đạo Bắc Việt theo đuổi cuộc chiến và Hoa kỳ đã can thiệp vào sau đó. Những chuyện kể đầy tính xác định đã dẫn dắt độc giả đi từ nơi chốn đầy bùn sình của đồng bằng sông Cửu Long đến nơi chốn đã bị bom đạn tàn phá của bình nguyên sông Hồng, từ những hành lang đầy quyền lực ở Hà Nội và từ Sài Gòn đến dinh Bạch ốc của Tổng thống Richard Nixon, và từ nơi hòa hội ở Paris đến những hội nghị cao cấp ở Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh, tất cả những khám phá cho thấy hòa bình không có một chút hy vọng nào ở Việt Nam. Trên bình diện quốc tế, những siêu cường đã có ảnh hưởng rất lớn đến chiên tranh và hòa bình ở Việt Nam.

“Chiến tranh của Hà Nội” đã tỏ lộ ra rất hiển nhiên những vận động không chính thức với những người được coi là kẻ thù trong Thời kỳ chiến tranh lạnh và biểu hiện rằng cuôc chiến đấu trong bàn hội nghị để tìm kiếm hòa bình cũng ngập máu và chiều rộng có mực độ lớn hơn điều được tiên liệu. Dùng những tài liệu văn khố mà từ trước tới nay chưa được hé lộ của Bộ Ngoại Giao Việt Nam sau thời kỳ đổi mới và cùng với những tài liệu từ văn khố các quốc gia khác có liên quan đến chiến tranh Việt Nam trên cả thế giới, tác giả Nguyễn Thị Liên Hằng đã bộc lộ ra một chính sách chiến tranh của Bắc Việt: gây ra chiến tranh và tạo dựng hòa bình, không những của nhà cầm quyền Bắc Việt mà còn cả của chính phủ Nam Việt Nam, Nga Xô Viết, Trung Quốc và Hoa Kỳ để tạo thành một bối cảnh toàn diện của cuộc chiến ở mức độ thế giới.

Tác giả đã viết Hanoi’s War như một cách thế để đập tan các huyền thoại về Việt Nam: “Trong nhiều vấn đề rút ra từ những bài học ở Việt Nam và áp dụng vào Afganistan, đó là lịch sử của chiến tranh Việt Nam thường bị hiểu lầm hoàn toàn. Lịch sử của cuộc chiến này liên tục thay đổi khi có bằng chứng mới xuất hiện, đặc biệt từ phía bên kia. Do không chú ý nhiều về việc tìm hiểu động cơ của kẻ thù, các động lực bên trong và các mối quan hệ đối ngoại, chúng ta luôn có một hình ảnh không đầy đủ và thiếu chính xác về cuộc chiến tranh đó.

Người ta thường tin rằng miền Bắc Việt quyết định đi đến chiến tranh trong năm 1959-1960 là để cứu cuộc nổi dậy ở miềnNam khỏi bị diệt trừ và Ðảng Cộng sản có được sự ủng hộ không mệt mỏi của người dân Việt Nam cho đến khi chiến tranh kết thúc năm 1975. Nhưng bằng chứng gần đây tiết lộ rằng quyết định của đảng đi đến chiến tranh ở Miền Nam Việt Nam có một mối liên hệ mật thiết với các vấn đề ở trong nước. Chiến tranh cách mạng là một cách hiệu quả để đánh lạc hướng sự chú ý về các vấn đề trong nước, gồm một chiến dịch cải cách ruộng đất tàn phá, một phong trào trí thức bất đồng ý kiến và một kế hoạch của chính phủ không thành công để chuyển đổi nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.

Một trong những quan niệm sai lầm nhất của cuộc chiến Việt nam là ông Hồ Chí Minh là nhà lãnh đạo lỗi lạc của Bắc Việt. Thực tế ông chỉ là bù nhìn, trong khi Lê Duẩn, một người đứng bên lề lịch sử, lại là một kiến trúc sư, nhà chiến lược chính và là chỉ huy trưởng của nỗ lực chiến tranh của Bắc Việt. Ông Duẩn nghiêm khắc, không ồn ào, xa lánh sự chú ý, nhưng ông có ý chí sắt đá, có kỹ năng quản trị và tập trung sự cần thiết để thống trị Ðảng Cộng sản.

Cùng với một nhân vật là cánh tay phải của mình, ông Lê Ðức Thọ được coi như là một nhà ngoại giao cứng rắn bất khuất, người mà sau này đấu khẩu với Henry Kissinger trong các cuộc đàm phán hòa bình Paris, ông Duẩn xây dựng một đế chế quân phiệt vững chắc, vẫn còn chi phối Hà Nội đến ngày nay. Các chính sách hiếu chiến của họ đã dẫn dắt Bắc Việt vào cuộc chiến chống lại chế độ Sài Gòn và sau đó là Washington DC, với bảo đảm rằng một nền hòa bình được thỏa thuận sẽ không bao giờ thay thế thắng lợi hoàn toàn. Oâng Duẩn thống trị đảng với một bàn tay sắt và xem ông Hồ Chí Minh và Ðại tướng Võ Nguyên Giáp, người nổi tiếng với việc đánh bại Pháp ở Ðiện Biên Phủ, là mối đe dọa lớn nhất đối với quyền hành của ông ta. Ông ta loại bỏ ông Hồ, tướng Giáp và những người ủng hộ họ khi quyết định gần như hầu hết các quyết định quan trọng…”

Trong phần đầu, tác giả kể lại cuộc chia tay giữa hai nhân vật trọng yếu của cuộc chiến Việt Nam là Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ vào năm 1955 bên dòng sông Ông Ðốc ở Cà Mau. Lê Duẩn thì ở lại miền Nam và Lê Ðức Thọ xuống tàu Liên Xô tập kết ra Bắc nhưng để rồi trong ít năm sau kéo dài đến tàn cuộc, hai người đã cùng nhau lãnh đạo cuộc chiến và là một chìa khóa chính yếu để giải quyết chiến tranh. Thời điểm năm 1955 vẫn còn trong hạn định mà hòa ước Genève cho phép tự do lựa chọn nơi cư trú của cư dân hai miền. Trong lúc ở lại miền Nam, Lê Duẩn lập ra Trung Ương Cục miền Nam với những người đứng đầu như Phạm Hùng, Nguyễn văn Linh, Võ Văn Kiệt sẽ lãnh đạo cuộc chiến trong tương lai. Trở lại Hà Nội, Lê Duẩn quyết định phải thống nhất đất nước bằng võ lực và tiến hành những nỗ lực sửa soạn cho chiến tranh. Nghị quyết 15 của Ðảng Lao Ðộng Việt Nam (tức Ðảng Công sản VN) đã xác định rõ mục tiêu này. Chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” được xử dụng và tất cả những người bất đồng ý kiến với chủ trương trên bị thanh trừng triệt hạ. Hàng chục ngàn người kể cả những người có công trạng hoặc nổi tiếng bị bắt giam, tra tấn do một chế độ công an trị thi hành. Những tướng tá và nhân vật thân cận với tướng Võ Nguyên Giáp bị giam cầm, bị khai trừ khỏi đảng và nhiều khi bị thanh toán với những cái chết đầy bí ẩn. Do đó, luận cứ cho rằng tất cả Ðảng Cộng Sản một lòng đoàn kết trong chiến tranh là một luận cứ không tưởng chẳng có một chút nào trong sự thực. Sự đoàn kết chỉ có trong tuyên truyền và chế độ Cộng sản do Lê Duẫn lãnh đạo đã dùng sự khủng bố để đàn áp và bắt buộc mọi người phải tuân theo bằng bạo lực.

Tác giả Nguyễn Thị Liên Hằng viết “Hanoi’s War: An International History of the War for Peace in Việt Nam” (Chiến tranh của Hà Nội: lịch sử quốc tế của cuộc chiến cho hòa bình ở Việt Nam) với chủ đích từ những tài liệu văn kiện mới để có nhận định làm sáng tỏ hơn lịch sử của cuộc chiến đã có quá nhiều hỏa mù che phủ từ những nhận định đầy tính chủ quan của những người phân tích. Những tài liệu văn kiện mới mà tác giả đã xử dụng được trong tác phẩm là tài liệu văn khố của bộ Ngoại Giao của chế độ Việt Nam Cộng sản ở Hà Nội. Trả lời tại sao lại có được may mắn xử dụng những tài liệu trên, tác giả trong cuộc phỏng vấn nói:

“Tôi có mặt đúng chỗ đúng lúc. Khi tôi bắt đầu cuộc nghiên cứu trong những năm cuối của thập niên 1990 về cơ bản lúc đó cả văn khố chủ yếu của Việt Nam là văn khố của Ðảng Cộng sản, văn khố của quân đội của bộ Quốc Phòng, văn khố của bộ Ngoại Giao đều cấm không cho các học giả được tham khảo, dù là người Việt Nam hay ngoại quốc. Chỉ có các giới chức làm việc trong các bộ liên hệ mới được tham khảo tài liệu. Nhưng tới những năm 2000 thì đã có một số thay đổi về chính sách đối với người Việt ở hải ngoại. Việt Nam mở cửa rộng hơn để đón các học giả từ các cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Họ muốn thu hút Việt kiều và tôi đã nắm ngay lấy cơ hội”.

Có nhiều người rất ngạc nhiên vì xử dụng được những tài liệu trong văn khố thuộc hàng tối mật không phải là chuyện dễ dàng mà bất cứ ai cũng có thể thực hiện được. Tác giả đã giải thích là có sự thuận lợi bởi vì giới hữu trách Việt Nam coi thường công trình và khả năng của một sử gia trẻ tuổi người Việt Nam lớn lên và sinh sống ở hải ngoại. Họ nghĩ, với một đề tài có nhiều chất thách đố như chiến tranh Việt Nam có lẽ không thích hợp với một người thuộc nữ giới…

Sử gia George C. Herring, tác giả của “America’s Longest War, The United States in Vietnam” đã nhận xét: “Xử dụng những tài liệu mới mẻ và quan trọng của những văn khố từ khắp thế giới, mà phần đông là từ Việt Nam, Nguyễn Liên Hằng đã viết và tạo dựng được những điểm son đầu tiên và xác thực của cuộc hòa đàm đã dẫn dắt đến Nghị Hội Paris. Tác phẩm Hanoi’s War là một công trình đặc sắc, là những viên gạch xây dựng không thể bỏ qua cho sự thay đổi tức thì của lịch sử của những xung đột ở Việt Nam”.

Tác giả đã phỏng vấn nhiều nhân vật Việt Nam ở cả hai phe như Bùi Diễm, Bùi Tín, Hoàng Minh Chính, Hữu Ngọc, Lưu Doan Huỳnh, Lưu Văn Lợi, Nguyễn Ðình Ước, Nguyễn Khắc Huỳnh, Nguyễn Ngọc Dung, Trần Thị Liên… để có thể xác định rõ ràng hơn tính chính xác của các tài liệu văn bản đã xử dụng trong văn khố. Căn bản của cuốn sách là nhửng tìm kiếm sưu khảo từ hàng ngàn tài liệu, công điện, sách báo và nhửng phần thu thanh ghi lại những cuộc phỏng vấn hàng trăm người có liên hệ đến cuộc chiến, phải nói là một dẫn chứng đồ sộ có nhiều tính thuyết phục.

“Hanoi’s War” gồm 4 phần chia ra làm 8 chương với nội dung: Phần 1 là Con đường của cuộc chiến tranh cách mạng: Lê Duẩn nắm quyền lưc và chỉ đạo cuộc chiến cũng như hoach định chính sách ngoại giao trong thời gian chiến tranh; Phần 2: phá vỡ những huyền thoại cũ và nêu lên cuộc chiến tại Hà Nội tranh dành quyền lực mà rõ rệt nhất là trong thời kỳ Tổng Công Kích tết Mậu Thân và thời kỳ của Hội nghị hòa bình Paris và cả thời gian sau đó; phần 3: Theo đuổi bản hòa âm chiến thắng với những hoạt cảnh từ chiến trường đến bàn hội nghị cũng như cách thế vừa đánh vừa đàm của chế độ Hà Nội; phần 4: tạo thành một nền hòa bình què quăït với những nỗ lực chống lại khuynh hướng chủ hòa trong nội bộ cũng như việc thúc đẩy cường độ chiến tranh để mưu tìm một hòa bình của kẻ chiến thắng.

Nhân vật chính của “Hanoi’s War” và là nhân vật chủ chốt là Lê Duẩn. Ông ta đã áp lực để làm cho Hồ Chí Minh phải ngưng lại ý kiến không muốn thực hiện leo thang chiến tranh vào những năm 1963-1964 để tìm một chiến thắng nhanh chóng trước khi Hoa Kỳ can thiệp trực tiếp bằng quân sự vào Việt Nam. Năm 1967- 1968 ở Bắc Việt đã có một cuộc thanh trừng với quy mô lớn nhằm vào những người phản đối chính sách của Lê Duẩn nhắm vào ông Hồ, tướng Giáp và những người thân cận chống lại kế hoạch Tổng công Kích tết Mậu Thân. Mặc dù cuộc chiến ở miền Nam lúc đầu đã tập họp được nhiều người miền Bắc để hỗ trợ đảng nhưng nó nhanh chóng trở thành một vũng lầy. Ông Duẩn và ông Thọ phản ứng bằng cách gán cho những người phản đối phương cách điều hành chiến tranh tội phản quốc. Bằng cách tăng quyền hạn của lưc lượng an ninh nội bộ và an ninh tư tưởng, và Hà Nội chinh phục cuộc chiến ở miền Nam với chiêu bài yêu nước, Lê Duẩn đã có thể tiến hành một cuộc chiến tổng lực theo như đã hoạch định cho đến năm chấm dứt chiến tranh năm 1975.

Hai nước lớn trong phe Cộng sản là Trung Quốc và Liên Xô có những bất đồng sâu sắc cũng gây ra nhiều ảnh hưởng trong cuộc điều hành chiến tranh của Lê Duẩn. Chính sách đu dây lúc đầu ngả theo Trung Quốc để tiến tới một cuộc chiến tranh tổng lực và toàn diện nhưng lúc về sau khi quân đội Mỹ tham chiến trực tiếp thì viện trợ của Liên Xô đổ vào Bắc Việt. Năm 1968, sự tranh dành ảnh hưởng giữa hai nước này đã ở mức căng thẳng tột độ. Lê Duẩn tung ra hai chiến dịch

Tổng Công Kích tết Mậu Thân và chiến dịch Xuân Hè năm 1972 mà cả hai Trung Quốc và Liên Xô không chấp thuận. Năm 1972, Tổng thống Richard Nixon đi thăm Trung Quốc và Liên Xô nên cả hai nước gây áp lực đe ålàm giảm bớt cường độ của trận chiến và kết thúc dựa trên các điều khoản của Nixon khi họ tranh dành nhau những ân huệ của Washington. Lê Duẩn phát động hai chiến dịch đẫm máu kể trên như một đòn tấn công chí mạng vào việc giảm bớt căng thẳng giữa Hoa Kỳ và hai ngước Cộng sản đàn anh này.

Tác giả “Hanoi’s War” cũng cho rằng chính Hoa Kỳ tự đánh bại mình trong cuộc chiến tranh Việt Nam là một huyền thoại. Bắc Việt đã chủ ý gây chiến tranh và định hình được các hành động của Hoa Kỳ ở Việt Nam cũng như trật tự cuộc chiến tranh lạnh trên thế giới. Chính Lê Duẩn đã dồn hết toàn lực cho chiến thắng trong năm 1964 khiến Hoa kỳ bị thúc đẩy can thiệp trực tiếp vào chiến tranh. Không phải Bắc Việt là một đối thủ thụ động mà chính họ đã gây ra cuôc chiến với sự chấp nhân hy sinh mọi thứ để đạt được chiến thắng.

Vai trò của Hoa Kỳ và đồng minh là Nam Việt Nam đôi khi lỏng lẻo và mỗi phe vì lợi ích riêng của mình nên có những hành động trái ngược nhau và bất lợi cho liên minh Washington DC – Sài Gòn. Làm chậm việc rút quân Mỹ trong năm 1969 và phá tan các cuộc đàm phán hòa bình giữa ngoại trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger và Lê Ðức Thọ năm 1972-1973, các nhà lãnh đạo miền Nam Việt Nam đã làm cho việc Mỹ rút khỏi Ðông Nam Á phức tạp hơn nhiều. Mặc dù Washington DC có những lý do riêng về địa điểm chiến lược và nội bộ để can thiệp và ở lại Việt Nam nhưng các nhà lãnh đạo hai phe Bắc và Nam Việt Nam đã chi phối tính chất và tốc độ can thiệp của Hoa Kỳ.

Hanoi’s War là một cách nhìn lịch sử mới dựa trên những tài liệu thu thập được từ văn khố của Bộ Ngoại Giao Cộng sản Việt Nam. Trách nhiệm của cuộc chiến tổn hại trên 2 triệu sinh mạng người Việt là trách nhiệm của Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ với chủ trương hiếu chiến không chấp nhận sống chung hòa bình với những người quốc gia. Giải pháp hòa bình bằng thương thuyết cũng bị gạt bỏ và chủ trương trung lập chế cũng bị phê phán. Chủ trương duy ý chí này của Lê Duẩn cũng đã gây ra hai cuộc chiến tiếp theo sau năm 1975 với Trung Quốc năm 1979 và với Khờ me Ðỏ năm 1980. Và cũng với đường lối ngoại giao cứng rắn nên Việt Nam bị cả thế giới cô lập tạo nên một thời kỳ tệ mạt nhất trong cả lịch sử dân tộc.

Nguyễn Mạnh Trinh.