Cá - Nguồn thức ăn bổ dưỡng |
Tác Giả: Tâm Thảo tổng hợp | |||
Thứ Hai, 08 Tháng 12 Năm 2008 04:11 | |||
Trong những năm gần đây, cá đang trở thành loại dinh dưỡng ngày càng phổ biến ở mọi gia đình. Hiệp Hội Tim Mạch của Hoa Kỳ khuyên mọi người nên ăn nhiều loại cá. Các nhà khoa học nhiều nước trên thế giới cho biết nếu ăn cá thường xuyên 1-2 lần trong tuần giúp cơ thể chúng ta chống lại được nhiều nguy cơ bệnh tật. Thịt cá không chỉ là nguồn protein dễ tiêu hóa mà còn chứa nhiều hàm lượng acid béo rất tốt cho sự điều hòa phát triển thần kinh, tim mạch Những loài cá được các chuyên gia dinh dưỡng nghiên cứu nhiều là cá ngừ, cá hồi, cá thu, cá mòi, cá trích... Chúng ta hãy cùng tìm hiểu những kết quả nghiên cứu gần đây. Các protein dễ hấp thụ cho cơ thể Cá có nguồn protein quý với đày đủ các acid amin cần thiết cho cơ thể, trong đó nhiều thành phần acid amin như lysine, methionine, tryptophane còn cao hơn nhiều loại thịt. Trong thịt cá có chứa nhiều khoáng chất, nhiều vitamin A và D, phosphos, magiê, selen, và iod. Trong chất béo cá có lipid và Lipoid. Trong lipid của cá chủ yếu là các acid béo không no có hoạt tính sinh học cao như linoleic (omega 3), acid arachidonic. Cũng như thịt các loại động vật khác protein của cá còn dễ hấp thụ hơn và cũng pha chế nấu ăn nhanh đơn giản. Protein của cá tốt cho hệ tiêu hóa và tim mạch, canxi có chứa trong một số loại cá như cá hồi cá ngừ đóng hộp còn góp phần giúp cho xương chắc khỏe. Muốn có cảm giác hạnh phúc hãy ăn cá Ăn cá hồi trong bữa ăn không chỉ tốt cho hoạt động của tim mà còn giúp cơ thể khoan khoái hơn. Nghiên cứu thuộc Ðại Học Pittsburgh đã tìm ra rằng, những người thường xuyên ăn cá trong bữa ăn chính hằng ngày sẽ luôn có tâm trạng lạc quan, cảm giác dễ chịu và lạc quan về cuộc sống. Ðiều này cho thấy khi cơ thể ăn cá dẫn tới omega-3 cao có thể có tác dụng làm giảm căng thẳng, mệt mỏi hay trầm cảm. Acid béo có trong nhiều loài cá giúp cơ thể thay đổi các vùng “hạnh phúc” của hệ thần kinh trung ương. Những người thường xuyên ăn cá sẽ luôn có cảm giác “yêu đời”, và có tính tình dễ chịu hơn những người không sử dụng cá trong các bữa ăn. Dầu cá tốt cho phát triển của trẻ nhỏ DHA có trong dầu cá chính là nguyên nhân tạo nên tác động có lợi này. DHA (docosahexaenoic acid) là một acid béo thuộc nhóm omega-3. Khi phân tích cấu trúc của não, các khoa học gia tìm thấy phần lớn trong thành phần cấu trúc màng tế bào thần kinh. DHA tạo ra độ nhạy của các neuron thần kinh, giúp dẫn truyền thông tin nhanh và chính xác. DHA giúp trẻ sơ sinh phát triển thông minh và sáng mắt, đồng thời hoàn thiện phát triển chức năng não bộ. Người mẹ khi có bầu ăn cá có khả năng hấp thụ được nhiều acid béo omega 3, sinh ra con khỏe mạnh, thông minh hơn. Theo các nghiên cứu, chất DHA và axít béo omega-3 có trong cá rất tốt cho các chức năng của não, riêng DHA rất cần thiết cho sự phát triển của mắt. Có thể bổ sung DHA và axít béo omega-3 từ các nguồn thức ăn từ dầu của cá ngừ, cá hồi, cá thu, cá mòi... Là nguồn acid béo omega 3 tuyệt vời Thịt cá là loại protein ít chất béo, các nghiên cứu cho thấy trong thịt cá có hợp chất acid béo omega 3 là loại acid béo có lợi cho trao đổi chất của cơ thể, đặc biệt cho phát triển của thần kinh, và điều hòa hệ tim mạch. Thành phần chủ yếu trong omega 3 là DHA cũng chính là thành phần quan trọng thúc đẩy hình thành chất xám trong não và giúp cho trẻ nhỏ phát triển trí thông minh. Nhiều nghiên cứu cho biết omega 3 có giá trị tăng sự nối kết giữa các tế bào thần kinh. Acid béo omega 3 là thành phần đặc biệt cần thiết đối với các tiến trình phát triển não bộ ở con người, có vai trò quan trọng trong việc truyền nhận tín hiệu giữa các tế bào. Omega 3 cũng giảm sự kết tụ của tiểu cầu, do đó giảm nguy cơ đột quị và những tai biến não. Cá hồi, cá ngừ là những loài cá biển có nguồn acid béo omega3 giàu có nhất. Ðây cũng là những thực phẩm dễ chế biến thành các món ăn ngon. Ăn nhiều cá giúp làm giảm nguy cơ đột quị và bệnh tim mạch Hiệp Hội Tim Mạch Hoa Kỳ đã khuyến cáo những người trưởng thành nên ăn cá ít nhất 2 lần mỗi tuần. Tốt nhất là chọn những loài cá có nhiều mỡ như cá mòi, cá hồi vì chúng chứa axit béo omega-3, đây là thành phần quan trọng có tác dụng bảo vệ hệ thống tim mạch của cơ thể, làm ổn định các tế bào cơ tim. Nghiên cứu gần đây của Ðại Học Harvard cho biết, khi ăn cá hồi hàng tuần sẽ giúp cung cấp lượng omega 3 cần thiết để ngăn chặn nguy cơ mắc bệnh tim. Trong cá có chứa acid béo không bão hòa giúp tránh đột quỵ xảy ra bằng cách ngăn ngừa máu vón cục hay giúp hạ thấp lượng cholesterol trong máu. Khi ăn cá, hàm lượng DHA trong màng cơ tim tăng, giảm thiếu máu cục bộ, cung cấp máu cho cơ tim. Theo thông tin của Hiệp Hội Tim Mạch Hoa Kỳ còn cho biết, hàng ngày trong bữa ăn nếu bổ sung n-3 polyunsaturated fatty acid ( một acid béo trong cá) sẽ giảm nguy cơ đột tử ở những người vốn đang bị bệnh tim mạch đe dọa. Giảm viêm nhiễm và đau khớp Nhiều nghiên cứu cho thấy chất béo omega3, có mặt trong hầu hết một số dầu của cá biển đã làm giảm viêm và đau khớp. Các loại cá biển chứa nhiều acid béo omega 3 như cá hồi (salmon), cá thu (mackerel), cá trích (herring), cá mòi (sardines) và cá ngừ. Thức ăn có hàm lượng cholesterol thấp Khi thực đơn hàng tuần có thức ăn cá, cơ thể sẽ thu nhận được acid béo omega 3, sẽ giúp cơ thể giảm hàm lượng triglycerid trong máu. Các nghiên cứu trên người đã chứng minh, DHA và EPA (Eicosapentaenoic acid) trong cá làm giảm đáng kể hàm lượng triglycerid trong máu, nhờ đó giảm nguy cơ nhồi máu cơ tim. Các nghiên cứu cho thấy thịt cá chứa ít cholesterol so với các loại thịt bò, thịt lợn đó cũng là lí do khiến cá giúp làm giảm nồng độ cholesterol trong máu trong cơ thể. Ăn cá thường xuyên có thể tránh được bệnh tim, làm giảm nguy cơ cao huyết áp, làm cho mạch máu có tính đàn hồi cao, giảm mỡ máu, cung cấp cholesterone có lợi cho cơ thể. Ngăn chặn chứng Alzheimer và chứng mất trí nhớ Hiện nay chúng ta tự hào vì có thể sống lâu hơn nhưng cùng với cuộc sống tuổi già thì điều đáng lo ngại là chứng bệnh mất trí nhớ Alzheimer tấn công. Theo các nghiên cứu Pháp Quốc, những người bị mất trí nhớ thường có lượng DHA thấp hơn nhiều so với cơ thể bình thường. Các chức năng não khác cũng kém hơn. Việc bổ sung thực phẩm cá có chứa DHA sẽ giúp người già sớm ngăn chặn được căn bệnh Alzheimer, một bệnh mất trí nhớ phổ biến hiện nay ở người cao niên. Nghiên cứu do trường Ðại Học Guelph cho thấy khi ăn cá, lượng acid béo omega3 cao dẫn tới ngăn ngừa được bệnh Alzheimer và các chứng bệnh lãng quên của người cao tuổi. DHA trong acid béo omega 3 giúp làm giảm các mảng xơ vữa động mạch não, một nguyên nhân của bệnh Alzheimer. DHA có nhiều trong các loại cá thu, cá hồi, cá trích, các mòi và các ngừ. Cá ngăn ngừa ung thư Các nghiên cứu mới đây đã chứng minh hiệu quả của dầu cá trong việc ngăn ngừa một số loại ung thư. Các nghiên cứu gia Australia đang dùng thêm dầu cá để điều trị cho bệnh nhân ung thư ruột. Nguyên nhân là do acid béo có trong dầu cá, đặc biệt là loại Omega-3 đã giúp ruột tiết ra một loại dịch vị có tác dụng giảm nguy cơ gây ung thư. Cá hồi và cá thu là loại cá có lượng acid béo omega3 cao. Ðối với bệnh ung thư, dầu cũng chứng minh giúp cơ thể ngăn ngừa được đáng kể viêm nhiễm và suy dinh dưỡng và tăng khả năng điều trị hóa chất trị liệu. Cá cũng ngừa suy thận Ăn cá ít nhất hai lần mỗi tuần giúp giảm nguy cơ mắc bệnh thận ở bệnh nhân tiểu đường. Các nhà khoa học Anh Quốc mới đây đã phát hiện sau khi phân tích dữ liệu của người bị tiểu đường. Nghiên cứu cho thấy khi ăn cá thường xuyên có thể giúp ngăn không cho protein tồn tại trong nước tiểu ở người bệnh tiểu đường. Các nhà khoa học cho rằng cá có thể giúp cải thiện quá trình kiểm soát đường trong máu. Khi ăn cá, những người bị tiểu đường sẽ kiểm soát tốt hơn lượng đường trong máu. Ăn cá làm giảm cân Cá được xem là một nguồn thực phẩm chứa nhiều protein và các chất dinh dưỡng. Nhưng cá có thể sử dụng cá cho chế độ ăn kiêng. Theo nhận định của các khoa học gia khi ăn cá sẽ giúp cơ thể làm giảm mức độ của loại hormone mập phì, nếu ăn thường xuyên cá sẽ giúp cơ thể hạ thấp được loại loại chất béo giúp điều chỉnh hormone leptin, mức độ hormone này trong cơ thể là tín hiệu cho biết cơ thể đã nhận đủ thực phẩm, các nghiên cứu ấn định rằng những người béo phí hầu như bị mất khả năng nhận biết những tín hiệu này. Phụ nữ thường có chỉ số hormone leptin cao hơn nam giới, nghiên cứu cho thấy chỉ số hormone leptin của những người phụ nữ ăn cá thường xuyên sẽ ít hơn một nửa khi so sánh ngay cả với nhóm người ăn chay. Bằng cách thêm một hoặc hai bữa ăn cá trong chế độ ăn uống mỗi tuần, giúp chúng ta có thể có chế độ ăn kiêng rất tốt và đặc biệt đối với phụ nữ và những người muốn giảm cân. Cá là một món ăn giàu chất dinh dưỡng và còn giúp cơ thể điều hòa và ngăn cản nhiều căn bệnh thế kỷ.
|