Súc Miệng bằng Dầu Ăn: Phương Pháp Chữa Bệnh và Phòng Bệnh Tuyệt Vời |
Tác Giả: Bác Sĩ Fife | |||
Thứ Tư, 08 Tháng 4 Năm 2009 03:02 | |||
Về cụm từ dịch tiếng OIL PULLING, NHAI DẦU có thể thay bằng SÚC MIỆNG BẰNG DẦU ĂN hoặc vắn tắt hơn SÚC DẦU. Bạn đã đọc và thực hành liệu pháp súc dầu của bác sĩ Karach, bạn từng ngạc nhiên về hiệu quả của súc dầu, nhưng vẫn không sao tìm được lời giải thích cũng như dẫn chứng khoa học vì đâu súc dầu lại hiệu nghiệm trong việc chữa lành bệnh lạ lùng như vậy! Hôm nay bạn sẽ nhận được câu trả lời của bác sĩ Bruce Fife. Ngày 16/10/2008 Joyce Riley đã phỏng vấn bác sĩ Fife về LPSD trong Power Hour, bạn có thể vào Google để nghe (Đánh máy “Dr. Fife’s oil pulling), rất thú vị. Bạn cũng có thể mua sách “Oil Pulling Therapy” của ông để tìm hiểu thêm. Rất hay. Bảo đảm đọc xong, ai cũng thấy mình nên súc dầu hàng ngày để giữ gìn vệ sinh răng miệng tốt. Tài liệu sau đây được tóm tắt, trích dẫn từ quyển “Oil Pulling Therapy” (Liệu pháp súc miệng bằng dầu ăn) của bác sĩ Bruce Fife. Ông là một bác sĩ chuyên khoa dinh dưỡng. Ông đã nghiên cứu liệu pháp này của bác sĩ Karach đồng thời phát triển, hoàn chỉnh và đề ra một phương pháp tẩy độc hoàn hảo hơn mà ông gọi là Liệu Pháp Súc Miệng bằng Dầu của bác sĩ Bruce Fife ( Dr. Fife’s Oil Pulling Therapy). Theo bác sĩ Fife, bệnh có nguồn gốc từ miệng. Thật khó tin được khi hầu hết các bệnh nhiễm trùng và kinh niên lại là hệ quả của vệ sinh răng miệng. Miệng phản ánh tình trạng sức khỏe bên trong cơ thể của chúng ta. Răng lợi không tốt là cửa ngõ cho bệnh tật xâm chiếm. Cho dù có đánh răng, xỉa răng, tơ răng thường xuyên, thì 90% dân số bị sâu răng hay có vấn đề về lợi, nướu răng ở mức độ nặng nhẹ nào đó. Tệ hơn nữa là có nhiều người vẫn không biết mình đang có bệnh về răng. Những nghiên cứu mới đây đã chứng minh có sự tương quan giữa bệnh của răng và những bệnh kinh niên. Chỉ cần làm cho răng miệng sạch thì có thể chữa được bệnh. Gia tăng lần đánh răng, xỉa răng, súc miệng thông thường không cải thiện được tình trạng bệnh. May thay có một cách hiệu nghiệm đó là liệu pháp súc miệng bằng dầu ăn. Làm sạch miệng qua việc súc dầu là phương pháp cổ truyền của y khoa Ấn Độ. Đây là một trong những phương pháp rất hữu hiệu để lấy nguyên nhân gây bệnh là hàng trăm triệu vi khuẩn và độc tố của nó sinh ra ở răng, lợi, nướu răng và trong vòm miệng ra ngoài, mang lại hiệu quả chữa lành cho bệnh nhân. Liệu pháp súc miệng bằng dầu ăn của bác sĩ Fife là một cách mạng về lối chữa trị mới phối hợp sự uyên bác của y khoa cổ truyền Ấn Độ và khoa học hiện đại.
Bác sĩ Fife luôn nhấn mạnh về các điểm sau mà chúng ta gặp luôn trong quyển sách: - Các nhiễm trùng từ răng, miệng là nguồn gốc gây bệnh - Vai trò của hệ miễn dịch - Vai trò của thức ăn dinh dưỡng để đi đến kết luận dùng dầu dừa (coconut oil) là loại dầu tốt nhất cho việc súc dầu làm răng miệng sạch, trừ khử nguồn gốc bệnh là các loại vi khuẩn, nấm trong miệng, nên giúp cơ thể sạch, hệ miễn dịch mạnh, kết quả là bệnh tật được đẩy lui và người ta khỏe mạnh, đầy sinh lực.
Tài liệu này được chia làm ba phần: 1- Bệnh có nguồn gốc từ miệng. 2- Súc dầu: Phương pháp chữa bệnh và phòng bệnh tuyệt vời của bác sĩ Bruce Fife. 3- Chia sẻ kinh nghiệm lành bệnh qua súc dầu. 1- BỆNH CÓ NGUỒN GỐC TỪ MIỆNG
VI KHUẨN, NẤM , RĂNG SÂU
Miệng chứa hàng tỉ vi khuẩn, siêu vi khuẩn, nấm và động vật nguyên sinh mặc dù chúng ta không thấy chúng. Chúng có nhiều loại: ngắn, dài, mập, ốm. Lương thực của chúng là những thứ chúng ta ăn. Chúng thích đường, carbohydrates, những đồ ăn dính vào giữa các răng, giữa má và lợi răng. Chúng hạnh phúc nhấm thức ăn này hàng nhiều giờ. Chúng tụ tập thành nhiều nhóm sống trong miệng chúng ta. Nhóm ở răng, nhóm ở nướu, nhóm ở vòm miệng, nhóm ở trên hay dưới lưỡi. Mặc dù chúng có thể gặp nhau nhưng mỗi cộng đồng có dân số riêng. Mỗi người có những cộng đồng vi khuẩn đặc trưng tùy theo nơi cư ngụ , thức ăn, lối sống, di truyền, phái tính,v.v. Sức khỏe của chúng ta cũng gây ảnh hưởng trên những loại vi sinh sống ở trong miệng chúng ta. Tiểu đường kích thích sự phát triển của loại vi khuẩn nào đó. Người béo phì có loại vi khuẩn khác người nặng trung bình. Các nghiên cứu về y khoa đã cho thấy có thể định bệnh cho một số bệnh dựa vào loại vi khuẩn ở trong miệng. Miệng con người có đến hơn 600 loại vi khuẩn, hàng trăm loại siêu vi, nấm với số lượng khó tưởng tượng khoảng 10 tỉ (nhiều hơn dân số thế giới). Một miếng mảng bám của răng nhỏ bằng đầu ngón tăm chứa từ 10 triệu đến 100 triệu vi khuẩn. NƯỚC MIẾNG
Nước miếng cần thiết cho việc tiêu hóa thức ăn và giữ cho miệng tốt. Nước miếng chứa enzymes, kháng thể, và những chất dinh dưỡng giúp chống lại bệnh và giữ cho răng và lợi trong tình trạng tốt. Tuy nước miếng chứa những loại kháng thể và kháng sinh đặc biệt để ngăn chặn sự phát triển của vi sinh, nó vẫn không thể tiêu diệt chúng hoàn toàn, nên trong miệng vẫn còn nhiều vi khuẩn tác hại. Trong nước miếng cũng chứa nhiều chất sắt, đặc biệt là calcium và phosphate, là chất chính cấu tạo răng, nên có thể tự trám răng lúc mới bắt đầu hư. Nước miếng được tiết ra trong ngày, nhiều nhất vào bữa ăn. Ban đêm, khi chúng ta ngủ, nước miếng ngừng tiết. Cho nên chúng ta cần uống nhiều nước để có đủ nước miếng giữ răng tốt. Người bị khô miệng do thiếu nước không tiết đủ nước miếng thường bị bệnh về răng và lợi. NHỮNG BỆNH VỀ RĂNG BỆNH HÔI MIỆNG
Phần lớn bệnh hôi miệng là do vi khuẩn nẩy nở trong những hang hốc trong miệng. Đồ ăn chứa chất trong những lỗ hổng trong lợi, sâu răng, kẽ răng, mặt lưỡi, đều là những chỗ lý tưởng cho vi khuẩn sinh sản. Hôi miệng tự nó không thuộc tình trạng trầm trọng, nhưng nó gây phiền toái và mặc cảm cho người bệnh trong xã hội. Hôi miệng cũng có thể là dấu hiệu của sâu răng hay bệnh về lợi. Nha sĩ đề nghị chúng ta không chỉ đánh răng, mà còn nạo lưỡi, súc miệng bằng nước sát trùng, nhưng những thứ này chỉ giúp tạm thời vì vi khuẩn tái sinh sản nhanh chóng. SÂU RĂNG
Đường là thức ăn của loại vi khuẩn tiết ra chất acid ăn men răng. Khi lợi tốt, nướu răng chặt, sâu răng khó xảy ra ở chân răng vì không tiếp xúc với acid của vi khuẩn. Khi sâu răng ăn xuống ngà răng, răng dễ bị buốt khi tiếp xúc với nước lạnh, nước nóng hay với chất ngọt. Nếu ăn vào tủy răng, sẽ bị nhức. Nếu không được điều trị, sẽ mưng mủ (áp xe) và răng bị hư. Lúc này nha sĩ sẽ lấy gân máu hay nhổ răng sâu. MẢNG BÁM
Mảng bám của răng là tích tụ của chất nhày, thức ăn, vi khuẩn, vi sinh vật và sản phẩm của chúng tạo thành một lớp mềm có màu vàng bám dính vào men răng. 20 phút sau khi ăn thì mảng bám hình thành. Nó dễ dàng lấy đi bằng đánh răng và tơ răng. Nhưng ở giữa kẻ răng hay mặt sau của răng thì khó hơn. Mảng bám có thể dẫn tới sâu răng và viêm lợi. VÔI RĂNG
Vôi răng do mảng bám dính chặt lâu ngày trở nên cứng, phải dùng dụng cụ đặc biệt của nha sĩ mới lấy ra được. Vôi răng có thể bám ở trên hay dưới chân răng. Vi khuẩn ở vôi răng có thể làm lợi răng sưng đỏ, dẫn đến chứng viêm lợi. VIÊM LỢI
Triệu chứng của viêm lợi là lợi sưng, đỏ, chảy máu khi đánh răng do vi khuẩn và độc tố kích thích lợi. Viêm lợi rất phổ biến trên toàn cầu. Đến tuổi thanh niên, 70%-90% học sinh bị viêm lợi. Viêm lợi thường không gây đau, mắt thường khó nhận ra. Nếu không điều trị có thể dẫn đến nha chu. Viêm cận răng: ảnh hưởng tới tất cả cấu trúc bảo vệ răng. Loại viêm này lan rộng và ăn sâu vào trong lợi khiến người bệnh đau đớn. NHA CHU
Nguyên nhân chính gây bệnh nha chu là sự phát triển của vi khuẩn trong mảng bám răng. Thoạt đầu, trên răng sẽ hình thành một màng trong suốt bám vào. Nếu không đánh răng đều để loại trừ màng này, nó sẽ tích tụ, dần dần bị khoáng hóa trở thành vôi răng với lượng vi khuẩn ngày càng tăng. Các độc tố do vi khuẩn tạo ra xâm nhập mô nướu, gây viêm. Chúng cũng phá hủy các mô nâng đỡ răng khiến nướu dần tách ra khỏi mặt răng. Nha chu là nguyên nhân quan trọng gây mất răng. Triệu chứng của nha chu gồm lợi đỏ hay sưng, mềm hay chảy máu, tụt nướu, răng lung lay, đau khi nhai, nhạy cảm với nóng lạnh, hơi thở hôi dai dẳng.
UNG MỦ (ÁP XE) NƯỚU RĂNG
Mủ do các vi sinh vật làm tổn thương các tế bào chỗ sâu răng. Mủ răng bắt đầu ở tủy răng, thường do răng sâu hay răng bị nứt không được điều trị, hoặc do bị nha chu lâu ngày. Lấy gân máu không kỹ cũng có thể gây mủ răng. Có hai trường hợp mủ răng: cấp tính hay mãn tính. Mủ răng cấp tính thường gây đau, sưng, và sốt. Mủ răng mãn tính có thể không gây đau gì cả, do đó người bị mủ răng không biết, không điều trị nên mủ có thể lan cả vào bên trong xương hàm. Không trị mủ răng tận gốc có thể dẫn tới nhiễm trùng trầm trọng và có thể làm tổn hại đến tủy xương hàm, cũng như có thể đưa một lượng lớn vi khuẩn vào máu , làm máu bị nhiễm trùng.
MỌI BỆNH BẮT ĐẦU TỪ TRONG MIỆNG Mũi và miệng là hai con đường dẫn nhiên liệu của sự sống vào trong cơ thể để nuôi dưỡng chúng ta: không khí và thức ăn. Khí trong lành cho ta sức khỏe tốt, khí ô nhiễm, khói xăng, khói thuốc lá, phấn hoa gây dị ứng, vi khuẩn, tất cả đều gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe. Thức ăn đủ chất dinh dưỡng: tăng cường sức khỏe. Thức ăn thiếu dinh dưỡng gia tăng nguy cơ cho các bệnh suy thoái. Quá nhiều thực phẩm, cho dù giàu dinh dưỡng hay thiếu, có thể dẫn đến béo phì và các chứng bệnh khác. Uống nước không đủ hay uống quá lượng cà phê, rượu và nước ngọt có gas có thể dẫn đến bệnh thiếu nước tạm thời hay kinh niên.Thuốc, độc tố trong thực phẩm, trong môi trường, thuốc sâu, chất dụ trữ hóa học trong thức ăn, …có thể vào cơ thể chúng ta qua miệng. Tùy theo cách chúng ta chọn lựa thức ăn hay uống có thể giúp tăng hệ miễn dịch duy trì tình trạng khỏe mạnh, hay ngược lại làm suy yếu chức năng miễn nhiễm tạo cơ hội cho bệnh tật xâm chiếm, cũng như ung thư và các bệnh truyền nhiễm có thể là nguy cơ cho chúng ta. Khi hệ miễn dịch mạnh, ngay cả những nhiễm trùng nặng bởi vết thương hay sâu bọ cắn sẽ mau chóng lành. Miệng là cửa vào cơ thể của vi khuẩn, siêu vi khuẩn, nấm và ký sinh trùng. Có loại tốt , có loại xấu. Tuy nhiên tất cả đều có khả năng gây hại. Ngay cả vi sinh vật có lợi cũng có thể gây nguy cơ nếu chúng tìm được đường đi vào máu chúng ta qua vết thương hở, nhiễm trùng. Trong máu, những vi sinh vật này có thể gây nhiều tai hại, từ nhiễm trùng bộ phận đến nhiễm trùng toàn thân, và làm sai lạc tác động của hệ miễn dịch dẫn đến nhiều loại bệnh từ thấp khớp đến bệnh tim. Trong phần trình bày sau, chúng ta sẽ xem làm thế nào sức khỏe của miệng lại tác động trực tiếp đến sức khỏe của toàn thân. LÝ THUYẾT NHIỄM TRÙNG CỤC BỘ
Lý thuyết nhiễm trùng cục bộ (focal infection theory) nói rằng vi khuẩn ở tâm điểm nhiễm trùng – như chân răng, răng, lợi hay amidan, lan truyền đến tim, mắt, thận, phổi, hay các cơ quan, các mô khác và hình thành nhiễm trùng ở nơi mới. Căn cứ trên lý thuyết này, các nha sĩ xưa có khuynh hướng nhổ những răng bệnh để tránh bệnh có thể lan sang những bộ phận khác của cơ thể. Tương quan giữa răng và sức khỏe toàn thân đã được nói đến cách nay 2700 năm trước. Hippocrates, thày thuốc Hy Lạp, người được xem như là cha đẻ của nền y khoa Tây phương, tường trình về việc chữa lành một bệnh nhân bị thấp khớp bằng nhổ một răng bị nhiễm trùng. Nhiều bệnh nhân đã báo cáo được bình phục từ nhiều bệnh khác nhau nhờ nhổ răng bị nhiễm trùng. Vậy làm thế nào mà răng sâu hay lợi sưng lại ảnh hưởng đến các phần khác của cơ thể? Làm thế nào mà một răng bị nhiễm trùng lại gây thấp khớp hay sưng phổi, hay làm tăng tốc những cơn tai biến mạch máu tim hoặc đột quỵ xảy ra? Ai trong chúng ta đang ở trong tình trạng nguy hiểm này? Như chúng ta đã biết, miệng của chúng ta luôn được tắm trong vi khuẩn (nước miếng). Bất cứ vết cắt hay loét nào đều là cơ hội cho vi khuẩn đi vào máu, huống chi người bị viêm lợi nặng, hay răng mưng mủ khi đánh răng bị chảy máu. Một khi đã đi vào máu, chúng có thể lập cư bất cứ chỗ nào – tim, phổi, gan – hay có thể đi khắp cơ thể. Cũng như trong miệng, vi khuẩn chọn nơi để ở: răng hay lưỡi, thì khi vào máu, chúng cũng chọn nơi chúng thích. Vì vậy vi khuẩn ở miệng có thể gây ra bệnh ở bộ phận nào đó như viêm thấp khớp (joints), như viêm màng trong tim (endocarditis) cũng như bệnh toàn thân (systemic disease) như tiểu đường. Một phương châm chẩn bệnh của Vi khuẩn Học: “Bất cứ vi sinh vật nào sống ở ngoài môi trường sinh sống tự nhiên của nó nên xem như mầm gây bệnh.” Nói cách khác vi khuẩn ở trong miệng cứ việc sống ở đó. Nhưng nếu bất ngờ có dịp vào trong máu, nơi không là nhà của chúng, thì cho dù chúng có hiền hay dữ, chúng có thể trở thành ác thần gây bệnh nguy hiểm. SỰ ĐÓNG GÓP CỦA BÁC SĨ WESTON PRICE
Qua 25 năm nghiên cứu cùng với đồng nghiệp dựa trên lý thuyết nhiễm trùng cục bộ năm 1923 bác sĩ Price đã cho ra đời hai quyển sách dày tổng cộng 1174 trang với tựa đề: Dental Infections, Oral and Systemic – Dental Infections and the Degenerative Disease. Xin dẫn vài trường hợp sau: Sau khi quan sát nhiều bệnh nhân, bác sĩ Price cho rằng những răng dù được lấy gân máu vẫn còn nguyên tình trạng bị nhiễm trùng.
-Một phụ nữ, bệnh nhân của bác sĩ, bị bệnh thấp khớp rất nặng đến nỗi các khớp sưng to và biến dạng, bà không thể đi được vì đau đớn, phải dùng xe lăn trong 6 năm. Vào thời đó, nha sĩ biết rằng thấp khớp và các bệnh khác thường khỏi khi nhổ đi răng bị nhiễm trùng. Mặc dù hình chụp quang tuyến X của răng nhiễm trùng đã được lấy gân máu cho thấy không có dấu vết hay triệu chứng nhiễm trùng nào nữa, răng vẫn được nhổ đi. Răng được rửa và dùng tiểu phẫu ghép vào dưới da của một con thỏ. Trong vòng 2 ngày, con thỏ bị cùng triệu chứng đau thấp khớp như bà. Sau 10 ngày thỏ chết vì nhiễm trùng. Phần bà, không còn răng bệnh đó nữa, đã hồi phục nhanh chóng lạ thường, tự đi được và trở lại việc thêu đan mà bà yêu thích. Bác sĩ Price khuyến khích những bệnh nhân có bệnh kinh niên không chữa trị được nhổ đi những răng trám đã được lấy gân máu (root-filled teeth). -Hàng trăm thí nghiệm tương tự khác tiếp sau đó cho thấy hầu hết thỏ bị nhiễm cùng loại bệnh của người có răng sâu được nhổ đó: bệnh về thận, mắt, tim, loét bao tử, nhiễm trùng đường tiểu, bệnh về buồng trứng, viêm tĩnh mạch, viêm xương tủy, bất cứ bệnh gì, thỏ lập tức có cùng triệu chứng. Đa số thỏ chết trong vòng 2 tuần vì nhiễm trùng. Bác sĩ Rosenow, nhà vi khuẩn học, đã chứng minh một số loại vi khuẩn, đặc biệt streptococci, có thể biến dạng khi thay đổi môi trường sinh sống. Bác sĩ cấy vi khuẩn vào môi trường khác như oxy hóa, đường, và thay đổi nhiệt độ, vi khuẩn nhanh chóng đáp ứng với môi trường mới. Chúng trở nên nhỏ hơn, mạnh hơn, nên tiết ra nhiều độc tố hơn. Ví dụ: vi sinh vật aerobic, sống cần oxy, khi đã thích ứng với môi trường mới trở nên anaerobic, không cần oxy. Streptoccoci, thường sống ở miệng, có khả năng rất lớn trong việc đáp ứng với bất kỳ sự thay đổi môi trường nào. Do đó chúng đột biến và trở nên miễn nhiễm với thuốc trụ sinh. Khi streptoccoci đi đến lập cư bên trong chân răng gây mủ (nhiễm trùng gốc - primary infection) hay di cư tới tim hoặc khớp xương, chúng có thể biến dạng nguy hiểm hơn gây nhiễm trùng nặng ở tim, khớp xương (nhiễm trùng chuyển biến – secondary infection). Bắt đầu từ 1940, penicillin và các loại trụ sinh khác được dùng để trị nhiễm trùng. Ngoài ra những kỹ thuật mới có thể chữa răng, để giúp răng khỏi bị nhổ. Người ta quên dần đi lý thuyết nhiễm trùng cục bộ với các nghiên cứu của các bác sĩ nói trên. SỰ SỐNG LẠI CỦA LÝ THUYẾT NHIỄM TRÙNG CỤC BỘ
Mặc dù lý thuyết này không được các nha sĩ và bác sĩ để ý đến hàng nhiều chục năm, vẫn thường có sự bùng nổ lên về liên quan giữa bệnh răng và bệnh toàn thân. Những nhà nghiên cứu mới quá trẻ để nhớ lại lý thuyết NTCB nên tự làm những nghiên cứu khác. Chuyển sang thế kỷ 21, lý thuyết NTCB được công nhận trên toàn cầu, không còn xem như là lý thuyết, mà là sự kiện. Song thật không may, NTCB vẫn chưa gây được nhiều chú ý nơi nha sĩ và bác sĩ như nó xứng đáng được. Một lý do là bác sĩ cho rằng trụ sinh là giải đáp vấn đề cho loại nhiễm trùng chuyển biến . Sau đây là những bằng chứng cho thấy sự tương quan giữa sức khỏe của miệng và những bệnh thường gặp. BỆNH TIM MẠCH
Hệ thống tim mạch bao gồm tim và các động mạch. Các nghiên cứu cho biết 20% trong số những người đang có bệnh tim sau khi đi chữa răng (kể cả việc tẩy sạch răng thường lệ) bị nhiễm vi khuẩn làm viêm màng trong tim. Nhiễm trùng có thể hủy hoại van tim, dẫn đến suy tim. Vi khuẩn gây bệnh ở tim mạch cũng được tìm thấy ở miệng. Có thể nào vi khuẩn ở miệng là nguồn gây bệnh tim không? Một số nghiên cứu cho thấy bệnh nhân tim mạch có tỉ số răng sâu và viêm lợi cao hơn gấp 3 lần so với những người khác. Steptococcus sanguis, loại vi khuẩn thường sống ở bựa răng, cũng là vi khuẩn gây bệnh tim. Chúng bám vào răng để kết thành bựa rồi thành vôi răng. Nơi thành động mạch chúng có khuynh hướng tương tự là đóng thành lớp xơ vữa và cục máu đông . Steptococcus sanguis làm cho máu dính đặc lại và tạo ra cục máu đông, là nguyên nhân của chứng nhồi máu cơ tim (heart attack), đột qụy (stroke). Khi máu trở nên đặc hơn, tim phải làm việc nhiều hơn để bơm máu. Huyết áp tăng. Khi huyết áp tăng, tim phải gắng sức hơn nữa nên gây sức ép vào thành động mạch. Việc này có thể làm nứt động mạch vành. Những vết nứt này được hàn lại bằng cholesterol, máu đông, chất đạm và calcium. Nơi đây sẽ bị viêm. Nếu viêm trở nên kinh niên do bị cao máu kinh niên thì hình thành mảng xơ vữa . Calcium sẽ làm cho plaque cứng hơn, nên chúng ta có từ cứng động mạch. Khi xơ vữa được hình thành, động mạch vành bị hẹp lại. Nhồi máu cơ tim hay đột qụy xảy ra không phải do động mạch vành bị hẹp, nhưng chính là do cục máu đông được hình thành ngay chính nơi mạch máu hẹp này, làm nghẽn máu lưu thông. BỆNH VIÊM KHỚP
Viêm khớp làm cho bệnh nhân đau đớn ở các khớp xương. Nó làm biến dạng các khớp và dẫn đầu nguyên nhân gây tàn tật cho người trên 55 tuổi. Bệnh này không chữa được và thường tăng dần lên. Thuốc điều trị chỉ giúp giảm triệu chứng. Đối với những trường hợp nặng, phải mổ thay khớp nhân tạo. Những xét nghiệm nhiều nơi khác nhau trên thế giới cho thấy rằng bệnh viêm khớp và bệnh về răng xuất hiện cùng thời. Thú vị hơn nữa, nơi nào con người có hàm răng tốt, hiếm có răng sâu, thì nơi đó họ không bị viêm khớp, cũng như rất hiếm hoặc không xảy ra bệnh vữa xơ động mạch và những bệnh thoái hóa thông thường khác. Một trong phần lớn các kết quả thường được tường trình về việc điều trị răng là hiệu quả về viêm khớp. Khi răng sâu được nhổ, triệu chứng của viêm khớp cũng biến mất. Sự tương quan này đã được ghi nhận vào thế kỷ thứ bảy trước Chúa Giáng Sinh bởi người Assyrians. Ba trăm năm sau Hippocrates cũng có ghi nhận tương tự. Vào thế kỷ thứ 16 bác sĩ Benjamin Rush, người ký bản Tuyên Ngôn Độc Lập, báo cáo rằng một số bệnh nhân của ông sau khi nhổ răng sâu đã hết bị viêm khớp. Cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, các nha sĩ cũng báo cáo kết quả tương tự, và báo chí đã đăng các kết quả này. Rồi đến bác sĩ Price và các nhà nghiên cứu sau này tiếp nối công việc trên như chúng ta đã đọc. Vi khuẩn ở miệng, khi đã vào máu, có khuynh hướng chọn và gây nhiễm trùng những nơi yếu nhất của cơ thể. Khớp xương bị suy yếu do bệnh hay do chấn thương là vị trí đầu tiên cho nhiễm trùng chuyển biến . Chân tay giả hoặc khớp xương nhân tạo cũng là nơi chính dễ bị nhiễm trùng. Vi khuẩn ở miệng sẵn sàng tấn công những chỗ này. Vì vậy, bác sĩ thường cho bệnh nhân uống trụ sinh trước và sau khi chữa răng. BỆNH NHIỄM TRÙNG PHỔI VÀ CUỐNG PHỔI
Nhổ hết răng có thể tốt cho phổi! Tại sao? Tự vì nhiễm trùng phổi hiếm xảy ra nơi người không có răng. (Bs Fife không có ý nói phải nhổ hết răng, chỉ đưa ra sự kiện liên quan đến răng và phổi). Vi khuẩn ở miệng được tìm thấy thường gây bệnh ở cuống phổi và phổi: Streptococcus pneumoniae, Chlamydia, Mycoplasma và Neisseria. Chúng không luôn gây phiền toái khi ở miệng hay cuống phổi. Thông thường hệ miễn dịch kháng cự lại chúng. Nhưng khi bị stress, dinh dưỡng kém hay bị các nhiễm trùng khác làm suy yếu hệ miễn dịch, chúng tấn công tức thời. Cuống phổi bị nhiễm trùng, phổi có nước làm khó vận chuyển oxygen vào máu. Suyễn là một bệnh kinh niên ảnh hưởng tới ống dẫn khí ra vào phổi. Đường dẫn khí này dần dần co lại , bị viêm, và chứa đầy chất nhày, làm cho khó thở. Người ta tin rằng đây là bệnh không chữa được. NHỮNG BIẾN CHỨNG TRONG THAI NGHÉN
Viêm lợi không chỉ ảnh hưởng đến mẹ mà còn cả thai nhi nữa. Mẹ bị nha chu có thể sanh non và con nhẹ cân khoảng 5.5pounds= 2,500g hay nhẹ hơn nữa. Nghiên cứu cho thấy vi khuẩn gây nha chu ở miệng có thể đi vào trong nước ối , làm nhiễm nước ối, có thể gây nguy hiểm cho mẹ và con. Vi khuẩn ở miệng cũng có thể gây tiền sản giật ở nửa chu kỳ sau của thai nghén. Triệu chứng của bệnh là cao máu và bí tiểu, ngoài ra có thể bị nhức đầu, buồn nôn, ói mửa, đau bụng, rối loạn thị giác. Nếu không điều trị sẽ dần dần bị sản giật, có thể nguy hiểm đến tính mạng vì nhiễm độc dẫn đến bị co giật trầm trọng, thận hư, ngay cả tử vong cho cả mẹ lẫn con. Khoảng 60%-75% phụ nữ có thai bị viêm lợi. Phụ nữ đang mang thai hoặc muốn mang thai, nên chú trọng đặc biệt đến răng miệng để chắc chắn cả mẹ con có sức khỏe tốt nhất. BỆNH TIÊU HÓA
Vi khuẩn và nấm trong miệng theo đường ăn uống có thể vào dạ dày. Ở đây chúng bị acid và enzymes tiêu diệt, những con còn sống sẽ đi vào ruột. Trong ruột, thường thì chúng không gây hại. Nếu gây bệnh thì trụ sinh được dùng để diệt vi khuẩn. Tuy nhiên trụ sinh không có ảnh hưởng gì trên nấm. Nấm candida là vi sinh vật một tế bào có mặt trong mọi nơi ở đường tiêu hóa. Khi trụ sinh tiêu diệt vi khuẩn thì nấm không còn bị ai cạnh tranh sẽ sẽ gia tăng dân số rất nhanh, gây nhiễm nấm cục bộ hay toàn thân. Vi khuẩn H.pylori có trong bựa răng khi xuống dạ dày có thể ăn những lỗ nhỏ ở màng gây đau loét và có thể gây ung thư dạ dày. Nếu dạ dày của bạn tốt, chúng chỉ nhẹ nhàng dọa thôi. Thuốc tây dùng thường xuyên như: Aspirin, Advil, Motrin, Aleve...làm giảm chức năng bảo vệ màng bao tử; Antacids giảm độ acid của dạ dày , sẽ cho phép vi khuẩn sống lâu đủ để đục màng dạ dày hay đi vào ruột. Uống nhiều rượu có thể kích thích và ăn mòn màng dạ dày dễ bị vi khuẩn tấn công. Stress, thiếu dinh dưỡng, và bệnh làm hệ miễn dịch suy yếu, gia tăng cơ hội nhiễm trùng H. pylori. BỆNH LOÃNG XƯƠNG
Tế bào mới của xương luôn tiếp tục được tạo thành để thay cho những tế bào mất đi. Tuổi trẻ, tế bào mới được sản xuất nhanh hơn tế bào cũ hư hoại đi. Lớn tuổi xương mất đi nhanh hơn xương tạo thành. Dần dần, xương trở nên xốp và yếu. Tiến trình tạo xương này được điều hòa bởi nhiều yếu tố khác nhau trong đó có hormones và cytokines. Cytokines được sản xuất bởi tế bào của hệ miễn dịch để kích thích viêm. Viêm cần thiết để chống nhiễm trùng. Nếu bị nhiễm trùng kinh niên, sẽ bị viêm kinh niên. Không may nếu viêm xảy ra ở gần xương sẽ ngăn cản tiến trình tạo xương , kết quả là mất xương. Nha chu có liên quan đến mất xương. Răng nhiễm trùng gây viêm làm yếu xương hàm. Xương giữ răng bắt đầu mất dần đi làm răng lung lay. Nhiễm trùng ở đâu sẽ loãng xương ở đó như hàm, sọ, hông. Nếu nhiễm trùng toàn thân, nha chu sẽ dẫn đến loãng xương trầm trọng. Sự thay đổi hormone nơi phụ nữ trong thời mãn kinh thường tác động đến những nhóm vi khuẩn ở miệng, có thể tăng cường viêm toàn thân, làm gia tăng loãng xương. BỆNH TIỂU ĐƯỜNG
Khi vi khuẩn và độc tố của nó từ miệng vào trong máu, chúng làm cho hệ miễn dịch tiết cytokines để tạo viêm chống lại vi khuẩn. Nếu bị viêm toàn thân kinh niên sẽ làm giảm tác động chuyển đường vào tế bào của insulin, nên đường trong máu cao hơn. Cytokines cũng có thể làm thương tổn tế bào của tuyến tụy- sản xuất insulin, vì vậy giảm khả năng của cơ thể tiết insulin . Các nghiên cứu cho thấy điều trị nha chu có thể cải thiện insulin resistance và làm tốt hơn việc điều hòa lượng đường trong máu. Cũng có nhà nghiên cứu cho rằng bệnh nha chu kinh niên có thể gây tiểu đường. Chế độ ăn uống ảnh hưởng đến bệnh tiểu đường. Đường làm tăng lượng glucose trong máu, cũng giúp cho vi khuẩn trong miệng mạnh thêm lên gây nhiễm trùng và viêm.
BỆNH VỀ HỆ THẦN KINH
Hệ thần kinh gồm não, tủy sống và dây thần kinh. Vi khuẩn ở miệng thường tìm đường đi vào mô thần kinh. Vi khuẩn gây bệnh giời leo, sau lần đầu gây nhiễm trùng, sẽ trú ngụ ở mô thần kinh, nằm im đó, chờ cơ hội để trổi dậy như stress hay hệ miễn dịch bị thương tổn. Áp-xe răng có thể kích thích áp-xe não. Viêm màng não xảy ra khi vi khuẩn hay siêu vì khuẩn vào trong tủy sống và màng chung quanh não và tủy sống. Nếu tình trạng này trầm trọng, đôi khi có thể gây tử vong, bệnh gây nhức đầu, sốt, nôn mửa, và cổ bị cứng. Viêm màng não do vi khuẩn từ nhiều nguồn gây ra, bao gồm cả vi khuẩn ở miệng. Nếu hệ miễn dịch đủ mạnh, nó sẽ trấn áp, kìm hãm những nhiễm trùng nặng ở mô thần kinh và não. Bệnh ở răng miệng ngày nay được xem là nhân tố nguy hiểm cho bệnh Alzheimer (mất trí nhớ). Vì vậy gìn giữ răng của bạn có thể gìn giữ trí óc của bạn. Súc dầu giúp bạn việc này. Rất đơn giản mà phòng ngừa được tình trạng lão hóa nhanh theo thời gian. NHIỄM TRÙNG VÀ BỆNH KINH NIÊN
Hệ miễn dịch là sức mạnh chính chống lại nhiễm trùng. Nếu sức khỏe tốt và hệ miễn dịch mạnh, bệnh không thể sống chung với chúng ta. Tuy nhiên nếu bị nha chu hay răng sâu thì đây là môi trường tốt cho vi khuẩn có hại không ngừng đi vào máu. Do đó hệ miễn dịch luôn phải chiến đấu với đoàn quân xâm lược vô số ngày càng tăng. Cộng thêm với stress, ma túy, thuốc lá, rượu...hệ miễn dịch bị áp đảo không đủ sức chống lại nhiễm trùng. Chuyện gì xảy ra thì hẳn là bạn có thể đoán được. Bệnh! Để chống lại nhiễm trùng, hệ miễn dịch sản xuất cytokines gây viêm. Trong thời gian ngắn, viêm có ích trong nhiệm vụ này và vô hại. Tuy nhiên trong trường hợp nhiễm trùng kinh niên, viêm cũng kinh niên và có thể gây hư hại cho các mô, tế bào. Viêm kinh niên có thể làm thay đổi hóa chất trong máu, gây ra hoặc làm gia tăng một số bệnh như ung thư, thiếu máu, nhức nửa đầu, suy thận, lupus, rối loạn hormon, mệt mỏi kinh niên, bệnh gan, vô sinh, v.v... Trụ sinh được dùng để diệt vi khuẩn ở nhiều nơi trong cơ thể, nhưng thường không thành công ở răng sâu. Trụ sinh thường không thể tiến sâu vào bên trong răng hay chỗ nhiễm trùng nằm sâu trong lợi. Vì vậy sau một đợt điều trị bằng trụ sinh làm tạm yên nhiễm trùng, vi khuẩn mới sản sinh từ răng nhiễm trùng lại bùng dậy tấn công đợt khác. Bạn không thể dùng trụ sinh mãi để trị nhiễm trùng liên tiếp, vì biến chứng có hại của trụ sinh, vì khi vi khuẩn lờn thuốc, trụ sinh trở thành vô dụng; và nó chỉ diệt được vi khuẩn mà không diệt được vi rút, nấm. Cho nên tốt nhất là nên súc dầu hàng ngày để bảo vệ sức khỏe.
Chết vì đau răng.
Thông thường những vấn đề về răng như răng sâu hoặc nhức răng không được xem là quan trọng, mặc dù có thể đau đớn khổ sở, chỉ việc đi nha sĩ thì sẽ được giúp giảm đau rất nhanh. Tuy nhiên răng sâu hay viêm lợi không thể xem thường; đó là nhữnh bệnh kinh niên. Chúng có thể là nguồn gốc cho bệnh nhiễm trùng toàn thân hay tình trạng suy thoái có thể dẫn đến tử vong. Thật vậy, một cái răng nhức đơn giản có thể gây ra cái chết. Nếu hệ miễn dịch yếu do thiếu dinh dưỡng , do lối sống không lành mạnh, hậu quả của nhiễm trùng cục bộ có thể bi thảm chết người. Thật hiếm có một giấy khai tử lại ghi rằng nhức răng là nguyên nhân gây cái chết. Mọi lỗi được đổ cho nhiễm trùng chuyển biến đâu đó trên cơ thể. 1- Cậu bé Deamonte Driver 12 tuổi phớt lờ một cái răng đau. Mẹ cậu thì bận rộn việc gia đình với 5 người con. Đi nha sĩ phải chờ lâu quá nên thôi. Một thời gian sau, cái nhức chạy lên đầu, đến khi cậu chịu không nổi thì người mẹ phải chở vào nhà thương cấp cứu ở Southern Maryland Hospital. Deamonte nhức đầu do áp-xe não. Chính nhiễm trùng răng đã gây ra nhiễm trùng não này. Cái răng trở nên bị áp-xe và vi khuẩn vào máu, chạy lên não và gây nhiễm trùng chuyển biến ở não cậu bé. Deamonte trải qua 2 cuộc giải phẫu và nhổ răng nhiễm trùng. Áp-xe não và giải phẫu đã làm suy yếu tay chân phải của cậu. Vài tuần sau, cậu có vẻ hồi phục, thực hành vật lý trị liệu cho tay chân bình thường trở lại. Mặc dù đã hoàn toàn khử trùng hố chân răng và uống trụ sinh, một phần nhiễm trùng vẫn còn lại và tiếp tục lan truyền. Trong vòng vài tuần nhiễm trùng não tái trở lại dữ dội hơn. Cậu được đưa đi cấp cứu, nhưng đã quá trễ. Cái chết của Deamonte được quy cho nhiễm trùng não, nhưng thủ phạm chính là cái răng bị nhiễm trùng. 2- Bệnh viện nhận một người đàn ông 57 tuổi có một cái răng nhức đến phát sốt, làm bị sưng ở má và cổ. Ông bị tiểu đường và xơ gan vì uống rượu quá nhiều. Hệ miễn dịch của ông hiển nhiên làm việc quá sức. Mặc dù được trị liệu bằng thuốc trụ sinh, tình trạng của ông ngày càng tệ hơn. Nhiễm trùng từ răng chạy xuống phổi (sưng phổi), thận và gan. Sau 35 ngày ở bệnh viện bệnh nhân chết vì hư nhiều cơ quan. Trụ sinh đã vô dụng. Nhiễm trùng ở miệng cứ tiếp tục nuôi nhiễm trùng toàn thân cho tới lúc giết ông. Mặc dù cơ thể bị suy nhược do những vấn đề về sức khỏe, cái chết của ông cũng như Deamonte thật sự bởi răng nhiễm trùng gây ra. 3- Một cô 19 tuổi không có vấn đề về sức khỏe trầm trọng đi nhổ một răng bị nhiễm trùng. Chẳng bao lâu sau, cô có triệu chứng đau ngực thắt. Mặc dù bác sĩ cho cô uống trụ sinh trước và sau khi nhổ răng, vi khuẩn từ răng vẫn lan truyền vào tim. 13 ngày sau khi nhổ răng, cô chết vi bệnh nhồi máu cơ tim do hệ quả nhiễm trùng Trong khi hiếm có trường hợp chết vì răng nhiễm trùng, chúng thật sự xảy ra nhiều hơn chúng ta nghĩ. Đa số, chúng không được báo cáo, hoặc không được nhận ra, hoặc đổ lỗi cho nhiễm trùng chuyển biến . Trong hầu hết các trường hợp, bệnh nhân do ăn uống thiếu dinh dưỡng, hệ miễn dịch kém, hoặc có những bệnh làm tình trạng trầm trọng thêm. Nếu một răng nhiễm trùng có thể gây tử vong, thì nó có thể gây nhiều bệnh khác nữa. Ngay cả khi ăn uống đầy đủ và chăm sóc sức khỏe tốt, chúng ta vẫn bị ảnh hưởng bởi sức khỏe của răng mình. ( Vậy lo mà súc dầu sớm đi! Phải không các bạn?)
NHỮNG NGUY HIỂM CHẾT NGƯỜI TRONG KHOA RĂNG LẤY GÂN MÁU RĂNG
Mặc dù răng có vẻ dày đặc và cứng chắc, nhưng thực sự lớp ngà răng có hàng triệu ống li ti cực nhỏ. Những ống này dùng để chuyên chở chất dinh dưỡng từ chân răng và máu vào để nuôi răng. Vi khuẩn cũng thường đi vào những ống này, đặc biệt là khi răng bị sâu. Nằm thật sâu trong những ống đó, thuốc trụ sinh và chất khử trùng dù hiện đại cực mạnh cũng khó tiến tới để tiêu diệt vi khuẩn. Cho nên vi khuẩn vẫn còn nơi ẩn nấp an toàn để sinh sôi nảy nở.
Điều này giải thích được tại sao khi bác sĩ Price lấy răng (đã lấy gân máu) nhổ của các bệnh nhân và cấy vào dưới da thỏ, thì thỏ hình thành cùng loại bệnh như bệnh nhân.
Răng đã lấy gân máu có thể không gây đau nhức, hay ngay cả hình chụp quang tuyến X cho thấy không có dấu hiệu của nhiễm trùng. Tuy nhiên bác sĩ Meinig nói: “ Bất cứ nha sĩ nào cũng biết rằng hình chụp quang tuyến không cho thấy được chính xác nhiễm trùng vẫn còn tồn tại ở trong răng. Nha sĩ khi nhổ những răng đã lấy gân máu thường thấy răng còn nhiễm trùng và mủ chung quanh răng.”
Như vậy nhổ đi răng sâu bệnh ở mức trầm trọng thì an toàn hơn là lấy gân máu rồi trám lại, vì vi khuẩn và độc tố của chúng vẫn còn ở bên trong vô số ống li ti của răng, tạo cho vi khuẩn có cơ hội đi vào máu bạn suốt đời.
Không phải những ai có răng sâu trám cũng có vấn đề về sức khỏe. Bác sĩ Price nhận thấy rằng đối với những người không có vấn đề thì hệ miễn dịch của họ rất tốt có thể chế ngự được vi khuẩn và có khả năng ngăn ngừa nhiễm trùng. Tuy nhiên, khi những người này bị tai nạn, bị cúm, hay stress, hệ miễn dịch phải làm việc quá sức nên suy yếu, cho phép nhiễm trùng xảy ra, dần dần hình thành các thứ bệnh thấp khớp, bệnh tim,...
Một trong những lợi ích của súc dầu theo cách của bác sĩ Fife là giúp ngăn ngừa nhiễm trùng dẫn đến sâu răng. Trong nhiều trường hợp, có thể khử nhiễm trùng và giữ răng lại được.
*Tôi có một răng đã lấy gân máu lúc 30 tuổi. Tôi thường nói với nha sĩ là nó đau nhưng không nha sĩ nào chịu tin tôi. Vào tuổi 55, tôi đi nha sĩ khác và tôi nói là muốn nhổ răng. Răng vừa được nhổ ra, một suối mủ chảy xuống cằm tôi. Ngày hôm sau, cái răng nằm kế răng nhổ bắt đầu hư, rồi cũng được nhổ bỏ . Năm sau lại nhổ một răng khác nữa. Tất cả những răng hư kế tiếp cùng ở chung một chỗ. Tôi đi vài nha sĩ và tất cả đều đề nghị: “Lấy gân máu,” nhưng tôi nói: “Không thể nào.” Tôi muốn biết tại sao răng tôi tiếp tục hư cùng trong một vùng như vậy. Sau cùng tôi khám phá ra là tôi bị nhiễm trùng ở xương hàm. Tôi tìm một nha sĩ nhổ hết răng ở phía nhiễm trùng đó . Xương hàm tôi bị nhiễm trùng do răng lấy gân máu đầu tiên! Alice W.
TRÁM RĂNG AMALGAM
Không như những kim loại khác, thủy ngân là chất lỏng nên hữu dụng cho nhiều mục đích trong kỹ nghệ. Nhưng thủy ngân là một trong những chất độc chết người được biết tới trong khoa học. Chỉ cần thở hơi thủy ngân bốc ra là có thể bị bệnh hay tử vong. Thủy ngân thường đã được dùng như chất tẩy uế hay chất diệt sâu, chuột.
Những năm gần đây kỹ nghệ dùng thủy ngân đã gây ra những vấn đề về nhiễm độc môi sinh. Một trong những vụ nổi tiếng nhất xảy ra ở Minamata, nước Nhật vào thập niên 1950 và những năm đầu 1960. Mọi người gìa hay trẻ đều bị ảnh hưởng. Họ bị những triệu chứng dẫn đến mù, điếc, rối loạn phối hợp, giảm trí năng. Gần 50% người bệnh chết. Sau đó người ta khám phá ra nguyên nhân gây bệnh là do nhiễm độc thủy ngân do ăn cá bị ô nhiễm. Chất thải của kỹ nghệ dùng thủy ngân được xả vào vùng vịnh nơi người dân đánh cá.
Chất kim loại màu bạc dùng trong nghề chữa răng là một hợp chất gồm bạc, thiếc, kẽm, đồng, và thủy ngân. Thủy ngân chiếm 50%. Được gọi là trám amalgam khi dùng hợp chất này.
Tại sao các nha sĩ lại đặt chất cực độc này vào miệng của người ta? Đó là vì chức năng của nó. Amalgam dễ trám khít vào lỗ hổng của răng sâu.
Trước khi khám phá ra thủy ngân amalgam, nha sĩ dùng vàng, nhưng vàng thì đắt lại phải nấu chảy ra và không bám khít cho phần lớn các trường hợp. Thủy ngân thì lỏng nên khi phối hợp với các kim loại khác tạo thành chất dẻo đủ để ấn khít vào lỗ trống của răng. Sau đó amalgam sẽ cứng dần. Sau gần 200 năm, trám thủy ngân vẫn còn được dùng bởi nhiều nha sĩ.
Các nhà nghiên cứu khám phá rằng thủy ngân vẫn tiếp tục bay hơi không ngừng từ trong lỗ trám răng. Một amalgam cũ có thể mất 80-90% lượng thủy ngân. Chất acid trong nước miếng và thức ăn lọc thủy ngân ra khỏi amalgam. Ngay cả nhai kẹo cao su cũng làm tăng sự bay hơi của thủy ngân.
Heintze và đồng nghiệp khám phá rằng vi khuẩn trong miệng biến đổi hơi thủy ngân thành methylmercury , độc hơn thủy ngân và cùng loại với chất đã gây chết người ở Minamata.
Cũng như vi khuẩn ở miệng, thủy ngân có thể lan truyền từ miệng xuống các cơ quan của cơ thể gây ra nhiều loại bệnh.
Theo Huggins, độc tố thủy ngân có thể dẫn đến bệnh tự miễn dịch. Tự miễn dịch là tình trạng mà hệ miễn dịch của mình lại tấn công các mô của mình. Tự miễn dịch liên quan đến những bệnh thông thường như: viêm khớp dạng thấp, lupus, tiểu đường, viêm thận-tiểu cầu, bướu cổ, bệnh nhuợc cơ nặng, ...
Lấy amalgam ra khỏi miệng sẽ giảm gánh nặng của hệ miễn dịch. Trong nhiều trường hợp bệnh nhân báo cáo những hồi phục kỳ lạ .
*Vợ bác sĩ Fife, Leslie, bị nhức nửa đầu mãn tính trong nhiều năm. Không thuốc nào có thể giảm đau. Những cơn nhức đầu dai dẵng hàng giờ, làm bà kiệt sức. Sau khi lấy amalgam ra, bà hết nhức đầu gần như tức khắc. Đến nay đã được 10 năm, cơn nhức đầu đã không bao giờ trở lại.
*Frank, một kỹ sư 61 tuổi, bị nấm eczema nặng, loét dạ dày, nhiễm trùng tai cứ tái đi tái lại, nhức đầu mãn tính, đau lưng và khớp xương, tay phải và chân trái run rẩy, thỉnh thoảng tức ngực, rối loạn nhịp tim, thiếu tập trung, và dễ nóng giận. Ông có 6 răng trám amalgam, và hai chỗ răng bắc cầu bằng kền/sứ. Sau khi xem bệnh lý của ông, nha sĩ đề nghị lấy amalgam ra và thay răng bắc cầu bằng vàng và sứ. Làm răng xong, vài ngày sau ông thấy sức khỏe khá hơn. Vài tuần sau nữa ông cho biết tất cả các triệu chứng giảm đáng kể, trừ cái lưng đau và eczema đã tăng cường độ trong thời gian ngắn trước khi giảm bớt. Sau vài tháng , ông khỏi hết mọi bệnh, kể cả eczema và nhiễm trùng tai.
Bạn không bao giờ nên để nha sĩ trám amalgam. Có nhiều loại trám bằng nhựa composite sẵn có khác an toàn hơn.
VẬT LI ỆU NHA KHOA
Nhiều kim loại được dùng trong kỹ nghệ làm răng, có loại tốt, có loại có hại. Vàng được xem là tốt hơn các kim loại khác. Khi làm răng, cần chắc chắn là được dùng chung loại kim loại cho các răng khác nhau.
Hai kim loại khác nhau có thể phát điện, phóng thích những ion kim loại trong miệng của bạn. Do đó sự phóng thích những kim loại có hại này như thủy ngân, mạ kền, và đồng tăng cao thêm. Nếu răng trám bằng amalgam rồi được bịt vàng ( hai kim loại khác nhau) sẽ kích thích sự phóng thích thủy ngân. Nếu dùng kền (nickel) thì càng có hại hơn mà kền lại được dùng nhiều cho răng bịt , răng bắc cầu, và răng niềng.
Dùng vàng và nhựa composite khi làm răng là tốt nhất.
Nếu bạn muốn lấy trám amalgam ra khỏi răng, bạn phải đến một nha sĩ giỏi, có kinh nghiệm, chuyên làm việc này. Vì khi nha sĩ dũa lấy amalgam ra, thủy ngân sẽ bay hơi và bụi của nó vào không khí cũng như vào mũi của bạn. Chất độc thủy ngân ngấm vào cơ thể sẽ gây nhiều vấn đề cho sức khỏe còn tệ hơn là bạn cứ để yên như trước.
KEM ĐÁNH RĂNG VÀ NƯỚC CÓ CHẤT FLUORIDE
Nha sĩ dùng fluoride trong việc trị liệu. Kem đánh răng, vài loại nước súc miệng, ngay cả nước uống ở nhà chứa chất fluoride.
Fluoride dùng làm chất hữu hiệu trong thuốc diệt chuột và gián.
Vậy fluoride là chất độc, độc hơn cả chì nữa. Vì thế mà cơ quan quản lý về thuốc và thực phẩm (FDA) bắt buộc phải ghi chữ cảnh báo : “Giữ xa tầm với của trẻ em dưới 6 tuổi” trên các hộp kem đánh răng có chứa fluoride, và nếu bé lỡ nuốt kem với số lượng nhiều hơn hột đậu thì phải đi bác sĩ hay liên lạc với Trung Tâm Chế Ngự Chất Độc ngay.
Vậy tại sao bạn lại dùng hơn một hạt đậu kem đánh răng có fluoride để đánh răng hàng ngày? Nếu nó ngấm vào màng nhày trong miệng thì có độc như nuốt vào bụng không?
Độc như vậy, tại sao nó lại được bỏ vào nước dùng hàng ngày của chúng ta? Đó là vì lợi nhuận của các hãng sản xuất nhôm, sắt, xi măng và phân bón phosphate. Fluoride là sản phẩm phụ của các hãng sản xuất này. Bán càng nhiều fluoride, nhà sản xuất càng có lợi thêm. Họ tìm thị trường tiêu thụ. Trong những năm của thập 1930, các nhà nghiên cứu của công ty Alcoa Aluminium đề nghị rằng một phần triệu (1ppm) fluoride hòa tan trong nước sẽ giảm sâu răng. Những người vận động ở hành lang nghị viện của Alcoa và bạn bè trong chính phủ đã tiến hành việc cho fluoride vào nước uống công cộng năm 1945.
Men răng của chúng ta được cấu tạo phần chính là calcium carbonate. Khi men răng bị tróc ra, fluoride ngấm trực tiếp vào men răng hình thành calcium fluoride. Bác sĩ George Meinig nói: “Bạn được hướng dẫn để tin rằng fluoride làm răng cứng hơn, nhưng thật ra nó làm răng mềm hơn”. Vì cấu trúc của calcium fluoride không cứng như calcium carbonate. Những nghiên cứu gần đây cho thấy việc dùng fluoride để ngừa sâu răng rất ít.
Fluoride là chất có hại cho mọi dạng của sự sống ngay cả với liều lượng rất nhỏ. Những nghiên cứu chứng minh fluoride có hại cho sức khỏe ở mức độ một phần triệu =1ppm trong nước. Bạn hãy đọc những con số sau để xem mình có đang bị nhiễm độc fluoride không. Trong nước chúng ta dùng hàng ngày chứa 1,5ppm. Kem đánh răng chứa 1.500ppm. Trị liệu trong phòng nha sĩ chứa 10.000ppm đến 20.000ppm. Bên Âu Châu, các nha sĩ đã cải tiến kỹ thuật, không dùng fluoride từ năm 1970.
Uống nước có fluoride không chỉ làm tổn thương răng (đổi màu, mục răng) mà còn làm xương dễ gẫy nữa, đặc biệt là ở những người già. Fluoride gây bệnh xương, hủy hại cơ xương , hạn chế cử động khớp, thoái hóa cột sống, vôi hóa các dây chằng, và hủy hoại thần kinh. Fluoride còn làm thay đổi hoạt động của tuyến nội tiết, đặc biệt là tuyến giáp trạng. Fluoride gây ung thư, giảm trí nhớ của các trẻ em, và có liên quan đến bệnh Azheimer. Fluoride làm nhiễm độc trên 100 enzymes trong cơ thể, ...
Thật trớ trêu thay, fluoride được dùng để giảm sâu răng, nhưng lại có thể gây viêm lợi. Fluoride trong kem đánh răng, nước xúc miệng, nước dùng hàng ngày góp phần trong việc hình thành cao răng làm hư lợi, nuôi dưỡng vi khuẩn, và kích thích viêm mãn tính dẫn đến viêm lợi.
Với tất cả những nguy hiểm liên quan đến fluoride, cách tốt nhất là không dùng nước và kem đánh răng có fluoride. Bạn có thể dùng dụng cụ lọc nước có lọc chất fluoride cho việc ăn uống hàng ngày.
Cách làm kem đánh răng không có fluoride: - 1 muỗng canh baking soda - 1 muỗng canh vegetable glycerin - 2-4 giọt bạc hà hay dầu quế - nửa muỗng cà phê xylitol (tùy ý) Trộn đều hỗn hợp trên là bạn có kem đánh răng an toàn đủ để một người dùng trong 3 tuần. 2. SÚC MIỆNG BẰNG DẦU ĂN: LI ỆU PHÁP CHỮA BỆNH VÀ PHÒNG BỆNH TUYỆT VỜI Hàm răng của chúng ta tồn tại cả cuộc đời, và nó sẽ như vậy nếu như chúng ta biết chăm sóc đúng cách. Từ thủa xa xưa, chúng ta đã được dạy về tầm quan trọng của vệ sinh răng miệng và được hướng dẫn cách chải răng và xỉa răng mỗi ngày. Tuy nhiên, đa số chúng ta chưa ý thức được tầm quan trọng của việc vệ sinh răng miệng đối với sức khỏe của toàn cơ thể. Cho dù đã chải răng, xỉa răng và khám nha sĩ đều đặn, sức khỏe răng miệng của chúng ta nhìn chung vẫn chưa phải là toàn hảo. Vâng, có thể là chúng ta có một nụ cười tươi tắn, với hàm răng trắng bóng và đều đặn, nhưng vẻ bề ngoài có thể đánh lừa chúng ta. Nhờ vào những tiến bộ kì diệu của nha khoa hiện đại, miệng chúng ta trông có thể khỏe mạnh đấy, nhưng phía sau hàm răng trắng như ngọc trai ấy vẫn ngầm chứa những chất thải độc hại. Bệnh về lợi và sâu răng hiện nay rất phổ biến, hơn chúng ta tưởng rất nhiều. Những con số thống kê của Hoa-kỳ cho thấy, cho đến tuổi mười bảy, 60 phần trăm dân số đã có dấu hiệu bệnh về lợi; và tới lứa tuổi 50 thì có đến 80 phần trăm dân số bị bệnh này, trong đó một phân nửa có tính cách nghiêm trọng. Sức khỏe răng miệng của người dân rất kém, đến độ tới lứa tuổi 65 thì cứ ba người lại có một người rụng hết răng. Còn riêng bạn, khi bạn được 65 tuổi thì liệu bạn còn bao nhiêu cái răng trong miệng? Dù bạn có chăm sóc răng miệng đến đâu, và răng bạn trông đẹp như thế nào, thì vẫn có thể bạn - ở một mức độ nào đó – bạn đang bị bệnh về lợi hoặc sâu răng. Không cần phải sâu răng hay sưng răng thì vi trùng mới xâm nhập vào các bộ phận khác của cơ thể. Vi trùng ngay trong miệng có thể lây lan qua bất cứ hoạt động nào liên quan đến răng, kể cả chải răng. Khi lợi bị viêm, nó dễ bị chảy máu, và những sợi của bàn chải, cho dù là mềm nhất, cũng có thể làm rách những mạch máu nhỏ của lợi, khiến cho vi trùng thoải mái xâm nhập vào đường tuần hoàn máu. Những phương pháp truyền thống về vệ sinh răng miệng đã tỏ ra chưa đủ, như đã được chứng minh qua tỉ lệ mắc bệnh nha chu (90%), và tỉ lệ ngày càng tăng về các bệnh mang tính cách hệ thống có liên quan đến răng miệng như bệnh tim, phong thấp, thấp khớp…Liệu pháp súc miệng bằng dầu ăn là một phương pháp hữu hiệu tuyệt vời, giúp giảm số lượng vi khuẩn trong miệng và cải thiện sức khỏe răng miệng. CÁC BƯỚC TRONG LIỆU PHÁP SÚC MIỆNG BẰNG DẦU ĂN Việc thực hiện liệu pháp súc miệng bằng dầu ăn rất đơn giản. Bạn chỉ cần một muỗng canh dầu thực vật và sục sục trong miệng. Tôi khuyên bạn nên dùng dầu dừa. Dùng hai tới ba muỗng cà phê dầu (1 teaspoon= 5ml), nhiều ít sao cho thấy súc miệng thoải mái là được. Ba muỗng cà phê có thể là hơi nhiều đối với một số người, và như vậy đối với họ hai muỗng là vừa. Có thể bạn không nên ngậm quá nhiều, vì còn phải chừa chỗ cho nước bọt tiết ra nữa. Hai môi phải luôn ngậm lại, và làm lưu chuyển dầu trong miệng: sục sục, đẩy tới, nút dầu qua các kẽ răng, trên các bề mặt của miệng. Cứ thư thả giữ cho dầu và nước miếng hòa trộn trong khoảng thời gian tối đa 15-20 phút. Có vẻ như là hơi lâu, nhưng bạn cứ vừa súc dầu vừa làm một công việc gì khác thì bạn sẽ thấy 15-20 phút trôi qua lúc nào không biết. Có vẻ như bạn súc dầu càng lâu, thì càng có hiệu quả. Có người tự quan sát thấy rằng, nếu súc dầu đủ 20 phút thì một số vấn đề nào đó về sức khỏe tự nhiên biến mất, nhưng nếu giảm thời lượng còn ít hơn 10 phút thì các hiện tượng đó lại tái phát. Nhưng tuyệt đối không được khạc trong họng, vì bạn sẽ dễ bị nuốt luôn cả dầu, kết quả là bạn sẽ khạc ra dầu hoặc sẽ nôn ra hết. Cũng không được nuốt luôn dầu, vì trong đó đầy vi khuẩn và chất độc hại. Tất nhiên là bạn không muốn những thứ đó lọt vào dạ dày của bạn. Nhưng nếu như bạn có nuốt một ít trong khi súc dầu, khi cũng không nên lo lắng lắm – nó không làm bạn chết được đâu; nhưng tránh được thì vẫn tốt hơn. Trong lúc bạn súc dầu thì miệng của bạn vẫn tiết ra nước miếng. Nước miếng sẽ hòa lẫn với dầu và biến nó thành một hỗn hợp có mầu trắng sữa. Nếu như dầu sau khi súc không có mầu trắng sữa này thì có nghĩa là bạn chưa súc kỹ lắm. Nói chung, chỉ cần vài phút súc dầu cho mạnh, thì sẽ làm biến đổi màu của dầu. Đôi khi có chất nhờn đọng lại phía sau cuống họng. Tất nhiên bạn không muốn bị ngộp thở, cho nên nếu cần, bạn nhổ dầu ra và khạc cho hết chất nhờn trong họng. Sau đó lại lấy miếng dầu khác và tiếp tục súc. Không cần phải làm lại từ đầu mà chỉ cần tiếp tục cho đủ thời gian còn lại. Trong trường hợp nước miếng làm đầy miệng, bạn có thể nhổ ra hết và súc dầu mới, hoặc chỉ nhổ ra một phần rồi tiếp tục. Dù làm cách nào đi nữa, cũng chỉ súc dầu trong thời gian tổng cộng là 15-20 phút mà thôi. Cũng có một số người phải nhổ ra một lần, thậm chí hai lần trước khi hết 20 phút. Nhưng điều đó cũng không sao. Khi nhổ dầu, nên nhổ vào thùng rác hoặc bịch ny-lông. Tôi nghĩ các bạn không nên nhổ vào bồn nước rửa chén hoặc vào bồn cầu, vì lâu ngày sẽ làm cho bồn nước hoặc bồn cầu bị nghẹt. Sau khi nhổ dầu ra, bạn hãy súc miệng lại bằng nước cho sạch. Có thể bạn sẽ cảm thấy miệng và họng bị khô, nếu vậy hãy uống một ngụm nước. Bạn có thể súc dầu vào bất cứ lúc nào trong ngày. Thông thường, bạn nên súc dầu ít nhất một lần vào buổi sáng trước bữa điểm tâm. Việc súc dầu nên thực hiện lúc bụng đói, đặc biệt đối với những người mới bắt đầu thực hiện liệu pháp này. Có người gặp khó khăn trong việc đưa dầu và miệng vì cảm thấy dị ứng, khó chịu với mùi vị của dầu. Lúc súc dầu, họ có thể có cảm giác nhợn nhợn, buồn nôn, thậm chí ói mửa; trong trường hợp này thì rõ ràng cái bụng no thật bất tiện. Sau vài ngày có kinh nghiệm, việc súc dầu sẽ không còn gây khó chịu cho bạn nữa. Đa số khuyên nên súc dầu trước khi ăn hoặc trong lúc bụng đói (ít nhất 3,4 tiếng sau khi ăn). Điều này quan trọng nếu như bạn là người mới bắt đầu. Một khi bạn đã quen thuộc với việc súc dầu và cảm thấy thoải mái, bạn có thể làm bất cứ lúc nào, thậm chí ngay cả sau khi ăn. Lý do khiến người ta khuyên không nên súc dầu quá sớm sau khi ăn, là vì lúc bụng no chúng ta dễ bị cảm giác buồn nôn. Một lý do khác nữa là lượng vi khuẩn ở mức cao nhất ngay trước khi ăn, và ở mức thấp nhất ngay sau khi ăn. Vì khi bạn ăn, rất nhiều vi khuẩn cũng bị suy yếu và nuốt trôi đi cùng thức ăn. Bạn sẽ tiêu diệt được nhiều vi khuẩn hơn, nếu bạn súc dầu trước bữa ăn. Bạn có thể uống một chút nước trước khi súc dầu. Điều đó cũng nên làm, đặc biệt khi bạn bị khô miệng, hoặc cơ thể bị mất nước. Cơ thể bạn cũng cần có nước để sản xuất ra nước miếng, là thứ cần thiết trong quá trình súc dầu. Nước miếng giúp loại bỏ hoặc chiến đấu với vi khuẩn và giúp cân bằng độ pH. Tóm lại, các bước súc dầu như sau:
Hãy tạo cho mình một thói quen súc miệng bằng dầu tại một thời điểm nhất định trong ngày, thường là ngay sau khi thức dậy vào buổi sáng trước điểm tâm. Trong khi súc miệng có thể làm những công việc khác để tận dụng thời gian, như thay quần áo, tắm, cạo râu, trang điểm, chuẩn bị bữa điểm tâm, đọc báo… Nếu bạn có bị nhiễm trùng miệng hoặc một vấn đề về sức khỏe, bạn có thể súc dầu hai, ba, hoặc nhiều lần hơn nữa, để đẩy nhanh tiến trình chữa bệnh. Súc dầu ngay trước các bữa ăn là lúc thuận tiện nhất, vì bạn sẽ không bị quên. Ban đầu có vẻ khó súc dầu trong 20 phút. Lúc tôi mới thực hiện việc súc dầu, tôi không làm được tới vài lần. Nó cứ như có đờm bám vào cổ họng, khiến tôi bị ho, nhảy mũi, nhợn nhợn muốn ói, trước khi kịp chạy tới thùng rác. Điều này hơi phiền phức. Tôi nghĩ ra cách là luôn để một cái ly bên cạnh, hoặc đứng gần thùng rác để lỡ có ói thì vẫn kịp nhổ ra. Bây giờ thì tôi đã quen với cái miệng đầy dầu, mà vẫn có thể ho, hắng giọng, nhảy mũi mà không phải nhả dầu ra. Trẻ em cỡ từ năm tuổi trở lên đã có thể súc miệng bằng dầu. Tùy vào độ tuổi, cho chúng từ 1 đến hai muỗng cà phê dầu, hoặc một lượng nào đó miễn là chúng cảm thấy thoải mái. Vì khả năng tập trung của trẻ có giới hạn, nên chỉ cho trẻ súc dầu khoảng từ 3-5 phút. Nên dùng dầu có pha một hương vị nào đó thì dễ cho trẻ hơn. Hãy bảo đảm là đừng để cho chúng khạc nhổ dầu lung tung hoặc nuốt vào trong họng, và cùng nên lưu ý là những dầu có hương vị dễ chịu có thể làm chúng nuốt luôn. DẦU NÀO LÀ TỐT NHẤT ?
Bác sĩ F. Karach có nhắc tới dầu hạt hướng dương. Y khoa truyền thống Ấn Độ lại khuyến khích dùng dầu mè. Những loại dầu này thường được chọn, rõ ràng là vì nó là thứ rất phổ biến tại Ấn độ, nơi phát sinh nền y học Ấn Độ (Ayurvenic). Hai loại dầu này đều có tác dụng tốt, nhưng hầu như bất cứ loại dầu nào cũng có thể dùng được.
Có một số người cho rằng – mặc dầu chưa được kiểm chứng – bạn phải dùng, hoặc dầu hoa hướng dương, hoặc dầu mè, hoặc dầu phải tinh luyện (refined) hoặc hữu cơ (organic) hoặc ép lạnh (cold pressed), v.v…Sự thật là dầu nào cũng có tác dụng, và người ta đã đạt kết quả tốt khi sử dụng các loại dầu khác nhau, kể cả dầu ô-liu, dầu đậu phọng, dầu dừa, dầu mù-tạt, và thậm chí sữa nguyên chất (whole milk). Tất cả các loại này đều tốt cả, dù là hữu cơ hay không phải là hữu cơ, tinh luyện hay không tinh luyện.
Riêng tôi, tôi lại thích dùng dầu dừa, hoặc nguyên chất, hoặc tinh luyện. Dầu tinh luyện thì rẻ hơn, kinh tế hơn. Riêng tôi, tôi chọn dầu nào tốt hơn cho sức khỏe, và cho tới hiện tại thì dầu dừa tốt hơn dầu hạt hướng dương, hơn dầu mè, hoặc bất cứ dầu thực vật nào khác. Tôi cũng chọn một loại dầu có mùi vị dịu hơn, và đó cũng là lý do Bác sĩ Karach đề cập đến dầu hoa hướng dương tinh luyện. Một số nhãn hiệu dầu ô-liu như dầu ô-liu nguyên chất (virgin) hoặc dầu mè có mùi rất nồng. Một số nhãn hiệu dầu dừa cũng nồng, nhưng đó là do tác động của tiến trình sản xuất. Một nhãn hiệu dầu dừa nguyên chất tốt có vị dịu, dễ chịu và dầu dừa chế biến cơ bản không có vị.
Nếu bạn không quen lắm với việc sử dụng dầu dừa, bạn có thể sẽ ngạc nhiên khi khám phá ra rằng ở nhiệt độ trong phòng, nó có thể ở dạng lỏng hoặc đặc. Dầu dừa thường có nhiệt độ nóng chảy cao. Ở 76 độ F hay 24 độ C hoặc cao hơn, nó là chất lỏng, giống như bất cứ loại dầu nào khác. Dưới nhiệt độ này nó sẽ đặc lại. Dầu ô-liu ở nhiệt độ trong phòng sẽ là chất lỏng, nhưng nếu bỏ trong tủ lạnh, nó sẽ là chất rắn.
Tôi luôn để ở quầy trong bếp một hũ dầu dừa. Suốt mùa hè, nó là chất lỏng, nhưng sang mùa đông nó đặc cứng lại. Khi tôi muốn súc dầu, tôi lấy một muỗng bỏ vào ly rồi đặt trong lò độ một phút và nó nóng chảy ngay.
CHUYỆN GÌ XẢY RA KHI BẠN BẮT ĐẦU SÚC DẦU.
PHẢN ỨNG HỒI PHỤC (HEALING CRISIS): Miệng của chúng ta là nguồn của vô số vi khuẩn, và những vi khuẩn này cuối cùng sẽ tìm đường đi vào phần còn lại của cơ thể chúng ta. Hệ miễn dịch của chúng ta có thể bị quá tải, khi phải trường kỳ chiến đấu với những tên xâm lăng này. Khi bạn bắt đầu liệu pháp súc miệng bằng dầu, bạn tấn công sào huyệt của những tên vi khuẩn xâm lược này, làm giảm rất nhiều quân số của chúng. Việc này giúp tháo gỡ rất nhiều sức ép đè nặng trên hệ miễn dịch, và có thể nói là giải phóng nó, để nó có thể tập trung vào việc dọn sạch căn nhà cơ thể -- tẩy độc và chữa lành cơ thể. Hệ miễn dịch này có thể loại trừ chất độc hại và những chất cặn bã đã tích tụ và tác động tới sức khỏe chúng ta trong nhiều năm đã qua. Súc miệng bằng dầu có tác động tẩy độc mạnh mẽ. Ngay lần súc dầu đầu tiên bạn cũng có thể cảm nhận được tác động thanh lọc này. Vài tuần lễ đầu là khoảng thời gian sự thanh lọc diễn ra gay cấn nhất. Điều này cũng hợp lý thôi, vì thời kỳ đầu, còn nhiều vi sinh tích tụ và chất độc hại bám dính vào miệng, họng và các xoang. Do đó bạn cũng dễ bị buồn nôn, và trong trường hợp này, bạn có thể phải nhổ dầu ra sau vài phút vì chất nhờn trong họng có thể khiến bạn bị sặc. Bạn cứ nhổ dầu ra, khạc đờm trong họng, rồi lấy dầu khác mà súc trong tổng cộng 15-20 phút. Sau khi súc dầu, các chất nhờn có thể sẽ tiếp tục thoát ra từ họng và các xoang trong ngày. Bạn sẽ có cảm giác như bị cảm cúm và viêm họng. Xin đừng lo, bạn không bị bệnh đâu. Cơ thể bạn chỉ đang bắt đầu tiến trình thanh lọc mà thôi – qua liệu pháp súc miệng bằng dầu. Khi cơ thể tẩy độc, bạn có thể sẽ gặp những triệu chứng như buồn nôn, ói, chảy nước mũi, tiêu chảy, thương tổn da, đau nhức, sốt, bồn chồn, mệt mỏi, v.v…Những vấn đề về sức khỏe đang bị cũng có vẻ trở nên trầm trọng hơn trong một thời gian, như đau nhức khớp xương, mất ngủ, bệnh vảy nến. Nhưng tiến trình tẩy độc như thế thông thường chỉ mất có vài ngày hoặc nhiều lắm là vài tuần lễ. Chúng ta cứ yên tâm để hoạt động đó xảy ra, và không nên làm gián đoạn, nghĩa là vẫn tiếp tục súc dầu và không nên dùng thuốc để điều trị những triệu chứng đó. Thảo dược và vitamin thì được, vì chúng không can thiệp vào tiến trình tẩy độc. Thuốc tây, nhìn chung, là những hóa chất lạ đối với cơ thể, chỉ tạo thêm gánh nặng cho hệ miễn dịch, qua những chất cặn bã và chất thải. Chúng có thể làm chậm, thậm chí cản trở tiến trình tẩy độc. Khi những phản ứng tẩy độc diễn ra, chúng ta gọi nó là phản ứng hồi phục. Nó được gọi là phản ứng bởi vì các triệu chứng này có thể không dễ chịu. Phản ứng hồi phục là một điều tốt, vì điều đó báo hiệu cơ thể đang tự điểu chỉnh. Nếu trong trường hợp này, bạn dùng thuốc để điều trị, thì tiến trình tẩy độc sẽ chấm dứt. Chẳng hạn, nếu bạn bị chảy nước mũi, và dùng thuốc để chặn nó lại. Điều gì sẽ xảy ra: chất độc không còn có thể theo nước mũi tống ra ngoài được nữa, không còn lối thoát, và vẫn còn kẹt lại trong cơ thể, trong các mô. Các triệu chứng kèm theo việc súc dầu của mỗi người mỗi khác. Một người có thể bị nghẹt mũi, nhức đầu; người khác có thể bị nổi mẩn ngứa ngáy; người khác có thể không thấy có triệu chứng gì quan sát được khiến cho bạn không biết mình mang triệu chứng gì. Tất cả chúng ta đều có cấu trúc di truyền khác nhau, chế độ ăn uống, lối sống…khác nhau, cho nên cơ thể chúng ta cũng phản ứng khác biệt đối với bất cứ chương trình tẩy độc nào. Không phải ai cũng trải qua những triệu chứng khó chịu. Thông thường triệu chứng dễ thấy nhất là chảy nước mũi trong khi súc dầu. Theo thời gian, khi cơ thể trở nên sạch hơn, khỏe mạnh hơn, thì những triệu chứng này sẽ dần dần biến mất. Một số người khi gặp các phản ứng hồi phục này, thì bối rối sợ hãi. Họ tưởng rằng mình không hợp với liệu pháp súc dầu này, và nó làm cho bệnh. Khi họ ngưng súc dầu thì các triệu chứng cũng biến mất. Họ nghĩ như vậy là súc dầu đã gây nguy hại cho mình. Họ tuyên bố là liệu pháp súc dầu không hợp cho họ, hoặc thậm chí gây nguy hại. Cho nên khi bắt đầu sử dụng liệu pháp súc miệng bằng dầu, bạn phải ý thức rằng bạn có thể gặp những triệu chứng khó chịu. Súc dầu thực vật trong miệng không hề nguy hiểm cho sức khỏe. Đó là liệu pháp lành tính nhất, mà lại hiệu quả nhất, một phương pháp thanh lọc, tẩy độc tự nhiên. Để hiểu thêm về phản ứng hồi phục, cách phân biệt nó với phản ứng bệnh, phải làm gì và không nên làm gì lúc gặp phản ứng hồi phục, các bạn có thể đọc thêm cuốn Phản Ứng Hồi Phục (The Healing Crisis ) của bác sĩ Bruce Fife . LUNG LAY VẾT TRÁM RĂNG Có một số người sử dụng liệu pháp súc dầu đã cho biết việc súc dầu đã làm lung lay những vết trám răng. Những động tác súc, nút, có thể làm lỏng những vết trám. Điều này nghe có vẻ tồi tệ, nhưng không phải như vậy. Nếu như súc dầu mà làm lung lay vết trám răng, thì có nghĩa là vết trám này sắp sửa lung lay rồi, và như vậy cần phải sớm lấy ra. Điều gì đã khiến nó bị lung lay? Hoặc là do nha sĩ trám răng không tốt, hoặc do sâu răng kéo dài. Trong cả hai trường hợp, cách tốt nhất là đi trám răng lại. Vết trám quá lâu rồi thì không nói làm gì, ngay cả những vết trám mới cũng có thể bị lung lay. Nếu điều này xảy ra thì có nghĩa là nha sĩ làm chưa được tốt, vì vết trám không bám chắc vào răng. Theo thời gian vi khuẩn ăn mòn chung quanh và ăn sâu vào chỗ trám, làm răng bị sâu hơn, kết quả cuối cùng có thể là vết trám bị bung ra, hoặc có thể phải nhổ luôn cả cái răng. Nếu bạn có một vết trám rơi ra lúc súc dầu, đặc biệt khi đó là chất amalgam, thì bạn nên mừng, vì đây là dịp để bạn có thể trám răng mới bằng chất composite an toàn hơn. Nếu là vết trám mới thì không nên trở lại nha sĩ cũ, nhưng hãy đi nha sĩ khác. Nếu lần đầu ông ta đã làm không tốt rồi thì có khả năng lần sau làm khó mà tốt được. Hãy tìm một nha sĩ có năng lực hơn. Kết luận, bất cứ vết trám nào lung lay lúc súc dầu thì cần phải thay mới ngay, nếu không nó sẽ gây nhiều vấn đề nghiêm trọng hơn.
SÚC DẦU HOẠT ĐỘNG NHƯ THẾ NÀO?
Súc dầu tuy là một công việc đơn giản, nhưng là một phương pháp điều trị hiệu nghiệm nhất trong các phương pháp điều trị tự nhiên. Đối với một số người thì điều này không thể hiểu nổi. Làm sao mà chỉ cần sục sục ít dầu trong miệng lại, lại có thể chữa được nhiễm trùng và bệnh tật? Súc dầu đã hoạt động thế nào? Làm sao dầu trong miệng lại có thể cải thiện được sức khỏe như vậy?
Bản thân chất dầu không chữa trị bệnh tật được. Chính cơ thể chúng ta làm việc đó. Công việc duy nhất của dầu là cung cấp một phương tiện cho cơ thể tự phục hồi. Cơ thể chúng ta có những cơ cấu tuyệt vời. Trong người chúng ta chứa sẵn khả năng tự chữa lành, từ những trường hợp nhiễm trùng cho đến những căn bệnh nguy hiểm, nếu như nó có được cơ hội. Bằng cách loại bỏ những điều kiện cho bệnh tật phát sinh và hoành hành đồng thời cung cấp cho nó những thứ cần thiết để tái tạo và duy trì sức khỏe tốt, bạn có thể chiến thắng được hầu như mọi bệnh tật.
Liệu pháp súc dầu hoạt động qua việc loại bỏ những tác nhân gây bệnh như những vật vi sinh và các chất độc hại trong miệng. Làm sao súc dầu lại làm nên điều kỳ diệu này? Chẳng có gì là cao siêu cả - chỉ là vấn đề sinh học. Như chúng ta đã biết, đa số các sinh vật vi sinh sống trong miệng là những đơn bào. Những tế bào này được bao phủ bằng một màng chất béo lipid, màng da của tế bào. Ngay cả những màng bao quanh tế bào của chúng ta cũng có thành phần chính yếu là chất béo.
Khi bạn trộn lẫn dầu (chất béo) với nước, điều gì sẽ xảy ra? Không có gì hết, dầu và nước không hòa tan được. Nhưng khi bạn trộn hai chất dầu với nhau, chúng sẽ tan vào nhau. Chúng hấp thụ lẫn nhau. Đây chính là bí mật cúa việc súc dầu chữa bệnh. Khi đưa dầu vào miệng, những màng bao bọc chất béo sẽ bị chất dầu hút vào. Khi ta súc dầu quanh răng và lợi, các vật vi sinh sẽ bị hút vào dầu, như những vụn sắt bị nam châm cực mạnh hút. Vi khuẩn ẩn núp trong những hang hốc, vết nứt vết hở trong răng lợi bị hút ra khỏi nơi ẩn núp và bám vào dung dịch dầu. Bạn càng súc dầu lâu, thì càng nhiều vi khuẩn bị hút đi. Sau hai mươi phút thì dung dịch chứa đầy vi khuẩn, vi siêu vi, và các vật vi sinh khác. Đó là lý do chúng ta phải nhổ dầu đi sau khi súc, chứ không được nuốt vào.
Các mảng thức ăn bị dính vào kẽ răng cũng bị lôi đi. Hầu hết cũng bị thu hút bởi dầu, nếu không cũng bị hút bởi nước miếng (cơ bản là nước). Như vậy, việc súc dầu thực tế đã “lôi cổ” những vật vi sinh và mảng thức ăn ra khỏi miệng. Nước miếng trong miệng cũng có tác dụng chống lại một số vi sinh vật khác và giúp làm cân bằng độ pH. Như vậy mỗi lần súc dầu là bạn đang loại trừ những tác nhân gây bệnh, và tăng cường những tác nhân chữa bệnh. Bớt đi gánh nặng thường xuyên chiến đấu với nhiễm trùng miệng và loại bỏ vi khuẩn và chất độc hại, cơ thể của bạn được rảnh rang hơn để tập trung vào việc tự chữa bệnh. Hết nhiễm trùng, hoạt động của máu trở lại bình thường, các mô được phục hồi, và thế là…hết bệnh.
3. DẦU DỪA CHỮA ĐỦ THỨ BỆNH
1) Chiến đấu với ung thư. Năm 1998, tôi đang làm chủ một hãng computer ở New York. Tôi cũng có một hãng internet ở Phi Luật Tân, và cũng đang điều hành việc kinh doanh internet rất hứng thú ở Á Châu. Dù rất bận và hăng say với công việc, tôi vẫn không quên đi khám sức khỏe tổng quát hàng năm, kể cả chụp tia X ngực (mammogram). Kết qủa tháng 2 năm 1998 cho thấy sức khỏe của tôi không có vấn đề gì cả. Nhưng vài tháng sau tôi bắt đầu thấy một cảm giác lạ ở ngực. Cuối tháng 10 thì thấy đau. Tôi đi bác sĩ thì lập tức được gởi tới bác sĩ về ung thư để xét nghiệm. Bác sĩ cho biết tôi bị ung thư ngực ác tính cần tiến hành giải phẫu gấp. Tôi sửng sốt, tái người! Tại sao? Gia đình tôi không có tiền sử bị ung thư. Có phải do chất thải ô nhiễm ở New Jersey mà tôi đã sống 10 năm qua? Có phải công việc làm tôi bị căng thẳng (stresss) mà tôi không biết? Tại sao người ta bị ung thư? Trước khi cắt bỏ tuyến vú, tôi cố gắng tìm xem có giải pháp nào khác không. Tôi đi một bác sĩ chuyên môn khác nhưng ông nói cùng một lời như bác sĩ trước. Tôi mong gặp một danh y với hy vọng ông nói tôi chỉ cần cắt bỏ một phần tuyến ngực hay chemotherapy. Sau cùng bác sĩ thứ năm nói thẳng với tôi: “Bà không còn chọn lựa nào khác. Ngay cả chúng tôi cũng không biết là có thể cứu được bà hay không nữa. Ung thư ở giai đọan 4, giai đoạn cuối cùng nguy hiểm nhất. Chúng tôi cần giải phẫu ngay lập tức.” Mới tháng 2 không hề có dấu ung thư, 8 tháng sau tôi đứng trước ngưỡng cửa sự chết. Tôi qua cuộc giải phẫu và vài tháng chemotherapy. Tôi phải uống thuốc liên tục sau đó vì gốc ung thư vẫn còn. Tôi quyết định trở về Phi Luật Tân một chuyến. Tôi sở hữu một trang trại dừa để lấy cùi dừa khô làm dầu dừa. Tôi dự định trồng cà phê dưới cây dừa và bắt đầu trồng vườn dược thảo. Năm 2001 tôi bắt đầu bị nhức đầu. Những cơn nhức càng ngày càng nặng đến nỗi tôi có cảm tưởng xương sọ bị nứt. Tôi đến một bác sĩ và yêu cầu được chụp quang tuyến X sọ. “Bà có bị tai nạn gì không?” Bác sĩ hỏi. “Không, Tôi chỉ cảm thấy dường như xương sọ bị nứt.” “Làm sao bà biết bị nứt sọ? Có thể thuốc giảm đau mạnh sẽ giúp bà.” “ Tôi biết nứt xương đau như thế nào mà. Tôi đã có vài xương gẫy và tôi biết nó đau làm sao rồi.” Bác sĩ không tranh luận với tôi nữa và cho tôi chụp quang tuyến. Ngày hôm sau tôi trở lại để nghe kết qủa. Không phải tôi gặp một mà là tám bác sĩ. Họ chưa bao giờ thấy loại ung thư sọ não nào giống như của tôi. Phân nửa sọ của tôi giống như phó mát bị chuột gặm. Thật kinh hãi quá! Tôi hỏi họ tôi có hy vọng sống sót bao nhiêu phần trăm? Bác sĩ trả lời: “Ở Phi Luật Tân thì vô phương, may ra được 2 tháng”. Tôi lập tức bay về Mỹ và đi bác sĩ ngay. Bác sĩ ở Manila đã fax và nói về tình trạng của tôi rồi. Ngày hôm sau tôi gặp bác sĩ giải phẫu thần kinh và được hẹn giờ cho mổ sọ. Bác sĩ làm nhiều xét nghiệm trước giải phẫu: MRI, chụp CT, chụp xương, thử máu, v.v. Họ làm các xét nghiệm y như lần trị ung thư vú ác tính trước. Từ ngực nay nó đã chạy lên sọ của tôi. Giải phẫu được hẹn vào sáng hôm sau. Vùng ung thư chỉ cách mạch máu não một sợi tóc, cho nên bác sĩ không thể lấy hết khối ung thư ra, mà còn chừa lại khoảng 20% ngay sau trung tâm sọ phía trên mạch máu chính. Vì chemotherapy đã không thành công sau giải phẫu ngực, nên càng ít hy vọng hơn cho lần này. Vài tháng sau giải phẫu, tôi trở về trang trại của tôi ở Phi luật Tân để thăm gia đình. Tôi rất yếu, chỉ có thể ngồi trên đồi nhìn các nông dân trồng cây cà phê giữa những hàng dừa. Tôi biết tôi cần phải làm gì đó để tăng cường hệ miễn dịch. Tôi muốn trồng một vườn dược thảo. Tôi bắt đầu tìm kiếm những cây thuốc nào có thể tăng sức đề kháng của tôi. Có thể là sâm hay khổ qua chăng? Tìm kiếm trên internet dẫn tôi đến trang dầu dừa (coconut oil). Tôi đọc về những thử nghiệm của bệnh viện cho bệnh AIDS ở Phi Luật Tân dùng dầu dừa. Tôi nghĩ nếu dầu dừa có thể tăng hệ miễn dịch và chữa bệnh AIDS, thì cũng có thể chữa ung thư. Thế là tôi bắt đầu ăn 3 đến 4 muỗng canh dầu dừa mỗi ngày. Tôi cho dầu dừa vào cháo, vào chocolate nóng, tôi nấu ăn với dầu dừa. Tôi cũng uống nước dừa và ăn cơm dừa nữa. Đến tháng bảy, 6 tháng sau khi rời bệnh viện, bác sĩ của tôi bắt đầu lo lắng. Họ cần quan sát phần ung thư vẫn còn ở trong sọ tôi. Vì vậy tôi bay trở lại Mỹ. Ung thư đã thuyên giảm rõ rệt gây ngạc nhiên sửng sốt cho các bác sĩ. Họ hỏi tôi đã làm gì. Tôi trả lời tôi đã tìm ra phương cách chữa bệnh: dầu dừa. Cho đến nay tôi vẫn dùng dầu dừa và không còn dấu vết của ung thư nữa. Tôi đã lớn lên giữa rừng dừa ở Phi Luật Tân. Bà tôi thường làm dầu dừa cũng như những nông dân khác. Nhưng không bao giờ tôi ăn dầu dừa vì nghe nói nó có chất béo bão hòa (saturate fat), thay vào đó tôi đã dùng dầu đậu nành hay dầu bắp được hydrô hóa. Sống giữa dầu dừa nhưng mãi đến khi bị ung thư 2 lần tiếp giáp cái chết, và đang khi tuyệt vọng tìm kiếm phương cách chữa trị tôi mới phát hiện được giá trị đích thực của dầu dừa kỳ diệu này. Julie Figueroa 2- Bệnh Pakinton (tay chân run rẩy) Cha tôi (85 tuổi) đang bị nhiều bệnh lắm: mất trí nhớ, bệnh Pakinton, và ung thư máu. Chắc chắn cha tôi mắc bệnh Pakinton với các triệu chứng như: run rẩy, đi đứng không vững, khi đi không thẳng người lên được. Khi tôi nói với bác sĩ nhờ ăn dầu đừa, cha tôi đã không còn các triệu chứng trên. Bác sĩ không tin và nói nếu là bệnh Pakinton thì không thể khỏi như vậy. Nhưng trả lời thế nào đây khi cha tôi không ăn dầu dừa thì tay chân bị run trở lại? Donna 3- Bệnh tuyến tiền liệt Tôi bị sưng tuyến tiền (lành tính) đã vài chục năm . 7-8 năm nay tôi khó đi tiểu, phải đi bác sĩ và uống thuốc. Uống thuốc (trong vài năm) thì bị nghẹt mũi, ngưng thuốc thì mũi thông nhưng lại bí tiểu. Lúc đọc trên mạng biết biến chứng của thuốc là khó thở, tôi đổi thuốc, uống Saw Palmetto extract (dược thảo), vì có công dụng như thuốc tây (Proscar). Tôi khám phá kết cấu của acid béo trong Saw Palmetto tương tự như của dầu dừa, ít nhất là vài tính chất chung, nên tôi bỏ Saw Palmetto (vì đắt hơn) mà chỉ dùng dầu dừa . Từ đó đến nay đã 3 năm tôi không bị vấn đề gì khi đi tiểu nữa. Tilka 4- Bệnh AIDS Sau đây là một trong những câu chuyện thành công về anh Tony V., 38 tuổi, nạn nhân của bệnh AIDS. Kinh nghiệm của anh đang đem lại hy vọng cho hàng triệu người bị bệnh AIDS khắp nơi trên thế giới. Cuối thập niên 90 Tony đến Ả-rập Sau-đi làm việc trong nhà hàng và tiệm bán hoa. Chính tại đây anh nhiễm căn bệnh mà anh phải sống với nó cả đời. Trở về nhà ở Phi luật Tân năm 2002, anh đau khổ vô cùng khi biết mình đã bị nhiễm HIV. Theo thời gian, sức khỏe anh suy yếu dần dần. Các loại nhiễm trùng chuyển biến đã tàn phá cơ thể anh. Tháng 7 năm 2003, anh phải vào bệnh viện cấp cứu vì bệnh trở nên trầm trọng. Thuốc anh uống không thể ngăn được sự bành trướng của bệnh. Cơ thể anh đầy những nhiễm trùng nấm và những vùng da thương tổn. Anh bị sụt cân, hay ói mửa và tiêu chảy, kèm theo những cơn sốt, thường xuyên mệt mỏi, bị nấm ở miệng, và còn nhiều loại nhiễm trùng khác nữa kể cả viêm phổi mãn tính với những cơn ho không dứt. Viêm da phủ khắp đầu, mặt và người anh. Bác sĩ chẩn bệnh nói anh đã bị AIDS hoành hành ở giai đoạn cuối, không còn chữa được nữa, và cho anh về sống những ngày cuối cùng với gia đình. Anh rời bệnh viện mang theo toa thuốc để ngăn giữ nhiễm trùng đang tàn phá cơ thể anh. Nhưng vì anh quá đau yếu không thể đi làm, anh không có tiền để mua thuốc. Anh không còn chút hy vọng. “Tôi thấy mình như ngọn nến chập chờn sắp tắt,” anh nói. Không có tiền mua thuốc, anh xin Sở Y Tế giúp đỡ. Anh được giới thiệu tới bác sĩ Conrado Dayrit ở bệnh viện San Lazaro, Phi Luật Tân. Bác sĩ Dayrit là người đầu tiên thực hiện nghiên cứu lâm sàng về hiệu quả chữa bệnh của dầu dừa trên những bệnh nhân nhiễm HIV, tại bệnh viện San Lazaro Phi-luật-tân. Bác sĩ nói với Tony về dược tính của dầu dừa và bảo anh bôi dầu vào những chỗ đau, chỗ da bị viêm 3 lần một ngày cũng như ngày ăn 6 muỗng canh dầu dừa. Thoạt đầu, anh không tin là dầu dừa có thể chữa lành bệnh anh được. Anh có một vết thương nhỏ ở chân đã lâu ngày chữa hoài không khỏi, để thử nghiệm, anh bôi dầu lên đó mỗi ngày. Sau 3 ngày vết thương lành hoàn toàn. Phấn khởi, anh bắt đầu nghiêm túc làm theo lời bác sĩ. Trong thời gian ngắn, thấy có biến chuyển tốt, anh bắt đầu “tắm” bằng dầu. Anh xoa dầu dừa từ đầu đến chân ngày 3 lần. Nhiễm trùng da dần dần biến mất. Khi anh đến bệnh viện để thử máu theo định kỳ, các bác sĩ rất đỗi kinh ngạc. Anh nói: “Tất cả các bác sĩ đều bị kích động và không hiểu sự gì đang xảy ra. Họ hỏi tôi đã uống thuốc gì. Tôi nói với họ là tôi dùng dầu dừa.” Họ không thể tin rằng loại dầu dừa đơn giản như vậy lại có thể diệt vi rút và nhiễm trùng tốt hơn cả thuốc của họ. HIV tấn công tế bào bạch huyết cầu ( tế bào T4) . Tính ác liệt của vi rút có thể được căn cứ trên số tế bào T4 trong cơ thể, ta gọi là số CD4. Trung bình, một người khỏe mạnh có số CD4 từ 535 đến 1145. Người bị nhiễm HIV thường có số CD4 dưới 535. Khi bệnh tăng, con số này tiếp tục giảm xuống. Số CD4 của Tony khi chẩn bệnh là 270. Một năm sau khi anh vào nhà thương cấp cứu thì số này giảm còn 226. Sau khi dùng dầu dừa trong vài tháng, số này tăng lên 274, tuy vẫn còn thấp nhưng cứ đều đặn tăng dần - một dấu hiệu rõ ràng bệnh đã tiến triển tốt. Sức khỏe Tony được hồi phục một cách không ngờ. Da của anh lành hẳn. Những cơn sốt nhẹ và triệu chứng của viêm phổi đã hết. Nấm biến mất. Mệt mỏi rút lui. Tiêu chảy và ói mửa không còn. Nhìn Tony, bạn không thể nghĩ là cách đó vài tháng anh bị bệnh AIDS. Mặc dù anh có thể không bao giờ tẩy trừ hẳn vi rút gây bệnh, nhưng anh vẫn có thể ít nhất sống một đời sống hơn bình thường và tận hưởng niềm vui trong những sinh hoạt hàng ngày. Những nhân viên công tác xã hội và tập thể bệnh viện được tác động bởi tiến triển nhanh chóng của Tony, hiện đang dùng dầu dừa cho chính họ để duy trì và gia tăng sức khỏe. Chưa đầy 9 tháng sau khi tiến hành việc chữa bệnh bằng dầu dừa, Tony đứng trước khán giả, và lần đầu tiên kể về câu chuyện của mình . Anh nói: “ Vi rút HIV cho đến nay vẫn chưa có thuốc nào chữa trị được. Thuốc trụ sinh không chế ngự được chúng, vì vậy bạn tôi nhiều người đã chết. Các bác sĩ hiện giờ không thể dự đoán tôi sẽ sống thêm được bao lâu nữa. Chín tháng trước khi chẩn bệnh cho tôi, bác sĩ đã nói tôi chỉ sống thêm được 3 tháng nữa. Nhưng hôm nay, ở đây, tôi đang đứng trước mặt quý vị, khỏe mạnh. Có thể tôi có một sứ mạng là chia sẻ kinh nghiệm này của tôi với tất cả mọi người mà tôi gặp gỡ. Những người bị HIV/AIDS đang sợ hãi. Các bạn không còn phải sợ nữa. Nhiều năm về trước, bệnh lao là loại bệnh dịch trên thế giới, nhưng dần dần đã tìm được thuốc chữa trị. Đối với HIV, biết đâu chừng dầu dừa lại là giải pháp mà thế giới đang trông đợi. Dầu dừa – Một vũ khí mới chống lại AIDS Theo Tổ chức Y tế Thế Giới, trong năm 2004 có khoảng 4,9 triệu người trên thế giới bị nhiễm siêu vi khuẩn làm suy giảm hệ miễn dịch của con người (HIV), là nguyên nhân gây bệnh AIDS. Năm ngoái, con số mắc bệnh AIDS đã lên tới mức kỉ lục. Ước lượng có tới 39,4 triệu người hiện đang sống chung với HIV. Ở Mỹ mỗi năm lại có thêm 40,000 trường hợp được báo cáo. Vấn đề đối với HIV là, không giống như thuốc kháng sinh có thể diệt trừ vi khuẩn, những thuốc chống siêu vi chỉ có thể làm giảm mức độ trầm trọng của nhiễm trùng, chứ không có thể loại trừ chúng hoàn toàn.HIV tấn công và làm suy yếu hệ miễn nhiễm. Khi khả năng phòng thủ của hệ miễn nhiễm bị suy yếu, các loại vi-rút khác cũng như vi-khuẩn và nấm độc sẽ tận dụng cơ hội này và gây nhiễm trùng cho cơ thể. Loại nhiễm trùng chuyển biến này là nguyên nhân gây nên những nhức nhối, khó chịu, và cuối cùng dẫn đến cái chết của các nạn nhân AIDS. Vì lý do này, bệnh nhân nhiễm HIV cần phải uống một loại thuốc pha trộn gồm nhiều thứ như kháng sinh, kháng vi-rút, chống nấm. Cũng có cả các loại thuốc chống ung thư trong hỗn hợp này, vì hệ thống miễn nhiễm khi bị suy yếu dễ làm phát triển bệnh ung thư. Người ta cũng nhận thấy có cả những phản ứng phụ không tốt.Theo dòng thời gian, y khoa đã tiến những bước dài trong việc điều trị AIDS. Với những phác đồ điều trị và lối sống phù hợp, tuổi thọ của các bệnh nhân nhiễm HIV đã được tăng dần. Các loại thuốc chống vi-rút HIV đã có tác dụng làm chậm quá trình phát triển của bệnh. Nhưng đối với tuyệt đại đa số bệnh nhân nhiễm HIV, giải pháp dùng thuốc này cũng không phải là một lựa chọn hữu hiệu. Chi phí cho việc sử dụng thuốc kiểm soát vi-rút theo kiểu này có thể lên tới 15.000 đô-la Mỹ cho mỗi người trong một năm. Con số này vượt quá khả năng tài chánh của nhiều nạn nhân.Làm sao tìm được một phương pháp điều trị an toàn, hữu hiệu, rẻ tiền, đó mới là cách duy nhất để làm giảm nỗi đau của hàng triệu nạn nhân đang chịu căn bệnh HIV/AIDS dày vò. Cũng may là các nhà nghiên cứu đã tìm ra một giải pháp đầy triển vọng: dùng DẦU DỪA. Mặc dù dầu dừa chưa có vẻ như là một vị anh hùng cứu tinh, nhưng những nghiên cứu gần đây cho thấy nó mang lại nhiều hứa hẹn cho việc điều trị HIV/AIDS.Dầu dừa được cấu tạo bởi một nhóm chất béo đặc biệt mang tên triglycerides chuỗi trung bình: Tctb Khi ăn vào, cơ thể chúng ta biến Tctb thành chất a-xít béo chuỗi trung bình: ABctb và monoglycerides, cả hai chất này có đặc điểm có khả năng chống vi-rút. Những kiến thức về tác dụng của dầu dừa đối với bệnh nhân nhiễm HIV đã từng phổ biến trong cộng đồng bệnh nhân từ khi nhà nghiên cứu xứ Iceland tên Halldor Thormar công bố những nghiên cứu của ông về đề tài này từ đầu thập niên 1990. Kể từ đó, nhiều bệnh nhân nhiễm HIV đã thành công trong việc làm giảm khối lượng vi-rút, và có nhiều cải thiện về sức vể sức khỏe tổng quát, nhờ vào việc thêm dầu dừa hoặc các sản phẩm của dầu dừa vào trong bữa ăn của họ.Những vi-rút nào được bao bọc bởi một màng mỡ, sẽ là những vi-rút rất kỵ tác động diệt trừ của ABctb trong dầu dừa. Khi ABctb tiếp xúc với những vi-rút này, nó sẽ thấm vào màng bên ngoài của vi-rút, làm chúng bị mất ổn định tới mức màng bao bị tan rã, và giết chết vi-rút. Vi-rút HIV có một màng mỏng chất béo bao bọc, do đó sẽ dễ bị tác động hủy hoại của ABctb. Các nghiên cứu đã cho thấy khi ABctb được đưa vào máu và tinh dịch của nạn nhân HIV, vi-rút sẽ bị tiêu diệt ngay. Bác sĩ Thormar và các đồng nghiệp báo cáo rằng ABctb tạo ra chất hydrogel * “và trong ống nghiệm nó có khả năng vô hiệu hóa vi-rút cao tới hơn 100.000 lần, trong một phút.” Các nhà nghiên cứu còn nói thêm rằng, chúng là “những kẻ tiêu diệt các vi-rút truyền qua đường tình dục.”Các nghiên cứu cho thấy ABctb không chỉ hiệu quả trong việc tiêu trừ vi-rút HIV, mà còn cả rất nhiều vi-rút khác có màng bọc chất béo, chẳng hạn các vi-rút gây bệnh sởi, chứng mụn giộp (herpes), viên gan C, chứng viêm miệng, CMV (cytomegalovirus). ABctb cũng có khả năng tiêu diệt các vi khuẩn có màng bao bằng mỡ, cũng như nấm và cả kí sinh trùng. (Chlamydia trachomatis, Neisseria gonorrhoeae, Staphylococcus aureus, Helicobacter pylori, Candida albicans, and giardia)Dầu dừa có công thức cấu tạo căn bản gồm ABctb, và có khả năng làm giảm những nhiễm trùng cơ hội mà các nạn nhân AIDS đều phải gánh chịu. Không như những thuốc hỗn hợp khác dùng trong việc điều trị HIV/AID, dầu dừa thì hoàn toàn vô hại, làm một sản phẩm của tự nhiên đã được sử dụng như một loại thức ăn an toàn hàng ngàn năm nay. Nó cũng không hề có những phản ứng phụ nguy hại.Một số những triệu chứng thường gặp gắn liền với bệnh AIDS, là chứng tiêu chảy kinh niên, kém hấp thụ chất béo, suy dinh dưỡng, sụt cân, suy kiệt, và rất nhiều biến chứng khác do nhiễm trùng chuyển biến. Các cuộc nghiên cứu đã cho thấy có những cải thiện vượt bực về những tình trạng này khi các bệnh nhân được cho ăn dầu dừa hoặc Tctb (triglycerides chuỗi trung bình). Chẳng hạn trường hợp C.A.Wanke và các đồng nghiệp thử nghiệm trên 24 bệnh nhân nhiễm vi-rút HIV đang bị tiêu chảy kinh niên, kém hấp thu chất béo, hoặc suy dinh dưỡng. Các bệnh nhân được chia ngẫu nhiên vào một trong hai nhóm. Tctb được đưa vào khẩu phần của một nhóm. Nhóm kia thì không. Các nhà nghiên cứu báo cáo rằng, những bệnh nhân có ăn chất Tctb giảm đáng kể số lần đi cầu, lượng phân, lượng chất béo trong phân. Điều này cho thấy sự cải thiện rõ rệt trong tình trạng dinh dưỡng. Sự hấp thụ tốt chất dinh dưỡng sẽ dẫn tới sức khỏe và chức năng miễn nhiễm được cải thiện.Tổ chức Keep Hope Alive (Mãi luôn Hy vọng) đã thu thập tài liệu về nhiều trường hợp được báo cáo, có nhiều cải thiện rõ nét sau khi dùng sản phẩm dừa. Trong một số trường hợp, hoàn toàn không còn dấu hiệu nhiễm trùng. Thí dụ, một người có khối lượng vi rút từ 600.000 con, giảm xuống tới mức không tìm ra được nữa, trong vòng hai tháng, nhờ mỗi ngày dùng thêm một chén nước cốt dừa, cùng với ngũ cốc nấu chín, theo một chế độ ăn uống nhiều hoa quả và rau cải tươi . Anh ta không hề đụng tới các loại thuốc chống vi-rút.Trường hợp thứ hai, một bệnh nhân mang lượng vi-rút là 900.000, ăn một nửa trái dừa mỗi ngày. Sau bốn tuần lễ, lượng vi-rút giảm xuống còn 350.000. Sau hai tháng, lượng vi-rút này giữ nguyên như cũ, và bác sĩ đã thêm thuốc Crixivan** vào phác đồ điều trị. Sau bốn tuần lễ, lượng vi-rút xuống tới mức không thể tìm được. Không giống như trường hợp thứ nhất, bệnh nhân thứ hai này là một người Mỹ với chế độ ăn uống tiêu biểu của Mỹ, bao gồm một lượng lớn thức ăn vặt vãnh. Tình trạng của anh còn có thể tiến triển tốt nếu có một chế độ ăn uống tốt hơn.Một trường hợp khác nữa: Một người mỗi ngày dùng một ly cốt dừa, trong vòng bốn tuần lễ. Sau đó số lượng vi-rút HIV trong người anh giảm tư 30.000 còn 7.000. Cả số CD4 và CD8 đều tăng gấp đôi. Anh không hề dùng thuốc kháng vi-rút.Cuộc thí nghiệm lâm sàng đầu tiên sử dụng dừa trong việc điều trị bệnh nhân HIV do bác sĩ y khoa Conrado Dayrit báo cáo vào năm 1999. Trong cuộc nghiên cứu này, 14 bệnh nhân nhiễm HIV được cho dùng mỗi ngày ba muỗng canh dầu dừa hoặc monolaurin (một loại thực phẩm bổ sung chế biến từ dừa). Sáu tháng sau, có 60% số người tham gia chương trình có những dấu hiệu cải thiện. Những dấu hiệu này được đo lường qua số lượng CD4, lượng vi-rút giảm, và sức khỏe tổng quát tốt hơn. Đây là cuộc nghiên cứu đầu tiên cho thấy dầu dừa thực sự có tác dụng chống vi-rút và có thể sử dụng thành công trong việc điều trị cho các bệnh nhân bị nhiễm HIV.Lượng dầu dừa sử dụng cũng quan trọng. Lượng dầu càng cao thì càng hiệu quả trong việc vô hiệu hóa vi-rút và những vật vi sinh gây bệnh. Những đối tượng tham gia cuộc nghiên cứu của Bác sĩ Dayrit chỉ dùng 3 muỗng canh rưỡi mỗi ngày; Tony dùng 6 muỗng. Các tài liệu nghiên cứu các trường hợp dùng dầu dừa kết hợp với những liệu pháp khác cho thấy chế độ ăn uống và lối sống cũng rất quan trọng. Ăn những thức ăn lành mạnh, có lợi cho sức khỏe, và tránh những thức ăn vặt vãnh, giúp tăng cường hệ miễn nhiễm và nâng cao tỉ lệ thành công.Sử dụng nhiều dầu dừa, kết hợp với chế độ ăn uống lành mạnh, có vẻ là một giải pháp điều trị nhiễm HIV, đầy hứa hẹn, an toàn và rẻ tiền.Vì dừa có thể trồng ở bất cứ nơi nào trên thế giới, nơi HIV đang là một vấn đề y tế nghiêm trọng, dùng dầu dừa xem ra lại là một giải pháp khả thi, thú vị, cho bệnh dịch toàn cầu này. ** Liều lượng dùng dầu dừa (Using coconut internally) Liều lượng duy trì hàng ngày (maintenance dose) Một câu hỏi thường được nhiều người đặt ra là “Mỗi ngày chúng ta có thể ăn bao nhiêu dầu dừa?” Câu trả lời đơn giản là: bất cứ số lượng nào mà bạn thấy dễ chịu, phù hợp vói cơ thể của bạn. Ngay cả nửa muỗng cà phê mỗi ngày cũng có thể giúp ích cho bạn. Bạn có thể theo bảng hướng dẫn sau theo sức nặng của bạn:
Cân nặng ( lb / kg ) Muỗng canh dầu dừa 175+ 79+ 4 150 683,5 125 573 100 452,5 75 342 50231,5 25111 Đây chỉ là hướng dẫn chung, chứ không nhất thiết phải dùng đúng số lượng trên. Có nhiều người kinh nghiệm được kết qủa tốt đẹp với chỉ một muỗng canh dầu dừa mỗi ngày. Hãy nhớ là bất cứ liều lượng nào cũng có ích. Tăng lên hay giảm đi một chút giữa ngày này với ngày khác đều được cả. Bạn có thể ăn dầu dừa theo sở thích của bạn. Có người nuốt thẳng luôn một muỗng dầu dừa, có người hòa vào cà phê, trà, nước trái cây, hay thức ăn. Cách dễ nhất là dùng dầu để xào nấu thay cho các loại dầu ăn khác. Tôi cũng đề nghị các bạn không nên ăn số lượng dầu mỗi ngày trong một lần. Chia ra làm nhiều lần trong ngày, hay ít nhất hai lần. Bạn cũng đạt số lượng dầu dừa này qua việc ăn cái dừa và nước cốt dừa. Liều lượng dùng khi chữa bệnh (Therapeutic dose) Trong hầu hết các trường hợp, ngay cả khi bạn bị bệnh, 3 muỗng canh rưỡi dầu dừa mỗi ngày là đủ. Tuy nhiên, tính kháng sinh của ABctb là do tích lũy (accumalative), cho nên càng nhiều ABctb trong cơ thể thì chúng sẽ càng giúp tiêu diệt nhiễm trùng nhanh hơn. Bạn có thể dùng gấp hai lần liều lượng hàng ngày nếu bạn thấy cần thiết. Có bác sĩ đề nghị 6 muỗng canh dầu dừa hay hơn cho người bị bệnh nặng. Đừng dùng liều lượng này trong chỉ một lần. Một muỗng canh dầu dừa mỗi 2 hay 3 tiếng là tốt nhất. Nhiều dầu qúa, bất cứ loại dầu ăn nào, nếu bạn không quen sẽ làm bạn bị tiêu chảy, cho nên chia ra nhiều lần trong ngày và dùng chung với ít thức ăn hay thức uống. Không có gì là nguy hiểm cả khi bạn dùng qúa liều dầu dừa. Dầu dừa là thức ăn chứ không phải là thuốc uống. Đã có nhiều dân cư dùng gấp đôi liều lượng hàng ngày trong nhiều năm mà không bị phản ứng gì cả. Tôi đã từng dùng 14 muỗng mỗi ngày mà không gặp vấn đề gì cả. Nếu bạn dùng nhiều hơn cơ thể bạn có thể kham nổi, thì triệu chứng xấu nhất mà bạn có thể kinh nghiệm đó là đi tiêu chảy hoặc có thể cảm thấy khó chịu trong đường ruột một lúc thôi. Để tránh tình trạng này, chỉ cần giảm lại lượng dầu dừa. Nếu bạn không thể dùng dầu dừa hay ăn uống gì được vì bị buồn nôn hay ói mửa, bạn hãy xoa dầu vào vùng có bệnh đó. Ít nhất cách này bạn có được vài lợi ích từ dầu dừa. Nếu bạn không bị vấn đề gì khi dùng dầu dừa lúc bệnh thì “trong uống ngoài xoa” là cách tận dụng tốt nhất về hiệu năng chữa bệnh của dầu dừa. Như thế bạn được lợi gấp hai lần. DẦU DỪA và CHOLESTEROL Một trong những quan niệm sai lầm lớn nhất về dầu dừa là nó làm cho lượng mỡ trong máu cao. Điều này hoàn toàn sai. Dầu dừa hoàn toàn không chứa cholesterolesterol. Cholesterolesterol được tìm thấy chỉ nơi mỡ của động vật. Dầu dừa là sản phẩm của thực vật nên không có cholesterolesterol. Một quan niệm sai khác nữa là dầu dừa làm tăng cholesterolesterol trong máu nên gây bệnh tim. Ý tưởng về tất cả các chất béo no ( saturated fats) tăng cholesterolesterol thì thật là qúa đơn giản hóa. Không phải mọi chất béo no đều gây cholesterolesterol. Mặc dù acid béo chuỗi trung bình trong dầu dừa la chất béo no, nhưng chúng tốt cho tim và giúp ngăn ngừa bệnh tim. Dầu dừa không gây tác dụng có hại trên mực độ cholesterolesterol. Bạn hãy đợc lại câu trên lần nữa vì nó rất quan trọng cho bạn nắm được ý. Dầu dừa tốt cho tim, hơn bất cứ loại chất béo nào khác. Khi dầu dừa được thêm vào thức ăn thì hiệu qủa về mức độ cholesterolesterol của từng người khác nhau. Có người thấy sự thay đổi chút ít, trong khi người khác kinh nghiệm sự thay đổi đáng kể như những trường hợp ghi chú sau: Tôi có vài băn khoăn về tác dụng của dầu dừa ( tôi nghĩ nó có thể làm tăng mức cholesterol/trigs chăng). Sau một tháng dùng 2 muỗng canh dầu dừa một ngày và sau khi xem xét bảng lipid, không có gì thay đổi cả. Chúng vẫn cùng một kết quả thử máu như một năm trước. Ray L. Bạn có thể thích thú khi biết rằng từ lúc tôi dùng dầu dừa hai năm rưỡi qua, lượng cholesterolesterol đã giảm xuống từ mức nguy hiểm, lượng triglycerids cũng xuống. Tôi đã ngừng uống thuốc cho bệnh tim, giảm 24 kg (53lbs), tóc mọc thêm và tóc bạc đã trở lại màu tóc như trước.Vợ tôi giảm 24 kg, con gái tôi giảm 14 kg. RJ Tôi vừa trở lại từ văn phòng bác sĩ và lượng tổng số cholesterolesterol đã giảm từ 260 xuống 180. Bác sĩ của tôi rất mừng. Tôi đã đến với bà hơn 15 năm qua , mỗi lần có kết qủa thử máu là mỗi lần bà quở tôi: “Vẫn luôn cao như vậy” Tôi đã luôn dùng dầu olive trong nhiều năm, nhưng bắt đầu dùng dầu dừa trong nấu nướng ( chỉ thỉnh thoảng mới dùng dầu olive). Số triglycerided của tôi giảm từ 187 còn 109. SA Tôi 51 tuổi, cao 6 feet ( 1m8), trước khi dùng dầu dừa nặng 221 pounds ( 99kg). Tôi đã thường đi bác sĩ để khám sức khỏe hàng năm. Kết qủa xét nghiệm máu cho biết mức triglycerides là 400, tổng cộng cholesterolesterol là 237, và HDL là 40. Tôi giật mình. Tôi bắt đầu tìm trên internetxem có cách nào giúp cải thiện tình trạng của tôi không, và tôi đã đọc về dầu dừa. Những điều tôi đọc được làm tôi ngạc nhiên vì tôi thường nghe tiếng xấu về dầu dừa cũng như những dầu của vùng nhiệt đới khác. Tôi mua quyển “Dầu Dừa Kỳ Diệu” (The Coconut Oil Miracle) và khám phá ra những tuyệt vời của nó. Tôi không dùng đường chế biến nữa, giảm lượng khoai trắng, giảm ăn bánh mì làm bằng bột mì được tẩy trắng và thay tất cả những loại dầu ăn được hydro hóa bằng dầu dừa. Tôi đã đạt được những kết quả không ngờ. Sau khi theo những hướng dẫn mới này trong 5-6 tuần, tôi đi thử máu lần nữa. Bây giờ tôi cân nặng 197 pounds ( 88kg), triglycerides 85, tổng cộng cholesterolesterol 145, HDL 44. Cám ơn bác sĩ rất nhiều về việc nghiên cứu cũng như bền chí trong việc đưa ra sự thật về những sản phẩm của dừa khi nó đã và có thể vẫn đang chưa được phổ biến. Jeff C. Trong nhiều năm việc đo lượng cholesterol đã trở thành phương tiện giúp cho bác sĩ thẩm định mức độ nguy hiểm của bệnh tim. Trong qúa khứ chỉ có mức tổng số cholesterol là được đo. Dần dần các nhà nghiên cứu khám phá ra rằng HDL mới thực sự tốt cho bạn và giảm nguy hiểm cho bệnh tim. Gần đây nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để đo tiêu chuẩn cholesterol sau khi người ta ăn các loại dầu khác nhau. Các nhà nghiên cứu thấy rằng chất béo không no trong dầu thực vật như dầu đậu nành, dầu cây rum ( safflower), dầu bắp giảm lượng tổng số cholesterol ( total cholesterol ) hơn dầu dừa. Điều này đã được cho là chất béo không no ( polyunsaturated ) của dầu thực vật ngừa bệnh tim trong khi dầu dừa thì không. vấn đề vối những nghiên cứu này là họ chỉ đo lượng tổng số cholesterol , mà bỏ qua lượng HDL ( tốt) cholesterol . Những nghiên cứu mới đã đo phân số cholesterol và tính tỉ số này (tổng số cholesterol / HDL cholesterol). Một khám phá thú vị được tìm ra. Dầu dừa làm tăng HDL cholesterol có liên quan đến LDL ( xấu) và tổng số cholesterol . Mặc dù hầu hết dầu thực vật giảm lượng tổng số cholesterol hơn dầu dừa, nhưng dầu dừa cải thiện tỉ số cholesterol hơn những loại dầu khác! Vì thế, căn cứ trên tỉ số cholesterol , dầu dừa ngăn ngừa bệnh tim hơn bất cứ loại dầu nào khác. Một nghiên cứu thú vị đã được thục hiện ở Sri Lanka, nơi mà dầu dừa thông thường được dùng. Mực cholesterol được đo trên những người hàng ngày vẫn thường dùng dầu dừa trong bữa ăn. Những người này được đổi sang ăn dầu thực vật chất béo không no ( polyunsaturated vegetable oil). Sau vài tuần họ được đo cholesterol. Đây là điều được khám phá. Khi được chuyển từ dầu dừa sang dầu bắp ( corn oil), tổng số cholesterol giảm từ 179,6 xuống 146m/dl LDL (bad) cholesterolgiảm từ 131.6 xuống 100,3mg/dl Hai thay đổi này xem ra tốt, nếu chỉ xem xét riêng chúng, và tỏ dấu rằng dầu bắp vượt xa dầu dừa trong việc ngừa bệnh tim. Tuy nhiên khi HDL ( tốt ) cholesterol được đo, thì nhận định trên hoàn toàn bị đảo ngược. HDL (tốt) cholesterol giảm từ 43,4 xuống 25,4mg/dl là điều không tốt. Tỉ số cholesterol tăng từ 4,14 lên 5,75 là điều chắc chắn không tốt. Cần ghi nhớ rằng tỉ số cholesterol 5,0 là trung bình; lớn hơn 5: xấu; nhỏ hơn 5: tốt. Khi họ ăn dầu dừa, tỉ số cholesterol là 4,14 cho biết tình trạng nguy hiểm thấp Khi họ ăn dầu bắp, tỉ số cholesterol vọt lên 5,75 là dấu nguy hiểm ở mức cao. Do đó cho dù dầu bắp có làm giảm lượng tổng số cholesterol , nó lại làm tăng tỉ số cholesterol , vì thế tăng sự rủi ro cho bệnh tim. Và theo việc nghiên cứu này thì dầu dừa ngừa bệnh tim trong khi dầu bắp lại gia tăng rủi ro này. Tôi cũng nhận thấy rằng khi người ta thêm dầu dừa vào thức ăn của họ thì tổng lượng cholesterol có thể tăng chút ít hay giảm chút đỉnh, nhưng trong trường hợp nào thì HDL (tốt) cholesterol đều tăng, vì vậy làm giảm tỉ số cholesterol và làm giảm rủi ro mắc bệnh tim. Có những người trở nên lo sợ khi thấy sau khi dùng dầu dừa một thời gian, tổng số cholesterol tăng lên. Tại sao vậy? Tôi giải thích cho họ rằng đó là vì HDL cholesterol tăng, do đó tổng số tăng. Hãy nhớ rằng tổng số cholesterol một mình không phải là dấu chỉ của bệnh tim.
Dầu dừa chữa vết thương
Paul Sorse là một người đặc biệt nhất mà tôi đã từng gặp. Tôi bao giờ quên một ngày kia, lúc tôi đang ngồi ăn trưa trong một quán nhỏ của ông ở Newport, Rhode Island, thì một người đàn ông xăm xăm đi vào cửa trước. “Ông Paul đâu ?” Ông ta nhăn nhó la lên trong đau đớn. Miếng vải buộc chặt tay ông đã ướt đầm đìa, và máu đang nhỏ giọt xuống đất. Tôi không thể ăn nổi miếng nào nữa ngay khi ông ta xuất hiện.
Chủ quán là một người Phi luật Tân, dáng hơi nhỏ, từ phòng phía sau bước ra và hỏi: “Anh làm sao vậy ?”
“Tôi bị tai nạn. Máy cắt cỏ vào tay. Ông giúp tôi với.
“Anh vào đây.”
Paul đưa người bị thương vào sau quầy và xem xét vết thương. Phần trên của ngón tay cái lệch về một phía, chỉ dính vào ngón tay nhờ lớp da mỏng. Cũng may là không bị gẫy xương. Paul cầm phần đầu ngón tay này đặt vào đúng vị trí, dùng gạc vải băng ngón tay lại, rồi đổ dầu dừa cho ướt đẫm gạc băng.
“Anh nhớ giữ cho gạc băng luôn thấm dầu dừa. Mấy ngày nữa trở lại gặp tôi.”
Vài tuần sau tôi gặp lại người đàn ông này, vì anh cũng là khách hàng thường xuyên của Paul. Tôi rất đỗi kinh ngạc khi thấy ngón cái của anh đã hoàn toàn lành hẳn, và không để lại vết sẹo.
Những chuyện xảy ra như vậy là chuyện thông thường. Paul có một danh sách dài những khách hàng trung thành đến với ông để tìm lời chỉ bảo cách điều trị cho nhiều vấn đề khác nhau về sức khỏe. Mặc dù ông không phải là thầy thuốc có bằng cấp, nhưng bệnh nhân với mọi vấn đề về sức khỏe từ khắp nơi đã đến gặp ông.
Một phụ nữ trung niên giải thích rằng bà đã nhiều năm phải khổ sở về một bệnh ngoài da mãn tính, mà ngay cả bác sĩ cũng không rõ là bệnh gì. Các bác sĩ đã cho bà nhiều loại dầu xức, kem, và thuốc uống, nhưng tất cả đều vô hiệu. Bà thất vọng và sẵn sàng thử bất cứ điều gì có thể làm giảm bớt tình trạng của bà. Paul chỉ cho bà dùng dầu dừa xoa vào chỗ da bị bệnh. Bà bắt đầu mỗi ngày làm theo hướng dẫn và sửng sốt khi thấy mình khỏi bệnh, cứ như một phép lạ. Bà trở nên một người hâm mộ ông và tiếp tục đến tiệm để mua dầu.
Cả tôi cũng được một chữa lành lạ lùng nữa. Phía sau đầu tôi có một u nang cứng to bằng đồng 25 xu. Bác sĩ muốn mổ để lấy nó đi, nhưng trước khi mổ, tôi đến gặp Paul trước. Ông nói tôi dùng tay chà nhẹ dầu dừa lên lên chỗ u. Tôi cứ tiếp tục xoa thêm dầu dừa, giữ cho chỗ u luôn ẩm. Tôi làm như thế trong vài giờ khi xem TV. Sau một lúc, chỗ u bắt đầu mềm và bất ngờ chất lỏng bên trong khối u thoát ra ngoài qua lỗ chân lông, và khối u biến mất. Không có dấu hở miệng. Nó không bao giờ tái trở lại. Mới đầu tôi ngạc nhiên về vài việc chữa lành chứng kiến tận mắt ở tiệm của Paul cũng như nghe những gì mà khách hàng kể lại. Nhưng dần dần những « phép lạ » này trở nên quen thuộc với tôi. Sự chữa trị của Paul luôn luôn bao gồm việc dùng dầu dừa. Dầu dừa là sản phẩm duy nhất mà Paul bán. Danh tiếng của ông như một người chữa lành, chỉ dùng dầu dừa, được khắp thành phố biết đến. Ông thực sự tin tưởng vào khả năng chữa lành của dầu dừa và muốn giúp người khác hơn là ông muốn tiền bạc của họ. Với ông, dầu dừa là thứ chữa bách bệnh, hữu dụng cho mọi loại bệnh. Nhiều khách hàng của ông cũng đồng ý như vậy. Chúng tôi trở thành bạn thân. Ông không ngừng nói về dầu dừa của ông và mơ ước ngày nào đó ông có thể chữa trị cho cả thế giới khỏi bệnh tật. Mọi cuộc đối thoại của ông đều bắt đầu và kết thúc về dầu dừa. « Về thức ăn, dầu dừa là vua, xoài là nữ hoàng », ông nói như vậy. Cầm bình dầu dừa trong tay, ông nói: « Bí quyết của sức khỏe nằm trong bình này. Có hàng triệu người trên thế giới đang chết dần vì đói và bệnh tật. Điều này làm tôi rất buồn khi thấy mình có câu giải đáp cho vấn đề mà vẫn chưa làm gì được ! » Khi sử dụng như dầu bôi, không gì có thể sánh được với dầu dừa. Paul nói dầu dừa chữa mọi loại bệnh về da, ngay cả bệnh vảy nến (psoriasis). Da cần được giữ ẩm luôn luôn với dầu dừa cho tới khi lành hẳn. Dầu dừa cầm máu khi xoa lên với một chút ấn nhẹ. Nó phòng ngừa nhiễm trùng. Khi xoa bóp toàn thân dầu dừa giúp điều hòa thân nhiệt ; nếu bạn bị sốt dầu dừa sẽ giúp hạ sốt. Dầu dừa làm giảm nhức, đau, và sưng của vết ong đốt, sâu bọ cắn, nhiễm cỏ độc (poison ivy). Rất tuyệt vời khi chữa phỏng, ngăn ngừa chứng thối loét do nằm liệt giường, giúp da căng trẻ, chữa mụn, gầu, làm dịu môi khô nứt, da cháy nắng, da tê cóng, sởi của em bé, và đau lợi. Dùng trong thời kỳ mang thai, có thể ngừa những vết đốm căng da cũng như làm da mau đàn hồi lại sau khi sanh. Paul nói rằng dầu thấm vào da qua lỗ chân lông, tẩy sạch chúng và cho phép cơ thể bài tiết chất bẩn ra ngoài. Khi lỗ chân lông thải chất dơ, chúng bị nghẹt và gây ra mụn nhọt, mụn đầu đinh,...Khi dầu thấm vào lỗ chân lông, nó sẽ làm chảy tan những chất cặn này. Dầu dường như có tác động kỳ diệu trên hầu hết các bệnh về da. Vợ tôi có một bớt ruồi đậm màu lớn bằng cục tẩy viết chì ở ngực. Paul nói vợ tôi có thể làm bay vết bớt đi bằng cách bôi dầu dừa và giữ chỗ đó luôn có dầu. Bôi ngày một lần thì dần dần cũng hết nhưng sẽ lâu hơn. Cô bôi dầu cứ mỗi một hay hai tiếng . những ngày sau đó bớt ruồi bắt đầu thu nhỏ lại , lỗ chân lông mọc ra. Cuối cùng bớt ruồi biến mất. Thật là hay ! Tôi nuôi hai con chó. Một con có một cục bướu gần mắt. Thầy thuốc thú y đề nghị mổ vì nguy hiểm cho mắt. Tôi nghĩ nếu dầu dừa tốt cho con người thì cũng tốt cho thú vật, cho nên tôi bắt đầu bôi dầu dừa vào bướu trên trán con chó. Càng ngày bướu càng nhỏ dần đi cho đến lúc mất hẳn. Không bao giờ bị bướu tái trở lại. Chúng tôi đã tránh được giải phẫu. Sau đó con chó thứ hai bị một vết lở loét ở phần phía dưới mũi. Thày thuốc thú y cho uống trụ sinh, nhưng không khỏi. Sau một tuần tôi không cho nó uống thuốc nữa mà bôi dầu dừa vào vết lở đó. Vết lở nặng hơn trong vài ngày rồi bắt đầu lành. Paul luôn dùng dầu dừa khi nấu ăn. Mỗi ngày ông uống một muỗng cà-phê dầu dừa, và xoa dầu vào người từ đầu đến chân. Dầu dừa là thuốc bổ giữ cho ông trẻ trung cả bên trong lẫn bên ngoài. Đó cũng là thuốc uống hữu hiệu nữa. Paul nói : « Khi ăn dầu dừa, nó sẽ giúp chữa trị bệnh về bao tử và đường ruột. » Dầu dừa là thuốc bổ, thuốc chữa bệnh, và thuốc hồi phục sức khỏe. Nó làm bạn vui sướng, khỏe mạnh, và trẻ đẹp. VẾT THƯƠNG VÀ NHIỄM TRÙNG Dầu dừa đẩy nhanh tiến trình chữa lành của mọi loại vết thương và nhiễm trùng cũng như phòng ngừa thẹo. Nếu thoa trước khi vết thương xảy ra thì việc chữa lành sẽ mau hơn. Đây là lý do tốt để chúng ta xoa dầu dừa hàng ngày. Vết thương, nhiễm trùng, mụn cóc, bớt ruồi, và mọi loại mụn nhọt sẽ mau chóng lành với phép trị liệu dầu dừa. Làm khá ấm (không phải hơi ấm, cũng không nóng làm phỏng da) dầu dừa trước. Dầu ấm sẽ thấm sâu vào da nhanh và hữu hiệu hơn. Khi bôi dầu, tốt nhất là xoa bóp (massage) để gia tăng sự thẩm thấu dầu của da. Khi có vết thương không thể massage được thì chỉ cần thoa nhẹ lớp dầu lên. Bí quyết để đạt được kết quả tốt nhất là làm sao cho vết thương hay chỗ nhiễm trùng luôn luôn có dầu dừa cho tới lúc lành hẳn. Không cần thiết phải đổ đẫm dầu, chỉ cần dầu ướt đủ để cho phép da luôn tiếp tục ngấm dầu. Băng bọc vết thương sao cho luôn giữ thấm dầu ngày và đêm cho đến lúc vết thương lành hẳn.
Băng cá nhân không tiện dùng vì sau vài giờ dễ bị dầu làm trơn tuột ra. Một miếng vải, miếng nylon để bọc ngoài, dây thun hay dây vải để cột là đủ. Cắt một miếng vải hay gạc băng vải rộng hơn vết thương một chút. Cắt miếng nylon lớn hơn miếng vải băng. Nhúng miếng vải vào trong dầu dừa. Chà sát dầu ấm vào da. Đặt miếng vải đã tẩm dầu lên vết thương. Đặt miếng nylon trên miếng vải. Dùng dây cột lại . Mục đích của miếng nylon là để dầu không thấm vào quần áo hay khăn trải giường. Thêm dầu khi cần thiết để giữ băng vải luôn ẩm dầu. Thay băng mới mỗi ngày.
Nếu vết thương ở bàn tay, cách đơn giản nhất là xoa dầu vào bàn tay rồi đeo găng tay. Tối làm rồi để yên như vậy đi ngủ, sáng dậy tháo ra đi làm. Tiếp tục làm mỗi tối cho tới khi khỏi.
Bạn cần lưu ý là kem và lotion có chứa dầu dừa bán ở siêu thị, mặc dù tốt, nhưng không có khả năng chữa lành như dầu dừa nguyên chất. Nếu bạn muốn có kết quả nhanh chóng, hãy dùng dầu dừa nguyên chất.
Kiến lửa cắn
Xin kể cho các bạn nghe bằng cách nào tôi đã trở thành một người có niềm tin vững chắc vào khả năng chữa trị của dầu dừa. Hôm đó tôi tình cờ đạp vào một tổ kiến lửa. Đối với những ai chưa bao giờ chạm vào những con vật nhỏ bé khủng khiếp này, thì tôi nói cho bạn biết tên của chúng đúng là như vậy. Chúng là những sinh vật nhỏ bé có chất độc và những vết chúng cắn nóng rát rừng rực như lửa. Tôi đi dép và trước khi tôi có thể bước ra khỏi tổ kiến, nhiều con đã bu đầy và cắn khắp đôi bàn chân trần và mắt cá chân của tôi.
Ngay tức thì chân tôi bị bỏng cháy như lửa. Tôi chạy vào nhà kiếm gì để bôi lên chỗ kiến cắn và nghĩ ngay đến dầu dừa. Tại sao lại không thử nhỉ ? Tôi lập tức bôi dầu dừa khắp các vết cắn ở hai chân. Tôi kinh ngạc và chồng tôi cũng vậy. Cái đau rát hết ngay tức khắc, những vết cắn bị sưng nhỏ lại, sau hai ngày thì biến mất, và không bị ngứa. Điều ngạc nhiên là tôi đã từng bị những con kiến này cắn nhiều lần trước đây, và không gì tôi bôi có thể làm ngưng rát và ngứa sau đó, những vết cắn lại sưng to và có mủ trong nhiều ngày. Barbara
Dừa: Cây của Cuộc Sống
Trái dừa cung cấp nguồn dinh dưỡng qua cơm dừa, nước dừa, nước cốt dừa, và dầu dừa, và đã nuôi dưỡng con người trên thế giới qua nhiều thế hệ. Tại nhiều hòn đảo, dừa là thực phẩm chủ yếu của dân cư. Gần một phần ba dân số thế giới phụ thuộc vào dừa ở mức độ nào đó cho thực phẩm và kinh tế của họ. Trong những nền văn hóa này, dừa có một lịch sử dài và đáng trân trọng .
Dừa có chất dinh dưỡng cao và giàu chất xơ, vi-ta-min, và chất khoáng. Nó được xếp loại như “thực phẩm đầy chức năng” vì nó cho con người nhiều lợi ích về sức khỏe. Dầu dừa có nhiều lợi ích đặc biệt hơn vì nó có những đặc tính chữa bệnh vượt xa những loại dầu ăn khác và được dùng rộng rãi trong y khoa truyền thống của người Á Châu và vùng Thái Bình Dương. Cư dân những quần đảo Thái Bình Dương xem dầu dừa là phương thuốc chữa trị cho mọi thứ bệnh. Dừa đối với họ rất qúy gía. Cây dừa vừa là thức ăn vừa là vị thuốc chữa bệnh nên họ gọi nó là “Cây của Cuộc Sống”. Chỉ mới gần đây, các nhà khoa học y khoa hiện đại mới mở chìa khóa bí mật của năng lực chữa trị tuyệt vời của dừa. Dừa Trong Y Khoa Truyền Thống
Theo y khoa truyền thống ở các nơi trên thế giới thì dừa được dùng để điều trị nhiều bệnh như: áp xe, suyễn, hói đầu, viêm cuống phổi, vết bầm, phỏng, cảm lạnh, táo bón, ho, phù thủng, kiết lỵ, viêm tai, sốt, cúm, viêm lợi, bệnh lậu, kinh nguyệt không đều hay đau đớn, vàng da, sạn thận, chấy rận, thiếu dinh dưỡng, buồn nôn, ban đỏ, ghẻ, bệnh scobat, viêm da, viêm họng, sưng tấy, giang mai, nhức răng, lao, bướu, thương hàn, ung nhọt, đau bao tử, suy yếu, và những vết thương.
Dừa Trong Y Khoa Hiện Đại
Dầu dừa giúp cơ thể chống lại vi khuẩn, vi trùng, chống lại ung thư. Cải thiện hệ thống miễn dịch bằng cách tiêu diệt các virus có hại như virus HIV, herpes, virus cúm và một số vi trùng gây bệnh khác.
Khoa học y khoa hiện đại ngày nay chứng thực cách dùng dừa trong việc điều trị những bệnh kể trên. Sau đây là tóm tắt những hữu dụng của dừa được in trong các nhật báo y khoa:
50. Hoàn toàn không chứa một chất có hại cho con người. Bài viết này chỉ có tính chất tham khảo, không có ý định chẩn bệnh, điều trị hay phòng ngừa bất cứ loại bệnh nào.
Dầu dừa đã được mệnh danh là “dầu lành mạnh nhất trên trái đất.” Điều gì làm cho dầu dừa là loại tốt như vậy? Điều gì làm cho nó nên khác biệt với các loại dầu khác, đặc biệt là chất béo bão hòa ?
Sự khác biệt nằm trong cấu trúc phân tử của chất béo. Tất cả các chất mỡ và dầu được cấu thành bởi các phân tử acid béo. Có hai phương pháp để phân loại acid béo. *Thứ nhất, căn cứ trên sự bão hòa. Chúng ta có chất béo bão hòa (saturated fats), chất béo không bão hòa đơn ( monounsaturated fats), chất béo không bão hòa kép (polyunsaturated fats). *Thứ hai, căn cứ trên chuỗi carbon. Acid béo gồm những chuỗi dài nguyên tử carbon và những nguyên tử hydrogen đính vào đó. Chúng ta có acid béo chuỗi ngắn , chuỗi 4 và 6 carbon (short chain fatty acid: SCFA), acid béo chuỗi trung bình (medium chain fatty acid: MCFA), chuỗi 8, 10, và 12 carbon, và acid béo chuỗi dài , chuỗi 14 hay nhiều hơn carbon (long chain fatty acid: LCFA). Dầu dừa phần chính được cấu tạo bởi acid béo chuỗi trung bình (ABctb), cũng được gọi là triglycerides chuỗi trung bình (Tctb). Hầu hết chất mỡ và dầu chúng ta ăn hàng ngày là acid béo chuỗi dài . Stearic acid là chuỗi acid béo18 carbon , có nhiều trong thức ăn hàng ngày của chúng ta. Kích cỡ của chuỗi acid béo rất quan trọng. Tại sao? Vì cơ thể chúng ta đáp ứng và chuyển hóa mỗi acid béo một cách khác nhau tùy theo kích cỡ của chúng. Vì chuỗi trung bình nhỏ hơn chuỗi dài chúng được tiêu hóa cách dễ dàng và hòa tan trong nước nhiều hơn. Cho nên nó không cần enzymes của tuyến tụy và mật của gan cho việc tiêu hóa của chúng. Vì vậy dầu dừa có thể cung cấp nguồn dinh dưỡng nhanh chóng và dễ dàng không bắt hệ enzymes của cơ thể chịu gánh nặng khi tham gia vào việc tiêu hóa. Bác sĩ Fife giải thích cách chất béo được tiêu hóa và chuyển hóa như sau: Khi bạn ăn thức ăn có chứa triglycerides chuỗi dài, chúng đi qua bao tử rồi vào ruột. Hầu hết sự tiêu hóa triglycerides chuỗi dài xảy ra ở ruột. Enzymes của tuyến tụy và mật của túi mật cần thiết cho việc tiêu hóa này. Khi triglycerides chuỗi dài được tiêu hóa, dây nối chùm acid béo đứt ra, từng đơn vị acid béo này được gọi là lipoprotein ngấm vào thành ruột. Những lipoprotein này đi vào máu và luân chuyển khắp cơ thể. Khi luân chuyển, chúng phóng thích những hạt của chất béo vào máu. Những hạt này được thấy ở tế bào mỡ và mãng xơ vữa của động mạch. Khi triglycerides chuỗi trung bình (Tctb) được ăn, tiến trình xảy ra khác hẳn, chúng cũng đi qua bao tử rồi vào ruột, nhưng vì chúng được tiêu hóa quá dễ dàng nên ngay khi vừa rời bao tử là chúng đã tự tách ra thành từng đơn vị acid béo rồi. Khi vào ruột chúng lập tức ngấm vào tĩnh mạch cửa để đi thẳng vào gan. Ở gan chúng được dùng như nguồn nhiên liệu cung cấp năng luợng. Vì vậy acid béo ctb không qua giai đoạn lipoprotein ở trong ruột và trong gan. Chúng không luân chuyển trong máu, nên không đóng trong các tế bào mỡ và thành động mạch. Chúng được dùng để cung cấp năng lượng, không tham dự vào lượng mỡ thừa của con người , không gây nên xơ vữa cho động mạch vành. Vì Tctb được tiêu hóa dễ dàng nên chúng cũng làm tăng sự hấp thụ các khoáng chất như magnesium, calcium, vài loại vitamin B, vitamin A, D, E, K , beta carotene, và vài amino acid ( vd: protein). Ví dụ: Các nghiên cứu cho thấy rằng những triệu chứng do thiếu vitamin B giảm đi khi thêm dầu dừa vào thức ăn. Nhờ giúp calcium hấp thu, dầu dừa giúp xương tăng trưởng và tránh được bệnh còi xương. A-xít béo chuỗi trung bình (ABctb) có trong sữa mẹ cung cấp nguồn dinh dưỡng cũng như bảo vệ bé khỏi nhiễm trùng. Sữa mẹ càng có nhiều ABctb, bé càng khỏe mạnh. Bình thường sữa mẹ có khoảng 3%-4% ABctb. Khi thêm dầu dừa vào thức ăn của mẹ, ABctb gia tăng đáng kể. Ví dụ: ăn 3 muỗng canh dầu dừa trong một bữa ăn, sẽ tăng lượng lauric acid từ 3,9% lên 9,6% sau 14 tiếng. Nếu người mẹ ăn dầu dừa hàng ngày, sẽ tăng ABctb lên 18% giúp cho bé phát triển , khỏe mạnh và có sức đề kháng cao. Vì lý do này, dầu dừa hay Tctb đã được thêm vào công thức sữa cho bé ở nhà thương và trên thương trường. Chất kháng vi sinh vật Nếu bạn hỏi tôi (bác sĩ Bruce Fife) phương dược tự nhiên nào có thể dùng để phòng ngừa hay ngay cả chữa một bệnh nhiễm trùng, tôi sẽ trả lời ngay là hãy thử dầu dừa. Dầu dừa? Đúng. Tôi đã thấy chỉ với dầu dừa nấm da được chữa lành chỉ trong vài ngày, nhiễm trùng đường tiểu biến mất trong chưa đầy hai ngày, và hết bệnh cúm chỉ trong vòng 12 tiếng. ABctb trong dầu dừa có khả năng diệt vi khuẩn, virus, nấm, và ký sinh trùng. Đặc tính kháng vi sinh vật của ctba được tường trình đầu tiên bởi tiến sĩ Jon Kabara. Toàn thể chất trong dầu dừa là triglycerides. (Tri: ba , di: hai , mono : một ) Triglycerides là ba acid béo liên kết với nhau nhờ phân tử glycerol. Khi triglycerides bị phân tách ra ở đường tiêu hóa, từng acid béo lần lượt tách rời ra. Khi một acid béo tách ra, phần còn lại là diglycerides. Khi hai acid béo tách ra, phần còn lại là monoglyceride. Nếu cả ba acid béo cùng tách ra , chúng ta có glycerol và ba acid béo tự do. Triglycerides và diglycerides không có tác dụng kháng sinh. Chính monoglycerides và acid béo tự do ( ABctb) mang đặc tính kháng vi sinh vật này. Ba Tctb quan trọng của dầu dừa là lauric acid (C12), carpic acid (C10), và caprylicacid (C8). Như vậy tên riêng của những monoglycerides này là: monolaurin, monocaprin, và monocaprylin. Tất cả ABctb và monoglycerides của chúng đều có tính kháng sinh rất lớn. Monolaurin có khả năng lớn nhất trong việc tiêu diệt các loại vi khuẩn, vi rút, và nấm. Tuy nhiên mỗi loại có đặc tính kháng sinh riêng. Ví dụ: loại này hữu hiệu hơn trong việc diệt E. coli, loại kia hữu hiệu hơn trong việc trừ nấm Candida albicans. Tất cả chúng hợp lực sẽ cung cấp hiệu quả diệt trùng rộng nhất và mạnh nhất. Vi sinh vật trở nên yếu đuối nhất đối với ABctb và những monoglycerides của nó là những vi sinh có lớp bọc ngoài bằng chất béo. Lớp bọc bằng chất béo này bảo vệ cấu trúc của vi sinh. ABctb và monoglycerides thẩm thấu vào trong màng bao bọc vi sinh, phá vỡ và phân hủy nó, nên giết chết vi sinh vật. Tiến trình này hữu hiệu đến nỗi nó có thể giết ngay cả những siêu vi khuẩn đã trở nên đề kháng lại được với cả trụ sinh. Vi khuẩn không thể thích ứng để trở thành miễn nhiễm với loại hoạt động này. Vì vậy ABctb có thể dùng đều đặn mà không sợ vi sinh vật miễn nhiễm với trụ sinh trở thành hung thần vô địch. Cuộc nghiên cứu cho thấy là dầu dừa có thể là phương thuốc thiên nhiên đầy hứa hẹn cho một số lượng lớn bệnh lây nhiễm, ngay cả bệnh trầm trọng như AIDS và SARS. Từ thập niên 1980 các nhà nghiên cứu đã khám phá rằng ABctb trong dầu dừa có thể diệt HIV – virus của bệnh AIDS. Khi những tường thuật của dầu dừa lan rộng, nhiều cá nhân mắc bệnh AIDS đã tự thêm dầu dừa vào việc điều trị của họ. Điều này đã dẫn tới nhiều câu chuyện của bệnh nhân AIDS kinh nghiệm sự hồi phục từng phần hay toàn phần của họ. 4. CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG Tôi cũng thường nghe một số người than phiền rằng họ súc dầu chữa bệnh, nhưng chẳng thấy gì. Một số khác lại tuyên bố là, nó còn tệ hại hơn nữa. Vì sao liệu pháp chữa bệnh bằng cách súc dầu mang hiệu quả tuyệt vời cho một số người, lại tỏ ra vô giá trị đối với một số người khác? Súc dầu là một kỹ thuật hữu ích, nhưng nó không phải là một loại thuốc chữa bá bệnh. Thực vậy, bản thân nó cũng không phải là một loại thuốc. Súc dầu là một phương tiện hữu ích để loại trừ những vi khuẩn độc hại ra khỏi miệng. Mục đích của nó là như vậy. Nếu bạn bị nhiễm trùng trong miệng, nó sẽ lôi đi tất cả những vi khuẩn độc hại, giúp cơ thể bạn có cơ hội tự phục hồi. Thế tại sao trong những trường hợp khác, cơ thể không thể tự phục hồi? Khi bạn đọc được những câu chuyện thành công của người khác, bạn trở nên quá tự tin, và tin tưởng rằng nó có khả năng giải quyết mọi vấn để về sức khỏe, chỉ trong một sớm một chiều. Điều này quả là không tưởng. Nếu như bạn đang có một vấn đề về sức khỏe vốn cần tới 10 năm, 20 năm mới phát ra, thì bạn không thể nào mơ rằng căn bệnh sẽ biến mất sau một đêm. Hãy nhớ rằng, súc dầu không phải là thuốc chữa bệnh, chính cơ thể chúng ta tự chữa bệnh. Muốn thế, cần phải có thời gian. Nếu bạn biết một cái xương gẫy, muốn phục hồi, cần vài ngày, một hai tuần, hoặc thậm chí vài ba tháng, thì không có lý gì bạn chờ đợi một căn bệnh sớm phục hồi, đặc biệt khi đó là một căn bệnh kinh niên ngày càng trầm trọng, đã kéo dài nhiều năm. Bạn cần phải thực tế hơn. Một lý do nữa giải thích tại sao tiến trình lành bệnh không xảy ra sớm như bạn mong đợi được, đó và vì bạn không cho phép nó! Nếu như bạn mang bệnh vì chế độ ăn uống kém, hoặc do thói quen trong lối sống, thì bạn đừng mong đợi nó phục hồi cho tới khi bạn thay đổi mọi sự. Nó giống như lấy búa nện vào ngón tay. Dán băng keo chữa trị không ăn thua gì, nếu như vẫn cứ lấy búa nện vào tay. Hãy ngưng tất cả những việc gây hại cho sức khỏe trước khi chờ đợi cơ thể bạn tự phục hồi. Việc súc dầu sẽ làm mọi thứ nó cần làm, nhưng nếu một căn bệnh không liên hệ tới sức khỏe răng miệng thì nó sẽ không mang lại kết quả bạn trông đợi. Không phải vấn đề sức khỏe nào cũng phát sinh từ nhiễm trùng miệng. Bệnh tật có thể phát sinh từ sự mất cân bằng trong hệ tiêu hóa, một vết thương bị nhiễm trùng, quan hệ tình dục, khuyết tật di truyền, và các nguyên nhân khác. Một số những vi sinh vật tương tự làm miệng nhiễm trùng, gây nguy hại cho máu, cũng sống trên da và trong môi trường, có thể đi vào cơ thể bằng những con đường khác. Ngay cả trong những trường hợp này, việc súc dầu cũng giúp giảm gánh nặng cho hệ miễn dịch, cho nên điều này được xem là rất có ích. 4. CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG TỐT
Người dịch: Hoàng Đình Tứ Chế độ ăn uống đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe. Câu ngạn ngữ, “Anh ăn cái gì, sẽ trở nên như vậy” thật rất đúng . Nếu bạn ăn toàn là thứ vặt vãnh, sức khỏe của bạn sẽ giống như rác, và sẽ bị đổ vào hố rác. Ngược lại, nếu bạn biết chọn những thức ăn tốt, nhiều dinh dưỡng thì bạn sẽ có được những viên gạch bền chắc để xây dựng bảo tồn ngôi nhà cơ thể mạnh khỏe. Hầu hết chúng ta đều ý thức được tầm quan trọng của việc ăn uống sao cho mạnh khỏe, nhưng ít ai hiểu rõ thế nào là một chế độ dinh dưỡng tốt. Một số tin rằng, nếu họ ăn thêm vài khẩu phần rau trong ngày, tức là họ có một chế độ ăn uống tốt. Người khác lại nghĩ rằng, nếu họ giảm bớt một chút it chất béo trong bữa ăn, thì đó là chế độ dinh dưỡng tốt, mặc dù họ ăn những thứ khác còn nhiều hơn. Nếu bạn hỏi 10 người xem họ nghĩ thế nào là một chế độ ăn uống dinh dưỡng tốt, thì bạn sẽ nhận được 10 câu trả lời khác nhau. Có người nói rằng đó là chế độ ăn có ít chất béo; người khác cho rằng ít chất bột, kiểm soát lượng hyđratcacbon, trong khi những người khác cho rằng ăn rau cải là tốt nhất. ZonePerfect hướng tới sự cân bằng trong khẩu phần dinh dưỡng. Weight Watchers là phương pháp tính toán giảm thiểu lượng calo. Theo bạn thì sao? Có quá nhiều chế độ, nhiều trào lưu khiến chúng ta phải bối rối. Có nhiều cách được đưa ra để giảm cân. Để giảm cân thì chưa hẳn đã là cách tốt nhất cho sức khỏe, cũng chưa hẳn là cách bạn sẽ áp dụng cả cuộc đời. Tẩy độc cơ thể cũng vậy, để cấp thời làm sạch cơ thể, chứ không thể áp dụng mãi được. Có ai muốn cả đời cứ phải uống nước củ, cải mãi đâu? Những chế độ ăn uống mà chúng ta muốn áp dụng, phải phục vụ nhiều mục đích, phải đầy đủ dưỡng chất, ít năng lượng, có mùi vị thơm ngon. Có nhiều ý kiến trái ngược về giá trị của một loại thực phẩm hoặc chế độ ăn uống: thứ nào tốt, thứ nào xấu. Bạn không thể hoàn toàn tin tưởng những người gọi là chuyên gia, bởi vì chính họ còn mâu thuẫn với nhau. Một số nói rằng chất béo no, cholestorol, và thịt đỏ thì xấu, trong khi những người khác lại nói là tốt; chính đường và ngũ cốc chế biến mới là xấu, v.v…Bạn tin ai bây giờ? Thưa, vẫn còn một câu trả lời. Người ta có thể nghiên cứu về khoa học dinh dưỡng và đưa ra những luận thuyết về các chế độ dinh dưỡng, nhưng kiểm chứng thực sẽ là chế độ nào hiệu nghiệm trên thực tế. Lý thuyết nghe hay, nhưng nếu nó không hiệu nghiệm lúc áp dụng, thì cũng chẳng ích gì. Một chế độ ăn uống tốt là một chế độ giúp tăng cường sức khỏe, chống lại bệnh tật, và duy trì sức khỏe cho tới tuổi già – hết cả cuộc đời. Chế độ ăn uống hiện thời, mệnh danh là Phương Tây (Western diet) rất tiếc, lại thiếu sót điều này. Mặc dù nó giúp giảm cholestorol, giảm chất béo no, và vài thứ khác, nhưng những căn bệnh trầm kha lại gia tăng mỗi ngày một nhiều, và ngày càng có thêm nhiều căn bệnh mới. Những bệnh trước đây chỉ gặp ở tuổi già, nhưng lại xuất hiện ở lứa tuổi trẻ hơn, như tiểu đường, viêm khớp. Chế độ ăn uống theo kiểu đó thực sự là một tai họa. Thế tìm đâu ra câu trả lời? Chìa khóa để tìm ra chế độ dinh dưỡng lý tưởng là nhìn vào tỉ lệ dân số ít bị bệnh nặng kéo dài, kể cả sâu răng và bệnh về lợi. Một nhóm dân số nào đó không thể khỏe mạnh được nếu không có một chế độ tồi. Như vậy một dân số khỏe mạnh cần một chế độ dinh dưỡng tốt. Ngày nay khó có thể kiếm được những người như vậy. Thương mại quốc tế ngày càng phát triển, thức ăn hiện đại của phương tây lúc nào cũng có sẵn trên trên thị trường toàn cầu. Kết quả là các bệnh tim mạch, ung thư, tiểu đường và những căn bệnh nặng khác hoành hành khắp thế giới. Tuy nhiên, vào đầu thế kỷ hai mươi, có những nhóm dân tộc không bị tiếp cận với những thức ăn hiện đại này và không bị ảnh hưởng bởi cái gọi là những căn bệnh của nền văn minh hiện đại. Nhờ có công việc tiên phong của bác sĩ Weston A. Price mà chúng ta có được những tài liệu về những xã hội khỏe mạnh và thực phẩm họ dùng. Bác sĩ đã có những nghiên cứu sâu rộng về những bệnh nhiễm trùng chính trong khoảng thập niên 1920. Những năm sau đó bác sĩ đã tìm ra mối tương quan giữa các căn bệnh trầm trọng kéo dài với chế độ ăn uống. Trong quá trình hành nghề nha lâu năm của bác sĩ Price, ông đã có dịp quan sát số người ngày càng gia tăng bị mắc bệnh trầm trọng kinh niên, và những vấn đề về răng. Ông nhận thấy càng về sau trong cuộc đời nha sĩ của ông, càng có nhiều vấn đề về răng mà trước đây rất hiếm. Trong suốt phần đầu của thế kỷ 20, việc sản xuất và chế biến thực phẩm đã được cách mạng hóa để đáp ứng đòi hỏi của dân số thế giới ngày càng gia tăng mạnh mẽ. Phát minh về máy ép thủy lực và hydro-hóa dầu thực vật đã làm thay đổi tính chất các loại dầu và chất béo trong chế độ ăn uống. Trước thập niên 20, mỡ động vật và dầu nhiệt đới là nguồn chất béo chính trong chế độ ăn uống. Dầu chiết xuất từ các loại hạt chưa được dùng nhiều vì còn khó tìm và chi phí sản xuất còn cao. Phương pháp dùng máy ép thủy lực đã đơn giản hóa phương pháp chế biến với chi phí thấp hơn mỡ thực vật. Mỡ và bơ động vật phải nhường bước cho bơ thực vật. Việc sản xuất đường và bột được tự động hóa. Từ năm 1900 tới năm 1930, mức tiêu thụ đường tăng gấp 10 lần. Bánh mì trắng trở thành nguồn thực phẩm chính. Bánh mì trắng nhẹ hơn, xốp hơn, và nhờ chất bảo quản, có thể giữ được lâu hơn không bị hư. Nước quả nấu đông, mứt, thực phẩm đóng hộp, kẹo đủ loại, tràn ngập trên kệ các cửa tiệm. Chất bảo quản, chất tạo vị, phẩm màu nhân tạo và nhiều hóa chất khác được đưa vào thực phẩm đóng hộp. Sữa tươi nguyên chất, một tiêu chuẩn quốc tế, nay đã được tiệt trùng. Kỷ nguyên sản xuất thực phẩm hiện đại đã bắt đầu. Chế độ ăn uống kiểu Mỹ, và phải nói là của toàn thế giới phương tây, bắt đầu tạo những thay đổi lớn. Khi phương pháp chế biến thức ăn bắt đầu phát triển, và chế độ ăn uống bị thay đổi, một hiện tượng thú vị bắt đầu xuất hiện. Nó tinh tế tới mức ít ai để ý tới, và ngược lại những căn bệnh hiếm có hoặc chưa từng nghe nói tới bắt đầu gia tăng về số lượng. Bệnh động mạch vành (tim) chưa từng nghe đến trước thập niên 20 bùng nổ, và đến những năm 50, thì trở thành nguyên nhân gây tử vong hàng đầu. Điều thú vị là ở chỗ, ngày nay mỡ động vật và cholestorol bị cho là nguyên nhân gây bệnh tim mạch, thế nhưng vào đầu thế kỷ trước đó, khi mà mỡ động vật là nguồn cung cấp chất béo chính yếu trong chế độ ăn uống, và sức tiêu thụ chất béo no và cholestorol cao hơn nhiều so với hiện tại, nhưng bệnh tim mạch lại hiếm. Bác sĩ Price là chứng nhân cho sự thay đổi to lớn trong chế độ ăn uống và sự gia tăng các chứng bệnh không thuyên giảm, và các chứng bệnh về răng miệng. Bác sĩ đã tự đặt ra câu hỏi: Phải chăng sự thay đổi về ăn uống có mối tương quan mật thiết tới sự suy giảm về sức khỏe. Và ông bắt đầu đi tìm câu trả lời. Cách ông làm là thực hiện việc so sánh sức khỏe của những người ăn thức ăn truyền thống với sức khỏe của những người ăn thức ăn chế biến hiện đại. Để tránh những tác nhân khác có ảnh hưởng tới sức khỏe, ông chọn các đối tượng tham gia cuộc nghiên cứu có cùng một cơ sở di truyền, sống cùng một khu vực địa lý. Điểm khác biệt duy nhất là chế độ ăn uống. Ngày nay khó có thể tìm được một nhóm dân số chỉ dựa vào thức ăn truyền thống. Thức ăn hiện đại có thể tìm thấy hầu như ở khắp nơi trên thế giới. Nhưng vào thập niên 30, vẫn còn tìm được những dân tộc sống chủ yếu dựa vào thức ăn cổ truyền và không bị ảnh hưởng của thức ăn hiện đại. Bác sĩ Price đã trải qua một thập kỷ đi khắp thế giới, tìm và nghiên cứu những giống dân này. Ông đi tới những vùng thung lũng xa xôi trong dãy núi Alpes Thụy Sĩ, vùng ngoại vi và nội địa Hebrides ngoài khơi Tô-cách-lan, thăm viếng những ngôi làng người Eskimo ở Alaska, những thổ dân Mỹ tại miền trung và miền bắc Canada và Florida, người Melanesian và người Polynesian ở vô số đảo tại nam Thái Bình Dương, các bộ tộc miền đông và trung Phi, thổ dân Úc, các bộ tộc Malay ở trên các đảo miền bắc nước Úc, giống dân Maori ở Tân-tây-lan, và người da đỏ Nam Mỹ ở Pê-ru và Vùng lòng chảo Amazon. Khi bác sĩ Price đến một khu vực nào đó, ông thường khám sức khỏe cho dân chúng, đặc biệt là răng, và ghi chú cẩn thận thức ăn họ dùng, phân tích tỉ mỉ chất dinh dưỡng có trong khẩu phần ăn. Những mẫu thức ăn được gửi tới phòng thí nghiệm nơi thực hiện những phân tích chi tiết. Chẳng cần nhiều thời gian, ông cũng đã nhận ra sự tương phản về sức khỏe giữa những người ăn thức ăn truyền thống với những người ăn thức ăn hiện đại trong chế độ dinh dưỡng của mình. Bất cứ nơi nào người ta dùng thức ăn truyền thống, ông ghi nhận rằng cả sức khỏe về răng và toàn thân đều tốt, trong khi những người dùng thức ăn hiện đại , sức khỏe đều bị suy giảm. Khi thiếu sự chăm sóc y tế hiện đại, thì sự suy giảm sức khỏe đó lại càng rõ nét. Những bệnh về răng, cũng như nhiễm trùng và những căn bệnh hiểm nghèo khác như viêm khớp, lao phổi, rất phổ biến trong nhóm người dùng thức ăn phương tây. Thí dụ, có những khác biệt rõ ràng giữa những người sống sâu bên trong các đảo Thái-bình-dương với những người sống bên bờ đảo nơi có những bến cảng với nhiều thức ăn hiện đại. Trong một hình minh họa, ông cho thấy một người đàn ông bộ tộc Malay với hàm răng trắng đều và đẹp. Ngược lại, là một phụ nữ Melanesian sống ở một khu vực cảng nơi người ta có thể thoải mái dùng những thức ăn hiện đại. Bà đã đánh mất vẻ đẹp trời cho vì sâu răng. Nói về những người dân sống sâu trong đảo, bác sĩ ghi nhận: “Có sự phát triển về thể chất, kể cả răng và nguyên hàm răng rất trật tự đều đặn.” Một so sánh giữa những người sống gần hải cảng với những người sống ở các khu vực hẻo lánh cho thấy có tỉ lệ gia tăng rõ rệt đối với các trường hợp sâu răng. Đối với những người sống chủ yếu dựa vào thức ăn địa phương thì tỉ lệ sâu răng chỉ là 0,14%, trong khi đó những người sống bằng thức ăn mua bán trên thị trường thì tỉ lệ là 26%. Ông còn tiếp tục với nhận xét là có những căn bệnh hiểm nghèo đang lần lần phát triển quanh khu hải cảng. Không cần phải có một thay đổi to lớn trong chế độ ăn uống thì mới phát sinh ra những căn bệnh nguy hiểm, mà chỉ cần thêm vào một vài sản phẩm thương mại là đã đủ, những sản phẩm này đã thế chỗ thức ăn dinh dưỡng. Đó là những thức ăn nhập cảng thông thường như : bột trắng, gạo trắng, đường, và thực phẩm đóng hộp. Trong những nhóm đối tượng nghiên cứu thì số người dùng thực phẩm truyền thống bị sâu răng chỉ là 0,78% (chưa tới 8 trường hợp trong 100 trường hợp), trong khi những người ăn thực phẩm phương tây bị sâu răng là hơn 33% (333 người trong 1000 trường hợp). Những người ăn thực phẩm hiện đại thì có tới 90-100% bị sâu răng. Những người ăn theo chế độ truyền thống có răng rất tốt, cho dù họ không hề đánh răng hay tơ răng (flossing), họ không hề dùng thuốc tẩy trắng răng, hoặc thuốc súc miệng chuyên dùng, cũng không hề nhận được sự chăm sóc răng chuyên nghiệp. Hàm răng chắc khỏe của họ là kết quả trực tiếp của chế độ ăn uống tốt. Tình trạng răng của họ rõ ràng là phản ánh được sức khỏe thể chất toàn diện của họ.
|