“Phụ nữ Việt Nam trung trinh, tiết hạnh Trang điểm cuộc đời muôn cánh hoa thơm Ra ngoài, giúp nước giúp non Về nhà, tận tụy chồng con một lòng”
Mở Đầu
Phụ nữ Viêt Nam từ ngàn xưa đã vang danh “trung trinh tiết hạnh”, đúng với lời giáo huấn của cha ông
“Trai thời trung hiếu làm đầu Gáí thời tiết hạnh làm câu trau mình”
Những tấm gương oai hùng như bà Trưng, bà Triệu, hiền phụ như bà Tú Xương, bà Sương Nguyệt Anh. Những tấm lòng cao cả của các bà mẹ Việt Nam vẫn thường được nhắc nhở hàng năm trong các ngày Lễ Mẹ, ngày Rằm tháng Bẩy với “bông hồng cài áo”. Không ai có thể phủ nhận sức chịu đựng bền bỉ và đức tính cần cù chịu khó của các bà mẹ Việt Nam. Cũng không ai có thể phủ nhận đức tính trong sạch, ngay thẳng, và đàng hoàng của người phụ nữ Việt Nam. Những đức tính hy sinh, can đảm và chan chứa tình người đã nâng cao phẩm giá của người phụ nữ Việt Nam lên hàng Tiên Thánh, và biến một số người đàn bà nước Nam thành những vị Phụ Nữ Truyền Thuyết.trong lịch sử dân tộc Việt.
Truyền thuyết là gì?
Theo Giáo Sư Trần Gia Phụng, “Truyền thuyết là những câu chuyện bắt đầu từ sự thật lịch sử, được thêm thắt hoặc được tiểu thuyết hóa, và được truyền tụng từ người này qua người khác, từ đời này qua đời khác, rồi lại được dân chúng chấp nhận như là những chuyện lịch sử có thật”.
Tìm hiểu nghĩa chữ “truyền thuyết”, Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh chỉ cho biết đơn giản: “Nói lại với người khác”. Theo nghĩa tiếng Anh, “truyền thuyết” dịch từ chữ “Legend”, có nghĩa là “thánh truyện, truyện thần tiên, truyện hoang đường” (Từ Điển Nguyễn Văn Khôn). Thật ra, chữ “Legend” phát xuất từ chữ Latin “legenda”, động từ là “legere” có nghĩa là đọc (to read). Thời Trung Cổ (Medieval), chữ Latin “legenda”, được dùng với nghĩa “điều gì đó để đọc”, đặc biệt dùng trong thể kể chuyện đời sống các Thánh. (Tiểu sử các Thánh được kể lại, quan trọng cả về tài liệu lịch sử, lẫn gương đạo đức). Chữ “Legend” trong tiếng Anh được vay mượn ở chữ “Legenda” từ thế kỷ 14, có nghĩa là: “câu chuyện được truyền tụng trong dân gian, nhưng không thể kiểm chứng được, tựa như các chuyện hoang đường”. Nếu là “Nhân vật truyền thuyết”, những nhân vật này có tên trong lịch sử được dân chúng kể đi kể lại nhiều lần trong nhiều đời, hoặc được thêm thắt, thần thánh hóa, để trở thành nhân vật lịch sử có thật. Đó là những Anh hùng, Anh thư, những Sương phụ, Hiền phụ và những danh nhân, danh tướng trong lịch sử.
Trong thời gian gần đây, người Việt Nam ở trong nước cũng như ở nước ngoài đều rất xôn xao khó chịu về những tin tức liên quan đến thân phận người con gái Việt Nam: “Bị đầy đọa khi lấy chồng ngoại quốc, bị rao bán như nô lệ, hoặc làm nghề mãi dâm tại nhiều nơi, trên nhiều quốc gia”. Những hình ảnh này làm tổn thương đến danh dự người Việt nói chung, người phụ nữ Việt nói riêng không ít.
Thực tế, phần lớn Phụ Nữ Việt đều là những cô gái ngoan, hiền, trung trinh tiết hạnh theo truyền thống văn hoá Việt. Chúng ta vinh danh Phụ Nữ Truyền Thuyết Việt Nam chính là để xua tan bóng mây mù đang che mờ đi hình ảnh người con gái Việt Nam oai hùng, tiết liệt, đồng thời để chứng minh với người ngoại quốc rằng: Phụ nữ Việt từ ngàn xưa vẫn là những cô gái được nhân gian tôn vinh kính trọng.
Thử đề nghị một Danh Sách Phụ Nữ Truyền Thuyết Việt Nam:
Đây là việc làm của Giáo Sư Trần Gia Phụng năm 1999, trong tập biên khảo “Những câu chuyện Việt Sử”, nhân báo Thời Sự (Toronto) số 145 ngày 20-6-1998 đăng tải danh sách 23 vị Phụ nữ của Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam (HLHPNVN) trình lên cơ quan UNESCO để chọn 10 người vào danh sách “Những phụ nữ truyền thuyết trong lịch sử thế giới” (The Women of the Legend in the Word History). Cũng theo Giáo sư Phụng phân tích, bảng danh sách của HLHPNVN đưa ra không được chính xác so với định nghĩa, thế nào là “truyền thuyết”, và thiếu vô tư, hoặc thiên vị. Cho tới nay, thời gian gần 6 năm đã trôi qua, không rõ cơ quan UNESSCO có chấp nhận bảng danh sách này hay không? Và sự lựa chọn ra sao? Trên thực tế, Phụ nữ truyền thuyết Việt Nam rất nhiều, nhất là những bà vợ, bà mẹ các nhà cách mạng tranh đấu chống ngoại xâm và tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền; kể cả những Phụ nữ đã phải hy sinh trong rừng già, hay trên biển Đông vì lý tưởng Tự Do. Đó là những vị Phụ nữ truyền thuyết không tên tuổi rất xứng đáng được vinh danh.
Dựa vào bảng danh sách của HLHPNVN và của Giáo Sư Trần Gia Phụng đề nghị, chúng tôi xin mạo muội trình lên quí vị một danh sách “Phụ nữ truyền thuyết Việt Nam” như sau:
1- Quốc Mẫu Âu Cơ, 2- Trưng Vương, 3- Công Chúa Hoàng Thiều Hoa, 4- Lê Chân, 5- Bà Triệu, 6- Thái Hậu Dương Vân Nga, 7- Thái Hậu Ỷ Lan, 8- Công Chúa An Tư, 9- Công Chúa Huyền Trân 10- Nguyễn Thị Bích Châu, 11- Lương Minh Nguyệt, 12- Vũ Thị Thiết (Thiếu Phụ Nam Xương), 13- Thánh Mẫu Liễu Hạnh, 14- Công Chúa Ngọc Vạn, 15- Công Chúa Ngọc Hân, 16- Nữ Sĩ Đoàn Thị Điểm, 17- Nữ tướng Bùi Thị Xuân, 18- Nữ Sĩ Hồ Xuân Hương, 19- Bà Huyện Thanh Quan, 20- Thái Hậu Từ Dũ, 21- Bà Tú Xương, 22- Bà Nguyễn Thị Khuê (Sương Nguyệt Anh), 23- Bà Ba Đề Thám, 24- Bà Phan Bội Châu, 25- Lê Thị Đàn (Ấu Triệu), 26- Nguyễn Thị Bắc, 27- Nguyễn Thị Giang, 28- Nàng Tô Thị.
Sơ lược tiểu sử “Phụ nữ truyền thuyết Việt Nam”:
1- Quốc Mẫu Âu Cơ (Khoảng 2800 Tr.TL): Theo truyền thuyết, khoảng gần 5000 năm trước, bà Âu Cơ dòng dõi tiên. kết duyên cùng vua Lạc Long dòng dõi rồng, sinh được 100 con trai là con rồng cháu tiên. Về sau, 50 con theo Cha Lạc Long xuống biển, 50 con theo Mẹ Âu Cơ lên núi, đi về phương nam lập ra nước Văn Lang, do người con trưởng làm vua hiệu là Hùng Vương, truyền được 18 đời . Người Việt Nam tôn vinh bà Âu Cơ là Quốc Mẫu. Trong ngày giỗ Tổ Hùng Vương mồng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm, người Việt Nam đều nhớ đến ơn Quốc Mẫu Âu Cơ.
2- Trưng Vương (40-43): Năm 40 thời Bắc thuộc, Thái Thú Tô Định bắt giết ông Thi Sách chồng bà Trưng Trắc, và đàn áp dân Lạc Việt. Vì nợ nước thù nhà, bà Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị nổi dậy đánh đuổi Tô Định, đoạt 65 thành và 4 Quận, lên làm vua xưng là Trưng Vương, đóng đô ở Mê Linh. Triều đại Trưng Vương tuy chỉ ngắn ngủi 3 năm, nhưng đã chứng tỏ tinh thần bất khuất của người phụ nữ Việt, và mở đầu cho nền độc lập nước nhà. Hiện nay có nhiều đền thờ Hai Bà Trưng, và ngày lễ hội kỷ niệm hàng năm vào mồng 6 tháng hai âm lịch.
3- Công Chúa Hoàng Thiều Hoa (Danh tướng thời Trưng Vương): Bà Hoàng Thiều Hoa người huyện Gia Hưng, tỉnh Thanh Hoá (có sách chép là tỉnh Sơn Tây ngày nay). Không rõ năm sinh, năm mất. Bà là một nữ tướng tài giỏi của Hai Bà Trưng, giữ nhiệm vụ huấn luyện đoàn Nương tử quân. Khi Hai Bà Trưng đánh đuổi xong giặc Hán đô hộ, lên ngôi vua, đã phong tước cho bà là Thiều Hoa Công Chúa. Hiện nay đền thờ Công Chúa Thiều Hoa ở làng Hiếu Quan, huyện Tam Nông. Hàng năm lễ hội kỷ niệm vào các ngày 12, 13 tháng giêng âm lịch.
4- Lê Chân (Danh tướng thời Trưng Vương): Lê Chân là nữ tướng tài ba của Hai Bà Trưng, người làng An Biên, huyện Đông Triều, tỉnh Hải Dương. Không rõ năm sinh năm mất. Trong các trận đánh đuổi giặc Hán đô hộ, bà Lê Chân thường giữ chức tiên phong và nổi tiếng dũng cảm. Khi Hai Bà Trưng lên ngôi, đã giao việc Quốc phòng cho bà Lê Chân và phong làm Thánh Chân công chúa. Bà là người sáng chế ra môn thể thao “đánh phết” rất vui (vui ra phết). Các vua đời sau đều có sắc phong bà làm Thượng đẳng phúc thần công chúa. Hiện nay, đền thờ bà Lê Chân tại làng Mai Động (Hà Nội). Lễ hội kỷ niệm vào các ngày 4, 5 và 6 tháng giêng âm lịch, thường có tổ chức thi đấu vật và đánh phết.
5- Bà Triệu (225-248): Bà Triệu tên thật là Triệu Thị Trinh cùng anh là Triệu Quốc Đạt khởi nghĩa năm 248, chống lại quân Đông Ngô cai trị tàn ác. Bà rất can đảm, thường nói: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp đường sóng dữ, chém cá tràng kình ở bể đông, quét sạch bờ cõi, để cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu cong lưng làm tì làm thiếp người ta”. Ra trận, Bà Triệu cưỡi voi mặc giáp vàng trông rất oai phong, khiến quân Ngô phải khiếp sợ. Nghĩa quân tôn bà là Nhụy Kiều tướng quân. Bà Triệu đã anh dũng hy sinh năm 23 tuổi.Hiện nay có đền thờ Bà Triệu trên núi Gai (núi Ải), làng Phú Điền (Thanh Hóa), và lễ hội kỷ niệm vào ngày 21 tháng 2 âm lịch hàng năm.
6- Thái Hậu Dương Vân Nga (942-1000)*: Dương Hậu là chánh cung Hoàng hậu của vua Đinh Tiên Hoàng, húy là Dương Vân Nga. Khi vua Đinh bi tên Đỗ Thích đầu độc chết, con là Đinh Tuệ lên nối ngôi, bà trở thành Thái Hậu nhiếp chính. Nhà Tống nghe tin Đinh Tiên Hoàng mất, tự quân Đinh Tuệ còn nhỏ, nên đem quân sang xâm chiếm nước ta. Trước tình thế nguy cấp, Phạm Cự Lượng cùng một số tướng lãnh đã tôn Thập Đạo Tướng Quân Lê Hoàn lên ngôi để lo chống ngoại xâm. Thái Hậu Dương Vân Nga biểu đồng tình và sau đó trở thành chánh cung Hoàng Hậu của vua Lê Đại Hành. Nhờ tính cương nghị và thông hiểu tình thế, yên vị được triều chính, Dương Hậu đã giúp vua Lê đánh tan quân Tống. Hiện nay, tượng và đền thờ Dương Hậu tại đền vua Lê Đại Hành, ở làng Trường Yên (Ninh Bình), và lễ hội kỷ niệm cùng vào ngày kỷ niệm vua Đinh và vua Lê, 10 tháng 3 âm lịch (lễ hội Trường Yên)* Theo tài liệu của Hoàng Công Khanh (Hoàng Hậu hai triều Dương Vân Nga).
7- Ỷ Lan Nguyên Phi (?- 1117): Tên thật là Lê Thị Ỷ Lan, xuất thân từ gia đình nông dân, người làng Thổ Lỗi, Bắc Ninh. Tương truyền bà đứng tựa gốc lan trong khi mọi người trong làng nô nức ra xem đoàn xa giá của vua Lý Thánh Tông đi qua. Nhà vua cảm sắc đẹp và thái độ dửng dưng lạ lùng của bà, bèn tuyển về cung làm Ỷ Lan (dựa gốc lan) phu nhân. Sau bà sinh ra vua Lý Nhân Tông và trở thành Hoàng thái hậu. Thái Hậu Ỷ Lan đã giúp vua Lý Thánh Tông tạm thời nhiếp chính, trị nước kết quả tốt đẹp khi vua thân chinh đi đánh Chiêm Thành. Bà cũng có lòng cứu giúp những người con gái nhà nghèo phải đi ở đợ, nên dân chúng thời bấy giờ xưng tụng bà là “Quan Âm”. Thái Hậu Ỷ Lan mất ngày 25 tháng 7 năm Đinh Dậu (1117) (Không rõ ngày sinh).
8- Công Chúa An Tư (thời vua Trần Nhân Tông): Bà là con gái út vua Trần Thánh Tông, em gái vua Trần Nhân Tông (1279-1293), không rõ năm sinh năm mất. Tháng 2 năm Ất dậu (1285), Thoát Hoan xâm lăng đánh thắng nhiều nơi, đồng thời có một số vương hầu nhà Trần hàng giặc. Để ngăn chặn bớt tính hung hãn của giặc, vua Trần Nhân Tông đã sai Trần Dương và Đào Kiện đưa quốc muội là công chúa An Tư gả cho Thoát Hoan. Ngoài chiến trường, dưới sự chỉ huy của Hưng Đạo Đại Vương, quân dân nước Nam cương quyết đánh giặc, trong khi đó dưới trướng Thoát Hoan, công chúa An Tư phải âm thầm nuốt nhục, hy sinh đời xuân sắc để trì hoãn sức giặc. Sự hy sinh của công chúa An Tư đã đóng góp phần nào cho cuộc chiến thắng quân Nguyên Mông dưới triều Trần, thế kỷ thứ ba.
9- Công Chúa Huyền Trân (cuối thế kỷ 13, đầu thế kỷ 14): Trần Thị Huyền Trân là con gái vua Trần Nhân Tông, em gái vua Trần Anh Tông (trị vì 1293-1314). Không rõ ngày sinh ngày mất. Năm Bính Ngọ (1306), vua Trần Anh Tông nhận gả Huyền Trân cho vua Chiêm Chế Mân. Để đáp lễ, vua Chiêm dâng tặng Đại Việt 2 châu Ô và Lý. Huyền Trân về Chiêm được phong làm Hoàng Hậu. Hơn 1 năm sau, Chế Mân chết, theo tục lệ Chiêm Thành, Huyền Trân phải lên giàn hỏa. Vua Anh Tông sai tướng Trần Khắc Chung sang cứu. Tương truyền Trần Khắc Chung là người tình cũ của Công chúa Huyền Trân, do đó đã tạo nên một câu truyện tình lâm ly bi thiết trong sử Việt. Dù bị phê phán về nhiều mặt, do sự kỳ thị chủng tộc và nền giáo lý Khổng Mạnh khắt khe, công chúa Huyền Trân vẫn được dân chúng Việt Nam biết ơn về sự việc nàng mang về cho nước Đại Việt hai châu Ô Lý, mở đầu cho cuộc Nam tiến sau này.
10- Nguyễn Thị Bích Châu (Thời vua Trần Duệ Tông): Bà là phi hậu triều vua Trần Duệ Tông ( trị vì 1372-1377), không rõ năm sinh năm mất. Trước đó khoảng 20 năm, cuối đời vua Trần Dụ Tông (trị vì 1341-1369), vì chính triều đổ nát, dân chúng lầm than, ông Chu Văn An đã dâng “Thất Trảm Sớ” đòi chém bẩy quyền thần gian nịnh. Bà phi hậu Bích Châu tuy là phận gái ở trong cung, cũng đã noi theo được tấm gương bất khuất của thầy Chu, can đảm dâng lên vua Duệ Tông bài “Kê Minh thập sách”, để cứu nguy xã tắc. Trong 10 điều (thập sách), có các điểm mạnh như sau: “Một là trừ kẻ bạo”, “Hai là tránh việc phiền nhiễu”, “Ba là trừ mọt nước”, “Bốn là đuổi bọn những lại” Bà Nguyễn Thị Bích Châu chỉ là một cung nhân mà “dám nói ra những sự thối nát của chế độ giữa thời phong kiến toàn thịnh, kể thật can đảm và đáng khen lắm thay (Phạm Văn Sơn - Việt Sử Tân Biên)
11- Lương Minh Nguyệt (Thời Lê Lợi kháng Minh): Bà là vợ Đinh Liệt ( - 1471) (danh tướng của Bình Định Vương Lê Lợi), người làng Chuế Cầu, tỉnh Nam Định, có nhan sắc và giỏi nghề ca hát Ả đào. Trong thời gian Lê Lợi kháng Minh, bà đã mở quán rượu nổi tiếng ở gần thành Cổ Lộng (Đông Đô tức Thăng Long), cốt ý dò la tin giặc, giúp kháng chiến. Trong một cuộc tấn công thành Cổ Lộng, bà Minh Nguyệt đã cùng các cô gái tiếp viên phục rượu một số tướng Minh say mèm, và làm ám hiệu để quân Lam Sơn dưới quyền chỉ huy của tướng Lê Thạch chiếm được thành. Sau, Đinh Liệt được phong tước Quốc công, mang họ nhà vua (họ Lê), và bà là Nhất Phẩm Phu nhân. Các vua đời sau đều có sắc phong vợ chồng bà là Phúc thần. Theo tài liệu của Giáo Sư Trần Gia Phụng, bà Lương Thị Huệ có lẽ là một tên khác của bà Lương Minh Nguyệt (?), hiện có đền thờ tại huyện Thọ Xương và dân chúng còn gọi bà là Ngọc Kiều Phu nhân.
12- Vũ Thị Thiết tức Thiếu Phụ Nam Xương (Đời Lê Thánh Tông): Bà quê huyện Nam Xương (Hà Nam), là vợ chàng Trương, mới có thai thì chồng được gọi đi lính thú phương xa. Đứa bé trai sinh ra không biết mặt cha. Mỗi tối bà thường chỉ bóng mình trên vách mà dạy con chào hỏi cha trước khi đi ngủ. Ít lâu sau chàng Trương trở về, đứa bé thấy xa lạ và nói bố nó chỉ về lúc đêm tối. Chàng Trương nghi ngờ vợ ngoại tình, nên đã mắng nhiếc đuổi đi. Bà Thiết bị oan ức, lai không biết biện bạch ra sao, bèn nhẩy xuống sông Hoàng Giang (địa phận Nam Xương) tự tận. Đến tối thắp đèn lên, đứa bé mới chỉ bóng chàng Trương trên vách và nói rằng bố nó đã về. Chàng Trương lúc đó mới hiểu ra, nhưng đã trễ. Dân chúng biết chuyện người đàn bà tiết nghĩa chết oan, bèn lập miếu thờ. Vua Lê Thánh Tông (1460-1497) tuần thú đi qua miếu, đã làm một bài thơ vịnh rất nổi tiếng, được khắc vào bia đá năm 1471, và truyền tụng đến ngày nay.
13- Thánh Mẫu Liễu Hạnh (thế kỷ 16): Là nhân vật thần thoại, được người đời sùng bái, xưng tụng là Liễu Hạnh Công chúa hay Thánh mẫu đền Sòng (Sòng Sơn, Thanh Hóa).Theo Truyền thuyết, Liễu Hạnh Công chúa chính là Công chúa Quỳnh Nương trên Thiên Đình, bị giáng xuống trần làm con gái một vị quan triều Hậu Lê, mang tên là Lê Thị Giáng Tiên, quê làng Vân Cát, huyện Vân Cát (Phủ Giầy), Nam Định. Giáng Tiên rất xinh đẹp, giỏi thơ văn, đàn sáo và soạn nhiều bài hát rất hay, kết duyên với Đào Lang năm 18 tuổi. Được 3 năm, Giáng Tiên đã đột ngột từ trần, trở về thượng giới. Nhưng vì chưa hết hạn đi đầy, Giáng Tiên lại giáng xuống trần, đổi tên là Liễu Hạnh cùng với hai ngọc nữ Quế Nương và Thị Nương. Ba người hiện xuống một làng ở Thanh Hoá, đi khắp các nơi cứu nhân độ thế và nhiều lần hiển linh cứu giúp dân lành, hoặc làm thơ xướng hoạ với các danh sĩ thời đó. Sau khi trở về trời, Bà Liễu Hạnh được dân chúng suy tôn là Mẫu Nghi thiên hạ, và được vua Lê sắc phong là Thượng Đẳng tối linh thần. Dân chúng lập đền thờ tại những nơi bà đã đi qua như Phủ Giầy ở Nam Định. Đền Sòng ở Thanh Hóa và Tây Hồ ở Thăng Long. Lễ hội từ mồng 1 đến mồng 10 tháng 3 âm lịch.
14- Công chúa Ngọc Vạn (thế kỷ 17): Công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Vạn là con của Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (chúa Nguyễn Đàng trong từ 1613-1635). Năm 1620, công chúa Ngọc Vạn kết hôn với vua Chân Lạp (Cambodia), và trở thành Hoàng Hậu vương quốc Chân Lạp, thủ đô lúc đó là Udong. Những tùy tùng của công chúa Ngọc Vạn đều được giữ những chức vụ quan trọng trong triều đình Chân Lạp. Năm 1623, Sãi Vương sai sứ bộ đến Udong, xin cho người Việt được định cư ở vùng Sài gòn ngày nay, và được buôn bán, mở khu dinh điền. Nhờ sự vận động của Hoàng Hậu Ngọc Vạn, các đề nghị của chúa Nguyễn đều được vua Chân Lạp chấp thuận. Công chúa Ngọc Vạn đã có công mở đường cho người Việt trong cuộc Nam tiến xuống đồng bằng sông Cửu Long và mở rộng giang sơn như ngày nay.
15- Công chúa Ngọc Hân (1770-1799): Công Chúa Lê Thị Ngọc Hân là con vua Lê Hiển Tông. Năm 16 tuổi, công chúa kết duyên với vị anh hùng Nguyễn Huệ, người có công diệt Trịnh Phù Lê và đánh đuổi quân xâm lăng Xiêm La và Mãn Thanh. Bà Ngọc Hân vừa xinh đẹp, lại có tài văn học, được Hoàng Đế Quang Trung Nguyễn Huệ phong làm Bắc cung Hoàng Hậu. Khi vua Quang Trung đột ngột băng hà, bà rất buồn, đã sáng tác các bài “Văn tế vua Quang Trung” và “Ai Tư Vãn”, đóng góp cho kho tàng văn học Việt Nam những áng thơ hay và cảm động.
16- Nữ Sĩ Đoàn Thị Điểm (1705-1746): Bà sinh năm 1705, người tỉnh Bắc Ninh, rất giỏi văn thơ, hiệu là Hồng Hà nữ sĩ. Năm 16 tuổi, bà được tiến cung làm phi tần, nhưng sau đó bà xin về, rồi làm chức giáo thụ ở cung cấm. Bà đã phải trải qua nhiều năm loạn lạc, sau kết hôn với tiến sĩ Nguyễn Kiều, người huyện Từ Liêm. Bà đã sáng tác “Tục Truyền Kỳ” hay “Truyền Kỳ Tân Phả” bằng chữ Nho và dịch “Chinh Phụ ngâm khúc” bản chữ Hán của Đặng Trần Côn. Khúc ngâm Chinh phụ bằng chữ nôm (quốc ngữ) theo thể thơ “song thất lục bát”. đã diễn tả được tâm tình người phụ nữ Việt Nam trung trinh tiết hạnh, vừa buồn lo khi chồng chinh chiến phương xa, vừa phải thay chồng gánh vác công việc gia đình, dạy dỗ con thơ, vừa phải lo giữ gìn phẩm hạnh. Nữ Sĩ Đoàn Thị Điểm mất ngày 11 tháng 9 năm Bính Dần (1746).
17- Nữ Tướng Bùi Thị Xuân (?-1802): Bà là nữ tướng tài giỏi của nhà Tây Sơn, vợ danh tướng Trần Quang Diệu, quê tỉnh Bình Định. Trong các chiến trận của nhà Tây Sơn, vợ chồng bà đều lập được nhiều chiến công oanh liệt.Năm 1802 vua Gia Long thắng trận, bà bị hành hình bằng voi giày. Theo giáo sĩ La Bissachère có mặt tại hiện trường, bà Bùi Thị Xuân rất can đảm, đã lấy vải quấn chặt người cho khỏi lộ liễu và đứng thẳng người trước mặt voi khiến voi phải sợ hãi lùi lại. Bà Bùi Thị Xuân đã đóng góp công lao với nhà Tây Sơn trong các cuộc chinh chiến, nhất là nhàTây Sơn đã dứt được họ Trịnh ở miền Bắc và dẹp tan các cuộc xâm lăng của Xiêm La và Mãn Thanh, nên Bà chiếm được nhiều cảm tình của dân chúng Việt Nam.
18- Nữ sĩ Hồ Xuân Hương (1780-1820)* : Bà Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ nổi tiếng đầu thế kỷ 19, có tài văn thơ cả về chữ Nôm lẫn chữ Hán, con ông Hồ Phi Diễn, người làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An). Thơ Nôm của bà thường chua chát, châm biếm và khinh mạn mọi giới. Thơ Hán của bà tuy cũng mang vẻ buồn, nhưng lại rất chừng mực và chứa chan tình cảm. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương là thi sĩ Việt Nam duy nhất có tên trong “Từ Điển Văn Nhân Larousse”.* Theo “Những câu chuyện Việt Sử” - Trần Gia Phụng
19- Bà Huyện Thanh Quan (Đầu thế kỷ 19): Bà tên thật là Nguyễn Thị Hinh, người làng Nghi Tàm (Hà Đông), lấy ông Cử Lưu Nghị (1804-1847) là Tri Huyện Thanh Quan (nên thường gọi bà là bà Huyện Thanh Quan). Chồng bà mất năm 43 tuổi, bà vẫn ở vậy nuôi con. Triều vua Minh Mạng, bà được mời làm Cung Trung giáo tập, dạy cung phi và công chúa trong cung. Thơ bà Huyện Thanh Quan nổi tiếng thanh tao, trang nhã, ý nhị và điêu luyện, nghe man mác nỗi buồn hoài cổ, nhớ nước nhớ nhà như các bài “Qua Đèo Ngang Tức Cảnh”, “Thăng Long Hoài Cổ”, “Chiều Hôm Nhớ Nhà”
20- Thái Hậu Từ Dũ (1810-1902): Tên húy là Phạm Thị Hằng, người tỉnh Gia Định. Bà là con gái Quốc Công Phạm Đăng Hưng, được tiến cung năm 14 tuổi và trở thành quí phi của vua Thiệu Trị. Bà sinh ra vua Tự Đức nên trở thành Tháí Hậu, hiệu Từ Dũ Bát Huệ Thái hoàng Thái hậu.Theo Sử Gia Trần Trọng Kim, Thái Hậu Từ Dũ “thuộc sử sách đã nhiều mà biết việc đời cũng rộng” Đến đời vua Thành Thái, Bà được dâng tôn hiệu là Từ Dũ Bát Huệ Khương Thọ Thái thái hoàng thái hậu. Thái Hậu Từ Dũ là người quyền cao đức trọng thời nhà Nguyễn, đã nêu tấm gương tốt về đức hạnh cho hậu thế. Bà mất ngày 5 tháng 4 Nhâm Dần, thọ 92 tuổi.
21- Bà Tú Xương (cuối thế kỷ 19): Bà họ Phạm, người tỉnh Hải Dương, là hiền thê nhà thơ trào phúng Trần Tế Xương (1869-1907) tức Tú Xương. Bà là người mẹ hiền tiêu biểu cho những bà mẹ quê Việt Nam chỉ biết một đời tận tụy cho chồng, cho con, không nề hà gì đến chính bản thân mình, đúng như lời thơ của Tú Xương đã diễn tả: “Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi nấng năm con với một chồng. Lặn lội thân cò khi quãng vắng, Eo sèo mặt nước, buổi đò đông”. Bà Tú Xương quả đúng là một Hiền phụ Việt Nam.
22- Bà Sương Nguyệt Anh (1863-1921): Bà Sương Nguyệt Anh tên thật là Nguyễn Thị Khuê, sinh ngày 24 tháng 12 năm Quí Hợi (1863) tại Gia Định, con gái thứ tư của cụ Nguyễn Đình Chiểu tức Đồ Chiểu. Bà có nhan sắc xinh đẹp, lại có tài văn chương, đoan trang, tiết hạnh, nhưng lập gia đình trễ. Trên 25 tuổi bà mới kết hôn, sinh được một gái thì chồng chết. Bà ở vậy nuôi con, vui với thơ văn, lấy bút hiệu là Sương Nguyệt Anh (nghĩa là người sương phụ, thủ tiết thờ chồng). Bà viết: ”Gương tỏ đời nay trong tiết phụ, Lâu dài tiếng tốt tạc non sông”. Bà rất hay chữ, giỏi thơ, nổi danh ở miền Nam, và làm chủ bút tuần báo “Nữ Giới Chung” ở Sài Gòn, là tuần báo đầu tiên ở nước ta. Bà Sương Nguyệt Anh mất ngày 12 tháng 11 âm lịch (4 tháng 1 năm 1921), hưởng dương 58 tuổi. (Theo tài liệu của Lãng Nhân trong “Hương Sắc Quê Mình”, và tài liệu của Hồ Trường An – Giai Phẩm Sương Nguyệt Anh – 2002)
23- Bà Ba Đề Thám (cuối thế kỷ 19): Bà tên thật là Đặng Thị Nhu (còn có tên là Đặng Thị Nho tức Bà Ba Cẩn), vợ thứ ba của nhà cách mạng Hoàng Hoa Thám (Đề Thám). Bà là một nữ tướng rất can trường, cùng sát cách với chồng trong cuộc kháng chiến chống Pháp tại Yên Thế cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Ngày 1-2-1909, bà và con gái là Hoàng Thị Thế bị Pháp bắt và đầy đi Guyanne thuộc Pháp ở Nam Mỹ. Tương truyền, trên đường lưu đầy bà Ba Đề Thám đã nhẩy xuống biển tự tận, noi gương bất khuất của Bà Trưng Bà Triệu.
24- Bà Phan Bội Châu (1866-1936): Bà tên thật là Thái Thị Huyên vợ nhà Cách Mạng yêu nước Phan Bội Châu (1867-1940), người làng Diên Lân, tỉnh Nghệ An. Bà làm dâu nhà họ Phan năm 23 tuổi, đã hết lòng giữ trọn đạo dâu hiền. Chồng thi đỗ Giải Nguyên, bà vẫn giữ nếp nhà, sống đời bình dị, lo cho chồng cho con. Chồng bà xuất dương cứu nước hơn 20 năm, bà vẫn giữ lòng chung thủy, vò võ nuôi con. Khi ông Phan Bội Châu bị bắt về nước năm 1925, bà được gặp mặt chồng nửa tiếng đồng hồ tại Nghệ An rồi lại xa cách cho đến lúc mãn phần. Trong mấy lời chia tay, bà đã nói: “Vợ chồng ly biệt nhau hơn 20 năm, nay được một lần giáp mặt Thầy, trong lòng tôi đã mãn túc rồi. Từ đây trở về sau, chỉ mong Thầy giữ được lòng xưa”. Bà Phan Bội Châu là tấm gương sáng của người Phụ Nữ Việt Nam, một lòng trung trinh tiết hạnh, thờ chồng nuôi con, giúp cho chồng con giữ vững tinh thần trên bước đường dấn thân cứu nước. Hiền Phụ Thái Thị Huyên mất ngày 1 tháng 4 âm lịch (21-5-1936), thọ 70 tuổi.
25- Bà Lê Thị Đàn (Ấu Triệu) (Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20): Người tỉnh Thừa Thiên, hoạt động tích cực trong Duy tân hội tại Huế, được Phan Bội Châu đặt biệt danh là “Ấu Triệu” tức “Triệu nhỏ” (ý so sánh với bà Triệu lớn tức bà Triệu Thị Trinh). Bà phụ trách liên lạc, chuyển vận thư từ, tiền bạc cho những nhà hoạt động cách mạng khắp các nơi ở Trung phần. Năm 1910, bị Pháp bắt, bà tự tử trong tù tại Quảng Trị” (Trần Gia Phụng - Những câu chuyện Việt sử).
26- Nguyễn Thị Bắc (Liệt sĩ cận đại): Nguyễn Thị Bắc và Nguyễn Thị Giang là hai chị em ruột, quê ở Bắc Giang, tục gọi là Cô Bắc, Cô Giang, đều là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, chi bộ Bắc Giang. Cô Bắc cùng với Cô Giang làm liên lạc và tuyên truyền, hoạt động rất tích cực. Năm 1930, sau khi cuôc khởi nghĩa Yên Bái do Đảng Trưởng Nguyễn Thái Học lãnh đạo bị thất bại, Cô Bắc bị Pháp bắt và đưa ra xét xử trước Hội đồng đề hình Pháp. Cô đã hiên ngang chỉ trích chế độ Thực dân Pháp tại Đông Dương và nói: “Các ông hãy về Pháp mà kéo đổ tượng Jeanne d’Arc đi “(Jeanne d’Arc là một nữ anh hùng Pháp), khiến người Pháp phải kiêng nể tinh thần bất khuất của người Phụ nữ Việt Nam.
27- Nguyễn Thị Giang ( - 1930)(Liệt sĩ cận đại): Cô Giang là vị hôn thê của lãnh tụ Nguyễn Thái Học, Đảng trưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng. Cô là một đảng viên rất đắc lực, đã cùng với cô Bắc hoat động tuyên truyền liên lạc giữa các cơ sở đảng ở Bắc Giang, Phú Thọ, Bắc Ninh, Vĩnh Yên. Năm 1929, Cô Giang gặp Nguyễn Thái Học và hai người cùng chí hướng đã yêu nhau. Sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái bị thất bại, ngày 17-6-1930, Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí bị Pháp đưa lên máy chém ở Yên Bái, Cô Giang đã đến tận pháp trường để chứng kiến cái chết anh dũng của người yêu và 12 đồng chí Việt Nam Quốc Dân Đảng. Sau đó Cô về nhà trọ viết thư tuyệt mệnh gửi song thân và gửi hương hồn Nguyễn Thái Học, trong dó có câu: “Anh đã là người yêu nước, không làm tròn được nghĩa vụ cứu nước. Anh giữ lấy linh hồn cao cả để về dưới suối vàng chiêu binh rèn súng đánh đuổi quân thù”. Cô Giang còn làm một bài thơ lục bát, tỏ rõ ý chí hy sinh vì nước, sau đó đã dùng súng lục tự tử để bảo toàn danh tiết và bảo toàn bí mật cho đảng. Trước khí tiết hiên ngang bất khuất của Cô giang và Cô Bắc, người đời sau ai cũng ngậm ngùi thương tiếc.
28- Nàng Tô Thị: Nàng Tô Thị là tên một hiền phụ trong truyền thuyết, lai lịch có thể xuất phát từ tỉnh Lạng Sơn, theo câu ca dao: “Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa, Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh”. Đồng Đăng là một thị trấn sát biên giới Hoa Việt thông qua cửa ải Nam Quan, nơi trấn đóng của lính thú đời xưa lo gìn giữ biên cương. Phố Kỳ Lừa có chợ Kỳ Lừa, đọc trại từ tiếng Thổ “háng Khau-lừ” có nghĩa là “chợ đồi con lừa” là nơi sinh hoạt, buôn bán sầm uất của xứ Lạng thời bấy giờ. Động Tam Thanh là một hang động đẹp nổi tiếng ở Lạng Sơn, trong đó có một ngôi chùa cổ. Trên hòn núi đá gần khu động Tam Thanh có một tảng đá thiên nhiên nhô ra, chênh vênh trông giống như hình tượng một thiếu phụ đứng nhìn về phía biên cương, mòn mỏi chờ chồng chinh chiến trở về: Người ta gọi đó là nàng Tô Thị, đứng chờ chồng lâu ngày đã hoá thành đá. Cũng có truyền thuyết cho rằng “đó là người con gái họ Tô, bồng con đợi chồng lâu ngày đến nỗi hóa đá, thành hòn núi Vọng Phu” (Trần Gia Phụng - Những Câu Chuyện Việt Sử). Nàng Tô Thị chính là hình ảnh của người phụ nữ trung trinh, những hiền phụ Việt Nam, luôn luôn giữ lòng chung thủy, là nguồn an ủi của những người lính thú xa nhà, đồng thời cũng là hình ảnh những chinh phụ vô danh Việt Nam, lo toan việc nhà, thờ mẹ nuôi con trong khi chồng chinh chiến phương xa.
Kết Luận: Phụ nữ Việt Nam trong truyền thuyết đều là những người đàn bà nổi tiếng tài ba, những anh thư hào hùng bất khuất, những hiền phụ hết lòng hết dạ lo cho chồng cho con. Đó là những vị Vua, những vị Thái hậu, Hoàng hậu, những Công chúa, những Nữ văn nhân, Thi sĩ, những Nữ tướng, những Sương phụ, Tiết phụ và những Bà Mẹ Việt Nam kể cả những người Con Gái Việt Nam không tên tuổi, nhưng đều mang dòng máu Tiên Rồng, trung trinh tiết hạnh, được dân tộc Việt Nam truyền tụng, sùng bái và tin tưởng.
Mục đích “vinh danh những Phụ nữ truyền thuyết Việt Nam”, trước hết là để chứng minh người phụ nữ Việt Nam từ ngàn xưa đã là những người đáng kính phục cả về tài ba lẫn đức hạnh và những người phụ nữ có công với đất nước, sau nữa là để nêu lên những tấm gương sáng cho hậu thế, nhất là giới trẻ Việt Nam, được soi chung.
Bảng đề nghị danh sách “Phụ Nữ Truyền Thuyết Việt Nam” nêu trên chỉ là một bài viết có tính cách phổ biến tài liệu của các nhà biên khảo. Cũng vì thế, bảng đề nghị này, do cá nhân biên soạn, phần nào theo cảm tính riêng, nên không tránh khỏi sự thiếu sót. Chúng tôi kính mong được sự chỉ giáo của các vị cao minh.
Sách tham khảo: - Việt Nam Sử Lược - Trần Trọng Kim - Nhà Xuất bản Miền Nam - Những Câu Chuyện Việt Sử - Trần Gia Phụng - Tập 2 - Toronto, Canada - 1999 - Đại Việt Sử Ký Toàn Thư - Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội. - Từ Điển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam - Nguyễn Q. thắng, Nguyễn Bá Thế - Nhà XB Văn Hóa. - Non Nước Việt Nam - Sách hướng dẫn Du Lịch. - Sơ thảo Địa Lý Tỉnh Lạng Sơn - Do các giáo Viên Lạng sơn biên soạn - LS tháng 5 năm 1955. - Việt Sử Tân Biên - Phạm Văn Sơn - Tủ Sách Sử Học Việt Nam - Hoàng hậu Hai Triều Dương Vân Nga - Hoàng Công Khanh - Nhà XB Văn Học. - “Liễu Hạnh Tiên Chúa” - Bưu Văn Phan Kế Bính - Bài viết phổ biến trên Internet. - Hội Hè Đình Đám (Quyển Thượng) - Toan Ánh - Tài liệu của Lãng Nhân (Hương Sắc Quê Mình) - Hồ Trường An (Giai Phẩm SNA 2002)
|