Thiền trà PDF Print E-mail
Tác Giả: Huỳnh Kim Bửu   
Thứ Bảy, 04 Tháng 7 Năm 2009 21:58

Câu chuyện tôi viết ra đây là câu chuyện về Hòa thượng Tịnh Như, chùa Viên Giác.

Tôi có mấy lần được Hòa thượng Tịnh Như, trụ trì chùa Viên Giác, mời đến uống trà với ngài. Trà thiết Quan Am Đài Loan được ngài chia thành túm nhỏ, gói trong lớp giấy trắng mỏng. Chiều hôm trước, khi mặt trời vừa lặn và sương chiều bắt đầu buông xuống, ngài chèo thuyền ra giữa hồ sen trước cổng tam quan chùa, đặt những túm trà vào giữa lòng những búp sen hàm tiếu để cho trà ướp cái hương sen phong nhụy ấy qua đêm.

Sáng hôm sau, sau buổi tụng kinh, ngài lại chèo thuyền đi thu những túm trà ấy và hứng luôn những giọt sương đêm đọng lại trên những lá sen, đem về làm nước pha trà. Chờ khách đến, ngài đích thân quạt lò than đun nước, đích thân tráng bình độc ẩm, pha trà tiếp khách. Trà sen rót ra chén độc ẩm màu nước vàng hơi ngả xanh, bốc hương thơm. Người uống trà cầm tách trà nóng lên uống, cảm nhận hương vị của trà thật tuyệt vời, nhất là thưởng thức trong cảnh thanh tịnh thì không thể tả hết niềm khoái cảm dâng lên trong tâm hồn.

Hòa thượng trụ trì là người yêu thơ, có sáng tác mấy tập thơ đượm vị thiền. Tôi yêu hai câu thơ dịch của ngài:

“Trời xanh bát ngát mây vương núi
Hồ biếc êm đềm nước động trăng”

Nguyên văn chữ Hán cùng thủ bút của tác giả khắc trên tam quan chùa Viên Giác:

“Nguyệt hạ bất xao kim tỏa đoạn
Sơn tiền chỉ nhậm bạch vân phong”

Hòa thượng Bích Liên.

Có lần, chủ khách uống cạn mấy ấm trà, ngài hứng khởi hỏi tôi: - “Ông giáo nè, ông có chịu với tôi là thơ văn viết về thú uống trà nhiều lắm và có nhiều bài hay?”. Tôi liền đáp: - “Dạ thưa ngài, trong Truyện Kiều danh tác, Nguyễn Du đã viết hai câu thực hay:

Thiền trà cạn nước hồng mai
Thong dong nối gót thư trai cùng về.

Hai câu thơ tả cảnh Hoạn Thư dẫn Thúc Sinh về nhà sau khi hai người đã dùng trà tại Quan Âm Các, do Thúy Kiều thết đãi, và để lại cho Thúy Kiều thêm một nỗi kinh hoàng.

Nhà văn Nguyễn Tuân viết tùy bút “Những chiếc ấm đất” tài hoa lắm. Hoà thượng gật gù: - “Theo tôi nghĩ, việc uống trà ở nhà chùa chúng tôi được gọi là “thiền trà” có lẽ kể từ đó. Còn ông nhà văn viết tùy bút kia là bực giỏi lắm, lại sành điệu uống trà, có thể xếp vào hàng đệ tử của “Trà đạo”. Tôi yêu biết mấy bài thơ “Qua áng hương trà” của Vũ Hoàng Chương:

“Hương biếc tràn quanh nắp đậy hờ
Ấm sành nho nhỏ khói lên tơ
Hồn sen thoảng ngát trà dâng đượm
Ai biết mình sen rụng xác xơ”.

Đến khổ kết của bài thơ thì “nên câu tuyệt diệu” giàu ý nghĩa nhân văn, thức tỉnh ta quay về với Tâm không của nhà Phật, ông giáo nhé:

“Nâng chén mời anh thưởng vị trà
Đừng quên tan tác mấy đời hoa
Cạn từng hớp nhỏ cho Sen đượm
Vớt lại trần ai một chút Ta”.

Ngài dừng lại nhấp ngụm trà, tôi hầu chuyện tiếp: - “Thưa ngài, Quách Tấn còn có bài mời bạn chén trà đưa tiễn”. Ngài hỏi tôi: - “Có phải ông giáo muốn nói bài “Động hoàng hôn” đấy chứ? Rồi ngài cảm khái đọc bài thơ:

“Hương trà chưa cạn chén hàn ôn
Thuyền đã buông theo tiếng sóng dồn
Ngắm vọi mây thu ùn mặt biển
Gác chuông thành cổ động hoàng hôn”.

Một góc thiền trà

Tiễn người ra đi bằng một tiệc trà như thế, tôi chắc là người đi hương trà còn theo người mãi, cho tới khơi xa. Và tôi cũng cho rằng ông nhà thơ cũng cắc cớ, tại sao không tiễn người ra đi bằng rượu như thông lệ mà lại tiễn bằng trà.

Hòa thượng Tịnh Như, trụ trì chùa Viên Giác, nay không còn nữa. Chắc ngài đã về cõi Như Lai, nhưng cái phong cách uống trà, cái dáng đi nhẹ thênh như mây như khói và cái hồn yêu thơ của ngài thì tôi không thể nào quên được.