Ngắm Hoa Xuân Kỷ Sửu - Đọc Tài Liệu Mậu Thân |
Tác Giả: Khối 8406 Tự do Dân chủ cho Việt Nam | |||||||
Thứ Tư, 28 Tháng 1 Năm 2009 21:45 | |||||||
Quý vị và các bạn trẻ thân mến Trong dòng lịch sử Việt Nam, hiếm có biến cố nào gây chấn động cho Dân tộc bằng biến cố tết Mậu Thân năm 1968. Nó đã qua đi hơn 40 năm rồi, nhưng chúng ta không thể không nhắc lại, vì nhiều lý do:
1- Do nhu cầu công bố sự thực: Quả vậy, theo các sử liệu và chứng từ, đó là một cuộc xâm lăng miền Nam bởi những kẻ thấm nhiễm chủ nghĩa Cộng sản phi nhân bản, phản dân tộc đến từ miền Bắc hoặc “nằm vùng” tại chỗ. Cuộc xâm lăng ấy đã gây đổ nát, đau thương cho nửa đất nước, đặc biệt là ở Huế. Đau thương vì đó là một cuộc tàn sát chính đồng bào ruột thịt, lại đa phần là những con người vô tội, ngay trong chính những ngày Tết thiêng liêng của đất nước. Quân Tàu rồi quân Pháp từng xâm lược tổ quốc, chiếm cứ thành thị nhưng chưa bao giờ tàn sát dã man Đồng bào ta như thế. Vậy mà những người Cộng sản vẫn cố tình bóp méo lịch sử mà gọi đó là cuộc “Tổng công kích và nổi dậy”, một “điểm son chói lọi của lịch sử dân tộc… một sáng tạo độc đáo của chiến tranh cách mạng Việt Nam” !?! 2- Do nhu cầu đòi hỏi công lý: Vô số nạn nhân vô tội, già có trẻ có, nam có nữ có, cả học sinh, sinh viên, trí thức lẫn tu sĩ, viên chức, dân thường thời ấy đã bị giết chết bằng nhiều kiểu cách hết sức tàn bạo như đánh vỡ sọ bằng cuốc và báng súng, trói thành chùm rồi thảy lựu đạn vào hay xâu thành giây rồi đẩy xuống hố chôn sống. Thế nhưng những kẻ gây ra tội ác, tới giờ phút này, vẫn cứ cho đó là chiến thắng để ăn mừng, cho đó là cuộc trừng phạt “những kẻ có nợ máu với nhân dân” để mà hãnh diện. Hàng trăm ngàn nạn nhân của cuộc thảm sát này -mãi đến hôm nay- vẫn chưa nghe được một lời nói tạ lỗi và thấy được một cử chỉ sám hối từ phía các tay đồ tể là đảng Cộng sản Việt Nam, đồng bào ruột thịt của họ. Chúng ta nói là hàng trăm ngàn người, vì ngoài con số 14.300 nạn nhân vô tội nêu trên (riêng Huế chiếm gần một nửa), còn phải kể đến 100.000 bộ đội miền Bắc (con số do chính CS đưa ra) đã bị nướng vào cuộc tàn sát dân tộc này. Đó là chưa tính hàng triệu thân nhân của họ. Tuy kẻ chủ xướng vụ việc là Hồ Chí Minh và các lãnh đạo cao cấp trong đảng CS thời ấy nhưng giới cầm quyền tại Việt Nam hôm nay vẫn tiếp tục mang trách nhiệm. Chúng tôi tung ra các tài liệu này (nhiều tập nhỏ liên tiếp, xin đón đọc) không phải như lời kêu gọi trả thù, báo oán nhưng như một nỗ lực khai trí cho các thế hệ sinh sau 1968, một cố gắng “khai tâm” cho những người CS mù quáng hận thù, và nhất là như nén hương lòng tưởng nhớ các đồng bào nạn nhân vô tội trong biến cố Tết Mậu Thân. Khối Tự do Dân chủ cho Việt Nam 8406 I- NGHIÊN CỨU TỔNG QUÁT Biến cố Tết Mậu Thân Đinh Lâm Thanh Bài thuyết trình trong dịp tưởng Niệm 40 năm biến cố Mậu Thân tổ chức tại Paris ngày 02.03.2008 Kính thưa Quý Vị
Tôi được ban tổ chức có nhã ý mời tham gia đề tài ‘Biến cố Tết Mậu Thân’ trong dịp ‘Truy Điệu và Tưởng Niệm Nạn Nhân’ hôm nay. Tôi xin cám ơn ban tổ chức và hân hạnh trình bày cùng quý vị một vài điểm quan trọng, bài viết chia làm 3 phần : Thứ 1. Diễn tiến của quân Cộng sản kéo vào đánh hai thành phố lớn Sài Gòn và Huế. Thứ 2. Tội ác của Cộng sản gây ra trong ‘Biến Cố Năm Mậu Thân 1968’. Thứ 3. Âm mưu đen tối và thất bại chính trị của một cuộc xâm lăng điên cuồng. 1. DIỄN TIẾN QUÂN CỘNG SẢN BẮC VIỆT TẤN CÔNG VNCH. Trong dịp Tết Mậu Thân, các đây 40 năm, Cộng sản Bắc Việt không tôn trong lệnh hưu chiến mà họ đã cam kết với Việt Nam Cộng Hòa và Đồng Minh. Chính Hà Nội đề nghị việc hưu chiến để dân chúng hai miền Nam Bắc vui Xuân trong những ngày Tết. Phía Việt Nam Cộng Hòa và Đồng Minh thi hành đứng đắn thỏa hiệp nầy : Mỹ không oanh tạc Miền Bắc, cũng như các hang ổ và vị trí chuyển quân Cộng sản tại Miền Nam. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ngưng các cuộc hành quân lục soát và truy kích bộ đội Bắc Việt, đồng thời cho phép một nửa quân nhân đồn trú các cấp về ăn Tết với gia đình. Ngay đêm giao thừa, chính già Hồ đã ra lệnh, qua lời chúc Tết, cho hàng chục sư đoàn chính quy Bắc Việt đồng loạt khai hỏa tấn công Việt Nam Cộng Hòa. Trò lưu manh tráo trở của già Hồ và bè lũ đảng Cộng sản là đề nghị hưu chiến rồi xua quân đánh úp vào trọng tâm các cơ sở quân-dân-sự trong lúc toàn dân Miền Nam đang chuẩn bị đón giao thừa. - Mặt trận Sài Gòn : Cộng sản Bắc Việt đã chuẩn bị đánh Sài Gòn từ tháng 4 năm 1965. Một tổ đặc công được thành lập tại Sài Gòn, Gia Định với bí số T300 thuộc quân khu 6 do Đỗ Tân Phong chỉ huy. Súng ống đạn dược được chuyển vào SG và cất giấu trong 8 hầm bí mật của các tên nằm vùng : Năm Lai ở Gia Định, Nguyễn Thị Phê, Đỗ Văn Căn ở Sài Gòn. Bộ chỉ huy Đặc công đặt tại tiệm phở Bình Ba Đen, phân công cho các cán bộ CS Bắc Việt nằm vùng như sau : Ngô Thanh Vân chỉ huy đánh Tòa Đại sứ Mỹ, Trần Phú Cương đánh Đài Phát thanh, Lê Tấn Quốc tấn công Dinh Độc lập và Đỗ Tân Phong đột kích Bộ Tổng tham mưu. Tại Sài Gòn, CS Bắc Việt tấn công 3 đợt, bắt đầu đêm mồng Một Tết chúng xử dụng lực lượng Biệt Động Thành F-100 gồm 4 tiểu đoàn đặc công và 11 tiểu đoàn chính quy của Cục R do Trần Văn Trà, Mai Chí Thọ, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, Nguyễn Văn Linh và Trần Bạch Đằng chỉ huy đánh vào khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn. Ngoài ra sư đoàn 7 và sư đoàn 9 Cộng sản ứng chiến sẵn sàng gởi quân tiếp viện. Về phía VNCH ngoài lực lượng CSQG, các đơn vị cơ hữu chuyên môn còn có Chiến Đoàn 1 Dù (TĐ 1, 6 và 8) từ vùng I về cộng với Liên Đoàn BĐQ (TĐ 30, 33, 34 và 38) và Chiến Đoàn B của TQLC. QLVNCH đã chiếm lại đài phát thanh Sàigon và cổng số 4 của Bộ Tổng Tham Mưu sau một đêm hai đơn vị nầy nằm trong tay quân CS Bắc Việt. Tại Thủ Đô, quân Cộng sản pháo kính bừa bãi vào các đơn vị của VNCH cũng như vào những khu đông dân cư tạo nên cảnh hỗn loạn. Dù hai bên đang đánh nhau nhưng đường phố Sài gòn lúc nào cũng đông người. Đó là những nạn nhân vùng ven đô và ngoại ô kéo vào thành phố, rối loạn tìm nơi trú ẩn vì khu nào cũng xảy ra giao tranh ác liệt. Điều nầy chứng minh rõ ràng, dân chúng tại Sài Gòn chạy trốn Cộng sản, không ai nổi dậy theo chân bộ đội như lối tuyên truyền tráo trở của bọn chúng. - Mặt trận Huế : Mục tiêu của Hà Nội là dồn nỗ lực chính để đánh chiếm các thành phố lớn trong đó Sài Gòn và Huế là hai mặt trận chính. Trại lực lượng A-Shau trên địa đầu phía Bắc Việt Nam Cộng Hòa rút đi nên thung lũng A Shau bị bỏ ngỏ và CS Bắc Việt đã lợi dụng để chuyển một số lớn bộ đội chính quy vào tấn công Cố Đô Huế. Cộng sản Bắc Việt mở màn trận chiến vào hai giờ sáng ngày Mồng Hai Tết, nhằm ngày 31-01-1968 bằng hai cánh quân : Đoàn 6 gồm các tiểu đoàn đặc công K1, K2, K6 và K12 từ phía Bắc bên tả ngạn sông Hương tấn công BTL/SD1 tại đồn Mang Cá, phi trường Tây Lộc, Đại Nội. Đoàn 5 gồm có các tiểu đoàn K4A, K4B, K10 và K21 từ hướng Nam hữu ngạn sông Hương, hợp với Thành Đội tấn công các cơ sở hành chánh phía Nam. Ngoài ra có Đoàn 9 gồm 2 tiểu đoàn 416, 418 hợp với tiểu đoàn 12 đặc công tấn công vào mặt Tây của thành phố. Cộng sản Bắc Việt tổ chức đánh bất ngờ và đã chiếm được trên một nửa thành phố Huế gồm cơ sở hành chánh, khu Đại Nội, chợ Đông Ba, các cửa Thượng Tứ, An Hòa và Chánh Tây. Ngoại trừ BTL/SĐ I tại đồn Mang Cá trong Thành nội, MACV, Tiểu khu Thừa Thiên, đài phát thanh, trường Kiểu Mẫu và các cầu tàu Hải Quân vẫn do QLVNCH kiểm soát. Ngày mồng Ba Tết, nghĩa là một ngày sau đó, Chiến Đoàn Dù với 2 tiểu đoàn 2 và7 phối hợp với chi đoàn 2/7 từ phía Bắc vào giải vây Huế. Hai đại đội TQLC với chiến xa M48 thuộc tiểu đoàn X-Ray đóng tại Phú Bài cũng về Huế tăng cường phòng thủ MACV. Chiều ngày mồng Bốn Tết, Tiểu Đoàn 9 Dù được trực thăng vận đổ xuống thẳng vào trận địa. Cuộc chiến trở nên ác liệt và cùng ngày đó, chiến đoàn A TQLC của QLVNCH gồm các tiểu đoàn 3, 4, 5 thay thế chiến đoàn Dù phối hợp với SĐ I BB tiếp tục giải tỏa áp lực tại sân bay Tây Lộc và Đại Nội. Ngày 19-2 TQLC mở chiến dịch Sóng Thần 739/68 và ngày 25-2, BĐQ chiếm lại Khu Gia Hội chấm dứt chiến cuộc tại Huế với đổ nát, điêu tàn. Nhà cửa cầu cống, cây cối, đường sá trở thành tử địa với xác người nằm la liệt thối sình… Vừa chiếm được Huế, CS Bắc Việt đã vội vàng thành lập hai tổ chức hành chánh và hành động. · Về Hành chánh : Cộng sản Bắc Việt chỉ thị cho những tên CS chính gốc nằm vùng tại nhà Nguyễn Đóa là Hoàng Kim Loan, Hoàng Lanh, Nguyễn Trung Chính, Nguyễn Hữu Vân, Phan Nam, Nguyễn Thiết… đưa những người địa phương ra lập các tổ chức hành chánh : - Chính quyền cách mạng tại Huế giao cho Lê Văn Hảo, Đào Thị Xuân Yến và Hoàng Phương Thảo. (Xin nói riêng về ông Lê Văn Hảo : là giáo sư Đại Học Huế, người Công Giáo, không có tên trong danh sách tham gia các phong trào tranh đấu của Phật Giáo. Do đó sau 1966 ông vẫn được tiếp tục dạy Đại học Văn khoa Huế. Nhưng sau đó cũng bị Cảnh Sát bắt vì đã để cho Sinh viên theo Cộng sản xử dụng nhà riêng in ấn và phát hành báo chống Mỹ, ủng hộ Cộng sản. Sau đó ông được thả về trước Tết mấy ngày thì được CS đưa lên làm Chủ tịch Liên minh Dân chủ Dân tộc Hòa bình. Sau năm 1975 được Cộng sản thưởng công cho chức Trưởng ty Thông tin Văn hóa Bình-Trị-Thiên, chứ không được vào quốc hội như Thích Đôn Hậu và bà Nguyễn Đình Chi. Nhân dịp đi Australia, Lê Văn Hảo trốn qua Pháp và xin tỵ nạn tại đây.) - Liên Minh các lực lượng Dân Tộc, Dân Chủ Hòa Bình do Lê Văn Hảo làm chủ tịch, thượng tọa Thích Đôn Hậu, Bà Nguyễn Đình Chi làm phó chủ tịch và Hoàng Phủ Ngọc Tường làm tổng thư ký. Tay sai gây nên tội ác như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Tôn Thất Dương Tiềm… là những tên nằm vùng, từ năm 1963 đến 1966, tham gia trong phong trào tranh đấu của Phật giáo và chạy vô bưng khi phong trào nầy bị đàn áp. Nhân vụ Tết Mậu Thân chúng trở lại hoạt động và gây tang tóc cho Huế. · Về Hành Động : Do tên Lê Minh, đại tá, trưởng ban An Ninh Khu Ủy Trị-Thiên chỉ huy toàn bộ, Tống Hoàng Nguyên và Nguyễn Đình Bảy Khiêm là đảng viên Cộng sản Bắc Việt chỉ huy các tên HPNT, HPNP, NĐX, Trần Quang Long, Phan Duy Nhân đi lùng bắt, thủ tiêu những người mà chúng cho là ‘ác ôn’, ‘có tội với nhân dân’. Nhưng thật ra là thường dân Công giáo vô tội, những người trước đó có thù oán cá nhân với nhau và quân cán chính đang nghỉ phép để ăn Tết với gia đình. 2. TỘI ÁC DO CỘNG SẢN BẮC VIỆT GÂY RA Tính chung tổng số trên toàn quốc về thiệt hại nhân mạng và vật chất trong cuộc ‘tổng tấn công’ của Cộng sản Hà Nội, từ những vụ giật mìn, phóng hỏa tiễn, đặt bom, bắn phá vào các tỉnh, thị xã đến việc chiếm 2 khu vực ở Sài Gòn một đêm và 24 ngày tại Huế thì Cộng sản đã giết hại 14.300 người, gây thương tích cho 24.000 người và 627.000 người phải chịu cảnh màn trời chiếu đất. Tại Huế, CS lùng bắt thành phần quân-cán-chính, tập trung dân để tổ chức đấu tố, bắn giết, chôn sống tại chỗ một số và dẫn những người còn lại theo làm tù dân - tôi nói tù dân, vì tù là những người dân vô tội - trước rút lui tháo chạy trước sức tấn công mãnh liệt của QLVNCH và Đồng Minh. Nếu tính nạn nhân tại Huế, ngoài số quân nhân, cảnh sát, nhân viên cán bộ hành chánh về nghỉ Tết cũng như những người sống tại địa phương làm việc cho chính quyền Sài Gòn bị Cộng sản bắn ngay tại chỗ là 1.892 người. Ngoài ra người ta còn tìm được 2326 tử thi thường dân trong 22 hố chôn tập thể tại những địa điểm như Trường Gia Hội, Chùa Theravada, Bãi Dâu, Cồn Hến, Tiểu Chủng viện, Quận tả ngạn, Phía đông Huế, Lăng Tự Ðức, Lăng Ðồng Khánh, Cầu An Ninh, Cửa Ðông Ba, Trường An, Ninh Hạ, Trường Vân Chí, Chợ Thông, Chùa Từ Quang, Chùa Từ Đàm, Lăng Gia Long, Ðồng Di, Vịnh Thái, Phú Lương, Phú Xuân, Thượng Hòa, Thủy Thanh, Vĩnh Hưng và Khe Ðá Mài. Mỗi hố chôn tập thể từ 5, 7 người đến trên 400 nạn nhân như ở Khe Đá Mài. Những nạn nhân nầy bị thảm sát một cách dã man như : Cột chùm nạn nhân lại với nhau và đốt cháy bằng xăng, bắt ngồi trên mìn rồi cho nổ tan xác, chặt đầu, bắn vào ót, đập chết bằng bá súng, đóng cọc từ dưới bàn tọa lên đến cổ, trói tay chân thành từng chùm rồi xô xuống hố chôn sống. Nạn nhân là thường dân vô tội tuổi từ 15 trở lên, gồm có sinh viên học sinh, 6 linh mục là các cha Bửu Đồng, Hoàng Ngọc Bang, Lê Văn Hộ, cha Guy và cha Urbain (dòng Thiên An), và cha Cressonnier (Hội Thừa sai Paris), 5 thầy dòng gồm 3 sư huynh dòng Thánh Tâm là thầy Hec-Man, thầy Mai Thịnh và thầy Bá Long, 2 sư huynh dòng Lasan là thầy Agribert và thầy Sylvestre. Hai thầy dòng Lasan bị bắt và bị chôn sống chung một hố với linh mục Bửu Đồng tại Sư Lỗ, quận Phú Thứ. Ngoài ra Cộng sản còn giết các giáo sư đại học người nước ngoài trong lúc họ đang dạy ở đại học Y khoa Huế và thân nhân họ hàng của những người phục vụ dưới chế độ VNCH. Người ta ước lượng tại thành phố Huế có gần 5.000 người bị Cộng sản giết trong vòng mấy tuần lễ. Những người lớn tuổi còn sống tại Huế là những nhân chứng sống. Trong đó có hai thanh niên nguyên là học sinh trung học, nay đã 56 tuổi, trả lời phỏng vấn của các nhà báo ngoại quốc. Người thứ nhất tên Tuấn cùng với những học sinh khác đã bị CSBV bắt đào lỗ chôn sống 5 người tại Gia Hội ngay trong ngày đầu tiên khi CS vừa chiếm Huế. Học sinh thứ hai, xin giấu tên, ở Phủ Cam bị bắt đi theo đoàn tù dân đưa chôn sống ở Khe Đá Mài. Cả hai học sinh nầy nhờ một phép nhiệm mầu nào đó họ đã thoát được và sống sót đến ngày hôm nay. Thiệt hại về phía VNCH và Đồng Minh : Theo thống kê, VCH có 4954 binh sĩ tử trận, 15.097 bị thương trên toàn quốc. Riêng tại Huế, QLVNCH và Đồng Minh có 384 binh sĩ VNCH chết và 1800 bị thương trong đó phía Mỹ có 147 chết và 857 bị thương. Thiệt hại của quân Cộng sản : Các đây 10 năm, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 30 ăn mừng chiến thắng Mậu Thân năm vào năm 1998, báo chí Cộng sản đã xác nhận có trên 100.000 lính Bộ đội CS chết hoặc mất tích trong cuộc ‘tổng nổi dậy’. Ngoài ra, qua chiến dịch Phượng Hoàng, QLVNCH đã bắt làm tù binh hay chính bộ đội ra hồi chánh sau biến cố Mậu Thân là 9461 người. Vì mưu đồ xâm lược, Hà Nội đã ‘nướng’ trên 100.000 thanh niên Miền Bắc trong vòng mấy ngày cận chiến với QLVNCH và sau đó Hà Nội còn bị mất thêm gần 1000 quân lính vừa bị bắt vừa ra hồi chánh. Nhiều đơn vị trong chính quy trong Nam phải xóa tên và Hà Nội đã vội vã bắt trẻ con ‘miệng còn hôi sữa’ đẩy vào chiến tường để tiếp tục thi hành thủ đoạn đen tối của già Hồ. 3. ÂM MƯU ĐEN TỐI VÀ THẤT BẠI CHÍNH TRỊ CỦA CUỘC XÂM LĂNG ĐIÊN CUỒNG : Trong các tài liệu và diễn văn của Cộng sản tổ chức ăn mừng chiến thắng 40 năm, chúng cho rằng biến cố Mậu thân là một cuộc ‘tổng nổi dậy’ của dân quân Miền Nam. Nhưng thật ra Quân là những tên du kích mang danh Mặt Trận Giải Phóng do lính Bắc Việt đội lốt. Và Dân là cán bộ Cộng sản nằm vùng được tiếp tay của những tên đồ tể cầm đầu bọn đầu trâu mặt ngựa dẫn đường chỉ điểm. Tại Huế Cộng sản mở cửa các nhà tù để xử dụng phạm nhân, những tên tù tội dân sự nầy được giao nhiệm vụ lục soát, bắt bớ, tập trung và thủ tiêu dân chúng. Dân Miền Nam vừa nghe Việt Cộng tấn công đã bỏ nhà, bỏ ruộng vườn, tài sản, bồng bế nhau liều mạng đạp lên nhau để chạy trốn. Hình ảnh rõ ràng nhất là cảnh dân chúng Quảng trị chạy trốn Cộng sản trên quốc lộ 1 và dân chúng trên Cao Nguyên bỏ Pleiku tháo chạy khi hay tin Quân Đoàn II rút về Quy Nhơn. Nếu nói dân chúng đồng loạt tiến công thì tại sao Cộng sản phải xử dụng súng đạn để lùa dân tập trung tuyên truyền tại những vùng chúng nó vừa tạm chiếm ? Tại sao Cộng sản phải lục soát, vào từng nhà ép buộc dân chúng tập trung, trói tay chân rồi dẫn theo để cản đường truy kích của QLVNCH cũng như để tránh bom, tránh đạn pháo của Không quân và Pháo binh Việt-Mỹ ? Tại sao dân chúng các vùng quê không đứng lên theo bộ đội Cộng sản mà liều chết vượt lằn đạn để chạy qua các vùng tự do kiểm soát bởi QLVNCH ? Nói láo một cách trắng trợn thì chỉ bịp được những người Miền Bắc hoặc đối với ai chưa bao giờ nghe, biết và thấy những gì trong Miền Nam Tự Do. Trong số nầy cũng phải kể đến những người vừa lớn lên đã bị Cộng sản bưng bít nhồi sọ, nhuộm đỏ từ lúc vừa biết nói hoặc một số (tôi xin nhấn mạnh, một số) trí thức trốn quân dịch, chạy chọt ra nước ngoài du học rồi ăn phải bã Cộng sản đến ngày hôm nay vẫn chưa sáng mắt. Trong tuyên truyền chạy tội cho tập đoàn Cộng sản, ông Bùi Tín đã che dù việc thảm sát năm Mậu Thân như sau : Dưới áp lực phản công của VNCH, bộ đội chính quy bắt buộc phải rút khỏi thành phố Huế sau mấy tuần lễ chiếm đóng. Để bảo toàn lực lượng, buộc lòng phải giết những người bị bắt theo để trút bớt gánh nặng ! Qua câu nói nầy chúng ta thấy được hai điểm quan trọng mà Cộng sản đã xảo quyệt bóp méo sự thật : Thứ nhất, Cộng sản đã thất bại hoàn toàn. Sau trên 3 tuần chiếm được Huế chúng đã bị QLVNCH và Đồng Minh đánh bại, ôm đầu máu chạy vô bưng. Trên đường đào tẩu chúng đã bắt dân theo để cản đường, cản pháo và cản máy bay oanh kích của QLVNCH và Đồng Minh, cuối cùng chúng đã giết tất cả tù dân theo lệnh của Quân Ủy Trung Ương. Thứ hai, chứng minh một cách hùng hồn rằng không một người dân nào nổi dậy ủng hộ hoặc chạy theo Cộng sản trong biến cố Mậu Thân tại Huế. Chỉ có mấy tên đồ tể như HPNT-HPNP-NĐX với bọn đầu trâu mặt ngựa thi hành lệnh lùng bắt, thủ tiêu và sát hại dân lành, cuối cùng những tên nầy phải bám theo chân Cộng sản chạy thoát thân. Như vậy không thể gọi là Miền Nam đứng dậy ‘tổng khởi nghĩa’ theo tuyên truyền của cái ‘đỉnh cao trí tuệ’ mà Cộng sản Việt Nam thường vỗ ngực huênh hoang ! Viết đảo ngược sự việc trắng trợn như vậy rồi bắt dân chúng học tập thì lối tuyên truyền nầy chỉ tìm thấy độc nhất ở một chế độ rừng rú, nơi được mệnh danh là ‘cái nôi của nhân loại’ và ‘đỉnh cao trí tuệ của loài người’ mà thôi !!! Một điều tôi cần đưa ra đây để chứng minh vụ thảm sát thường dân vô tội là do lệnh của đảng Cộng sản. Một đảng viên huyện ủy Quận Phú Vang (tỉnh Thừa Thiên) tên Hồ Ty, bí danh Sơn Lâm bị bắt và trong cuộc thẩm vấn, tên nầy đã khai rằng, việc thảm sát thủ tiêu tất cả dân lành vô tội bị dẫn đi trong dịp nầy là do lệnh của Quân ủy Trị-Thiên-Huế. Còn một điểm quan trọng nữa, trong thời gian ở tù Cộng sản tại trại Kà Tum, một quản giáo trong lúc nổi nóng đã phun ra trước mặt tôi và anh em tù cải tạo một câu đáng ghi vào lịch sử như sau : “Các anh may mắn được Cách mạng khoan hồng tha tội chết, vào đây thì phải biết ăn năn, học tập tốt để sớm trở về sum họp với gia đình. Tôi nói cho các anh biết, nếu năm Mậu Thân chúng tôi thắng trận thì ba triệu Ngụy-Quân Ngụy-Quyền và gia đình các anh đã bị giết theo lệnh của Hồ Chủ Tịch !” Ngoài vấn đề quân sự nêu ở phần 2, Cộng sản Hà Nội còn một thất bại nặng nề về phương diện chính trị đối với nhân dân Miền Nam và Quốc tế : Đó là Cộng sản đã lộ hẳn bộ mặt gian xảo, bịp bợm và âm mưu thôn tính Việt Nam Cộng Hòa. Thật vậy, Cộng sản đi đến đâu thì gây ra tang thương chết chóc đến đó. Sau biến cố Mậu Thân, người dân nào đã chứng kiến hành động giết người một cách thô bạo và dã man thì suốt đời của họ không bao giờ dám nghe cũng như không muốn ai nhắc đến hai tiếng ‘Cộng sản’ nữa ! Để kết luận, qua ‘những gì Cộng sản đã làm’, chúng ta có thái độ thế nào đối với trò bịp gọi là ‘Hòa Giải Hoà Hợp’ ? Tôi xin thưa như thế nầy : Là Người Việt da vàng máu đỏ, cùng một bọc trứng chui ra thì giận hờn nào cũng phải nguôi, căm thù nào cũng có thể xóa bỏ phần nào sau 33 năm chấm dứt chiến tranh. Nhưng Cộng sản trước mặt chúng kêu gọi quên đi quá khứ, xích lại gần nhau để xây dựng đất nước nhưng sau lưng chúng đã làm gì ? Và đây là hành động của Cộng sản Việt Nam đã làm, phải được ghi vào lịch sử tội ác : 1. Cầu cạnh Mã Lai và Nam Dương đục xóa các bia tưởng niệm thuyền nhân bỏ mình trên biển cả, như vậy chứng tỏ Cộng sản Hà Nội vẫn còn hận thù những người đi tìm tự do mặc dù họ đã chết từ ba chục năm nay. Các tượng bia tưởng niệm chỉ là những vật vô tri giác, nằm trên những quốc gia xa hàng ngàn số vẫn không thoát khỏi sự thù vặt của tập đoàn Cộng sản, thì đối với những người còn sống như chúng ta, ngụy quyền Cộng sản Hà Nội còn căm thù và tìm cách phá hoại đến mức độ nào ! 2. Đào xới, đập nát các nghĩa trang quân đội, nơi yên nghỉ của những người con thân yêu của Việt Nam Cộng Hòa Tự Do là một hình thức đập vào con tim đang rướm máu của nhân dân Miền Nam, thì thử hỏi, còn gì để Cộng sản có thể nói chuyện tình cảm với người Việt Tự do ! Chết là hết, nhưng đối với Cộng sản những người đã nằm xuống vẫn là kẻ thù, phải đào phải xới cho hả giận là một hành động man ri mọi rợ còn hơn cả loài súc vật. 3. Đến giờ nầy Hà nội vẫn duy trì, tuyên truyền và khai thác rút tỉa tiền bạc trên những kỷ niệm đau buồn của QLVNCH và Đồng Minh cũng như của dân chúng Miền Nam. Hãy dẹp ngay những bảo tàng viện mà Cộng sản gọi là ‘Tội ác Mỹ-Ngụy’ đang trưng bày, bán vé cho dân chúng và du khách vào xem tại Hà Nội, Sài gòn cũng như vài thành phố khác. Đồng thời hãy bỏ hẳn những chương trình giáo dục nhồi sọ trẻ thơ gây căm thù với chế độ cũ qua sách báo và nhất là các tài liệu giáo khoa đang giảng dạy tại các trường mẫu giáo lên đến đại học. Một câu hỏi đặt ra cho Cộng sản Việt Nam: có chấm dứt được vấn đề vô liêm sỉ nầy không trước khi mở miệng ra đề nghị ‘xóa bỏ quá khứ’ ? 4. Tết Mậu Thân 1968 già Hồ và bè lũ trung ương đảng Cộng sản tráo trở thỏa ước hưu chiến để kéo quân vào cướp nước giết hại hàng chục ngàn đồng bào vô tội bằng những cuộc thảm sát dã man, mọi rợ. Bây giờ đã 40 năm, Hà Nội vẫn ra lệnh cho cả nước ăn mừng chiến thắng, khác gì đảng Cộng sản cho tổ chức tiệc MÁU, khiêu khích nhân dân Miền Nam và Cộng đồng người Việt hải ngoại…. thì đừng hòng đề cập đến chuyện ‘xóa bỏ quá khứ, bắt tay hòa giải hòa hợp dân tộc’, mặc dù tất cả chúng ta đều biết rằng đây chỉ là một trò bịp cố hữu của CS! Để kết thúc bài thuyết trình tôi xin gởi đến tất cả mọi người một câu nói đã đi vào lịch sử : “Đừng nghe những gì Cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng sản làm”, lời Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Xin cám ơn Quý Vị. Xin cám ơn Giáo sư Nguyễn Lý Tưởng và Nhà văn Mường Giang đã bổ túc một vài chi tiết trong bài thuyết trình.
Tết Mậu Thân 1968 Trọng Ðạt LTS.- Ðây là một chương trích trong quyển sách biên khảo về chiến tranh Việt Nam với tựa đề "Tấn Thảm Kịch Việt Nam 1975" của tác giả Trọng Ðạt, mới phát hành. Tác giả Trọng Ðạt, năm nay 66 tuổi, nhà văn, nhà khảo cứu lịch sử Việt Nam. Ông đã xuất bản một số sách biên khảo về chiến tranh Việt Nam. Quyển "Sài Gòn Thất Thủ" của ông phát hành cách đây hai năm đã bán khá chạy. Ông tốt nghiệp văn chương ở Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn, sau đó tốt nghiệp Cao Học Kinh Tế Tài Chánh, làm công chức. Ði tù “cải tạo” CSVN và sang Hoa Kỳ theo diện H.O. năm 1990. Nay ông đang sống ở Dallas, Texas, và viết rất mạnh.
Trước hết chúng tôi xin sơ lược về tình hình quân sự miền Nam thập niên 60 trước khi xảy ra cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân. Sau khi thất bại trong việc đề nghị hiệp thương năm 1957 với chính phủ VNCH, bị ông Ngô Ðình Diệm từ chối, chính quyền CSBV quyết thôn tính miền Nam bằng bạo lực, sống chết cũng phải chiếm cho được cái vựa lúa miền Nam. Từ những năm cuối thập niên 50, họ bắt đầu chuyển quân xâm nhập, đưa những cán binh tập kết trở về quê quán để thiết lập hạ tầng cơ sở rồi phát động "chiến tranh giải phóng". Từ 1960, các hoạt động của CS chỉ sử dụng những đơn vị nhỏ du kích tấn công đánh đổ mọi nỗ lực xây dựng Quốc gia của ta; địch nhắm vào khủng bố, ám sát bắt cóc, phá hoại... Lần đầu tiên cấp tiểu đoàn được VC sử dụng tại trận Ấp Bắc trong năm 1961, được leo thang bằng nhiều tiểu đoàn, chính phủ VNCH bèn thành lập thêm nhiều đơn vị chiến đấu, tăng cường các lực lượng địa phương để bắt đầu công cuộc bình định và xây dựng nông thôn. Trong khi đó người Mỹ gia tăng yểm trợ về quân viện và gửi nhiều cố vấn sang huấn luyện các đơn vị VNCH, dần dần các kế hoạch của miền Nam đã làm chậm và giảm các hoạt động của VC cho đến cuối 1962. Từ những năm 1963, 1964 tình hình chính trị xáo trộn vì biểu tình, đảo chính... khiến VC chớp thời cơ để phá hoại kế hoạch an ninh của miền Nam, gia tăng xâm nhập các ấp chiến lược, nhiều đơn vị Ðịa phương quân bị thiệt hại. Cuối năm 1964 các tiểu đoàn VC được tập hợp lại thành trung đoàn, trung đoàn thành sư đoàn. Cuối năm 1964 trận Bình Giả do Công trường 9 (tương đương một sư đoàn) tấn công vào làng Công giáo Bình Giả phía Ðông Sài Gòn là nổi tiếng. Trong trận này VC phục kích tiêu diệt một tiểu đoàn BÐQ, một tiểu đoàn TQLC và gây thiệt hại cho lực lượng thiết giáp tăng cường, đây là thử thách quân sự khởi đầu cho miền Nam VN. Tình hình chiến sự ngày càng mở rộng leo thang, cuộc chiến tranh Ðông Dương đã được quốc tế hóa từ 1950 khi Trung Cộng bắt đầu viện trợ vũ khí ồ ạt cho Việt Minh. Tháng 10 năm ấy người Mỹ vội nhảy vào vòng chiến, họ viện trợ cho Pháp 300 triệu đô la quân viện. Nay cuộc chiến lại càng được quốc tế hóa hơn nữa. Nga Xô, Trung Cộng mặc dù chia rẽ nhưng vẫn hiệp lực yểm trợ vũ khí, kinh tế tối đa cho BV và xúi giục BV tiếp tục cuộc chiến chống Mỹ để làm suy yếu đế quốc, BV đã trở thành quân tốt lợi hại cho CS quốc tế. Ðầu năm 1965, quân đội chính qui CSBV bắt đầu hoạt động tại miền Nam, trung đoàn đầu tiên là 95 đã vào sát Kontum từ tháng 12-1965, họ dự định cắt VNCH làm hai phần theo quốc lộ 19. Giữa năm 1965 miền Nam bị thiệt hại nhiều, trung bình trong một tuần mất một tiểu đoàn và mất một quận. Tình hình nguy ngập đến mức báo động, người Mỹ phải đổ quân đến cứu nguy VNCH đang có nguy cơ sụp đổ, sau đó từ tháng 8 các đơn vị Mỹ đi tìm và diệt địch. Quân đội VNCH lại bị tổn thất nặng cuối năm 1965 tại trận Ðồng Xoài khi Công Trường 9 đánh tan nát Trung Ðoàn 7 thuộc Sư Ðoàn 5 tại vùng đồn điền Michelin phía Bắc Sài Gòn. Nhờ can thiệp của HK, VNCH đã lấy được thăng bằng, những năm 1965-1967 nhiều đơn vị chính qui BV được đưa vào Nam, họ đụng độ nhiều trận lớn với Mỹ và bị thương vong rất nhiều vì hỏa lực Mỹ mạnh chính xác, Cộng quân bị kiệt lực, bổ sung không kịp. Hỏa lực Mỹ quá mạnh nên CSBV không dám đánh trực diện; không quân, pháo binh Mỹ bắn ồ ạt gây tàn phá mạnh; các nơi xảy ra đụng độ thường là miền duyên hải, cao nguyên, giới tuyến và vùng biên giới Việt, Miên, Lào... Trong khoảng thời gian này Mỹ cùng Ðồng minh và VNCH gia tăng hành quân tấn công phá hủy các mật khu CS như chiến khu C, D phía bắc Sài Gòn, tại Pleiku, Kontum, bắc Quảng Trị tạo thuận lợi cho chương trình bình định phát triển. CSBV mất thế chủ động bị đẩy lui khỏi các vùng đông dân cư và các vùng tranh chấp, nên suy yếu rõ rệt. Năm 1967 CSBV tiếp tục chủ động tại khu phi quân sự và các vùng hẻo lánh, sâu về hướng Nam không còn hoạt động nào đáng kể nữa. BV lên kế hoạch tổ chức những cuộc tấn công qui mô để hòng xoay ngược thế cờ. Cuối năm 1967 tin tình báo ghi nhận CSBV xâm nhập nhiều người và tiếp liệu qua đường mòn Hồ Chí Minh và theo các trục giao liên. Giới chức quân sự VNCH không coi đó là một sự báo động. Sài Gòn và các tỉnh miền Nam tưng bừng đón Xuân, các vũ trường đầy ắp những cặp trai thanh gái lịch lả lướt bên điệu nhạc du dương. Năm 1968 dân Sài Gòn ăn Tết lớn hơn mọi năm, nêu cao, pháo nổ, bánh chưng xanh, đỏ đen cờ bạc khắp phố phường... Trong khi ấy Tướng Wesmoreland họp báo ở Mỹ nói tình hình Việt Nam đã khả quan, Hoa Kỳ có thể rút quân từ 1969. Diễn tiến quân sự trong phần này chúng tôi dựa theo cuốn "Mậu Thân 68 Thắng Hay Bại" của Chánh Ðạo và có tham khảo thêm trong các sách của Nguyễn Ðức Phương, của Tướng Hoàng Văn Lạc... Giao Thừa Mậu Thân tối 29-1, các gia đình nhang đèn, hoa quả cúng giao thừa; đời sống sung túc khiến cho ngày Xuân 1968 tưng bừng náo nhiệt hơn những năm trước. Bất ngờ đặc công VC tấn công Bộ Tổng Tham Mưu, Dinh Ðộc Lập, Bộ Tư Lệnh Hải Quân,phi trường Tân Sơn Nhất... VC tấn công đồng loạt 28 tỉnh và thị trấn. Hà Nội ra lệnh hoãn cuộc tấn công 24 giờ đồng hồ, các tỉnh miền Trung như Nha Trang, Bình Ðịnh, Pleiku... khai hỏa trước nên miền Nam kịp thời cảnh giác. Hà Nội đã cho điều động khoảng 100 tiểu đoàn vào cuộc Tổng Công Kích đại qui mô này. Lực lượng được chia ra như sau: 35 tiểu đoàn và 18 đại đội tại Vùng 1, 28 tiểu đoàn tại Vùng 2, 15 tiểu đoàn tại Vùng 3, 19 tiểu đoàn tại Vùng 4, tổng cộng 84 ngàn người, hầu hết thuộc Mặt Trận Giải Phóng. Ngày 21-1-1968 Hà Nội chọn Giao Thừa là giờ tấn công. Bắc Việt vờ pháo kích Khe Sanh dữ dội để đánh lạc hướng VNCH và đồng minh. Thời điểm này, mặc dù VC không có vũ khí nặng như xe tăng đại bác, chúng chỉ có vũ khí cá nhân nhưng đã được CS quốc tế trang bị súng ống tối tân như AK, B-40, B-41. Bắc Việt chuẩn bị cho cuộc Tổng Công Kích y như quân Nhật đảo chính Pháp năm 1945. Mặc dù họ bảo mật rất kỹ nhưng một cuộc hành quân lớn như vậy cũng không thể giữ bí mật hoàn toàn được. Năm 1967 Bắc Việt vờ hòa hoãn với Mỹ để chuẩn bị cho cuộc tổng công kích, năm 1967 quân đội BV bị thất bại nhiều, tử vong lên cao. Trong cuộc hành quân tại Dakto người Mỹ đã bắt được một số tài liệu cho biết Cộng quân sẽ đánh lớn nhưng chưa biết vào thời điểm nào. Trước Tết Tướng Wesmoreland đã tìm gặp Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu để báo cáo âm mưu của địch và yêu cầu chỉ hưu chiến 24 giờ nhưng ông Thiệu không tin và vẫn cho hưu chiến 36 giờ. Năm ấy liên danh Thiệu-Kỳ đắc cử 35% số phiếu ngày 3-9-1967, ông Thiệu muốn nhân dân phải ăn Tết cho thật to, cảnh sát làm ngơ cho dân chúng đốt pháo thả giàn đêm Giao Thừa. Thiếu tá Cảnh Sát Liên Thành, cựu Phó ty cảnh sát Thừa thiên 1968, cho biết trước Tết ta đã nhận được nhiều dấu hiệu cho thấy VC sẽ tấn công, tiểu đoàn đặc công K1 của VC đã đột nhập Huế, ông bèn trình lên tỉnh trưởng rồi cả ông và tỉnh trưởng cùng đến Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 1 trình bày với Tướng Trưởng nhưng tin tức không được chú ý. Tại Quân khu 1, sáng Mồng 1 Tết (30-1) Ðại Tá Nguyễn Duy Hinh, xử lý thường vụ tham mưu trưởng Quân Ðoàn 1 đã nhấc điện thoại báo cáo Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư lệnh Vùng 1 khi VC pháo kích gần tư thất ông nhưng Tướng Lãm không tin, cắt ngang cuộc điện đàm. Ngoài ra Trung Tướng Stone, Tư lệnh Sư đoàn 4 BB Mỹ ở Cao Nguyên, thu được tài liệu của VC nói về kế hoạch tấn công Pleiku, ông vội thông báo cho Trung Tướng Vĩnh Lộc, Tư lệnh Vùng 2 nhưng ông này không tin và bỏ về Sài Gòn ăn Tết. Trận Tổng Công Kích do Võ Nguyên Giáp chỉ huy từ Hà Nội. Giao Thừa 29-1 rạng ngày 30-1-1968 Việt Cộng đồng loạt pháo kích tấn công 6 tỉnh và thị xã Vùng 1 và 2. Tại Vùng 1, VC pháo kích phi trường Ðà Nẵng, đặc công đột nhập Bộ Tư Lệnh QÐ1 và thị xã Hội An. Tại Vùng 2, thị xã Nha Trang bị tấn công nửa đêm Mồng 1 Tết ( 30-1), Ban Mê Thuột bị đánh lúc 1 giờ 30, Tân Cảnh lúc 2 giờ, Kontum lúc 2 giờ, Pleiku, Tuy Hòa lúc 4 giờ 30, Qui Nhơn lúc 4 giờ 10. VC pháo kích các căn cứ Mỹ tại Ðà Nẵng, Pleiku phá hủy 20 máy bay, tại Bồng Sơn nhiều máy bay thuộc Sư đoàn 1 không kỵ Mỹ bị hư hại. Các thị trấn lớn và Sài Gòn vẫn chưa thức tỉnh, đài Sài Gòn lúc 9g30 sáng 30-1-1968 cho phát thanh bản tin hủy bỏ hưu chiến vì CS bội ước tại Vùng 1 và 2. Ðịch bảo mật kỹ lưỡng nên khi cuộc Tổng Công Kích nổ ra, các viên chức Việt Mỹ đã bối rối và lúng túng. Khi VC tấn công các tỉnh cao nguyên, duyên hải, Quân khu 1 đã ban hành lệnh hủy bỏ hưu chiến từ sáng 1 Tết nhưng vẫn không ngăn được bộ đội CS tiến vào Huế. Vùng 1 và Vùng 2 là chiến trường gay go nhất miền Nam vì tiếp giáp với vùng hỏa tuyến, nơi diễn ra nhiều trận đánh đẫm máu giữa BV và đồng minh từ 1965. Tại Vùng 2, VNCH có 2 sư đoàn, 1 sư đoàn Mỹ (SÐ4), 2 sư đoàn Ðại Hàn trách nhiệm từ Bình Ðịnh tới Phan Rang, Tư Lệnh QÐ-2 là Trung Tướng Vĩnh Lộc. Trong trận Tổng Công Kích 1968 này, Vùng 2 bị tấn công sớm nhất, đúng Giao Thừa. Theo Tướng Hoàng Lạc, Hà Nội đổi giờ tấn công trễ hơn 24 giờ nhưng tại Vùng 2, VC chưa được nghe lệnh, đã khai hỏa sớm nên các tỉnh miền Nam kịp thời ứng chiến. Trong năm tỉnh duyên hải Bình Ðịnh, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận... Tiểu khu Khánh Hòa bị tấn công trước nhất trong dịp Mậu Thân sau Giao Thừa, Qui Nhơn tờ mờ sáng Mồng 1 Tết, Tuy Hòa, Phan Thiết bị tấn công đêm 1 rạng Mồng 2 Tết, Phan Rang yên tĩnh. Các cuộc hành quân tại Vùng 2 của Mỹ và VNCH đã bắt được các tài liệu về kế hoạch tấn công Ban Mê Thuộc, Qui Nhơn. Lực lượng an ninh bắt được 11 cán bộ VC tại Qui Nhơn cuối tháng 1-1968 đang hội họp, tù binh VC khai họ sẽ tấn công Qui Nhơn và các thành phố khác trong dịp Tết, nhóm này cũng có một cuộn băng ghi âm lời kêu gọi quần chúng nổi dậy. Cuộn băng được đưa về Bộ TTM ngày 29-1 (30 Tết), từ đó lệnh phòng thủ được ban ra nhưng cũng không được quan tâm mấy. Dân số Nha Trang nếu kể cả ngoại ô là 200 ngàn người, tại đây có nhiều cơ sở quân sự quan trọng, Nha Trang cũng là một thành phố du lịch. Trước Tết, tiểu khu Khánh Hòa có tin CS chuẩn bị tấn công thị xã bằng một trung đoàn và 4 đại đội đặc công, Sư đoàn Ðại Hàn bèn mở cuộc truy lùng nhưng không có kết quả. Kế hoạch VC chia làm 3 toán: Toán 1 có 800 người, đột nhập vòng đai thị xã tấn công phía Tây thành phố; toán 2 có 130 người tấn công tiểu khu, tòa tỉnh; toán 3 có 111 người tấn công các trại truyền tin, ngăn chận viện binh từ Bình Long. Khu ủy dự định tổ chức các cuộc biểu tình kéo về Ty Thông Tin để hỗ trợ sự thành lập chính phủ Liên Hiệp và đòi Mỹ rút quân. Ðài phát thanh chỉ có một trung đội 20 người bảo vệ bị VC tấn công nhưng không bị thiệt hại, địch bị đẩy lui trong đêm. Quân đội VNCH tấn công bộ chỉ huy tiền phương Cộng quân tại đồi trại Thủy khiến địch phải rút lui. Hơn một đại đội VC và đặc công tấn công tiểu đoàn Truyền tin 651 bị đẩy lui. Tiểu khu, tòa hành chánh bị hai đại đội đặc công 56 tên tiến đánh nhưng thất bại, địch để lại gần 40 xác chết. Một tiểu đội đặc công đột nhập Bộ Chỉ Huy 5 Tiếp Vận giết 11 người của ta, 2 đại đội Biệt Cách Dù được đưa tới giải tỏa, phía VNCH bị thương khá nhiều. Sáng ngày Mồng Một Tết các đơn vị ta nỗ lực giải tỏa đồi trại Thủy, Tòa Hành Chánh, Tiểu Khu và Bộ Chỉ Huy 5 Tiếp Vận. Từ 4 giờ chiều Mồng 1 ta đã làm chủ tình hình thị xã. Ðêm 2 Tết VC tấn công trở lại, VNCH chết 46 người, địch khoảng 100 người, đêm Mồng 2 địch chiếm đồi trại Thủy, một đại đội biệt kích tới giải tỏa, tổn thất hai bên đều cao. Cộng quân không biết đường đi lạc lung tung trong thị xã bị bắt gần hết, dân chúng giúp chính quyền bắt giặc, trên ngực các cán binh đều mang khẩu hiệu quyết chiến. Bộ đội CS toàn là lính trẻ từ 16 tới 20, quần áo không thống nhất, tổng cộng 77 tên bị bắt, ngoài ra ta bắt thêm 53 tên nằm vùng nhờ tù binh khai báo. Tổng kết VNCH chết gần 90 người, CS chết 377 tên, 80 bị bắt, 600 gia đình tại đây bị tan nát nhà cửa phải vào trại tiếp cư. Tại Qui Nhơn lực lượng địch có 200 người gồm hai tiểu đoàn đặc công và bộ binh. Từ 4 giờ sáng Mồng Một Tết địch tràn vào khu 22 ANQÐ để giải thoát các tù binh CS, mũi thứ hai đánh nhà ga, tràn vào khu đông dân để lùa họ đi biểu tình. Cộng quân chiếm đài phát thanh. Các đơn vị VNCH và Ðại Hàn tới giải tỏa vùng lân cận đài phát thanh, VC chết 50 tên. Sáng 2 Tết ta phản công đài phát thanh bắt sống 12 tên, giết 24 tên tại nhà ga. Chiều 24 Tết, một tiểu đoàn BB đến giải tỏa nhà ga. Lực lượng VNCH và Ðại Hàn tiếp tục hành quân lục soát đến ngày Mồng 5 Tết giết 110 VC, bắt sống 175 tên. Tại cao nguyên vùng 2 có độ cao trung bình 1,000m, toàn cao nguyên có 4 thị trấn lớn là Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuộc, Ðà Lạt. Trước năm 1968 tình hình ở đây lắng dịu. CS đưa 3,500 quân vào mặt trận Ban Mê Thuộc làm 3 mũi dùi: họ tấn công tòa hành chánh và tiểu khu; tấn công khu quân sự phía Tây BMT; Ðịa Phương Quân và du kích chiếm các khu đông dân cư. Sư đoàn 23 BB hành quân thám sát chạm súng VC nhưng địch đã vào vòng đai thành phố tấn công đúng kế hoạch. Mặc dù đánh bất ngờ, VC cũng không chiếm được một căn cứ quân sự nào, VNCH mất 4 thiết giáp. Sáng Mồng Một Tết ta đã chiếm được những đường phố chính trong khi nhiều đơn vị được đưa về giải vây Ban Mê Thuộc. Trong ngày Mồng Một có 100 cán binh bị bắn hạ, ngày thứ hai ta tiếp tục giải tỏa, giết 60 VC, bắt sống 10 tên khác cho tới Mồng 6 Tết coi như cuộc tấn công bị hoàn toàn bẻ gẫy. Tới đêm 3-1 Trung đoàn 33 Cộng quân lại tấn công vào tỉnh lỵ nhưng đã bị đẩy lui. Tổng cộng có tới 924 VC bị tử thương và 143 tên bị bắt, phía VNCH có 148 người thiệt mạng, hơn 300 bị thương, 176 thường dân chết oan, 4,000 nhà bị đốt cháy, hư hại, trên 18 ngàn người phải vào các trại tạm cư. Phía VNCH thắng lớn tại Ban Mê Thuộc do đề cao cảnh giác nhờ Mỹ cho biết trước địch sắp đánh lớn. KonTum là thị trấn địa đầu của vùng Cao Nguyên dân cư 100 ngàn người. Ðầu năm 1968 có nhiều dấu hiệu cho thấy VC chuẩn bị tấn công Kontum. Lực lượng CS tại đây gồm 2 trung đoàn, VNCH có trung đoàn 42, 2 đại đội trinh sát, một tiểu đoàn pháo 105 ly, một chi đội chiến xa M-41, 25 đại đội Ðịa Phương Quân gồm 2600 người, gần 3000 nghĩa quân, lực lượng Mỹ tại Tân Cảnh có Lữ đoàn Dù 173. Cộng quân chia làm 2 cánh: cánh thứ nhất gồm 2 tiểu đoàn chủ lực và tiểu đoàn đặc công để đột nhập tỉnh lỵ, chiếm đóng các trụ sở. Cánh thứ hai là trung đoàn 24 có nhiệm vụ đánh chận quân tiếp viện của VNCH. Giờ Giao Thừa địch tấn công tòa hành chánh, ấp tân sinh phía Ðông thị xã, đột nhập khu cư xá sĩ quan. Khi trời rạng sáng ta phản công giải tỏa khu vực tòa hành chánh, chiều Mồng Một Tết VC mở cuộc tấn công lần thứ hai nhưng phía VNCH vẫn giữ vững phòng tuyến. Khi trời sáng địch bị thiệt hại rút lui, khuya Mồng Hai Tết họ tấn công đợt ba vào Tòa Hành Chánh, trụ sở MACV... pháo binh, trực thăng của VNCH và Mỹ hoạt động không ngừng, VC rút lui lúc sáng để lại trên 100 xác chết sau đó phía ta giành quyền chủ động. Tại Tân Cảnh phía Bắc Kontum, địch tấn công đêm Giao Thừa, VNCH giải tỏa ngày Mồng 1, toàn bộ trận Kontum phía ta chết 54 người, bị thương 135 người, Việt Cộng chết khoảng 500, 38 tên bị bắt, chỉ có 12 thường dân tử thương, nhiều nhà cửa bị tàn phá. Tại Pleiku Cộng quân tấn công đêm Giao Thừa, Phan Thiết Tuy Hòa đêm 1 rạng Mồng 2, Ðà Lạt nửa đêm Mồng 3. Pleiku là thủ phủ của Vùng 2, dân số 50 ngàn người đa số là đồng bào Thượng, đây là một vùng đất đỏ mầu mỡ. Một tiểu đoàn địa phương và một trung đoàn CS tấn công Pleiku sáng Mồng Một Tết, vì tấn công ban ngày trên những sườn đồi trọc địch đã trở thành mục tiêu ngon lành cho thiết giáp của VNCH, cuộc tấn công chấm dứt trong ngày, ta chết 7, bị thương 22 người, 103 cán binh CS bị giết, sáng Mồng 4 Tết khoảng 2 trung đoàn CS mở cuộc tấn công đợt hai bị máy bay bắn phá dữ dội, trên 600 VC bỏ xác tại trận với gần 200 vũ khí các loại, 180 tên bị bắt làm tù binh. Tại Phan Thiết, dân số độ 50 ngàn người, Cộng quân tấn công làm 4 đợt: Ðợt 1 từ 1 tới 7 Tết ba đại đội tấn công đồn Trinh Tường, tiểu khu tới giải vây, địch tản ra gần đó nhưng vẫn bám trụ, đêm 3 Tết VC được tăng cường thêm hơn một tiểu đoàn, phía VNCH cũng đưa một tiểu đoàn từ Ninh Thuận tới giải vây càn quét địch ra khỏi khu đông dân, quân đội Mỹ cũng tham gia cuộc tảo thanh, ngày 7 Tết Phan Thiết đã bình thường trở lại. 12 ngày sau, tối 17-2, hai tiểu đoàn VC lại tấn công tiểu khu, Ty cảnh sát, nhà lao và dẫn đi hơn 700 phạm nhân. Suốt hai ngày 18 và 19 các lực lượng Việt-Mỹ tiếp tục bắn phá địch dữ dội, hai ngày sau tương đối tạm yên. Ngày 12-3 địch tấn công lần chót vào Phan Thiết nhưng thất bại, toàn bộ trận đánh phía VNCH và Mỹ chết 170 người, bị thương 650 người, thiệt hại vật chất gồm vũ khí, nhiên liệu, đạn dược bị nổ... 20% nhà cửa bị hư hại. Cộng quân thiệt hại nặng, bị bắn hạ 800 tên, mất 360 súng ống các loại. Tại Tuy Hòa cuộc tấn công bị bẻ gẫy, VC chết 11 tên. Ðà Lạt trong dịp này có lệnh xả trại 50% nên quân số chỉ còn hơn 1,000 người. Ðêm Mồng 3 khoảng 200 VC tấn công Ðà Lạt, mấy ngày sau địch tăng cường thêm một tiểu đoàn, toàn bộ lực lượng khoảng 1,500 tên. Cho tới Mồng 6 Tết VNCH mới tăng cường tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân để giải tỏa thị xã, ngày 9-2 VC chiếm được một ngôi chùa, mấy ngày sau ta đưa thêm BÐQ vào trận địa mới giải tỏa xong. Thiệt hại vật chất tại thành phố khoảng gần 30%. Vùng 1 kéo dài từ sông Bến Hải cho tới Quảng Ngãi do Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm làm Tư Lệnh gồm 2 sư đoàn 1 và 2, các lực lượng Ðồng minh tại đây gồm Sư đoàn 3 TQLC Mỹ cùng nhiều xe tăng đại bác. Tháng 1-1968, Tướng Wesmoreland tăng viện 1 Sư đoàn không kỵ Mỹ, 1 lữ đoàn TQLC Mỹ, 1 lữ đoàn TQLC Ðại Hàn. Ðà Nẵng nhờ vị trí thiên nhiên đã trở thành vị trí chiến lược hàng đầu của Vùng 1, hầu hết các cơ sở đầu não của Vùng giới tuyến đặt tại đây như Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn, Không Quân, Hải Quân Vùng 1. Dân số khoảng 400 ngàn, Ðà Nẵng là thành phố lớn thứ nhì tại miền Nam sau Sài Gòn, thành phố có hai phi trường là Ðà Nẵng và Non Nước. VC đã cho một trung đoàn tấn công tối 29-1. Bộ Tổng Tham Mưu đã điện thoại cho Quân Ðoàn cảnh giác phòng thủ địch, 3 giờ sáng Mồng 1 Tết, địch tấn công Hội An, đột nhập hàng rào Bộ TL Quân Ðoàn nhưng bị đẩy lui, sáng Mồng Một quân đội VNCH tảo thanh, 5 tên bị bắt, âm mưu địch bị bẻ gẫy. Ðêm 01 Tết Cộng quân tấn công đèo Hải Vân, một tiểu đoàn Dù tăng cường từ Huế tảo thanh vòng đai thị xã giết 150 VC, địch pháo kích vào phi trường Ðà Nẵng Hội An dữ dội bằng hỏa tiễn 122 ly. Huế được coi như trọng điểm thứ 2 sau Sài Gòn, lệnh giới nghiêm được ban hành sáng Mồng Một Tết nhưng VC vẫn đột nhập được vào cố đô đêm ấy. Trận đánh kéo dài 25 ngày đêm từ tờ mờ sáng 31-1 cho tới 25-2 tức 27 tháng Giêng Mậu Thân. Cả hai bên đều tổn thất nặng, thường dân bị thiệt hại nhiều nhất: 3 quận nội thành gần 1,000 người chết, 784 người bị thương, 4,450 căn nhà bị phá hủy 100%, 3,300 căn bị hư hại trên 50%, gần 5,000 nhà hư hại dưới 50%. Tại Vùng Một rừng núi chiếm tới 3/4, tổng số quân VC dự trù để tấn công Huế là 4,200 người. Mặt trận do Lê Minh chỉ huy. Theo Phạm Huấn, mới đầu địch tấn công Huế bằng 2 trung đoàn và đặc công, sau tăng cường 2 trung đoàn nữa khiến quân số lên gần 10,000 người, tài liệu khác nói lực lượng địch vào khoảng 5,000 người. Phía VNCH kể cả chính qui, Ðịa Phương Quân, cảnh sát, nghĩa quân, cán bộ xây dựng nông thôn... khoảng 25 ngàn người. CS nghi binh pháo kích Khe Sanh đánh lạc hướng VNCH và Mỹ để chuẩn bị tổng tấn công. Trước Tết vài ngày an ninh lỏng lẻo, nhiều thanh niên lạ mặt xanh xao đi dép râu vào thành phố mà không thấy cảnh sát hỏi han gì. Lê Minh mở thêm mặt trận Phú Lộc và Quảng Trị để phân tán lực lượng VNCH. Ngày 29-12 Âm Lịch (28-1) Tướng Hoàng Xuân Lãm bay ra Quảng Trị thị sát phòng thủ, lực lượng cộng sản là một trung đoàn từ Lào qua. Bộ Chỉ Huy tiểu đoàn 9 Dù bị tấn công, một số đặc công lọt vào thị xã, trận đánh kéo dài suốt ngày 2 Tết (31-1), VC bị tử thương hằng trăm tên, tiểu đoàn 9 Dù phải rút lui. Chiều Mồng 2 Tết liên quân Việt Mỹ phản công, trận đánh kéo dài suốt đêm Mồng 2 Tết, sáng Mồng 3 CS huy động dân chúng vào thị xã biểu tình nhưng bị giải tán, cuộc tấn công bị bẻ gẫy, địch phải rút lui. Một trung đoàn Cộng quân tấn công Phú Lộc đêm Mồng 1 Tết chiếm một số làng, bốn ngày sau một đơn vị TQLC Mỹ từ Bình Ðịnh ra đẩy lui cuộc tấn công của địch. Tại mặt trận Huế, VC thành công hơn các tỉnh khác. Địch chiếm được ưu thế về quân sự trong 4, 5 ngày đầu nhưng từ ngày mồng 8 trở, đi cường độ trận chiến giảm, Cộng quân di tản thương binh và tù binh đi, lấy chiến lợi phẩm mang theo. Mặt trận Bắc Huế: Ðặc công phá cổng cửa chính Tây cho một tiểu đoàn chính qui CS vào thành nội đêm Mồng Một Tết. Tại khu vực An Hòa phía Tây Nam, một tiểu đoàn địch tấn công chiếm làng An Hòa. Tại đồn Mang cá quân đội VNCH phản ứng mãnh liệt, Chuẩn Tướng Trưởng đóng ở Mang Cá, Mồng 2 Tết một tiểu đoàn Dù được điều động từ Tứ Hạ về giải tỏa. Thiết đoàn 7 được đưa tới giải tỏa thành nội, trưa mồng 2 có thêm xe tăng của Mỹ nên đã vào được thành phố. Tại sân bay Tây Lộc, đặc công đột nhập phi trường đốt kho xăng, kho đạn... giao tranh suốt ngày Mồng 2, sáng hôm sau ta tái chiếm phi trường. Khu Ðại Nội bị chiếm, VC treo cờ trên kỳ đài cho tới 24-2-1968. Khu Ðông Nam, một cánh quân VC chiếm khu Ðông Nam và chợ Ðông Ba. Ty Chiêu Hồi, Ty Thông Tin, Tòa Án... bị chiếm, cơ sở bị phá hủy. Mặt trận phía Nam (Hữu ngạn) do Thân Trọng Một chỉ huy, lực lượng gồm toàn bộ hai Trung đoàn BB và 4 đại đội đặc công. Mặt trận Tam Thai, đặc công đột nhập vào căn cứ thiết giáp ở Tam Thai, ngày Mồng 2 Tết lực lượng phản kích VN tái chiếm, có hai phi cơ lên yểm trợ, đặc công bị bắn chết gần hết trên núi. Cộng quân xâm nhập thành phố phía hữu ngạn Huế, lực lượng phòng thủ chống cự mãnh liệt. Bốn ngày sau VC chiếm đại đội Quân cụ, Ty Ngân Khố, Tòa Ðại Biểu, Tòa Hành Chánh, nhà tù... chúng thả 2,000 tù nhân ra gây rối dữ dội. Phía VNCH chỉ còn giữ được Tiểu khu, đài phát thanh, bản doanh MACV, bến tầu hải quân. Ðồng thời VC cũng mở Mặt Trận Chính Trị, họ thành lập các Ủy Ban Cách Mạng Nhân Dân. Ngày 14-2-1968 đài Hà Nội tuyên bố đã thành lập một chính quyền cách mạng do Lê Văn Hảo làm chủ tịch, phó chủ tịch Ðào Thị Xuân Yến, Hoàng Phương Thảo. CSBV nặn ra tổ chức Liên Minh các Lực Lượng Dân Chủ và Hòa Bình..., chủ tịch là Lê Văn Hảo, giáo sư Ðại Học Huế và Sài Gòn, họ cũng nặn ra Lực Lượng Nghĩa Binh lấy các quân nhân VNCH bị kẹt lại Huế thành lập lực lượng ly khai đả đảo Thiệu Kỳ, nhưng dần dần họ bị hãm hại gần hết. Ngoài các toán tuyên truyền, Cộng quân còn tổ chức những đơn vị an ninh do Lê Tư, Bẩy Khiêm là hai cán bộ an ninh cấp khu chỉ huy; hai tên này đặc trách việc thủ tiêu, bắt bớ các viên chức, sĩ quan VNCH ở hai khu tả và hữu ngạn. Tả Ngạn, Tống Hoàng Nguyên phụ trách an ninh lùng bắt các sĩ quan và viên chức cao cấp Huế và bảo vệ các nhân vật chính trị như Lê Văn Hảo, Thích Ðôn Hậu, Nguyễn Ðóa... Khu hữu ngạn Bẩy Khiêm cho săn bắt các viên chức chính quyền, giết phó tỉnh trưởng Thừa Thiên, bắt sống ông đại diện chính phủ, các đảng viên Ðại Việt, Việt Nam Quốc Dân đảng... Thường dân bị chết vì bom đạn và bị VC tàn sát rất nhiều. QLVNCH đã bắt đầu phản công từ Mồng 3 Tết. Tại Tả ngạn, chiến đoàn Dù gồm 2 tiểu đoàn và chi đoàn thiết giáp tăng cường tiến về Huế, địch rút vào thành nội, Mồng 5 Tết Dù giải tỏa phi trường Tây Lộc, tái chiếm cửa An Hòa. Trận chiến kéo dài 3, 4 ngày không tiến triển, Cộng quân phá cầu Trường Tiền, ngày 9 Tết địch tăng cường phản công ở khu vực cửa Chánh Ðông. Cả hai bên đều mệt mỏi, VC bắt đầu hết đạn dược, thương vong tại nội thành lên tới 300 người mà không di tản đi được. Ngày Mồng 5 Tết Lê Minh họp các cấp chỉ huy CS quyết định rút khỏi Huế, địch tấn công đồn Mang Cá 3 giờ đồng hồ nhưng thất bại. Minh xin Hà Nội tăng viện, được tăng cường một trung đoàn nhưng khi vào Huế bị Lữ đoàn 3 TQLC Mỹ chận đánh tan nát. Tại mặt trận Hữu Ngạn, chiến đoàn Dù giải vây đồn Mang Cá, thành nội 3-2, từ ngày Mồng 5 Tết quân đội Mỹ cũng tiến vào tham chiến tại thành nội Huế, tiểu đoàn TQLC Mỹ và thiết giáp đổ bộ bến tầu hải quân, chiến xa Mỹ có hỏa lực mạnh. Một tuần sau TQLC Mỹ đã tiêu diệt được gần 1,000 VC, phía Mỹ chỉ có 31 người chết. TQLC Mỹ cũng được đưa vào hữu ngạn, tình hình dã tạm yên. Sau khi ổn định mặt trận Hữu Ngạn, Việt Mỹ mở cuộc phản công mới để thanh toán những chốt cảm tử, lực lượng Dù chuyển về Sài Gòn, TQLC ta hành quân cùng với Mỹ. Các đơn vị Mỹ đổ bộ bến Bao Vinh, ngày rằm bắt đầu nắng. Chiến dịch Sóng Thần gồm 6 khu: A- Ðông Bắc; B- Chính Ðông gồm chợ Ðông Ba; C- Tây Bắc gồm phường Tây Lộc; Ð- Ðông Ðại Nội; E- Kỳ Ðài, Ngọ Môn; F- Tây Nam Thành Nội. Các cuộc hành quân tiến chậm vì thời tiết xấu, máy bay không oanh tạc được, ngày 19-2 hai tiểu đoàn VC tấn công một tiểu đoàn TQLC của ta, từ Mang Cá ta bắn 2000 quả pháo binh để yểm trợ. Tại khu Ðông Ðại Nội Mỹ và VC tranh nhau từng cao điểm, trận đánh rất khốc liệt. Ngày 19-2 Lê Minh họp các đảng viên và quyết định rút, chúng bắt tù binh đem theo. Từ 22-2 các cấp chỉ huy CS bắt đầu rời thành nội. Quân Ðoàn 1 cho lệnh tổng phản công tái chiếm, hai tiểu đoàn BÐQ được tăng cường, ngày 23-2 Mỹ chiếm một phần thành ở phía Ðông Nam.TQLC ta chiếm cửa hữu, tiến đánh Nam Ðài, Nhà Ðồ. Bốn giờ sáng hôm 22-2 một đại đội thuộc Sư đoàn 1 chiếm kỳ đài. Từ Mồng 8 Tết VC đã chuyển tù nhân và thương binh, chiến lợi phẩm ra khỏi Huế, ngày 22-2 các đơn vị chủ lực địch bắt đầu rút kéo dài 5 ngày cho đến 26-2 những cán binh cuối cùng rời Huế. Số cán binh CS bị giết tại Huế được ước lượng trên 2,000 người, phía VNCH có 384 người chết, 1800 bị thương, Mỹ 147 người chết, 857 người bị thương, trận chiến Huế thê thảm và tàn khốc nhất trong cuộc Tổng công kích, tổn thất tại đây cao nhất vì bị địch chiếm gần một tháng. VC tàn sát, chôn sống rất nhiều tù binh gồm quân nhân công chức và tình nghi trên đường rút lui. Từ khi CSBV rút đi, các hố chôn người tập thể đã được khai quật, chính quyền đã tìm được khoảng 5,000 xác nạn nhân, khoảng 2,000 người mất tích. Thiếu tá Cảnh Sát Liên Thành, cựu phó ty cảnh sát Thừa Thiên cho biết hồi đó ông điều tra bắt được huyện ủy Phú Vang tên Hồ Ty, bí danh Sơn Lâm, hắn là người chủ chốt thi hành lệnh của Quân ủy Trị Thiên thanh toán tất cả những người chúng đã bắt đem theo. "Tên Sơn Lâm cho biết rằng khi chúng rút lui thì bị quân đội VNCH và Mỹ truy đuổi quá gắt gao, lo cho đơn vị cũng không nổi làm sao lo được cho tù binh. Vả lại số người bị chúng bắt theo quá nhiều đã làm vướng bận không thể rút lui nhanh được, lệnh của quân khu Trị Thiên là giết hết tất cả tù binh. Vụ thảm sát tết Mậu thân tại Huế đến giờ này chúng ta cũng không biết đây là lệnh của quân khu Trị Thiên hay là chính sách của Trung ương Ðảng CSVN. Về phía nhà cầm quyền CS thì chúng luôn luôn chối bỏ không có vụ giết trên 5,000 người tại Huế" Cuộc đối thoại dưới đây giữa Thiếu Tá Liên Thành và Sơn Lâm, huyện ủy Phú Vang cho thấy rõ bộ mặt thật của cái gọi là Giải phóng: "Khi dẫn tên Sơn Lâm đi chỉ những hầm chúng chôn xác nạn nhân, tôi hỏi nó: “Tại sao các anh dã man tàn ác vậy? Cũng là người với nhau, không thù oán gì cả mà các anh dùng cuốc đánh vào đầu người ta cho đến chết thì tôi không thể nào tưởng tượng nổi. Đối với con vật chúng ta cũng không thể nào làm như vậy”. Nó bảo: “Các anh phải biết rằng, chúng tôi không có đạn. Đạn phải để dành để đánh nhau với các anh chứ đạn đâu mà bắn tù. Lệnh trên bảo dùng phương tiện cuốc xẻng, dao búa để thanh toán. Chúng tôi không thể đem theo tù binh được nên phải giết hết. Thà giết lầm còn hơn bỏ sót vì biết đâu trong số tù binh đó có người làm tình báo hoặc làm cho CIA, cho nên chúng tôi đâu có tha được." Trong bài Mậu Thân Ở Huế, ông Nguyễn Lý Tưởng cho biết tại Phú Cam có hơn 300 người đàn ông bị bắt trong nhà thờ, VC đem họ đi giết tập thể tại khe Ðá Mài thuộc quận Nam Hòa Thừa Thiên. Gần hai năm sau người ta mới tìm ra được chỗ này, một số học sinh cũng bị địch giết. Cộng quân chôn sống Nghị Sĩ Trần Ðiền. Thiếu Tá Từ Tôn Kháng, Tỉnh đoàn trưởng xây dựng nông thôn bị trói ngoài sân, bị xẻo tai, xẻo mũi, tra tấn cho đến chết. VC tra tấn, tàn sát các đảng viên Ðại Việt Cách Mạng tổng cộng khoảng 300 người. Những mồ chôn tập thể tại chùa Áo Vàng, sân trường Gia Hội phường Phú Cát hoặc Phú Cam... có hằng trăm nạn nhân bị chôn sống trong những nấm mồ tập thể. Nạn nhân bị đâm bằng lưỡi lê, đánh vỡ sọ bằng cán cuốc, bị bắn hay chôn sống. Ba ông bác sĩ người Ðức, giáo sư Ðại Học Y Khoa Huế bị giết vì nghi là CIA. Tại quận Hoài Nhơn, VC tàn sát 300 người, trong đó có cả trẻ em, bà già. Tại Phú Vang, Phú Thứ có nhiều hầm chôn tập thể, tại những nơi mà VC tàn sát người ta có lập bia kỷ niệm, nhưng sau 1975, chính quyền CS cho đập phá hết. Theo tác giả Elje Vannema, trong bài Thảm Sát Huế Mậu Thân, bọn Mặt Trận Giải Phóng lo phần chính trị, họ ghi tên hầu hết mọi người, chú trọng đàn ông, chia thành phần công chức quân đội, thường dân... Theo tác giả, quân chính qui Bắc Việt và quân Mặt Trận lo phần quân sự tác chiến, bọn Mặt Trận nhất là những cán bộ nằm vùng địa phương lo việc chính trị, xử án, thủ tiêu, bắn giết... họ muốn bắt ai, muốn giết ai thì giết có khi không cần lý do... Cuộc tàn sát tại Huế do cán bộ CS nằm vùng và Mặt Trận Giải Phóng tiến hành. Sau 1975, chúng tôi có hỏi một bộ đội người cùng làng về vụ tàn sát Huế Mậu Thân 68, anh ta nói bọn Mỹ Ngụy giết dân rồi đổ cho cách mạng. Một Trung tá CS tâm sự với thân nhân của mình sau 1975 rằng vụ tàn sát là do ức quá, VC bị phía VNCH, Mỹ bắn hạ quá nhiều mà không chiếm được đất nên đã tàn sát tù binh để trả thù. Nay chính quyền CS tuyên truyền giáo dục cho học sinh tại Huế về tội ác Mỹ Ngụy đã giết hại và chôn tập thể mấy nghìn người trong trận Mậu Thân. Một cô gái Huế mới sang định cư tại Mỹ theo diện lấy Việt kiều đã than với những người Việt tại đây như sau: "Tết Mậu Thân 1968, Mỹ Ngụy giết và chôn sống mấy nghìn người, sao ác quá vậy?" Mặc dù nay chính quyền CS có thể tuyên truyền xuyên tạc với một số người lớp trẻ nhưng không thể nào che giấu được tội ác tầy trời của họ trước lịch sử. CS sợ người ta nói tới Tết Mậu Thân Huế y như "cú sợ mặt trời" vì nó nhắc lại cuộc tàn sát đẫm máu nhất, lớn lao nhất của họ trong cuộc chiến tranh giữa người Việt Quốc gia và CS. Mặc dù cuộc tàn sát ấy là một tội ác lớn lao của nhân loại nhưng nó lại không được báo chí cũng như truyền hình trên thế giới nhắc tới mấy, họ chỉ đưa ra hình ảnh một ông Tướng cảnh sát VN cầm súng lục bắn vào đầu một cán binh CS tại Sài gòn 1968 để tuyên truyền chống chiến tranh. Nay mặc dù người ta đã công bố chính thức số nạn nhân của chế độ CS trên thế giới là 100 triệu người, gấp 7, 8 lần số nạn nhân của Ðức Quốc Xã và Phát Xít Nhật, nhưng giới truyền thông quốc tế chỉ chú ý tới những người Do Thái bị tàn sát trong các trại diệt chủng mà không thấy nhắc tới những nạn nhân CS chết thảm khốc khắp nơi như tại cố đô Huế hồi Mậu Thân chẳng hạn. Cộng quân tấn công Quảng Tín, Quảng Ngãi trễ vào ngày Mồng Hai Tết nên bị thảm bại. Tại Quảng Tín, 4 mục tiêu là Tiểu khu, Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 6 VNCH, Bộ chỉ huy tiểu đoàn 22 pháo binh, cổng ga xe lửa. VC dùng 2 tiểu đoàn tấn công bộ chỉ huy Trung đoàn 6 nhưng bị đẩy lui ngay, sau đó tấn công tòa hành chánh tiểu khu. Hai bên giao tranh đến sáng thì địch bỏ chạy. Nhờ trực thăng yểm trợ cùng bộ binh tăng viện, VC bị bắn hạ hàng 100 tên. Tại Quảng Ngãi dân cư thưa thớt, một tỉnh nhỏ nhưng tinh thần chống Cộng rất cao. VC pháo kích dữ dội rồi đưa hai trung đoàn tấn công nhiều vị trí của ta như Trung Tâm Huấn Luyện Ðịa Phương Quân, Phi trường, Ty Cảnh Sát, Tòa Hành Chánh, Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 2... địch bỏ lại 80 xác chết. Tại tiểu khu, phi trường, 4 tiểu đoàn đặc công, 2 tiểu đoàn bộ binh VC tấn công nhưng bị chận đứng. Khi trời sáng, trực thăng lên yểm trợ đẩy lui địch, gần 100 tên bỏ xác tại trận. Ðêm Mồng 2, một tiểu đoàn VC tấn công Trung Tâm Huấn Luyện Ðịa Phương Quân, hôm sau ta phản công tái chiếm, 118 tên bỏ xác tại trận. Cuộc tấn công của CS vào Quảng Tín và Quảng Ngãi thất bại, thường dân có khoảng hơn 300 người chết. Ngày 16-3 trong chiến dịch tảo thanh, đơn vị của Trung Úy Willam Calley đã tàn sát khoảng 100 người dân vô tội tại Ấp Mỹ Lai, xã Song Mỹ, Quảng Ngãi khiến cho phong trào phản chiến tại Mỹ nhân cơ hội thổi phồng lên, biểu tình đòi chấm dứt chiến tranh. Tại Vùng 3 chiến thuật là lãnh thổ quan trọng nhất gồm 11 tỉnh: Bình Long, Phước Long, Tây Ninh, Bình Dương, Long Khánh, Hậu Nghĩa, Biên Hòa, Long An, Gia Ðịnh, Phước Tuy, Bà Rịa. Sài Gòn được địch chọn làm mục tiêu, hầu hết lực lượng thuộc Mặt Trận Giải Phóng. Trước 1968 tại đây VC có 3 sư đoàn (Công trường 5, 7, 9), 3 Trung đoàn biệt lập, một Trung đoàn pháo và gần 30 tiểu đoàn Ðịa Phương Quân. Tại đây QÐVNCH có 3 sư đoàn BB, một liên đoàn BÐQ, tổng cộng 46 tiểu đoàn. Phía Mỹ có 3 sư đoàn đóng tại Hậu Nghĩa, Phước Tuy, Bình Dương. Từ năm 1967 các đơn vị Việt Mỹ đi hành quân đã bắt được nhiều tài liệu và tới gần Tết đã có nhiều dấu hiệu cho thấy VC chuẩn bị đánh Sài Gòn nhưng chính quyền miền Nam chuẩn bị lỏng lẻo. Mặt trận Sài Gòn bắt đầu lúc 2 giờ sáng Mồng 2 Tết tức 31-1-1968, và chấm dứt đầu tháng 2 Âm Lịch 28-2-1968 gồm 2 giai đoạn: - Từ Mồng 2 Tết đến 9 Tết (31-1 tới 7-2), đặc công đánh dinh Ðộc Lập, tòa đại sứ Mỹ, đài phát thanh, Bộ TTM, phi trường Tân Sơn Nhất. Các lực lượng chủ lực không kết hợp được với đặc công. - Giai đoạn hai từ 7-2 tới 28-2, VC đưa các đơn vị chủ lực vào trận chiến, nhưng lúc này ta đã chuẩn bị kỹ càng đánh trả ác liệt. Lực lượng VC chỉ độ một nửa so với VNCH và Ðồng minh, hỏa lực thua kém. Chúng không có vũ khí nặng như xe tăng đại bác, tuy nhiên VC được trang bị vũ khí cá nhân tối tân như AK, B-40. Ðịch có ưu thế chủ động tấn công, mặt trận Sài Gòn là trọng điểm, Phạm Hùng bí thư Trung Ương Cục miền Nam chỉ định Nguyễn Văn Linh, tức Mười Cúc làm bí thư toàn vùng, Võ Văn Kiệt phó bí thư. Những đơn vị CS tham gia gồm Công trường 9 có 3 Trung đoàn, Công trường 7 có 3 Trung đoàn, Công Trường 5 có 2 Trung đoàn. Phía QÐVNCH khá đông: hai chiến đoàn Dù và TQLC bảo vệ vòng đai, ngoài ra Sư đoàn 25 BB đóng tại Củ Chi, Sư đoàn 5 BB tại Lái Thiêu, Sư đoàn 18 BB tại Xuân Lộc, cộng thêm các lực lượng Ðịa Phương Quân ở Gia Ðịnh, Cảnh sát, Hải quân với các giang thuyền, giang đỉnh ở Cát Lái, Tân An, Không quân với các máy bay chiến đấu ở Tân Sơn Nhất và Biên Hòa. Ở vòng ngoài thủ đô còn 3 sư đoàn Mỹ: sư đoàn 1, 9 và 25. Tiệm phở Bình số 7 đường Yên Ðổ Tân Ðịnh là trụ sở Biệt Ðộng Thành. CS mở màn bằng trận đánh đặc công: 17 tên tấn công Tòa đại sứ Mỹ bằng xe Traction, địch bắn thủng tường tràn vào, giết 2 quân cảnh, chiếm một phần cao ốc. Các binh sĩ quân cảnh Mỹ liều tấn công tràn vào qua cửa chính, họ bắn hạ gần hết số đặc công bên trong, một tên bị bắt làm tù binh, phía Mỹ có 5 người chết. 18 tên chiếm cao ốc ở góc Nguyễn Du Thủ Khoa Huân sát dinh Ðộc Lập, địch dùng B-40 đánh sập cổng, tràn vào sân bị cảnh sát, an ninh bắn hạ, 7 chết, 8 bị bắt, 13 tên chạy thoát. Tại đài phát thanh, 12 tên tấn công đài bị cảnh sát và sau cùng lính Dù bắn hạ gần hết. Tại Bộ TL Hải Quân, 16 đặc công tiến sát vào hàng rào nhưng bị binh sĩ hải quân tràn ra bắn hạ 10, bắt sống hai, bốn tên chạy thoát. Tại Bộ TTM, 27 đặc công tấn công cổng số 5 đường Võ Tánh bị đẩy lui, một xe tuần tiễu Mỹ đi ngang bắn trả lại VC, chúng lẩn vào chùa Long Hoa bị tiêu diệt hết. Cuộc tấn công của CS vào Biệt khu thủ đô, Tổng nha cảnh sát… đều đã thất bại, không tới được mục tiêu. Từ đợt tấn công đầu Cộng quân đã bị tiêu diệt ngay, dư luận báo chí ngoại quốc đã thổi phồng cuộc tấn công dinh Ðộc Lập và tòa Ðại sứ Mỹ. Một tiểu đoàn VC tấn công Bộ TTM, chiếm Trường Sinh ngữ quân đội. Địch bố trí trên những cao ốc đường Võ Di Nguy nối dài bị Dù đánh bật ra khỏi trận địa. Hai tiểu đoàn địch tấn công Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung lúc 2 giờ sáng Mồng 2 Tết để ngăn chận tân binh về cứu viện Sài Gòn, sau đó chiếm đài phát tuyến Quán Tre để ra lệnh tổng khởi nghĩa toàn quốc. Vì đã được báo động từ đêm Mồng Một, các binh sĩ phòng vệ tại Quang Trung với hỏa lực đại liên đã đẩy lui địch ngay từ đợt tấn công đầu, 40 VC bỏ xác tại trận. Tại Gò Vấp, Trung đoàn Quyết Thắng CS tấn công trại Phù Ðổng (thiết giáp), trại Cổ Loa (pháo binh). Trại Phù Ðổng chỉ có 40 người bị chiếm dễ dàng, địch bắt một số quân nhân và vợ con làm con tin. Trước khi rút, địch giết hết con tin, cả trẻ nít. Tại trại Cổ Loa, VC bị cầm chân không chiếm được mục tiêu, ngày mồng 3 Tết TQLC vào giải tỏa khu vực. Tại mặt trận phía Ðông, VC tấn công trường bộ binh Thủ Ðức, Hàng Xanh. Một tiểu đoàn địch lọt vào Hàng Xanh, tấn công bót cảnh sát, giết một số người và thiêu hủy hồ sơ. Một tiểu đoàn BÐQ từ Thủ đức về giải tỏa, VC chận dân lại không cho di tản để bắt họ làm bia đỡ đạn. Chiều Mồng 3 Tết có thiết giáp tăng cường, địch rút chạy, bỏ lại 85 xác chết, 5,000 người dân trở thành vô gia cư vì nhà cửa cháy tiêu tan hết. Trung đoàn Ðồng Nai bị chận đánh ở Bình Triệu, 2 tiểu đoàn TQLC đã giữ được phòng tuyến gây thiệt hại nặng nề cho đối phương, 300 tên bỏ xác tại trận. Tại mặt trận phía Tây, phi trường Tân Sơn Nhất, 2 tiểu đoàn VC tới Bà Quẹo đặt Bộ Chỉ Huy trên nóc hãng dệt VINATEXCO, hãng dệt nằm cách hàng rào phi trường chừng 100 thước. Một tiểu đoàn VC tràn qua bãi đất trống đầu phi đạo, một đại đội Dù và một số sĩ quan không quân cùng hai chiến xa M-48 được đưa tới đầu phi đạo ngăn chận địch, 162 tên bị bắn hạ, số còn lại rút về hướng xưởng dệt. Khi trời sáng, không quân oanh tạc dữ dội, những vị trí đóng quân của CS trong hãng dệt và vùng lân cận bị tiêu diệt hết. Tại trường đua Phú Thọ, VC và cảnh sát dã chiến giao tranh dữ dội, địch phân tán mỏng vào khu cư xã Lữ Gia, chợ Thiếc, tại khu Bà Hạt, Trần Quốc Toản, Lý Thái Tổ. Trận đánh diễn ra dữ dội. Tại khu trường đua Phú Thọ VC để lại gần 100 xác chết, địch hoàn toàn thất bại trong mưu toan chiếm Biệt Khu Thủ Ðô. Cộng quân bị săn đuổi ẩn nấp trong dân chúng, những trận oanh kích tạo thành những đám cháy lớn, thiệt hại vật chất rất cao khiến cho số nạn nhân chiến tranh ngày càng gia tăng. Tại phía Nam, 2 tiểu đoàn VC tiến vào ngoại vi quận 7, quận 8, dân chúng lánh nạn ồ ạt, nhà cửa bị phá hủy rất nhiều. Khi tiếng súng bắt đầu nổ, phía VNCH bị bất ngờ, chỉ có 50% hay 30% ứng chiến, cả Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu và Tướng Cao Văn Viên đều bác bỏ yêu cầu của Tướng Wesmoreland đề nghị rút hưu chiến từ 36 xuống còn 24 giờ. Các tướng lãnh đã quá tự tin và thiếu cảnh giác, Tổng Thống Thiệu mới đắc cử về Mỹ Tho quê vợ ăn Tết, Tướng Vĩnh Lộc cũng bỏ về Sài Gòn ăn Tết. Sáng 30 Tết, 29-1 sau khi có tin địch sẽ tấn công Vùng 1 và 2, chính phủ Nguyễn Văn Thiệu vẫn không chú ý tới việc loan báo rút ngắn giờ hưu chiến. Tại Thủ đô, các đơn vị Dù, TQLC, các lực lượng cơ hữu của thủ đô, cảnh sát dã chiến, thiết giáp, Bộ TTM, Bộ TL Hải Quân... đã chiến đấu dũng cảm, bẻ gẫy mũi tấn công của biệt động thành và đặc công cho tới khi các lực lượng tăng viện của VNCH kéo về kịp thời. TQLC ở Cai Lậy kéo về khiến VC thảm bại, quân đội và cảnh sát đã chận đứng các cuộc tấn công tự sát của địch. Không quân đã yểm trợ hữu hiệu. Từ Mồng 3 Tết VC bắt đầu nao núng, đặc công bị tiêu diệt gần hết, các đơn vị của Trần Văn Trà không thể vào nội thành được, địch thiếu đạn. Sang ngày Mồng 4 Tết VC càng yếu thế và bắt đầu rút. Tính đến 7-2 đã có tới 86,000 dân tị nạn trong các trại. Tại khu Bắc, thành Cổ Loa, CS bị bắn hạ 180 tên, VNCH có 16 người tử thương. Tại đường Minh Phụng, Chợ lớn ngày 8-2 VC đốt nhà dân để rút lui từ 17, 18, địch chỉ nhằm phá hủy cầu cống, đồn bót nhỏ. Trong tháng 2 và 3 VNCH bị tử thương 323 người, VC có 5,290 người chết, 415 người bị bắt, gần 2000 vũ khí đủ loại bị tịch thu. Về mặt chính trị, CS hoàn toàn thất bại, dân chúng không hề tham gia nổi dậy như họ hằng mơ ước, như đài Hà Nội đã rêu rao. Dân chúng đã không hưởng ứng biểu tình do CS tổ chức mà còn chỉ điểm cho chính quyền VNCH biết những nơi có cơ sở VC, những nơi địch lẩn trốn. Các cơ sở nằm vùng bị bại lộ tan rã gần hết, chính phủ VNCH có cơ hội gần gũi với nhân dân hơn, người dân thù ghét CS qua các hành động tàn ác đốt nhà, bắn giết, tàn sát tù binh... Thiệt hại vật chất của ta lên rất cao, đô thành phải tiếp nhận khoảng 200 ngàn người tỵ nạn. Ngày 23-2 Bộ Trưởng Quốc Phòng Mc Namara từ chối đơn xin tăng viện của Tướng Wesmoreland. Gần một tháng sau, ngày 22-3, Johnson tuyên bố thay thế Wesmoreland và Ðô Ðốc Grant Sharp, Tư lệnh Thái Bình Dương. Ngày 31-3-1968, ông cũng tuyên bố không ra tái tranh cử, hạn chế oanh tạc BV, công khai nhờ Nga và Anh tìm cách hòa giải cuộc chiến tranh VN. Công trường 9 VC được lệnh tấn công Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 25 Mỹ để chận đứng sự tiếp cứu Sài Gòn, một trung đoàn khác tấn công Thủ Ðức. Công trường 7 VC có 2 trung đoàn, một tấn công Sư đoàn 1 BB Mỹ ở Lai Khê, đánh Bình Dương, Bộ TL Sư đoàn 5 VNCH. Công trường 5 cho 2 trung đoàn 274 và 275 tấn công BTL dã chiến Mỹ ở Long Bình, BTL Quân Ðoàn 3 VNCH ở Biên Hòa. Các lực lượng quanh thủ đô gồm vài tiểu đoàn hỗ trợ cho cuộc tấn công Sài Gòn. 3 giờ sáng ngày Mồng 2 Tết 29-1, Trung đoàn 274 VC đánh phi trường Biên Hòa, tràn vào hàng rào phía Tây. Máy bay trực thăng tới cứu, dùng hỏa châu soi sáng mục tiêu và hạ được 114 tên. Trung đoàn VC tấn công BTLQÐ 3 thất bại và bỏ chạy. Ngày hôm sau trung đoàn này rút về Trảng Bom bị bắn hạ khoảng 100 tên. Toàn bộ trận đánh địch bị tử thương hơn 500, 40 tên bị bắt. Tại Cần Thơ, VC đưa 2 tiểu đoàn U Minh và Tây Ðô tham dự cuộc tấn công này. Cần Thơ canh phòng lỏng lẻo, trực gác chỉ có 30%, 3 giờ sáng ngày 2 Tết tiểu đoàn Tây Ðô khởi sự tấn công Bộ TLQÐ 4 nhưng bị đẩy lui, tiểu đoàn U Minh tràn vào khu đại học, đài phát thanh, hai bên tranh nhau từng căn nhà. Đêm Mồng 2 Tết địch âm thầm rút ra khỏi thành phố. Tại Vĩnh Long, VC tập trung 3 tiểu đoàn 306, 308, 857 tấn công thị xã. Chúng cải trang xâm nhập thành phố từ trước Tết. Địch không chiếm được khám đường tỉnh nơi giam giữ trên 800 tù nhân CS. Sang ngày Mồng 2 chúng phải rút. VC tấn công tòa hành chánh, phi trường nhưng không chiếm được mục tiêu và đã bị trực thăng tiêu diệt hết. Ngày Mồng 6 Cộng quân bị đánh bật ra khỏi thành phố. Một nhân chứng tại đây trong ngày Tết cho biết lính VC tác chiến rất dở. Mười ngày sau, tối 15-2 địch lại tấn công đợt hai nhưng cũng thất bại, 300 tên bị tử thương, thường dân chết và bị thương khoảng 200 người, 4,500 nhà cửa hư hại 50%. Kiến Hòa có hai hòn đảo Bến Tre và Mỏ Cầy nằm giữa ba chi lớn của sông Tiền giang: đảo Bến Tre gồm 2 phần Bình Ðại ở phía Bắc và Giồng Trôm ở phía Nam. VC đột nhập tỉnh đêm Mồng 2 Tết, chúng bao vây các khu quân sự chiếm các khu phố. Tỉnh trưởng Kiến Hòa tử trận, sáng Mồng 3 Tết Trung đoàn trưởng trung đoàn 10 điều động 2 tiểu đoàn về giải tỏa, 2 tiểu đoàn Mỹ cũng được đưa vào trận địa. Không quân VN và Ðồng minh oanh kích dữ dội các chốt tử thủ của VC khiến cho nhà cửa tại Bến Tre bị hư hại đến 50%, khoảng gần 100 người thường dân tử thương. Tướng Westmoreland với chiến lược lùng diệt địch đã tảo thanh những mật khu lớn của VC như Tam Giác Sắt, Chiến Khu C, D, song song với chương trình bình định và xây dựng nông thôn. Chương trình cũng đã giúp cho miền Nam thêm vững mạnh. Nguyễn Chí Thanh định tung một cuộc tấn công vào các thành phố ngắn hạn rồi triệt thoái, Thanh chết Mùa Thu 1967, Võ Nguyên Giáp bèn biến kế hoạch ấy thành tổng công kích. Từ sau 1965, Cộng quân đụng với hỏa lực hùng hậu của Mỹ đã bị thương vong rất nhiều, CSBV đã phải bắt lính cả những thanh niên 17, 18 tuổi để phục vụ cho nhu cầu chiến trường. Hà Nội lại áp dụng chiến lược cũ kỹ có từ thời chống Pháp, cố đấm ăn xôi lỳ lợm để hỗ trợ cho phong trào phản chiến tại Mỹ. Thập niên 50 Việt Minh đã làm cho người Pháp phải ghê sợ, chán ghét cuộc chiến tranh Ðông Dương, 19 chính phủ đã bị đánh đổ vì không giải quyết được cuộc chiến, nay Mỹ lại đi đúng vào vết xe đổ của Pháp. Ðầu năm 1968 Tướng Wesmoreland đã đề nghị với Tướng Wheeler, tổng tham mưu trưởng gửi thêm tăng viện 200 ngàn quân trước cuối năm 1968 để mở rộng chiến tranh qua Miên, Lào hoặc đánh qua vĩ tuyến 17 để tiêu diệt hậu cần VC. Kế hoạch rất hợp lý về phương diện quân sự nhưng Bộ Trưởng Quốc Phòng Mc Namara không chấp nhận. Tổng Thống Johnson không quyết định dứt khoát, người Mỹ không thống nhất hành động. Tại Mỹ các tướng lãnh không có thẩm quyền về chiến lược, họ là những nhà chuyên môn quân sự nhưng lại bị các nhà chính trị lãnh đạo. Các nhà chính trị Mỹ dường như không muốn chiến thắng mà họ muốn cù cưa kéo dài chiến tranh. Có giả thuyết cho rằng Hành pháp Mỹ đã bị tài phiệt, tư bản giựt dây kéo dài chiến tranh để họ bán vũ khí hoặc tiêu thụ số súng đạn tồn kho từ Thế Chiến Thứ Hai. Nói về mặt quân sự, VNCH thắng VC ngay trong tuần lễ đầu. Mặc dù Hà Nội tung vào mặt trận tới 84 ngàn quân nhưng từ ngày Mồng 5 trở đi Cộng quân đã bị dồn vào thế bị động, chúng phải rút lui và chịu nhiều rất thiệt hại về nhân mạng. Theo tài liệu của Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, trong tháng 2-1968 VC bị giết 41,180 người, tháng 3-68 bị bắn hạ 17,192, người tổng cộng 58,372 người, bị bắt làm tù binh toàn bộ 9,461 người. Trong số 84,000 cán binh được đưa vào trận Tổng Công Kích chỉ còn 16,168 tên chạy thoát, chưa tới 20%. Vũ khí bị ta và đồng minh tịch thu là 17,439 khẩu súng đủ các loại. Phía VNCH có 4,950 người tử trận, 926 người bị mất tích, 15,097 người bị thương. Phía đồng minh có 4,120 người tử trận, 19,265 người bị thương, 600 người mất tích. Về vũ khí ta mất hơn 2,000 khẩu súng, 63 máy bay bị tiêu hủy, 154 chiếc bị hư hại nặng, 99 chiếc bị hư hại nhẹ. Ðồng minh có 60 máy bay bị tiêu hủy, 60 chiếc hư hại nặng, 116 chiếc hư hại nhẹ. Thường dân chết trên toàn quốc có tới 14,300 người, bị thương 24 ngàn, tị nạn 627 ngàn người. Thiệt hại vật chất của VNCH rất cao tại Huế: 2/3 tổng số nhà cửa bị phá hủy. Vùng 2 có 12 ngàn căn nhà bị phá hủy. Vùng 3 có 10 ngàn căn bị phá hủy. Sài Gòn có 19 ngàn căn bị hủy. Vùng 4 có 19 ngàn căn bị tiêu hủy. Những tỉnh bị thiệt hại nặng nề nhất là Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuộc, Mỹ Tho, Bến Tre, Vĩnh Long, Châu Ðốc, Cần Thơ, Sài Gòn, Huế và Phan Thiết. Vùng Cao nguyên và Vùng 2 tương đối khả quan hơn. Kinh tế cũng bị ảnh hưởng tai hại, ngoài các thành phố thị trấn bị tàn phá, có tới 13 xưởng kỹ nghệ đổ nát vì bom đạn, 20 hãng xưởng khác bị hư hại, thiệt hại lên tới 25 triệu Mỹ kim. Nạn nhân chiến tranh lên cao gần 700 ngàn người, ngân quĩ cứu trợ ước lượng 100 tỷ đồng. Tại Sài Gòn đã thiết lập hơn 100 trung tâm tạm cư để tiếp đón khoảng 200 ngàn người chạy loạn, 130 ngàn người không còn nhà cửa. Chánh Ðạo trong cuốn "Mậu Thân 68 Thắng Hay Bại?" cho biết VNCH có khuyết điểm lớn: "Về phía Việt Nam Cộng Hòa, chỉ nguyên việc để quân Cộng Sản bí mật chuyển khí giới vào thành phố, hay âm thầm chuyển quân tới tuyến tấn công là một khuyết điểm rất lớn. Các cơ quan an ninh quân sự cũng như dân sự chịu một phần trách nhiệm. Hoặc vì tư lợi, hoặc vì cầu nhàn, họ đã không kiểm soát được những đường dây đưa chất nổ và vũ khí tới các cơ sở cộng sản trong thành phố... Ðó là chưa kể tệ nạn tham nhũng, móc ngoặc đã thành cố tật trong hàng ngũ các đơn vị cảnh sát, an ninh kiểm soát giao thông... khiến CS an toàn đưa vào các thành phố và thị xã hàng tấn thuốc nổ, đạn dược, và vũ khí." Ngoài ra giới chức cao cấp như tổng thống, tướng vùng đã quá tự tin cho rằng VC sẽ không vị phạm hưu chiến trong nhưng ngày thiêng liêng của dân tộc. Mặc dù bị tấn công bất ngờ và không đầy đủ quân số ứng trực nhưng binh sĩ VNCH đã làm chủ tình hình sau mấy ngày giao chiến. Người Mỹ cho rằng VNCH và đồng minh yếu kém về tình báo y như trận Pearl Harbour hồi Thế chiến Thứ hai, VC bảo mật tốt, hoàn toàn bất ngờ, cuộc Tổng Công Kích làm ngạc nhiên cấp lãnh đạo và quần chúng Mỹ. Tuy nhiên VC cũng đã phạm vào nhiều sai lầm trầm trọng đưa tới thảm bại trong cuộc tấn công tự sát này. Hà Nội đánh giá sai hoàn toàn tâm lý quần chúng miền Nam, thấy dân chúng biểu tình, tuyệt thực chống chính phủ liên miên như vụ Phật Giáo miền Trung năm 1966 thì tưởng rằng hễ phát động Tổng Công Kích là nhân dân sẽ ùa theo ngay để cùng cách mạng lật đổ chính quyền Mỹ Ngụy. Hà Nội hy vọng cuộc Tổng Công Kích sẽ tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận ngụy quân ngụy quyền, tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ và đập tan ý chí xâm lược buộc đế quốc phải chịu thua để tiến tới thống nhất đất nước. Lê Duẩn nói dùng binh lực đánh quị các đơn vị chủ lực của địch, tổng tấn công các thành phố lớn và phát động hàng triệu quần chúng tại các tỉnh và miền quê nổi dậy tổng khởi nghĩa. Nhưng thực tế cho thấy quần chúng không nổi dậy hưởng ứng tổng khởi nghĩa mà họ còn chỉ điểm cho cảnh sát, quân đội bắt VC. Họ bồng bế nhau chạy trốn CS về vùng Quốc gia. Chính vì thất bại nên VC đã đốt nhà dân, tàn sát tù binh, dân lành vô tội để trả thù. CSBV đánh giá quá thấp lực lượng Mỹ ngụy, họ tưởng rằng đánh vào đầu não bộ máy quân sự là địch chạy như vịt ngay. Nhưng thực tế cho thấy mặc dù có yếu tố bất ngờ, VC đã bị đánh bật ra khỏi các thành phố sau mấy ngày giao chiến. Hậu quả của sự thất bại là 100 tiểu đoàn bị tan rã gần hết, có tới 70% bị tử thương 11% bị bắt làm tù binh, các cơ sở nằm vùng bị bại lộ, tiêu diệt. Một bộ trưởng của Mặt Trận Giải Phóng nói cuộc Tổng Công Kích đã mang lại nhiều hậu quả tai hại không ngờ cho Mặt Trận và CSBV. Hoàng Văn Hoan, cựu bộ trưởng công an BV trốn sang Tầu 1979 nói CS đã bị tổn thất nặng nề trong trận Tết Mậu Thân. Nhiều người đã đặt nghi vấn tại sao CSBV lại mở cuộc tấn công tự sát như vậy. Toàn bộ lực lượng địch là 84 ngàn người, hầu hết thuộc Mặt Trận Giải Phóng, mặc dù có vũ khí tối tân như AK, B-40 nhưng không có vũ khí nặng, xe tăng đại bác, phòng không... làm sao địch lại lực lượng trên 800 ngàn người của VNCH, trên 500 ngàn quân Ðông Minh Mỹ, Ðại Hàn, Úc... trang bị tối tân. Có thể nói đó là trứng chọi đá. Sir R. Thompson, một chuyên viên về du kích, chiến cho rằng Hà Nội muốn "nướng" hết lực lượng của Mặt Trận Giải Phóng để BV có cớ đưa quân vào. Tướng Weyand phân tích cuộc Tổng Công Kích nói: "Việt Cộng dẫn đầu cuộc tấn công và bị tiêu diệt để bảo đảm thống nhất do BV thống trị". Ngoài ra một thượng tá VC cũng có nói: 'Nó cho nướng sạch VC để sau này Bắc Kỳ vào thay thế hết'. Trong cuốn hồi ký Cuộc Chiến Dang Dở trang 260, 26, Tướng Trần Văn Nhật cho biết: "Tướng Wesmoreland vào cuối năm 1995, trong buổi tiếp tân và phỏng vấn tại nhà tôi, ông nói 'ông đã biết trước các âm mưu của CSBV sẽ tấn công VNCH vào dịp Tết Mậu Thân 1968, nhưng ông không thể 'bật mí' vì có ý định nhử Cộng quân tập trung vào các thành phố để tiêu diệt dễ hơn là tìm đánh chúng trong rừng núi'. Theo ông, nhờ chiến thuật nay nên sau Tết Mậu Thân, toàn bộ các đơn vị của Mặt Trận Giải Phóng Miền nam đều bị loại khỏi vòng chiến". Nhưng theo các tài liệu khác như của Tướng Hoàng Lạc thì trước Tết mấy ngày, Tướng Wesmoreland đã cho ông Thiệu biết VC sẽ tổng tấn công, ông đề nghị rút giờ hưu chiến từ 36 tiếng còn 24 tiếng nhưng ông Thiệu không tin và không chịu nghe theo. Cuộc tấn công của CS vào dịp Tết Mậu Thân nhằm vào lúc cuộc tranh cử đợt đầu giữa các ứng cử viên trong đảng bắt đầu. Cuộc tổng tấn công để gây tiếng vang đã được bộ máy tuyên truyền của Liên Xô giúp sức "đổ dầu vào lửa" cho phong trào phản chiến tại Mỹ cháy to hơn. Giới truyền thông phản chiến Mỹ đã thổi phồng cuộc tấn công lên thành chiến thắng lớn lao của Cộng quân khiến cho người dân nghi ngờ những lời tuyên bố lạc quan của chính phủ Mỹ. Tướng Wesmoreland phúc trình cuối năm 1967, trước Tết mấy ngày cho rằng Cộng quân đã bị đẩy lui khỏi những vùng đông dân, VC đã bị hoàn toàn yếu thế, nhưng mấy ngày sau địch tung ra trận Tổng Công Kích tàn khốc gây ảnh hưởng lớn lao đến báo chí truyền hình Mỹ tạo bước ngoặt cho cuộc chiến tranh Việt Nam. Cuộc Tổng Công Kích đã khiến cho nhóm nghiên cứu của Bộ Trưởng Quốc Phòng đề nghị Mỹ hạn chế can thiệp vào VN để thay thế bằng Việt Nam hóa chiến tranh (Vietnamization). Tướng Green, cựu tư lệnh TQLC lại bi quan nói dù có giết hết VC ta cũng vẫn có thể thất trận. Ngoài việc tiếp tay cho các phong trào phản chiến Mỹ, bộ máy tuyên truyền của Nga Xô còn phát động phong trào chống Mỹ tại nhiều nước trên thế giới, nhất là tại Âu Châu để tạo dư luận áp lực Mỹ phải rút quân bỏ VN. Có nhiều nhà bình luận phía Mỹ cũng như VN đã nhìn nhận trận Mậu Thân là một khúc quanh đối với tinh thần ủng hộ của người dân Mỹ cho cuộc chiến tranh VN, nó khởi đầu một khúc quanh bi đát cho số phận miền Nam. Phong trào phản chiến càng lên cao dữ dội hơn, hành pháp đã nghĩ tới hòa giải, Việt Nam hóa chiến tranh, rút quân về nước. Dư luận chung cho rằng trận Tổng Công Kích Mậu Thân kéo dài mấy tuần là một thảm bại về quân sự của Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng, nhưng thắng lợi về tuyên truyền của họ đã tạo một khúc quanh của tinh thần ủng hộ của người Mỹ cho cuộc chiến (Commonly referred to as the Têt offensive, this period of several weeks is generally regarded as a military disaster, but a psychological and propaganda victory for the NFL and North Forces, as this marked a sharp turning point in American sentiment and support for the war effort - Massacre at Hue, from Wikipedia, the free encyclopedia). Cuộc Tổng Công Kích đã khiến cho các lực lượng CS bị thiệt hại nặng nề cả về quân số cũng như tinh thần. Tuy nhiên nó lại tạo hậu quả bất lợi trên dư luận quần chúng Mỹ và đẩy mạnh phong trào phản chiến lên cao hơn (The large scale offensive resulted in drastic human and morale losses of the Communist forces. However, the offensive cause an extreme negative effect in the American public opinion and boost the more bitter protest against the war . From "My war", unpublished by L.T, More about the 1968 Tet offensive). Cho tới gần đây, bộ máy tuyên truyền của Hà Nội đã luôn ca ngợi trận Mậu Thân là một chiến thắng lớn lao về quân sự và không hề thấy họ nói đến thắng lợi của nó trên tinh thần nhân dân Mỹ... Hiển nhiên giới lãnh đạo Hà Nội đã đạt được một chiến thắng vô giá mà họ không dự định (Until lately, The Hanoi propaganda and political indoctrination system has always claimed the Tet offensive their military victory, and never insisted on their victory over the morale of the American public... Obviously, Hanoi leaders won a priceless victory at an unintended objective. From "My war"...) Khi Huế vừa được các đơn vị Việt Mỹ tái chiếm, đài VOA có nói: "Hôm nay ngày 26-2-1968, cố đô Huế đã được hoàn toàn giải tỏa, chấm dứt một cuộc chiến tranh bẩn thỉu nhất kéo dài từ gần một tháng qua..." Người Mỹ gọi cuộc chiến VN là cuộc chiến tranh bẩn thỉu (dirty war), một kẻ thù bẩn thỉu không từ một chiến thuật, chiến lược bẩn thỉu nào để giành thắng lợi. Họ tỏ ra khinh bỉ một kẻ thù tiểu nhân dùng toàn những thủ đoạn đê hèn, đánh cả trong ngày Tết một ngày thiêng liêng nhất của dân tộc, lợi dụng ngưng bắn, lợi dụng hưu chiến để tấn công, miệng nói hòa bình tay rình đánh trộm. CS đã tỏ ra quá hèn khi mở chiến dịch tấn công ngày Tết lợi dụng lúc nhân dân đang vui mừng Xuân mới. Cuộc Tổng Công Kích đã khiến cho Mặt Trận Giải Phóng bị tổn thất gần hết lực lượng cơ hữu, bị dân chúng tại các thành phố cũng như thị trấn căm thù oán ghét vì địch đã tỏ ra quá tàn ác nhẫn tâm sát hại hàng nghìn hằng vạn lương dân vô tội, đốt nhà dân để tháo chạy, chôn sống, tàn sát tù binh... Sau Tết Mậu Thân, nhiều thanh niên hăng hái tình nguyện nhập ngũ tại các trung tâm huấn luyện quân sự để tòng quân giết giặc. Mặc dù CS bị thất bại về quân sự và thất nhân tâm, nhưng cuộc Tổng Công Kích mặc nhiên lại mang nhiều bất lợi cho miền Nam. Như đã nói ở trên, nó trở thành một khúc quanh bi thảm trong cuộc chiến tranh Ðông Dương lần thứ hai. Người Mỹ đã bắt đầu ghê tởm kẻ thù cố đấm ăn xôi, lì lợm, họ nghĩ rằng không thể thắng nổi thằng nghèo đói đánh thí mạng cùi, một kẻ thù thí quân sẵn sàng đẩy thanh niên vào chỗ chết. CSBV đã thành công trong chiến lược cố đấm ăn xôi từ cuộc chiến tranh chống Pháp 1946-1954, họ đã tỏ ra lì lợm, dai như đỉa đói khiến cho người Pháp đã phải quá chán ghét, ghê sợ cuộc chiến tranh Ðông Dương đòi rút quân càng sớm càng tốt, 19 chính phủ đã bị đánh đổ trong suốt 8 năm khói lửa. CSVN được Nga Xô tiếp tay đã ra sức mở mặt trận chính trị tại Pháp, đẩy mạnh phong trào chống chiến tranh, nay BV một lần nữa lại áp dụng cái chiến lược cũ rích ấy, họ đã ra lệnh cho các cán binh phải giết cho nhiều người Mỹ để thúc đẩy phong trào phản chiến tại hậu phương đế quốc. CS đã làm cho đế quốc phải ghê tởm mình tức là họ đã thành công, đã khiến cho đế quốc phải rút quân bỏ lại chiến trường bẩn thỉu. Cuộc Tổng Công Kích đã khiến cho phong trào phản chiến bùng nổ dữ dội hơn lên, người dân Mỹ cho rằng không thể thắng được cuộc chiến tranh dai dẳng này. Chính phủ cũng bắt đầu thấm mệt vì vừa phải đương đầu với kẻ địch, lại phải đương đầu với phong trào chống chiến tranh ngay trong nước. Tổng Thống Johnson không tái tranh cử nhiệm kỳ 2 từ 1969-1973 để tìm cách rút chân ra khỏi VN. Ngày 10-5-1968 phiên họp đầu tiên của Hòa Ðàm Ba Lê bắt đầu. Tháng 1 năm 1969 Nixon nhậm chức tổng thống, thực hiện Việt Nam Hóa chiến tranh, rút quân về nước. Khi chuyển sang giai đoạn Việt Nam hóa chiến tranh, người Mỹ đã nghĩ đến việc rút quân bỏ Việt Nam. Từ 1970 họ bắt đầu đi đêm với Trung Cộng. Ngày 9-7-1971 Kissinger bí mật gặp Chu Ân Lai tại Bắc Kinh... Việt Nam đã bắt đầu trở thành món hàng mua bán đổi chác giữa các thế lực siêu cường. Trọng Ðạt
II- TƯỜNG THUẬT CHI TIẾT Cuộc thảm sát tại Huế TIME 31-10-1969 "Lúc đầu thì họ không dám bước xuống giòng suối", một trong những người thuộc toán tìm kiếm kể lại. “Nhưng mặt trời đang lặn và cuối cùng thì chúng tôi bước xuống nước, cầu nguyện cùng những người chết xin hãy thông cảm cho chúng tôi”. Những người thuộc toán tìm kiếm, khảo sát giòng suối cạn trong một khe núi ở phía nam thành phố Huế đã cầu nguyện cho sự thông cảm vì những người chết nằm ở đây đã không được chôn cất suốt 19 tháng trời, mà theo tín ngưỡng Việt Nam thì linh hồn của họ bị trừng phạt phải vất vưởng ở thế gian do hậu quả đó. Trong dòng suối, toán tìm kiếm đã tìm thấy những gì mà họ đang tìm kiếm - khoảng 250 xương sọ và một đống xương người. “Các tròng mắt thì sâu và đen, và nước suối chảy tràn qua các xương sườn”, một người Mỹ có mặt tại hiện trường cho biết. Sự khám phá kinh khiếp này vào hồi cuối tháng trước đã nâng tổng số lên khoảng 2,300 xác của đàn ông, đàn bà và trẻ con được đào lên chung quanh thành phố Huế. Tất cả đã bị cộng sản hành quyết vào khoảng thời gian 25 ngày Việt cộng tấn công mãnh liệt vào thành phố, trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân năm 1968. Những xác chết trong dòng suối ở Nam Hòa thuộc về 398 người đàn ông ở quận Phủ Cam một khu vực của thành phố Huế. Vào ngày thứ 5 của cuộc tấn công, bộ đội Cộng sản xuất hiện tại nhà thờ chính tòa Phủ Cam, nơi những người đàn ông này trú ẩn cùng gia đình họ, và dẫn họ đi. Bộ đội Cộng sản nói rằng những người đàn ông sẽ được tuyên truyền học tập và cho phép trở về, nhưng gia đình họ đã không bao giờ nghe gì về họ nữa. Tại chân núi Nam Hòa, cách mười dặm từ nhà thờ chính tòa, những người bị bắt đã bị bắn hoặc đập cho đến chết. Những ngôi mộ tập thể lộ thiên. Khi cuộc tấn công vào Huế chấm dứt ngày 24-02-1968, khoảng 3,500 thường dân bị mất tích. Một số rõ ràng là bị chết trong lúc loạn lạc và nằm chôn vùi dưới những đống gạch đổ nát. Nhưng khi dân chúng và quân đội chính quyền bắt đầu việc dọn dẹp, thì họ gặp phải nhiều ngôi mộ tập thể được chôn vội vàng ở phía tây Thành Nội, là một cổ thành bao bọc hoàng cung cũ của Huế. Khoảng 150 xác người được đào lên từ nấm mồ tập thể đầu tiên, nhiều xác bị cột lại với nhau bằng dây kẽm và bằng dây lạt tre. Một số bị bắn, còn số khác thì rõ ràng là đã bị chôn sống. Hầu hết các nạn nhân là viên chức chính phủ hoặc những người làm việc cho Mỹ, bị bắt đi trong một cuộc lục soát từng cửa nhà người dân do cán binh Cộng sản có cầm theo những danh sách đen với đầy đủ chi tiết. Nhiều ngôi mộ tương tự đã tìm thấy bên trong thành phố và ở phía tây nam, gần khu vực lăng tẩm của các hoàng đế Việt Nam. Trong số các xác được đào lên có thi hài của 3 vị bác sĩ người Ðức làm việc tại Viện Ðại học Huế. Chiến dịch tìm kiếm. Trong suốt năm đầu tiên sau biến cố Tết Mậu Thân, có nhiều tin đồn dai dẳng cho rằng có nhiều sự kinh khiếp đã xảy ra trong những đụn cát ở phía tây nam thành phố. Hồi tháng 3 năm ngoái, một nông dân đã vướng chân vào một sợi dây kẽm, khi ông ta lôi kéo sợi dây kẽm thì một mảnh xương tay lòi lên khỏi đống cát. Chính quyền lập tức phát động một chiến dịch tìm kiếm. “Có một số dải đất nơi mà cỏ mọc dài và rất xanh tươi một cách bất bình thường”, phóng viên thường trực William Marmon của tạp chí TIME tường trình hồi tuần trước tại Huế. “Bên dưới những chùm cỏ dại tươi tốt một cách bí hiểm này là những nấm mồ tập thể, cứ 20 đến 40 xác vào một mộ. Khi tin tức về sự khám phá này trở nên rõ ràng, thì công việc làm ăn được tạm ngưng và từng đoàn người kéo ra Phú Thứ để tìm kiếm thân nhân mất tích đã lâu, sàng lọc qua từng mớ quần áo giầy dép và vật dụng cá nhân. Hình như họ hy vọng rằng họ sẽ tìm được ai đó và đồng thời cũng hy vọng rằng họ sẽ không tìm được người nào”, theo một viên chức Hoa Kỳ cho biết. Cuối cùng thì 24 địa điểm đã được đào lên và thi hài của 809 người đã được tìm thấy. Vụ khám phá ở giòng suối thuộc quận Nam Hòa không xảy ra cho đến hồi tháng trước – sau một lời khai báo của một cán binh cộng sản về hồi chánh. Giòng suối và cái bí mật khủng khiếp đã được giấu kín dưới tàn cây rừng rất rậm rạp cho đến nỗi các bãi đáp phải được dọn dẹp bằng chất nổ trước khi trực thăng có thể đáp xuống để thả các toán tìm kiếm. Trong 3 tuần lễ, thi hài của các nạn nhân được để trên các kệ dài trong một trường học gần đó, và hàng trăm người dân Huế đã đến để nhận diện thân nhân mất tích của họ. Sự tuyên truyền lơ là. Ðiều gì đã khiến cộng sản gây ra cuộc thảm sát? Nhiều người dân Huế cho rằng lệnh hành quyết được đưa thẳng xuống từ Hồ Chí Minh. Nhưng có lẽ một cách chắc chắn, đơn giản hơn là cộng sản đã mất tinh thần. Họ đã bị nhồi sọ để tin tưởng rằng nhiều người dân miền Nam sẽ xuống đường tranh đấu cùng với họ trong cuộc tổng tấn công vào dịp Tết. Nhưng điều đó đã không xảy ra, và khi trận chiến ở Huế phần thắng bắt đầu nghiêng về phía quân đồng minh, thì rõ ràng là Việt cộng đã hoảng sợ và giết sạch các tù nhân để rảnh tay tẩu thoát. Chính quyền VNCH, cho rằng Việt cộng đã giết chết 25,000 thường dân từ năm 1957 và bắt cóc thêm 46,000 người khác, đã lơ là trong việc dùng vụ thảm sát để tuyên truyền. Tại Huế thì không phải cần đến chuyện đó. Theo Ðại tá Lê Văn Thân, tỉnh trưởng địa phương, thì “Sau cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân, mọi người đều biết rằng Việt cộng sẽ giết họ, không cần biết đến lập trường chính trị”. Nỗi suy nghĩ sợ hãi đó đã ám ảnh nhiều người dân miền Nam, nhất là những người làm việc cho chính phủ của họ hoặc cho người Mỹ. Với sự triệt thoái của quân đội Hoa Kỳ đang bắt đầu, vụ thảm sát tại Huế có lẽ đã đưa ra một thí dụ rùng rợn của những gì có thể sẽ xảy ra trong tương lai”.
Chứng nhân thầm lặng Mậu Thân ở Huế Nguyễn Phúc Liên Thành Dân chúng miền Nam, ai ai cũng kinh hoàng khi nhớ lại hành động bỉ ổi của bọn Việt cộng, lợi dụng những giờ phút linh thiêng của đêm giao thừa tết Mậu Thân, khi mọi người tin vào lời tuyên bố hưu chiến của chúng, đang quây quần bên nhau đón xuân, thì chúng xua quân tràn ngập các tỉnh thành miền Nam, gieo rắc tang tóc cho biết bao dân lành. Riêng đối với người dân xứ Huế, khi nhắc đến hai chữ Mậu Thân, gần như nó không còn gắn liền theo thứ tự của mười hai con Giáp, mà là một tiếng vọng riêng biệt, có tác động cực mạnh, nhắc nhở đến một cuộc tàn sát man rợ nhất trong lịch sử dân tộc. Trong cuộc tiến công vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968, VC đã chiếm được thành phố Huế và kiểm soát trên 20 ngày. Trong thời gian đó, chúng đã thủ tiêu, chôn sống, giết chết hàng ngàn người dân vô tội. Khi rút lui chúng cũng đã bắt theo hàng ngàn dân và đã tàn sát tập thể trước khi rút vào mật khu. Cho đến nay vẫn còn nhiều câu hỏi xung quanh sự kiện này. Đây là một cuộc tàn sát có chủ đích? - Vậy mục đích đó là gì? - Quy mô cuộc tàn sát nầy đến đâu? - Ai chịu trách nhiệm? Vụ thảm sát tại Huế rõ ràng bị giới truyền thông quốc tế lờ đi, chỉ nói sơ qua mà không trình bày tin tức nào cho xứng đáng với tầm mức thực sự. Cộng Sản Hà Nội đã tìm cách xóa đi những dấu tích, có bằng chứng hiển nhiên để chối bỏ trách nhiệm và chạy tội, nhưng lịch sử thì làm sao xóa được..... Lại còn những người dân Huế, những Quân, Cán, Chính, những người đã sống, làm việc ở Huế trong thời gian này, mà cuộc tàn sát đẫm máu đó, đã in hằn những nét sâu đậm trong con tim, khối óc họ, nay mới có dịp thuật lại - Họ là những chứng nhân thầm lặng rất đáng tin cậy. Chúng tôi được hân hạnh nói chuyện với cựu Thiếu Tá Liên Thành, Trưởng Ty Cảnh Sát Thừa Thiên, Huế. Vào thời điểm Tết Mậu Thân, anh đang giữ chức vụ Phó Trưởng Ty Cảnh Sát Đặc Biệt. Phần nói chuyện này chỉ chú trọng đến các tin tức tình báo trước và sau tết Mậu Thân, các tội ác của cộng sản, chứ không chú trọng đến vấn đề chiến thuật. + + + Thiên Nga: Cám ơn anh Liên Thành đã đồng ý cho chúng tôi nói chuyện với anh về biến cố Tết Mậu Thân tại Huế. Cũng giống như anh, tôi là người Huế và lại tham chiến trong chiến dịch giải tỏa Cố đô. Biến cố Tết Mậu Thân và những điều Việt cộng đối xử với dân Huế đã in đậm một vết nhơ trong lịch sử dân tộc không thể nào xóa mờ được. Th/Tá Liên Thành: Có gì đâu mà anh phải khách sáo cám ơn, anh với tôi đã quen nhau từ hồi còn đi học. Ông cụ thân sinh của anh là cố Thượng nghị sĩ Trần Điền, người bị VC sát hại trong dịpTết Mậu Thân tại Huế, ông là một huynh trưởng kỳ cựu của Hướng Đạo Việt Nam và cũng là bạn của thân phụ tôi. Điều tôi thắc mắc là tại sao anh lấy danh hiệu là Thiên Nga, có vẻ con gái quá, hay là tên cô bồ cũ? Thiên Nga: Anh nhắc đến ông cụ thân sinh cũng làm cho mình buồn, hai cụ thân thiết với nhau cũng giống như anh và tôi. Thân phụ anh là con của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để. Sau ngày 30-4-1975, cụ cũng không thể nào thoát được sự đày đọa trả thù của bè lũ VC. Còn nói về danh hiệu Thiên Nga thì có gì đâu, đó là danh hiệu truyền tin cuối cùng năm 1975 của tôi đó. Dùng tên đó như một kỷ niệm vậy thôi. Bây giờ chúng ta đi vào đề tài: Huế, Tết Mậu Thân. Như anh đã biết khi đơn vị quân đội muốn mở một cuộc hành quân thì phải biết tình hình và lực lượng địch. Điều mà tôi muốn biết là về phía tình báo của các anh, các anh đã biết gì về hoạt động và những sự chuẩn bị của VC để tấn công Huế. Th/Tá Liên Thành: Câu hỏi của anh rất tổng quát nên tôi phải trả lời hơi dài giòng một tí cho nó rõ ràng. Như anh đã biết, hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên là Khu 11 Chiến Thuật của Quân Khu 1. Năm 1966 theo quyết định của trung ương đảng CS, chúng gọi hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên là Quân Khu Trị Thiên và tên được bổ nhiệm chỉ huy đầu tiên là Thiếu tướng Trần văn Quang. Phụ tá cho Trần văn Quang kiêm trưởng ban an ninh quân khu là Đại Tá Lê Minh. Bộ chỉ huy quân khu của chúng di động trong vùng A Sao, A Lưới, Tà Bạt hoặc vùng quốc lộ số 9, đường đi nam Lào. Cái gọi là quân khu Trị Thiên của VC không có đơn vị chủ lực cơ hữu, chúng xử dụng các đơn vị của tỉnh đội Thừa Thiên và Quảng Trị làm đơn vị nòng cốt cho chúng. Khi cần mở các cuộc hành quân lớn, chúng sẽ điều động các đơn vị chủ lực từ phía bắc vĩ tuyến 17 xâm nhập vào. Đường xâm nhập của chúng là vượt sông Bến Hải, qua vùng phi quân sự hoặc xâm nhập theo đường 9 Nam Lào. Đơn vị nòng cốt của tỉnh đội Thừa Thiên là Trung đoàn 5 đặc công, gồm có Tiểu đoàn K1 và K12. Trung đoàn này do tên Thân trọng Một chỉ huy. Tên này là dân Huế, thuộc làng Nguyệt Biều, theo VC từ hồi còn kháng chiến chống Pháp. Bây giờ chúng ta nói về biến cố Tết Mậu Thân tại Huế và sự điều động các đơn vị của VC. Khi Trung ương đảng Cộng sản quyết định đánh Huế thì tên chỉ huy quân khu Trị Thiên là Trần văn Quang và Lê Minh phản đối, viện lý do là không đủ quân số. Quân số của chúng chỉ khoảng 4500 và đạn dược chỉ đủ dùng trong vòng một tuần đến 10 ngày. Nếu đánh chiếm Huế muốn cố thủ lâu dài theo lệnh của trung ương thì không đủ quân số, chúng quyết định xin trung ương tăng viện. Trung ưong bảo rằng cứ đánh chiếm đi rồi sẽ có tăng cường. Nhưng đó chỉ là đòn đánh lừa của Trung ương đối với Quân khu Trị Thiên mà thôi. Khi đánh chiếm Huế chúng chia làm ba mặt trận: - Thứ nhất là mặt trận Thành Nội do tên đại tá Lê trọng Đấu chỉ huy. - Thứ hai là mặt trận Quận Nhì do tên chính uỷ Hoàng Lanh chỉ huy. - Thứ ba là mặt trận Quận Hữu Ngạn tức Quận Ba do tên Nguyễn mậu Hiên bí danh Bảy Lanh chỉ huy. Tên Bảy Lanh là con nuôi của nhà thuốc bắc Thiên Tường tại chợ An Cựu. Khi chiếm được vùng An Cựu thì Thiên Tường và hai người con trai đã đi lùng bắt tất cả những người quốc gia cư ngụ trong vùng Dòng Chúa Cứu Thế. Trong đó có cả thân phụ của anh là cố Thượng nghị sĩ Trần Điền, chúng đã bắt đi và sát hại trên 500 người. Hai người con trai của Thiên Tường là cán bộ Xây Dựng Nông Thôn, thuộc loại nằm vùng của VC. Thiên Nga: Lúc đó tôi đi phép về nhà ăn Tết và cũng suýt bị chúng bắt. Tôi biết nhà thuốc bắc Thiên Tường ở gần cầu An Cựu. Vậy khi chúng bắt các nạn nhân đi rồi thì cha con Thiên Tường đi theo chúng luôn hay vẫn còn trụ lại tại chỗ? Th/Tá Liên Thành: Chúng vẫn còn lẫn quẩn tại chỗ, vì nghĩ rằng VC sẽ chiếm giữ thành phố Huế lâu ngày. Sau khi biết được hành động của cha con Thiên Tường, ngày mồng 7 Tết, tôi ra lệnh cho một biệt đội đặc biệt phải bắt cho bằng được cha con Thiên Tường. Biệt đội đã thành công, bắt được cả ba cha con. Bây giờ trở lại vụ tấn công Tết Mậu Thân. Giờ giấc khởi sự vụ tấn công thì sách vở cũng đã nói giờ này giờ khác, riêng tôi liên lạc với các Cuộc Cảnh Sát trong toàn thành phố thì biết trái súng cối đầu tiên nổ ở sân bay Thành Nội là hiệu lệnh tấn công của VC. Sau khi có hiệu lệnh tấn công thì Thân trọng Một tấn công vào lãnh thổ Quận Hữu Ngạn tức Quận ba, chúng đã chiếm được hết, ngoại trừ Ty Cảnh Sát, cơ quan MAC-V của Mỹ và Tiểu Khu Thừa Thiên. Lý do chúng không chiếm được Ty Cảnh Sát và Tiểu Khu Thừa Thiên là do sức kháng cự mãnh liệt của quân trú phòng. Một điều đáng chú ý là Ty Cảnh Sát và cơ quan MAC-V nằm đối diện với nhau, bên nầy và bên kia đường. Chúng tấn công Ty Cảnh Sát vào đúng 3giờ15 sáng mồng 1 Tết, kéo dài cho đến sáng, chúng tấn công nhiều đợt nhưng vẫn không làm gì được. Chúng tôi dùng lựu đạn từ trên lầu ném xuống, cho nên chúng không thể tấn công vào được. Một điều vô cùng ngạc nhiên là VC tấn công Ty Cảnh Sát bên nầy đường, trong khi đó cơ quan MAC-V bên kia đường vẫn bình an vô sự. Cơ quan MAC-V tắt đèn nằm im, không bắn một phát súng. Tôi thắc mắc vô cùng, tự hỏi không hiểu tại sao. Cuối cùng tôi có một quyết định thật táo bạo, tôi dùng súng phóng lựu M79 bắn hai phát vào cơ quan MAC-V. Sau khi hai phát đạn M79 nổ vào cơ quan MAC-V thì còi báo động của cơ quan nầy hú vang và lính Mỹ lúc đó mới xuất hiện, hai chiếc xe tăng ở đâu đó trong cơ quan MAC-V lù lù chạy ra trấn giữ ngay trước cổng. Thế là Ty Cảnh Sát coi như được hai chiếc xe tăng bảo vệ. Việt Cộng rút lui và chúng tôi an toàn. Thiên Nga: Sau một đêm bị tấn công, đơn vị của anh có bị thiệt hại nào không? Th/Tá Liên Thành: Không có thiệt hại nào đáng kể, nhưng có một điều vô cùng đau lòng mà sau này tôi mới phát giác ra, đó là chuyện ông Trưởng Ty Cảnh Sát của tôi là ông Đoàn công Lập. Tôi là Phó Ty Đặc Biệt. Sáng hôm đó ông bảo tôi: Anh lo phòng thủ Ty Cảnh Sát còn tôi sẽ ra chiếm đài phát thanh. Tôi bảo: Làm sao anh đi được. Thế mà ông ấy đã làm được. Ông cho đục bức tường ở phía sau Ty Cảnh Sát và đem một trung đội ra chiếm được đài phát thanh, trên đường đi ông không đụng độ với đơn vị VC nào, kể cả khi vào đến đài phát thanh. Lúc đó tôi phục ông ta vô cùng. Nhưng đến muà hè đỏ lửa năm 1972, khi tôi bắt được tên Trung tá Hoàng Kim Loan mới phát giác ra là ông Trưởng Ty của tôi là nội tuyến. Mục đích của ông ta khi chiếm đài phát thanh ngày mồng 7 Tết là: nếu VC đánh thắng, thì sẽ cho phát thanh cuốn băng thâu sẵn của Lê văn Hảo. Tôi nói sơ qua về Đoàn công Lập, anh ta là người của trung đoàn 95 đánh nhau với quân đội Pháp ở vùng Thiên Hương, sau đó anh ta về hồi chánh, nhưng đó chỉ là sự đầu thú trá hình, về nằm vùng cho đến năm 1966 thì được ra làm Trưởng Ty Cảnh Sát Thừa Thiên. Đến năm 1968 chúng xử dụng Đoàn công Lập chiếm giữ đài phát thanh để nếu chiếm được Huế sẽ cho phát thanh cuốn băng của Lê văn Hảo. Thiên Nga: Coi như VC đã chiếm được một phần rất lớn thành phố Huế. Tại sao lúc đó Đoàn công Lập không cho phát thanh cuốn băng thâu sẵn của Lê văn Hảo? Th/Tá Liên Thành: Chúng nó chưa cho phát thanh cuộn băng đó vì tại Quận Nhất chúng chưa chiếm được Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Quận Ba chúng chưa chiếm được Ty Cảnh Sát, chưa chiếm được MAC-V và Tiểu Khu Thừa Thiên, nên xem như chúng chưa thành công. Chúng chỉ chủ động được trong vòng khoảng 7 ngày. Trong vòng 7 ngày đó quân đội Mỹ không tham chiến. Một điều tức tối và ngoài sức tưởng tượng của mình là xe VC chạy dưới đường và lính Mỹ đứng trên lầu MAC-V đưa tay "hello". Thiên Nga: Lúc đó anh có biết tình hình về phía Sư Đoàn 1 và Tiểu Khu ra sao không? Th/Tá Liên Thành: VC đánh vào Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 nhưng không làm sao chiếm được. Thiếu tướng Ngô quang Trưởng, Tư Lệnh Sư Đoàn bị kẹt ngay ngày đầu tiên tại tư thất ở đường Lê thánh Tôn. Trung tá Tỉnh Trưởng Lê văn Khoa đã trốn thoát và ẩn náu trong bệnh viện Trung ương Huế. Ông Tổng Lãnh Sự Mỹ bị kẹt trong tòa Tổng Lãnh Sự tại đường Lý thường Kiệt và bị bắt. Một trung đội TQLC Mỹ xuất phát từ cơ quan MAC-V đến giải cứu ông Tổng Lãnh Sự thì đã quá trễ. Trên đường trở về lại MAC-V, trung đội này đã cứu được Tướng Ngô quang Trưởng. Tướng Trưởng bị kẹt một ngày một đêm mới vào được Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn tại Mang Cá. Trung Tá Phan văn Khoa đến 7 ngày sau mới vào được Tiểu Khu. Trong suốt 7 ngày đầu của cuộc chiến, tôi liên lạc với Tiểu Khu thì chỉ có một người duy nhất trả lời là Đại úy Nguyễn văn Tố, Tham mưu Trưởng. Thiên Nga: Là người điều hành ngành Cảnh Sát Đặc Biệt, anh có biết được những tin tức hoặc dấu hiệu gì là VC sẽ tấn công Huế hay không? Th/Tá Liên Thành: Trước khi xảy ra trận Tổng công Kích Tết Mậu Thân, thật tình mà nói ai cũng biết là VC sẽ tấn công, không phải chỉ VNCH biết mà phía Mỹ cũng dư sức để biết. Nhưng chỉ không biết vào thời điểm nào thôi. Tin tức chúng tôi nhận được có rất nhiều chỉ dấu là VC đang chuẩn bị. Thứ nhất về vấn đề quân sự, các tin tình báo cho biết các đơn vị quân sự của địch đã di chuyển về gần thành phố hơn, nguồn tin kỹ thuật phát hiện rất nhiều điện đài lạ hoạt động trong phạm vi gần thành phố. Một chỉ dấu quan trọng khác là các cơ sở hoạt động của VC ở gần Huế đã biến mất hết, các nhân viên nằm vùng của chúng ta trong cơ sở của địch đã không liên lạc được. Sau đó chúng tôi được biết các cơ sở đó chúng đã gọi về mật khu họp kín và giữ lại đó không cho về để bảo mật. Đến những ngày gần Tết, tin tức từ các quận gởi về cho biết là không hiểu tại sao dân chúng lại giết chó nhiều quá. Chúng đã chuẩn bị để khi đơn vị chúng di chuyển khỏi bị lộ vì chó sủa. Một chỉ dấu kế tiếp nữa là chúng ra lệnh cho dân chúng tích trữ lương thực. Một số cơ sở không quan trọng được chúng điều động trở ngược lên xâm nhập vào dân chúng, với mục đích chuẩn bị tải thương. Điều quan trọng cuối cùng là một số thành phần thoát ly năm 1966 đã đột nhập nội thành. (Năm 1966 xảy ra biến cố Phật Giáo tranh đấu tại miền Trung, sau biến cố đó các thành phần được VC gài vào trong phong trào đã bị lộ mặt, nên chúng phải rút vào mật khu, như các tên Hoàng phủ ngọc Tường, Hoàng phủ ngọc Phan, Phan duy Nhân, Nguyễn đắc Xuân...). Phía Cảnh Sát đã biết sự xâm nhập đó, kể cả những buổi hội họp của chúng, nhưng tôi chưa cho lệnh bắt vì chờ đợi cho đầy đủ sẽ hốt luôn một mẻ lớn. Một nguồn tin quan trọng khác mà chúng tôi nhận được là: toán tiền sát của Tiểu đoàn Đặc công K1 của chúng đã xâm nhập thành phố Huế. Sau khi phối hợp và tổng kết những tin tức đã thu nhận được, tôi đã làm tờ tường trình và trình lên cho Tr/Tá Phan văn Khoa. Trong tờ tường trình tôi cũng kèm theo những dữ kiện do cơ quan tình báo Mỹ cung cấp và của cố vấn Cảnh Sát đặc biệt cung cấp. Năm nay cũng như các năm trước, phía VC và chính phủ VNCH đồng thỏa thuận đình chiến trong dịp Tết Nguyên Đán. Vì lý do đó, trong những ngày gần Tết, các đơn vị trong Tiểu Khu đều được xả trại để về nhà ăn Tết. Tôi báo với Tr/Tá Khoa là VC đã xâm nhập vào thành phố quá nhiều, thế nào chúng cũng tấn công. Thiên Nga: Tiểu Khu Thừa Thiên đã phản ứng như thế nào đối với các bản báo cáo của anh? Th/Tá Liên Thành: Tôi đề nghị với Tr/Tá Tỉnh Trưởng ra lệnh cấm trại, vì anh em binh sĩ được về nhà ăn Tết, trong đơn vị chẳng còn bao nhiêu người. Cũng đề nghị Tr/Tá lên đài phát thanh ra lệnh giới nghiêm kêu gọi anh em binh sĩ trở lại đơn vị. Sau đó tôi cùng đi với Tr/Tá Khoa đến BTL/SĐ1 trình bày với tướng Trưởng nhưng tướng Trưởng bảo rằng tin tức phải xem lại, không chính xác. Các đề nghị của tôi đều không được chấp thuận. Cuối cùng tôi đành làm liều một mình. Chiều 30 Tết tôi cho Cảnh Sát Dã Chiến hành quân bao vây và thanh lọc chợ Đông Ba. Từ phiá Ty Thông Tin trên đường Trần hưng Đạo kéo dài cho đến cầu Gia Hội đều được kiểm soát chặt chẽ. Sau đó kêu gọi tất cả dân chúng đang buôn bán trong chợ phải ra khỏi chợ để trình giấy tờ. Chúng tôi đã bắt được 8 tên đặc công đang ẩn nấp trong chợ. (tất cả 8 tên đặc công nầy đều được xác nhận bởi thành phần chỉ điểm của ta). Thiên Nga: Bây giờ xin anh nói đến sự hoạt động của VC khi chúng đã chiếm được Huế một thời gian khá dài là 29 ngày. Trong thời gian đó chúng đã làm gì và tổ chức những gì? Th/Tá Liên Thành: Tôi không nói đến vấn đề quân sự, vấn đề các đơn vị của QLVNCH và đơn vị của Mỹ tái chiếm thành phố Huế vì không thuộc phạm vi của tôi. Bây giờ nói đến phía VC, chúng đã làm gì khi chiếm được một phần của thành phố Huế. Khi chiếm được Huế, chúng tổ chức hai lực lượng: - Một lực lượng chúng gọi là ủy Ban Nhân Dân. Lực lượng này do tên Hoàng Kim Loan điều động và giao cho Nguyễn hữu Vấn là giáo sư trường Cao Đẳng Mỹ Thuật làm chủ tịch. - Lực lượng thứ hai là lực lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hoà Bình của Trịnh đình Thảo giao cho Lê văn Hảo làm chủ tịch. Lê văn Hảo là giáo sư Nhân chủng học đại học Huế và Sàigòn. Hảo gốc người Huế, sang Pháp học từ năm 1953. Tại Paris, Hảo chịu ảnh hưởng của Trần văn Khê và Nguyễn khắc Viện. Về nước năm 1965 Hảo dạy học ở Huế và Sàigòn. Năm 1966 Hảo tham gia phong trào "ly khai" ở Huế. Giữa năm 1967 Hảo được bạn học cũ là Hoàng phủ ngọc Tường và Tôn thất dương Tiềm, một cán bộ cộng sản nằm vùng, móc nối vào Mặt trận Giải phóng miền Nam. Phó chủ tịch gồm có bà Tuần Chi (tên thật là Đào thị xuân Yến ) hiệu trưởng trường nữ trung học Đồng Khánh và "Ôn Linh Mụ" tức Hoà Thượng Thích Đôn Hậu (đương kim Chánh Đại Diện Phật Giáo miền Vạn Hạnh). Các thành phần cốt cán gồm có: Nguyễn Đóa cựu giám thị trường Quốc Học, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Phan Duy Nhân, Phạm Thị Xuân Quế, Tôn Thất Dương Tiềm, Tôn Thất Dương Kỵ, Tôn Thất Dương Hanh... Sau đó tên Nguyễn Đắc Xuân tổ chức thêm một lực lượng nữa là Lực lượng Nghĩa Binh. Năm 1966 chính tên Xuân đã tổ chức đoàn " hật tử quyết tử". Chúng gọi lực lượng này là quân nhân ly khai, lực lượng gồm những quân nhân đi phép Tết bị kẹt trong vùng chiếm đóng của chúng. Một số quân nhân này cũng đã bị thiệt mạng khi quân đội VNCH tái chiếm Huế. Tên Nguyễn Đắc Xuân cũng đã lập thêm một lực lượng Nghĩa Binh Cảnh sát, giao cho Nguyễn Văn Cán là cựu Trưởng Ty Cảnh Sát làm đoàn trưởng. (Nguyễn Văn Cán làm Trưởng Ty Cảnh Sát sau khi Tổng Thống Ngô đình Diệm bị lật đổ, ông này là ngạch Quận Trưởng, có bằng cử nhân Luật, là em ruột của bà chủ tiệm Phú Nghĩa trên đường Trần Hưng Đạo Huế. Ông ta có người anh tập kết ra Bắc, là cơ sở nằm vùng của Hoàng Kim Loan.) Thiên Nga: VC chiếm được Huế gần một tháng và chúng đã giết hại trên năm ngàn người. Theo ý anh tại sao chúng không lấy lòng dân chúng mà lại tàn sát dã man như vậy? Th/Tá Liên Thành: Tôi cũng thắc mắc giống như anh, không hiểu tại sao chúng muốn chiếm đất mà lại giết dân, nhưng sau đó tôi được biết lý do. Kể cho anh hơi dài dòng một tí. Có một hôm, chiếc xe Jeep của tôi bị gài mìn ngay dưới ghế ngồi của tôi, nhưng may quá, mìn không nổ. Khi điều tra thì tôi bắt được một người cảnh sát dã chiến của tôi làm nội tuyến cho VC và chính tên này đã gài mìn vào xe tôi. Điều tra và phăng theo đường dây, tôi bắt được tên huyện ủy viên của quận Phú Vang là Hồ Ty, bí danh Sơn Lâm. Đây là tên chủ chốt thi hành lệnh của quân ủy Trị Thiên: thanh toán tất cả những người bị chúng bắt theo khi rút lui khỏi Huế. Khi điều tra, tôi hỏi nó tại sao lại giết tất cả những người chúng đã bắt đem theo. Tên Sơn Lâm cho biết rằng khi chúng rút lui thì bị quân đội VNCH và Mỹ truy đuổi quá gắt gao, lo cho đơn vị cũng không nổi làm sao làm lo được cho tù binh. Vả lại số người bị chúng bắt theo quá nhiều, đã làm vướng bận không thể rút lui nhanh được, lệnh của quân khu Trị Thiên là giết tất cả tù binh. Vụ thảm sát Tết Mậu Thân tại Huế đến giờ nầy chúng ta cũng không biết đây là lệnh của quân Khu Trị Thiên hay là chính sách của trung ương đảng Cộng Sản VN. Về phía nhà cầm quyền CS thì chúng luôn luôn chối bỏ không có vụ giết trên 5000 ngàn người tại Huế. Thiên Nga: Làm sao chúng có thể chối bỏ việc thảm sát dân Huế được, đây là một tội ác tày trời. Tóm tắt chỉ có một điều: không có gì - ngoài tội ác- có thể biện minh cho những cái chết oan khiên của người dân xứ Huế. Đối với người dân Huế, khi nhắc đến hai chữ Mậu Thân, gần như nó không còn gắn liền theo thứ tự của mười hai con giáp, mà như là một tiếng vọng đặc biệt, tượng trưng cho một cuộc tàn sát man rợ. Ai chịu trách nhiệm cho cuộc tàn sát này ? Bộ chính trị Trung ương đảng Cộng Sản VN phải trả lời như thế nào đối với lịch sử dân tộc về hành động giết người dã man này? Đây có phải là cuộc tàn sát đẫm máu nhất, lớn nhất trong cuộc chiến tranh giữa người Việt Quốc Gia và Cộng Sản không? Th/Tá Liên Thành: Tôi rất đồng ý với anh, đây là tội ác tày trời, nói theo giọng điệu của VC là: "Trời không dung, đất không tha". Dầu có viết một cuốn sách thật dày cũng không liệt kê hết được những tội ác của bọn chúng. Khi dẫn tên Sơn Lâm đi chỉ những hầm chúng chôn xác nạn nhân, tôi hỏi nó: "Tại sao các anh dã man tàn ác vậy, cũng là người với nhau, không thù không oán gì cả mà các anh dùng cuốc đánh vào đầu người ta cho đến chết thì tôi không thể nào tưởng tượng nổi. Đối với con vật chúng ta cũng không thể nào làm như vậy”. Nó bảo: "Các anh phải biết rằng, chúng tôi không có đạn, đạn phải để dành để đánh nhau với các anh chứ đạn đâu mà bắn tù, lệnh trên bảo dùng phương tiện cuốc xẻng, dao búa để thanh toán. Chúng tôi không thể đem theo tù binh được nên phải giết hết, thà giết lầm còn hơn bỏ sót, vì biết đâu trong số tù binh đó có người làm tình báo hoặc làm cho CIA, cho nên chúng tôi đâu có tha được." Thiên Nga: Thế còn các thành phần thoát ly năm 1966 đã đột nhập trở về lại vào dịp Tết, sau khi VC rút lui thì thành phần đó đi đâu? Th/Tá Liên Thành: Các phần tử đó đều theo chân VC rút vào mật khu, như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoà thượng Thích Đôn Hậu, bà Tuần Chi v.v... sau đó có một số xâm nhập trở lại hoạt động. Thiên Nga: Theo tôi biết, sau Tết Mậu Thân tình hình an ninh tại Huế rất ổn định vì những thành phần nằm vùng và thân Cộng đã theo chân VC rút vào mật khu. Nhưng đến năm 1972 thời kỳ mùa hè đỏ lửa lúc VC tấn công Quảng Trị thì tình hình tại Huế như thế nào? Th/Tá Liên Thành: Tình hình an ninh tại Huế vào năm 1972 rất nguy hiểm. VC lại muốn áp dụng chiến dịch tấn công Huế như Tết Mậu Thân. Chúng đem sư đoàn VC 324 trở về lại bao vây ở vòng ngoài, trong nội thành thì tên Hoàng Kim Loan có kế hoạch tập họp dân chúng biểu tình, tổng nổi dậy cướp chính quyền, bằng cách chiếm các cơ sở, công ốc thành phố, tòa hành chánh, rồi treo cờ VC lên. Kế hoạch của chúng là như vậy. May thay tôi đã kịp thời phá vỡ được âm mưu của chúng. Anh còn nhớ năm 1972 VC điều quân vượt vĩ tuyến 17 đánh chiếm thành phố Quảng Trị và sư đoàn 3 bộ binh di tản chiến thuật. Nếu không phá vỡ được âm mưu ấy thì khi mất Quảng Trị và dân chúng di tản ùa vào thành phố Huế, gây hỗn loạn cho thành phố, thì VC sẽ nhân cơ hội bằng vàng ấy thi hành kế hoạch cướp chính quyền ngay. Một đêm trước ngày mất thành phố Quảng Trị, tôi cho trực thăng bay về các quận và chở tất cả chỉ huy trưởng Cảnh Sát quận về họp khẩn cấp. Sau khi họp xong, tôi lấy danh sách hạ tầng cơ sở VC của các quận kể cả những người có liên hệ gia đình với VC, tôi ký liền 5000 giấy tạm giữ giao cho các chỉ huy trưởng quận về bắt ngay. Tôi liên lạc với cố vấn Mỹ xin biệt phái 6 chiếc trực thăng, để đưa những người bị bắt về Huế. Vì số lượng người bị tạm giữ quá nhiều, tôi xin Trung tướng Ngô Quang Trưởng cấp cho phương tiện chuyên chở. Sau đó tất cả những người nầy được di chuyển bằng hải vận hạm HQ 500 ra tạm giữ tại đảo Phú Quốc. Sau khi tình hình Huế đã ổn định, quân ta đã tái chiếm Quảng Trị, lúc đó tôi mới đem những người bị tạm giữ tại Phú Quốc trở về để thanh lọc và đã bắt được rất nhiều cán bộ tình báo và cơ sở của VC. Nhờ đó đã vô hiệu hóa được kế hoạch chiếm Huế của VC năm 1972. Cũng vào năm 1972, tôi đã bắt được một cán bộ tình báo nằm vùng cao cấp của VC là Thiếu Tá Lê Cảnh Thâm, cựu trưởng ty Cảnh Sát tỉnh Quảng Trị. Lê Cảnh Thâm là em của Lê cảnh Xuân, tự là Năm Đen, Thiếu Tá Quân báo của VC (còn gọi là cụm tình báo chiến lược). Thâm đã được móc nối từ khi còn là Hạ sĩ trong quân đội VNCH, sau đó chúng đã dùng đủ mọi cách kể cả tiền bạc để mua chuộc và đưa Thâm vào học trường Hạ Sĩ Quan, rồi đưa Thâm vào hoạt động nằm vùng trong một đảng phái chính trị. Năm 1966 đảng này có công trong vụ biến loạn miền Trung, nên đã có một số điều kiện giữa chính phủ và đảng. Trong dịp đó đảng đã đề cử Lê Cảnh Thâm làm trưởng ty Cảnh Sát Quảng Trị. Đến lúc đó cơ quan tình báo chiến lược vẫn chưa xử dụng con bài Lê Cảnh Thâm. Mùa hè đỏ lửa năm 1972, tôi không biết bằng cách nào Lê Cảnh Thâm lại vào nằm trong Trung Tâm Hành Quân của Bộ Tư Lệnh tiền phương Quân Đoàn I đóng tại Mang Cá, Huế. Anh còn nhớ, tôi đã nói với anh là năm 1972 tôi bắt được tên Trung tá Hoàng Kim Loan của cụm tình báo chiến lược. Do khai báo của Loan tôi mới biết được Lê Cảnh Thâm là cán bộ nằm vùng của VC. Phải bắt Lê Cảnh Thâm ngay vì y đang hoạt động tại Trung tâm Hành quân của Bộ Tư lệnh Quân đoàn. Kế hoạch hành quân sẽ bị tiết lộ. Sau khi đã có đủ các dữ kiện, tôi cùng với Th/Tá Cố vấn Mỹ vào gặp Trung Tướng Ngô Quang Trưởng. Người Trung tá Chánh văn phòng của tướng Trưởng nhất định không cho vào, bắt tôi phải theo hệ thống quân giai: "Trình cho Đại Tá Tỉnh Trưởng rồi Tỉnh Trưởng sẽ trình cho Tư Lệnh". Tôi bảo rằng đây là chuyện Mật và Khẩn, tôi phải đích thân trình Trung Tướng. Chánh văn phòng quá nguyên tắc, nhất định không cho tôi vào. Th/Tá cố vấn của tôi quá bực mình, nói với ông chánh văn phòng: "Đây là giờ phút mất hay còn của thành phố Huế, anh không cho Th/Tá Liên Thành vào gặp tướng Trưởng thì phải chịu trách nhiệm, tôi sẽ đưa Th/Tá Thành đến gặp Trung tướng cố vấn của tướng Trưởng và Trung tướng cố vấn sẽ cùng với Th/Tá Thành đến gặp tướng Trưởng." Lúc đó ông ta mới chịu cho tôi vào, nhưng nhất định không cho người cố vấn Mỹ vào theo tôi. Người cố vấn bực mình bảo: " I don' t care, this is your country, not mine" Tôi vào gặp tướng Trưởng và trình cho ông tất cả lời khai của Hoàng Kim Loan, sau khi nghe xong lời khai tướng Trưởng hoảng hồn, ông hỏi tôi: - Tên này bây giờ đang ở đâu? - Trình Trung tướng, nó đang ở bên cạnh ông, đang làm sĩ quan hành quân của Bộ Tư Lệnh Tiền Phương. - Cho bắt ngay. Tướng Trưởng bảo. Tôi trình là nếu bắt thì sẽ lộ tất cả những cơ sở của chúng, mà ta chưa bắt và chưa phát giác đang nằm trong hàng ngũ quân đội của ta, chúng sẽ chạy trốn hết. Tướng Trưởng hỏi tôi: - Bây giờ phải bắt cách nào cho khỏi bị lộ? - Xin Trung tướng liên lạc với Thiếu tướng Lê khắc Bình Tư lệnh Cảnh Sát và xin tướng Bình cho lệnh xin biệt phái Lê Cảnh Thâm trở về lại Cảnh Sát để được bổ nhiệm đi làm trưởng ty. Tướng Trưởng thấy đề nghị của tôi hợp lý nên gọi điện thoại nói chuyện với tướng Bình ngay, sau đó đưa điện thoại cho tôi nói chuyện với tướng Bình. Tướng Bình chấp thuận đề nghị của tôi và ra lệnh bắt ngay tên Lê Cảnh Thâm. Chờ đợi trong văn phòng tướng Trưởng khoảng nửa giờ thì có công điện từ Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia, bổ nhiệm Lê Cảnh Thâm làm Trưởng Ty Cảnh Sát Pleiku và tôi có nhiệm vụ cấp phương tiện di chuyển cho Thâm đi đáo nhậm nhiệm sở mới ngay. Khi Lê Cảnh Thâm nhận được lệnh bổ nhiệm thì qua trình diện trung tướng và cùng tôi ra xe đi ngay. Ngồi trên xe tôi, anh ta sung sướng nói chuyện huyên thuyên. Một lúc sau tôi bảo: - Anh Thâm, tôi nói thật với anh là anh đã bị bắt. Mọi chuyện anh làm chúng tôi đã biết tất cả, anh cũng đã ở trong ngành Cảnh Sát thì anh đã rõ, tôi không còn cách gì giúp anh, ngoại trừ anh hợp tác với chúng tôi. Lúc đầu anh ta chối, nhất định là không nhận cán bộ VC nằm vùng. Tôi bảo: - Anh chối cũng vô ích vì cán bộ điều khiển của anh hiện đang nằm trong tay tôi. Anh ta không tin, tôi đưa anh ta đến ngay cơ sở mà tôi đang giam giữ Hoàng Kim Loan, cho anh ta nhìn thấy tên Loan, cán bộ điều khiển của anh ta, lúc đó anh ta mới hết đường chối. Tôi chỉ điều tra Lê Cảnh Thâm được khoảng hai giờ thì có công điện từ Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát bảo phải giao tên Thâm cho cơ quan thẩm vấn quốc gia. Khi nhận được lời khai của Thâm, tôi đến ngay cơ sở của chúng ở gần cửa Đông Ba, bắt ngay Thiếu Tá Khuê làm quân bưu chính của Tiểu Khu, là cơ sở quân báo của Thâm. Kế bên nhà của Khuê là tiệm thuốc bắc, chủ tiệm là một người trông rất hiền lành đạo mạo, tôi lục soát khắp nhà của y và tìm được một máy truyền tin, đây là một loại máy chuyển tin ra Bắc vô cùng tối tân (thời điểm năm 1972). Khi muốn chuyển tin, chỉ cần đọc bản tin vào cuộn băng xong bấm một cái là bản tin được chuyển đi ngay, nơi nhận sẽ giải mã. Tên cán bộ đóng vai thầy thuốc bắc này cấp bậc Thiếu tá, phụ tá của Hoàng Kim Loan. Sau đó tôi phát giác được tên tùy phái của Đại tá Lê văn Thân, tỉnh trưởng Thừa Thiên cũng là người của Hoàng Kim Loan. Khi đến bắt tên này thì Đại tá Thân bảo tôi: - Sao anh bắt thằng này, thằng này nó hiền lắm mà. - Thằng này nó giết Đại tá đó, Đại tá có biết không? Tôi nói. Tên tùy phái đã chụp hình tất cả tài liệu của hành chánh và quân đội mà các phòng, ban trình lên tỉnh trưởng. Theo lời khai của Hoàng Kim Loan, tôi đã bắt được rất nhiều cơ cở tình báo nằm vùng của chúng, nếu không phá vỡ kịp thời thì Huế đã bị tấn công như hồi Tết Mậu Thân năm 1968. Thiên Nga: Cám ơn anh Thành đã cho biết những chi tiết về tình báo thật là hấp dẫn. Tôi rất muốn biết làm thế nào mà anh bắt được tên trung tá Hoàng Kim Loan. Th/Tá Liên Thành: Câu chuyện đó dài lắm, nếu có dịp tôi sẽ kể cho anh, còn chuyện Mậu Thân thế là tạm đủ phải không anh, lâu quá rồi cũng không nhớ được nhiều chi tiết, hy vọng cuộc nói chuyện của chúng ta hôm nay không phí thơì giờ của anh. Thiên Nga: Rất là hấp dẫn, cám ơn anh rất nhiều. Hẹn gặp anh lần tới.
Mậu Thân, nỗi đau không dứt của Huế Lê Hàn Sinh Trong báo Thể Thao Việt Nam số ra ngày 12-12-2002, ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương CSVN đã ra lệnh tổ chức rình rang "kỷ niệm 73 năm ngày thành lập đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930-2003) vào đúng ngày 3 Tết Nguyên đán Quý Mùi 2003, và kỷ niệm 35 năm cuộc Tổng tấn công, nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968". Ðể kỷ niệm "35 năm cuộc Tổng tấn công, nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968", chúng tôi xin đăng tải dưới đây bài "Mậu Thân, Nỗi đau không dứt của Huế" của Lê Hàn Sinh để tố cáo trước thế giới sự dã man và tàn ác của đảng CSVN, để cho người Việt từ Bắc chí Nam, trong cũng như ngoài nước nhìn thấy rõ "cuộc nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968" chỉ là một cuộc chiến xâm lăng do chính đảng CSVN chủ động chứ không hề được sự hưởng ứng của đồng bào miền Nam.
Với người dân Huế, khi nhắc đến hai chữ Mậu Thân, gần như nó không còn gắn liền theo thứ tự của mười hai con giáp, mà là một tiếng gọi đặc biệt, tượng trưng cho một cuộc tàn sát man rợ. Thủ tiêu, ám sát, chôn sống, giết người bằng mã tấu, bằng bọng cuốc phang vào hậu đầu, trói bằng dây thép gai. Cụ thể là ở khu phố 4 Gia Hội (sau khi chiếm Huế, Cộng sản chia thành phố ra làm bốn khu) với tên thợ nề vô học tên Bé được giữ chức chủ tịch khu phố. Mọi sinh sát nằm trong tay y. Ước lượng nạn nhân của bọn này lên tới hàng trăm. Vì tư thù cá nhân, chúng giết cả những thường dân vô tội. Cái chết của bà Trâm ở đường Mạc Ðĩnh Chi (đường Ngự Viên) là một thí dụ. Bà bị thị Gái bắn bằng súng AK ngay tại nhà. Gái nguyên là Việt cộng nằm vùng chuyên đi giúp việc quanh các nhà ở phường Phú Cát, quận 2. Tuy là đi giúp việc nhưng lúc nào áo quần cũng bảnh bao, tóc búi kiểu Lào. Gái vì dây dưa với chồng bà Trâm nên bị bà này mắng chửi thậm tệ và hình như cũng có đánh đập gì đó nên giờ Gái trả thù món nợ tình ngày trước. Cũng cần nói thêm về tên Bé thợ nề. Không ai biết xuất xứ của hắn. Y hành nghề một cách độc lập, rất lương tâm ; làm từ 7 giờ sáng tới 6 giờ chiều, không nghỉ trưa, ăn uống thế nào cũng được, tiền công không đòi cao hơn kẻ khác. Do vậy, người này làm xong lại giới thiệu cho bạn bè. Cứ thế mà Bé âm thầm điều tra nắm rõ ai làm gì ở đâu, cơ quan nào... để báo cáo cho tổ chức. Nhờ thế, khi Việt cộng vào là chúng đã có một danh sách khá đủ thành phần mà chúng cho là quan trọng để thanh toán ngay sáng mùng một tết, không cần phải gọi ra trình diện tại trường Gia Hội. Người đi bắt và bắn chết không ai khác hơn tên Linh, người Quảng Ngãi làm nghề thầy bói, khoác áo Việt Nam Quốc Dân Ðảng Thừa Thiên. Thời gian bầu cử tổng thống, lúc ông Vũ Hồng Khanh về Huế vận động, chính y là người ngồi cùng xe bên cạnh ông Khanh. Nghe đâu y cũng là cộng tác viên cho cảnh sát đặc biệt Thừa Thiên. Sáng mùng một hắn bận complet màu đà (bộ hắn vẫn thường mặc) tới nhà tìm tôi nhưng không gặp. Cho tới nay tôi vẫn không hiểu tại sao mà ông Rớt (có bà vợ bán bún bò ngon nhất Huế) ở trên đường Nguyễn Du lại bị bọn Linh bắn chết. (Người chung quanh nghi ông làm cộng tác viên cho cảnh sát và nghe đâu ông xin được chết gần gia đình nên chúng bắn ông tại nhà). Mãi cho đến ngày 20 tháng giêng bọn chúng mới bắt đầu làm mạnh, nghĩa là ra lệnh trình diện lần hai rồi giữ lại thủ tiêu luôn. Trên đường Gia Hội (tức đường Chi Lăng), bọn chúng bắt giết anh Lê Văn Cư, nguyên là Phó giám đốc cảnh sát quốc gia vùng I và anh Phú (em vợ anh Cư), quận trưởng quận hai. Cả hai bị bắn cùng một lần. Cũng trên đường này anh Dự hình như đang làm trưởng ty cảnh sát Phan Rang về thăm nhà cũng bị bắt giết. Võ Nguyên Pha, nhà ở ngay sau lưng chùa Diệu Ðế, nghe đâu đã trốn sang hữu ngạn rồi lại sốt ruột vì vợ con trở về để lãnh bản án tử hình. Câu chuyện cái chết của anh Từ Tôn Kháng, thiếu tá Tỉnh đoàn trưởng Xây dựng Nông thôn Thừa Thiên, không biết thực hư đến mức nào. Nghe đâu CS bao vây nhà anh, tra khảo bắt chị Kháng chỉ chỗ ẩn của chồng nếu không thì phải chết. Anh Kháng nằm núp trên máng nước, đành phải xuống (có người bảo chị đã chỉ chỗ ẩn của chồng. Hoàn cảnh này dù có xảy ra thì tôi nghĩ cũng không nên buộc tội chị). Ở đường Võ Tánh, có anh Vĩnh sĩ quan cảnh sát bị bắn chết ngay nhà, mấy năm sau tôi vẫn thấy ngôi mộ đất vẫn còn nằm ngay trước cổng nhà. Nhà anh Vĩnh nằm ngay cạnh chùa Áo Vàng, nơi cộng sản làm trụ sở trình diện cho các công viên chức và sĩ quan quân đội cộng hòa, nên không trốn vào đâu được. Gần đó có anh Hồ Ðắc Cam, làm công nhân nhà đèn Huế, bị bắn vì có tên trong Ðại Việt Quốc Dân Ðảng. Ðiều đáng buồn là anh Cam bị anh Kim Phát, cũng đảng viên Ðại Việt, khai ra. Cộng sản biết Kim Phát là người Ðại Việt nên bắt anh phải khai những người trong tổ chức. Anh đến nhà tôi đầu tiên nhưng tôi không có ở nhà. Sau đó Kim Phát cũng chịu chung số phận như bạn bè. Ðường Bạch Ðằng có anh Hiền, một lão tướng bóng đá trong hội S.E.P.H của Huế thời thập niên 40. Anh chẳng liên hệ gì tới chính quyền thế mà bị giết. Người ta đoán anh bị bắn vì trước đó đã tạt tai một thằng bé gần nhà. Tên này sau khi cộng sản vào tham gia thanh niên khu phố nên có dịp trả thù. Không ít người chết vì không hiểu CS, tưởng cộng tác với chúng là được tha. Ðiển hình là ông Soạn làm chủ tịch phường Phú Cát quận 2 và hai anh em song sanh tên Lan (con ông Sâm cho mượn đồ đưa đám tang trên đường Chi Lăng) ; một trong hai người này làm cảnh sát. Theo nằm vùng cộng sản nhận định, nhóm tiểu thương chợ Ðông Ba là lực lượng yểm trợ mạnh nhất trong cuộc đấu tranh Phật giáo ở Huế vào các năm 1963 và 1966. Vì thế để lấy lòng nhóm này, chúng lôi anh Phú ra giết. Anh Phú có phần hùn đấu thuế chợ Ðông Ba nên vẫn hay ra thu thuế bạn hàng. Tưởng thế, nhưng cái chết của Phú chẳng gây phản ứng nào nơi nhóm tiểu thương. Cho đến giờ này, 30 năm trôi qua, tôi vẫn không quên hình ảnh đầy thương cảm của Nguyễn Ngọc Lộ và Nguyễn Thiết. Hai anh bị chôn sống ngay con đường nhỏ rẽ vào trường trung học Gia Hội sau khi cả hai anh bị đánh bằng bọng cuốc vào sau đầu. Lúc bới xác hai anh, tôi có mặt và thấy hai chiếc sọ bị lủng lỗ phía sau. Mà đâu chỉ giết hai anh. Chị Lộ và hình như với ba cháu hai gái một trai cũng bị giết tại nhà ở xã Phú Lưu. Thật may mắn, qua dò la tôi biết một đứa con trai của anh chị còn sống sót, hiện đang có máy bơm nước vào ruộng cho thuê để lấy tiền sinh nhai. Anh chị Lộ và anh Thiết chết là vì nghề dạy võ thất sơn thần quyền mà Cộng sản cho là một bộ phận ngoại vi của Ðại Việt Quốc Dân Ðảng Thừa Thiên và Thị bộ Huế. Sau thời gian cải tạo về, tôi có dò la tông tích thằng con sống sót của anh chị Lộ để nhờ cháu chỉ hộ nơi an nghỉ của bố mẹ và bác Thiết. Khi cải táng tại mé sông phía Bãi Dâu, chính tôi có mặt và bỏ đất xuống quan tài. Nhưng vì thời gian và tuổi tác khiến tôi không nhớ được địa điểm xưa nữa. Và ý nguyện đó tới nay vẫn chưa thực hiện được. Tôi không thể quên được Mậu Thân, vì biết bao bạn bè đồng đội thân thương đã đau đớn lìa đời với không một mảnh gỗ che thân, không một giọt nước mắt tiếc thương, không một nén hương phân ưu tưởng niệm, không một mảnh vải quấn lên đầu người thân. Riêng hai anh Lộ và Thiết có với tôi một liên hệ thiết thân hơn tình huynh đệ ruột thịt. Tôi không cùng trong một tổ chức và không phải là đệ tử của môn phái Thất Sơn Thần Quyền của hai anh. Tôi biết hai anh trong một lần gặp gỡ để thực một phóng sự về môn phái võ quyền khi tôi làm nghề viết báo. Anh Lộ đã tỏ ra rất chơn chất đôn hậu, mặc dầu anh rất nổi tiếng với hàng ngàn đệ tử, trong đó có cả những sĩ quan cấp tá quân lực cộng hòa xin đầu sư. Thế mà anh không hề kiêu căng cũng không chút đề cao cái tôi thành công của mình. Tôi có cảm tình với anh từ độ ấy. Một ray rứt ám ảnh tôi mãi. Sáng mùng một, khi biết được cộng sản đột nhập thành phố, tôi liền nhảy sang căn lầu của người hàng xóm, chỉ cách nhà tôi một bức thành mỏng. Nhìn xuống, tôi thấy hai anh em Lộ bận complet màu đen, bộ đồ vẫn mặc khi đến thăm tôi dịp tết. Nhưng lúc đó ai dám tin ai ! Tôi nghe Lộ hỏi vợ tôi: "Anh đi đâu rồi? VC dìa thành phố tràn vào cả rồi. Nói với anh tìm cách trốn cho kỹ chứ bắt được anh là rồi đời đó nhe chị". Rồi cả hai leo lên xe Honda (hay Yamaha) chạy xuống phía cầu Ðông Ba. Bỗng một loạt đạn AK rít lên. Tôi tưởng hai anh đã đi rồi. Sau một sáng lẩn trốn trở về mới nghe hàng xóm kể lại loạt đạn đó không gây hề hấn gì cho hai anh cả. Song không hiểu sao hai anh đã lọt vào Gia Hội và trở thành nạn nhân của cộng sản lúc đó đang ra công lùng bắt người ở vùng này. Thật vô phúc cho anh Trần Văn Nớp, trưởng phòng hành chánh ty cảnh sát Thừa Thiên. Sau bao nhiêu ngày ẩn núp dưới hầm ở đường Bạch Ðằng phía dưới cầu Ðông Ba, quá nôn nóng và tưởng cộng sản đã rút nên trồi lên để bị giết tức tưởi. Số là giờ phút chót cộng sản phải nấn ná án ngự khu vực này để bộ đội chúng rút về phía Tiên Nộn. Trễ chừng vài phút nữa thì anh Nớp đâu đến nỗi ! Bên hẻm cầu Ðông Ba thì có anh Chảy, một thanh niên nghe đâu vừa ra trường Thủ Ðức, phải chết vì thiếu kinh nghiệm về cộng sản. Khi có lệnh gọi những người đã trình diện lần hai ra trình diện lần ba ở trường trung học Gia Hội thì Chảy đang đi cầu. Mọi người đi trình diện đã đi qua nhà anh khá lâu, thế mà Chảy đi cầu xong lại vừa chạy vừa cài nút quần gọi mọi người đợi anh với. Và thế là Chảy đi luôn ! Anh để lại một người yêu đã bỏ trầu đợi ra năm cưới. Anh Chảy là con trai độc nhất của chú Bang In, chủ nhân tiệp chụp ảnh tiếng tăm ở Huế thời 1940-1950, và cũng là chủ nhân tiệm ăn Quốc Tế Huế. Không xa nhà anh Chảy là nhà anh Lô, gần 50 tuổi, người Tàu Hải Nam sinh tại Huế, anh rể của Chảy, làm phát ngân viên Ty Ngân Khố. Một người hiền lành, thật thà chân chất, cả đời không biết súng đạn mà vẫn bị giết oan khuất. Trên đường Võ Tánh, từ quán bánh khoái nổi tiếng Huế đi xuống một đoạn chừng 5,7 chục thước, Việt cộng lại bắt được anh Jean Kỳ, đảng viên lão thành một hệ phái Quốc Dân Ðảng. Anh Kỳ có lối sống nghệ sĩ, ngang bướng không sợ ai. Năm 1946 không biết làm sao mà thoát được vụ cộng sản tàn sát hàng trăm thanh niên trí thức ở các làng vùng Sịa. Nhưng lần này thì không thoát nữa. Dòng họ anh ở làng Quảng Ðiền nổi tiếng chống cộng. Anh Kỳ có một người em ruột làm trung tá hiện ở Mỹ. Tại đình làng Thế Lại, nằm cuối đường Bạch Ðằng, anh Vĩnh, nhân viên cảnh sát Thừa Thiên, bị bắn. Một cảnh sát hành chánh khác, anh Thiện ở đường Nguyễn Du, cũng bị bắn. Trong Thành Nội, cộng sản bắt được anh Liên, sĩ quan cảnh sát đã từng giữ chức Trưởng Ty Cảnh Sát Quảng Trị và là một đảng viên Ðại Việt. Bảy năm sau, nhờ có người địa phương chỉ, chị Liên mò mẫm tìm được xác chồng chôn chồng với chín bạn khác ở chân núi. Tễ là một người bạn đồng nghiệp vui tính sống bất cần đời, đã từng giữ chức trưởng phòng hành chính Ty Cảnh Sát Thừa Thiên cũng bị bắn. Nhà anh ở trong cửa An Hòa hay Chánh Tây gì đó. Việt cộng bắt anh ban đêm, đem bắn bỏ xác vắt ngang đường rầy xe lửa phía trên đường Thống Nhất. Sau mấy ngày vất vả vợ con tìm thấy xác đem về chôn cất. Ngược lên đường Cường Ðể, tôi lại mất đi một bạn đồng nghiệp rất ư hiền từ mẫu mực, anh Võ Văn Tửu. Anh Tửu làm phó thẩm sát viên cảnh sát và được giữ chức đồn trưởng đồn ga Huế. Anh cũng là một đảng viên Ðại Việt nhiệt thành. Anh bị bắn cạnh nhà vào khoảng mùng mười tết. Mấy ngày trước tết tôi và anh còn nhâm nhi cà phê ở vỉa hè ga Huế. Nào ngờ lần gặp đó là lần cuối. Một người bạn khác ở Thôn Vỹ là Tiên, sĩ quan cảnh sát ngày trước phục vụ trong ngành hiến binh, cũng bị hành quyết. Tôi tưởng anh thoát, vì nhà anh ở gần Ðập Ðá, chỉ cần ra phía sau nhà lao xuống sông lặn một hơi là thoát vùng tạm chiếm ! Trần Mậu Tý, người con trai (có lẽ duy nhất) của ông Trần Mậu Trinh, nguyên tri phủ ở miền ngoài và là người nổi tiếng diệt cộng sản thời kỳ Nghệ Tỉnh nổi dậy, bị cộng sản tìm bắt vì món nợ của cha đem chôn sống ở làng Hòa Ða cùng với một số người khác. Nhà vợ con của Kỷ ở lò trâu Hô Lâu phía bên kia Ðập Ðá. Ngoài ra có anh Thương, tốt nghiệp quốc gia hành chánh, cố thoát chạy bằng xe Honda từ nhà anh trên đường Lý Thường Kiệt về trung tâm quận 3, nhưng đã bị bắn gục trên đường. Và còn bác Trần Ðiền, đã một thời làm tỉnh trưởng Quảng Trị, sau đó làm Thượng nghị sĩ và là đảng viên Ðại Việt, bị bắt tại ga gần trường Thiên Hữu, sau đó bị bắt đi với số đông người khác. Hình như tất cả chấm dứt cuộc đời ở Khe Ðá Mài. Trong biến cố Mậu Thân nơi vùng Bãi Dâu đã xảy ra một câu chuyện hi hữu. Hai thằng bạn học cùng lớp là Hân và Bằng. Bằng vì bất mãn quốc gia quay ra vùng xôi đậu. Mậu Thân, Bằng trở về với tư cách là một bộ đội trong tỉnh đội Thừa Thiên. Hân ở nhà tham gia Ðại Việt. Không biết bị tên nằm vùng nào chỉ điểm mà Hân bị bắt ngay mùng một. Hân được giao cho một bộ đội đem đi bắn, mà người đó không ai khác hơn là Bằng. Hân những tưởng có hy vọng thoát thân nhờ vào tình bằng hữu của Bằng. Nhưng không, Bằng thi hành mệnh lệnh Ðảng một cách nhẹ nhàng. Trước khi bắn hắn nói với Hân : "Tao không làm chi khác hơn là phải bắn mi. Tuy nhiên tao sẽ cho mi một cái bao nilông và tao sẽ bọc cái mặt mi lại để sau này gia đình mi dễ nhận ra mi. Tình bạn bè thân thiết chỉ có thế thôi" ! Tôi tuổi già, trí nhớ lại nhạt nhòa đi sau bao năm tù đày nên giờ chỉ còn nhớ được dăm ba người thân cận trong số trên dưới 3000 nạn nhân đã nằm xuống một cách oan nghiệt. Chắc phải có một lần về lại thăm nơi cố xứ đau thương này để thắp trên những ngôi mộ của những người bạn một nén hương. Tôi hy vọng trong cõi chết linh thiêng các bạn bè cũng thấu hiểu và thông cảm cho sự kém trí nhớ của tôi. Tôi cũng xin cầu nguyện Trời Phật gia hộ cho các vong linh những người quá cố hãy quên đi nỗi nhân tình thế thái, để an nghỉ ngàn thu. (LMVNTD - 10-01-2003)
Cố Ðô Kinh Hoàng Elje Vannema Mới sáng tinh sương đã thấy quân Mặt Trận (Giải Phóng Miền Nam) hiện diện trong thành phố. Họ là những người lo mặt chính trị trong cuộc chiếm cứ. Ngày hôm trước, họ vào sổ gần hết mọi người, ghi tên, tuổi, phái tính. Họ quan tâm đặc biệt đối với phái nam, chia những người này ra thành nhiều nhóm: công chức, những người có liên hệ với quân đội cộng hòa, và những kẻ khác. Nhiều trường hợp họ ghi chú đầy đủ cả gia đình, cả tên con cái nữa. Mỗi nhóm họ chỉ định một người đại diện, mang trách nhiệm mọi mặt về tất cả thành viên trong nhóm. Nếu có người thoát thì người đại diện phải lãnh đủ. Dân chúng được lệnh không tụ họp đông người, trừ khi được kêu đi dự mít tinh, không được nghe đài, không được phao tin đồn đãi... Ngày hôm sau, du kích và nằm vùng địa phương tỏa ra đi tìm những người có tên trong danh sách viết tay nguệch ngoạc. Họ được đưa về Tiểu chủng viện, nơi dựng tòa án nhân dân. Một anh cựu sinh viên chủ tọa phiên tòa với sự hiện diện của một người Bắc Việt và hai sinh viên khác. Hai sinh viên này chúng tôi biết... Các phiên tòa nhân dân mấy ngày trước đã chấm dứt. Dân chúng hiện diện khá đông tại các phiên tòa ở Tiểu chủng viện, ở Gia Hội bên kia cầu và ở trong thành. Tòa án ở Tiểu chủng viện do Hoàng Phủ Ngọc Tường chủ trì. Anh này tốt nghiệp đại học Huế và là cựu lãnh tụ sinh viên trong Ủy Ban Phật Giáo chống chính quyền trước đây. Cầm đầu ở Gia Hội là Nguyễn Ðắc Xuân, trước kia là một liên lạc viên cộng sản nay đột nhiên lại xuất hiện. Tòa trong thành do hai sinh viên Nguyễn Ðọc và Nguyễn Thị Ðoan điều khiển. Các phiên tòa vang lên những lời đe dọa với khẩu hiệu tuyên truyền, kết tội, qui chụp. Hầu hết những người bị lôi ra tòa chẳng biết lý do mình bị bắt. Nhưng tất cả đều bị kết tội, một số bị tử hình tức khắc. Sau hai ngày phiên tòa kết thúc, nhường chỗ cho những công tác khủng bố dân chúng khác. Một người trộm mở nghe đài (radio) bị bắn giữa thanh thiên bạch nhật để làm gương. Một anh sinh viên không tới dự lớp học tập cũng bị bắn công khai. Nguyễn Ðọc bắn nhiều người trong đó có người bạn thân đồng lớp là Mu Ty, chỉ vì bạn không chịu hợp tác với y. Bước vào ngày thứ hai bắt đầu kiểm soát lương thực, thực phẩm. Ngày thứ bốn, vì không tuân hành lệnh cách mạng, một gia đình bị xử. Người chủ gia đình bị bắn tức khắc. Dưới áp lực khủng bố gia tăng, nhiều người bỏ trốn, nhưng ít kẻ thoát. Vùng Gia Hội có nhiều người thoát hơn nhờ ban đêm chèo bè qua sông sang làng Ðập Ðá. Thường bị bắn theo nhưng cố chèo. Những người nằm vùng xuất đầu lộ diện, ra tay truy lùng nạn nhân. Bộ đội Bắc Việt và quân chính quy Mặt Trận lo chuyện quân sự và chiến lược. Nằm vùng địa phương lo việc chính trị, hành chính, bình định, tuyên truyền, và tiêu diệt kẻ thù. Ðám này bắt và giết người bất kể, nhiều khi chỉ vì hiềm thù cá nhân. Cán bộ miền Bắc có mặt ở tòa án nhân dân xem ra ít nắm vững chuyện chính trị và đóng vai trò ít quan trọng trong các bản án. Ðịa phương quyết định mọi chuyện. Trước khi lên danh sách, thường đám nằm vùng đã quyết định bắt ai rồi. Chỉ còn việc ra lệnh thanh toán những ai họ nhắm nữa mà thôi. Có lẽ họ lý luận rằng, thà giết lầm hơn bỏ sót, vì bỏ sót thì sau này mình sẽ bị nhận diện. Một cách hệ thống, công chức, quân nhân, sinh viên có tinh thần quốc gia, có khả năng lãnh đạo và có thể gây trở ngại cho cách mạng, chính trị gia đối lập, tất thảy đều được đoái hoài. Danh sách bất tận. Dân chúng tập trung ở nhà thờ chính tòa được lệnh vào bên trong, không ai được đứng bên ngoài. Phụ nữ và trẻ con được lệnh ngồi xuống. Ðàn ông và thiếu niên từ 15 tuổi trở lên đứng. Ở bệnh viện, trò tương tự cũng đã diễn ra. Dân quanh vùng, đặc biệt là vùng quanh căn cứ Mỹ, được lệnh tập trung vào bệnh viện vì cộng sản sợ giao tranh có thể xảy ra ở đó. Dân lúc này còn sợ súng máy và hỏa tiễn trực thăng hơn quân chiếm đóng nên ngoan ngoãn làm theo lệnh. Sau ba ngày, đàn bà con nít được lệnh ngồi, đàn ông đứng dậy để hai tên nằm vùng nhận diện, trước mặt hai cán bộ miền Bắc và hai bộ đội Mặt Trận. Hai người nằm vùng này mới được xổ tù khi Việt cộng chiếm thành phố. Cả hai đều là thành viên kỳ cựu của Mặt Trận. Một số người, trẻ có già có, được cấp thẻ và dẫn về nhà thờ chính tòa. Bên trong nhà thờ đàn ông và thiếu niên được lệnh sắp thành hàng rồi bước ra ngoài với cán bộ hộ tống. Từ nhà thờ họ băng qua các đường Phủ Cam lên Chùa Từ Ðàm. Bị giữ ở đấy một ngày rồi lại tiếp tục đi về phía Nam, hướng Nam Giao. Ðàn bà trẻ con nhao lên nhưng được trấn an rằng cha, chồng, con họ phải ra phục dịch bên ngoài thành. Một số bà đi theo xa xa, nhưng rồi bị chặn lại. Trong số người ra đi có anh lính trẻ cộng hòa và Lương (nhân vật kể lại câu chuyện này). Ngày kế tiếp, cuộc hành trình kéo dài suốt chiều tới tối, thoạt tiên rời Từ Ðàm đi về hướng Nam rồi bẻ hướng Ðông Nam. Sáu cây số đường đi mà Lương nghĩ là một cuộc trường chinh. Không ai nói với ai. Chỉ một lần yên lặng bị cắt đứt bởi một câu hỏi của ai đó "Ta đi mô đây". Có tiếng phụ họa "Lên núi hay tới chỗ chết?". Bộ đội Mặt Trận nói là họ được đưa đi học tập. Không ai biết mình đi đâu nhưng tự thâm tâm nhiều người tin rằng có lẽ đời mình sắp kết thúc. Ông già đi bên cạnh Lương bỗng ngã quỵ. Cho tới lúc đó anh không biết có ông già đi bên mình. "Bắt gió cho ông ta " tiếng ai đó vang lên... Lương ôm lấy ông cho tới khi người canh gác tới. Mắt ông già hé mở trong chiều xẩm tối. Tiếng nói lạc giọng thều thào. "Xin để tui đi, để tui ở lại đây", ông van xin, bàn tay xương xẩu níu lấy cánh tay người gác. "Tui không đi xa hơn được nữa". "Ðứng dậy". Ông già gượng dậy, cố thẳng người thêm được vài bước rồi lại ngã. Người gác đoàn lúc này hết kiên nhẫn, đạp ông ra lề đường rồi bỏ đi. Vài phút sau, một phát súng xé không khí cùng với một tiếng kêu yếu ớt vang lên. Làm thế để chắc ăn, không ai chứng kiến. Xác ông được dập vào một hố gần đó, hai tù nhân được lệnh lấp đất. Một tháng sau xác ông được đồng bào khám phá. Vô vọng, đoàn người bước đi càng lúc càng chậm, câm lặng uất nén. Người gác càng hối thúc. Rồi có tiếng hô "Dừng lại". Lương thấy đám người phía trước được lệnh bỏ túi xách xuống và ngồi xuống. Họ đã tới đích. Ðám canh gác phía sau miệng hét thúc kẻ này đi nhanh, chân đá vào sườn kẻ khác... Sau này, Lương nhớ lại mình đã đi qua thôn Tu Tay. Theo anh, chừng 18 người đã bị kêu lên phía trước và bị quân Mặt Trận tố có tội ác với nhân dân. Các nạn nhân bị lôi đi ngay. Chả ai biết gì về số phận họ vì chẳng bao giờ gặp lại họ nữa. Những người khác được lệnh đi về phía lăng Ðồng Khánh. Sau một giờ đi họ lại được lệnh dừng, chia thành hai nhóm nhỏ và bắt đầu được lệnh đào hầm rãnh. Họ đào mồ cho lớp người tới sau, chứ chính họ thì chỉ vài mạng phải nằm ở đây mà thôi. Như một ác mộng kinh hoàng thăm viếng địa cầu, nhưng ác mộng không do quỷ ma nào cả mà do chính con người tạo ra. Thoạt tiên, Lương nghĩ chắc mình sẽ không qua khỏi. Dù vậy, anh và người lính trẻ vẫn cố tìm cách thoát thân, trong một hoàn cảnh có thể nói là tuyệt vọng. Hai người thất thần nhìn nhau, mắt mở lớn. Chung quanh Lương, đám người đói, lạnh, có kẻ đau, không ai dám quay về nhìn thành phố thân yêu đổ nát đang chìm trong bóng tối sau lưng họ. Họ đào đã hai, ba tiếng, ai nấy im lặng gặm nhấm suy nghĩ của mình. Hố đào là để trú ẩn và làm mương dẫn nước, người ta nói thế. Một tiếng nổ kèm với tiếng la vang lên. Thần chết vây bủa không gian. Tại sao mình ở đây? Ða số họ là công giáo, chả ai quan tâm tới chính trị, một số do hoàn cảnh lịch sử phải bước vào lính như bao nhiêu thanh niên Việt Nam và trên khắp thế giới đến tuổi khác. Sau khi đào xong một hố rãnh, đám đông được lệnh đi tới một đụn cát để nghỉ đêm. Vài người bị dẫn đi. Một số la thét lên vì sợ. Lương thấy người bạn ở cùng phố mà anh quen từ mấy năm nay bật khóc nức nở. Một người hoảng lên chạy quẩn để rồi bị bắt giữ lại. Lương hoảng hốt. Chân anh như điện giật. Anh nghĩ phải liều ngay. Chung quanh cán bộ gác đầy dẫy, nhưng nếu lao vào được bóng tối thì có cơ thoát. Ác mộng tiếp tục. Người la. Kẻ bị đánh. Người rú lên cười kinh hoàng. Lương ở trong một đám khá đông đang bước đi. Ðám người khập khễnh lê lết xuyên qua một đám cây rậm đi xuống đụn cát phía Nam. Khi họ xuống đồi, Lương lách người lao vào bóng tối. Một viên đạn rít bên tai. Anh phóng qua đám rừng, tai vẫn nghe tiếng đạn và tiếng la hét. Chỉ vài phút anh tới một con suối và chạy theo dòng nước hướng về phía Ðông. Anh đi suốt đêm, thỉnh thoảng bị khuất động bởi trái sáng thả từ máy bay và tiếng đại bác. Sáng ra thấy mình băng qua một con đường sắt. Từ đó tiếp tục đi tới quốc lộ, lòng mong ngóng sớm thoát được vùng tử địa. Xế chiều anh tới con đường phía Nam cách Phú Bài mấy dặm. Mãi tới ngày 16 tháng 2 Lương mới về lại được thành và kể cho chị Kim những gì đã xảy ra... Người ta đoán rằng đám nạn nhân từ Phú Cam tiếp tục đi nhiều ngày nữa về hướng Nam, xuyên qua một vùng cây cối khó đi. Mãi tới trung tuần tháng 9-69 người ta mới tìm thấy xác họ trong một con suối nhỏ, khe Ðá Mài, con suối chảy ra khe Ðại đổ vào sông Hương... Trong số 428 bộ cốt tìm được ở đó, rất ít được nhận diện. Vì không tìm thấy ở đâu khác, gia đình họ Nguyễn (thân nhân người lính trẻ) tin rằng con mình đã chấm dứt cuộc đời nơi khe suối này... Mồ Tập Thể Mồ tập thể được khám phá đầu tiên ở trường trung học Gia Hội, nằm bên cạnh khu dân cư. Sở dĩ cư dân gần đó biết được là vì họ nghe tiếng súng và biết ở đó có mở tòa án nhân dân. Một số người sau khi tham dự phiên tòa đầu tiên đã liều trốn và may mắn thoát. Một số khác nhờ bơi qua sông. Trước ngôi trường có tất cả 14 hố gồm 101 tử thi. Sau ba ngày tìm kiếm, người ta khám phá thêm một số hố rải rác trước, sau và bên hông trường, nâng tổng số tử thi lên 203, gồm xác thanh niên, người già và phụ nữ. Trong số xác trẻ có 18 sinh viên. Một số trong bọn họ là những sinh viên đã bỏ vô bưng theo Mặt Trận sau vụ đấu tranh chống chính quyền, nay trở về bắt các sinh viên khác theo họ. Khi Mặt Trận chuẩn bị rút, các sinh viên được phép chọn hoặc vô bưng hoặc ở lại thành. Kẻ chọn ở lại bị giết và chôn tại trường. Những sinh viên khác của Gia Hội không theo Mặt Trận cũng chịu chung số phận. Có hố vừa chôn được hai hoặc ba tuần; số còn lại rất mới. Những xác đầu tiên được lính Thủy Quân Lục Chiến Cộng Hòa khám phá ngày 26-02-1968. Trong số nạn nhân có cô Hoàng Thị Tam Tuy (các tên riêng và địa danh nào không đoán được sẽ ghi lại đúng như tác giả đã ghi - Người dịch), 26 tuổi, rất xinh, bán hàng ở chợ, nhà tại đường Tô Hiến Thành, Gia Hội. Bị quân Mặt Trận, theo lời kể của chị/em cô, vào nhà bắt đi đưa vào trường điều tra ngày 22 tháng 2, rồi chẳng thấy trở về. Xác cô chân tay bị trói, miệng nhét đầy giẻ, mình mẩy không thấy một vết thương nào. Xác cô nằm chung với bốn nạn nhân khác, mà hai trong số đó có bà con với chị/em dâu cô. Trong số các nạn nhân khác có bà góa Dương Thi Co, 55 tuổi, nghề bán guốc, 4 con. Bị bắt tại nhà ngày 22-02, đưa vào trường Gia Hội và bắn chết. Xác bà được các con nhận diện ngày 26-02. Người thứ ba là Lê Văn Thắng, 21 tuổi sinh viên ở Gia Hội. Anh bị bắt đi tham dự lớp huấn luyện ngày 14-02. Xác được gia đình phát hiện và nhận diện ngày 16-03, chung hố với hai nạn nhân khác trong khuôn viên trường. Người thứ tư là Trần Ðình Trọng, sinh viên kỹ thuật và mới lập gia đình. Bị bắt ngày 06-02, tìm thấy xác ngày 26-02. Người thứ năm Nguyễn Văn Dong, cảnh sát 42 tuổi, bị bắt ngày 17-02 ở nhà một người quen và bị chôn sống, tay trói tại trường Gia Hội. Tìm thấy xác ngày 26-02. Người thứ sáu là Lê Văn Phú, 47 tuổi, cảnh sát. Bị bắt tại gia ngày 08-02. Vợ con van xin Mặt Trận cho phép chồng ở lại nhà, nhưng tối hôm đó bị hành quyết, bị bắn vào đầu, xác tìm thấy ngày 26-02, ở khuôn viên trường. Người thứ bảy, bà Nguyễn Thi Lao, buôn thúng bán bưng, 48 tuổi. Bị bắt trên đường lộ. Xác tìm thấy ở trường học, tay bị trói, miệng nhét đầy giẻ; mình mẩy không bị một vết thương nào. Có lẽ bà bị chôn sống. Những xác khác tìm thấy gồm một đại úy cộng hòa, hai trung úy, ba trung sĩ và mấy viên chức hành chánh. Bốn xác người của Mặt Trận. Vùng mồ lớn thứ hai được khám phá gồm 12 hố với 43 tử thi ở Chùa Theravada, thường gọi là Tăng Quang Tự. Vùng thứ ba tại Bãi Dâu với 3 hố, 26 xác. Trong số nạn nhân ở Chùa có ông Phan Ban Soan, 60 tuổi, sinh tại Phú Vang, Thừa Thiên, nhà ở đường Tô Hiến Thành, có gia đình, 5 con. Ông Soan làm nghề thợ may, trước có tham gia vụ Phật giáo chống tổng thống Diệm. Năm 1961 bị bắt vì chống chính quyền, được thả năm 1967. Bị Việt cộng bắt đi tối 12-02 trên đường Chi Lăng, Gia Hội. Cộng sản phân công ông chôn xác chết và phân phối gạo. Xác ông tay bị trói, bị bắn xuyên đầu, dập cùng hố với 7 người khác. Một người khác tìm thấy ở Chùa là ông Ðặng Cơ, 46 tuổi, nghề thầu khoán, bị bắt tại gia ngày 06-02, tìm thấy xác ngày 26-02. Một người khác nữa là ông Ngô Thông, 66 tuổi, nhân viên hành chánh hồi hưu, bị bắt ngày 08-02, xác dập chung với 10 người khác. Một số tử thi có vết thương, một số tay bị trói giật cánh khỉ bằng dây thép gai, và một số miệng bị nhét giẻ. Lần đầu tiên nói chuyện với đồng bào trong vùng, tôi tưởng chỉ có 16 xác ở Chùa và 3 xác khác ở Bãi Dâu. Nhưng bên hông và sau Bãi Dâu có nhiều hố chôn. Tất cả ở đây chết vì bị trả thù. Một vài người là thành viên Mặt Trận nhưng bị giết vì muốn ở lại thành. Họ đều là dân Gia Hội. Bốn tháng sau, tháng 08-68, tôi trở lại đây để tìm hiểu thêm uẩn khúc của những cái chết. Thân nhân các nạn nhân lẫn dân địa phương đều xác nhận những điểm trên. Tiết lộ về "mồ chôn tập thể" đầu tiên của chính quyền miền Nam là vào ngày 28-02-68, khi phát ngôn nhân chính phủ cho biết về một hầm "ghê gớm ở Cồn Hến gồm 100 xác công chức và quân nhân bị bắt khoảng đầu tháng". Cũng theo phát ngôn viên, "các nạn nhân bị Việt cộng giết, thân xác họ không được lành lặn". Cồn Hến nằm giữa sông Hương. Lúc đầu Mặt Trận không màng chiếm Cồn. Nhưng sau nó trở thành một vị trí chiến lược cho việc tiến quân và rút quân từ Gia Hội ra vùng cát Ðông Nam, vùng họ chiếm từ nhiều năm nay. Chính quyền xác nhận có 101 xác trong hầm. Theo đồng bào chạy thoát từ Cồn thì trong số nạn nhân có nhiều người nam mang quân phục, một vài người bận đồ kaki của Mặt Trận, một số khác bận áo dòng ngắn, một vài người mang quân phục lính cộng hòa và một vài người bận thường phục. Tôi hỏi nhân viên chính quyền địa phương về tên tuổi các nạn nhân thì được trả lời là các tử thi không được nhận diện đầy đủ; họ xác nhận là không thể nào quả quyết tất cả đều bị hành quyết; một vài nạn nhân có thể đã chết trong khi giao tranh và vài xác khác, cũng theo họ, là của quân thù. Vùng chôn thật sự thứ tư nằm sau Tiểu chủng viện, nơi dựng tòa án nhân dân. Hai hầm chứa xác ba người Việt làm việc cho tòa đại sứ Hoa Kỳ, hai xác người Mỹ là ông Miller và ông Gompertz, nhân viên USOM, và xác một giáo sư trung học người Pháp bị giết vì lầm là người Mỹ. Tất cả đều bị trói tay. Xác tìm thấy và liệm ngày 09-02. Xác hai người Mỹ và người Pháp được đưa về Ðà Nẵng. Quận Tả Ngạn, vùng thứ năm, do một quân nhân người Úc khám phá ngày 10-03-68. Ba hầm rãnh với 21 tử thi, tất cả đều nam giới, tay bị trói, đạn bắn xuyên đầu và cổ. Một hầm khác, vùng thứ sáu, nằm cách Huế 5 dặm về hướng Ðông, được khám phá ngày 14-03-68 do một cố vấn quân sự Mỹ cùng toán lính Việt đi kèm. Hai lăm xác, tất cả đều bị bắn vào đầu, tay trói giật cánh khủyu. Nhờ một cánh tay của một nạn nhân nhôi ra khỏi mặt đất mà hầm được khám phá. Phía Nam Huế qua hoàng thành ở Nam Giao là nơi mộ phần của vua Tự Ðức và Ðồng Khánh. Nơi đây là vùng chôn tập thể thứ bảy. Ðây đó trên dưới hai chục hầm, có cái giữa đất bằng, có cái dưới bụi cây, có cái bên bờ suối. Bên cạnh hầm lớn, có những hố nhỏ chứa một, hai hoặc ba xác. Hầm đầu tiên được khai quật ngày 19-03-68, nhưng mãi cho tới tháng 6-69 vẫn còn xác được tiếp tục phát hiện. Ban đầu còn dễ nhận dạng, vài xác mang quân phục, ngoài ra còn lại thường phục. Ðặc biệt ở đây không có xác phụ nữ và trẻ con. Càng về sau việc nhận diện trở nên khó khăn. Dù vậy, cuối hè 1969, người ta cũng nhận diện được xác bố của ông thôn trưởng thôn Than Duong. Vì con trai vắng mặt nên cụ già bị bắt thay con. Về sau con đi tìm cha mãi không gặp. Xác cha, đạn xuyên đầu và ót, được tìm thấy tháng 6-69. Cũng trên đường hướng Nam đó là Tu viện Thiên An, nơi xảy ra trận chiến ác liệt trong thời gian cộng sản tấn công. Khi buộc phải triệt thoái, cánh quân chiếm đóng phía Nam thành phố rút lên núi và chiếm giữ ngôi Tu viện xây cách đây 26 năm, cách Huế 6 cây số hướng Nam, vào ngày 21-02. Lúc đó Tu viện đang là nơi lánh nạn cho hơn 3000 người. Mặc cho các cha dòng van xin, cộng sản đã cho thần hỏa thiêu rụi tòa nhà chính trong vòng hai ngày. Các tòa nhà bên là chỗ sinh kế của nhà dòng cũng bị lửa đạn thiêu hủy. Thư viện gồm những pho thư khố và thủ bút quý thời vua chúa cũng chung số phận. Cha Dom Romain Guillaume, một trong những linh mục của dòng, bị một lính Việt cộng bắn vào vai lúc rời khỏi tòa nhà cháy sau khi đã di tản hầu hết dân tỵ nạn. Một linh mục người Việt bị bắn vào chân. Khi rút khỏi đống gạch vụn Tu viện ngày 25-02, Cộng quân mang theo trên 200 người, trong đó 2 linh mục người Pháp, cha Urbain, 52 tuổi, và cha Guy, 48 tuổi và một số tu sĩ linh mục, tập sinh và người giúp việc. Những người này bị lọc bắt trong thời gian cộng quân chiếm Nhà dòng và được dẫn đi về hướng Nam. Ða số bọn họ kết liễu cuộc đời gần chỗ lăng các vua. Tới tháng 6-69, tổng cộng 203 xác được khai quật. Trong số nạn nhân ở lăng Tự Ðức có Ðoàn Xuân Tòng, 20 tuổi học sinh trung học, nhà ở làng Nguyệt Biểu, quận Hương Thủy. Em biến mất khỏi nhà ngày 06-02-68. Xác em được thân nhân tìm thấy bên cạnh lăng vua ngày 19-03-68, chôn chung với năm người khác cùng làng. Tại lăng Ðồng Khánh có xác linh mục Urbain lấp cùng một hố với 10 người khác. Một người Việt khai quật xác cho tôi hay tay linh mục bị trói, mình không có một vết thương, chứng tỏ có lẽ bị chôn sống. Xác ông liệm ngày 23-03-68 và sau đó được một linh mục đồng dòng nhận diện. Vị linh mục này không thể xác nhận được là tay cha Urbain có bị trói hay không. Sự kiện không có xác đàn bà và con trẻ trong các hầm chứng tỏ các nạn nhân đã bị hành huyết dã man chứ không phải chết trong lúc giao chiến. Nếu bị pháo kích hoặc oanh tạc thì chắc chắn đã có người bị thương và sống sót, hoặc có người chết không toàn thây. Và chắc rằng họ không phải bị chôn tại chỗ, bởi theo phong tục người chết luôn được mang về nhà mình để hồn họ khỏi phải vất vưởng muôn kiếp. Vì thế nguyên tắc của đối phương là phải giấu nạn nhân thế nào để không bị khám phá, mà nếu có bị khám phá thì cũng không nhận diện được là ai. Ngoài thi hài cha Urbain, thi hài cha Guy dòng Thiên An cũng được tìm thấy trong một hầm riêng ngày 27-03-68 gần lăng Ðồng Khánh, với vết đạn ở đầu và cổ. Vùng chôn thứ tám ở cầu An Ninh khám phá ngày 01-03 với 20 xác. Trong số tử thi có ông Trương Văn Triệu, trung sĩ lính Cộng hòa. Trung sĩ Triệu có vợ và 5 con. Du kích cộng sản địa phương bắt ông ở trường mẫu giáo Kim Long, nơi ông ẩn trốn. Bị trói và dẫn đi. Nhờ dân chúng gần đó cho hay Việt cộng có chôn xác người gần cầu nên vợ ông đã tìm được xác chồng sau đó. Xác ông Trần Hy, thuộc lực lượng Nhân Dân Tự Vệ, có vợ 4 con, cũng được lấp cùng hầm với ông Triệu. Ông bị bắt ngày 20-02 khi đang trốn trong nhà một láng giềng. Tay bị trói cánh khuỷu, người không có vết thương nào. Vùng chôn thứ chín ở cửa Ðông Ba, nơi xảy ra giao tranh lớn. Ðây chỉ có một hầm 7 người bị bắt tại gia và giết sau đó. Trong đó có ông Tôn Thất Quyền, 42 tuổi. Có gia đình với 10 người con, bị bắt và dẫn đi hôm 08-02-68. Gia đình tìm được xác ông ngày 05-05-68. Ðịa điểm thứ mười là trường tiểu học An Ninh Hạ, một hầm 4 xác, trong đó có cảnh sát Trần Triệu Túc, 52 tuổi, có vợ 7 con. Ông bị bắt tại nhà và mang đi ngày 05-02-68. Xác tìm được ngày 17-03-68 ở trường, mang vết thương ở đầu và cổ. Ba xác còn lại: một sinh viên, một quân nhân và một cảnh sát. Ðịa điểm thứ mười một là trường Van Chi, một hầm 8 xác. Trong đó có anh Lê Văn Loang, thợ máy, 35 tuổi, có vợ 6 con. Theo lời chị Loang, anh bị bắt đi dự lớp huấn luyện ngày 06-02. Khi bị dẫn đi, chị và các cháu chạy theo van xin nhưng vô hiệu. Họ ra lệnh mẹ con chị phải quay trở về. Xác anh được những gia đình đi tìm xác người thân tìm thấy ngày 10-03-68 gần trường. Một vài xác bận quân phục, 4 xác chắc chắn là thường dân, trong đó có một sinh viên. Ðịa điểm thứ mười hai ở chợ Thông, cách nội thành 2 cây số về hướng Tây. Tìm được 102 xác. Trong đó có ông Nguyễn Ty, 44 tuổi, thợ xây gạch, có vợ 6 con. Bị bắt ngày 02-02-68 và có lẽ bị giết ở chợ cùng với nhiều nạn nhân khác. Tìm được xác ngày 01-03, tay bị trói, một viên đạn từ ót bung ra cửa miệng. Nhiều người khác cũng bị bắn, tay trói. Có nhiều xác đàn bà nhưng không có trẻ con. Ðịa điểm thứ mười ba là vùng lăng Gia Long, ở Thiện Hàm bên bờ sông Hương, cách thành phố khoảng 16 cây số hướng Nam và cách Ðàn Nam Giao cỡ 13 cây số Tây Nam. Gần 200 xác được tìm thấy dưới các đám cây và bụi rậm, gồm học sinh, sinh viên, nhân viên hành chính, quân nhân và nhiều phụ nữ. 27 người thuộc làng lân cận. Sau khi an ninh tạm vãn hồi, các bà đi tìm chồng đã khám phá ra địa điểm này. Lúc đầu, họ không dám đi quá xa. Nhưng hai ngày sau, 25-03-68, họ đụng vào một miếng đất mới đào trên triền một trong nhiều thung lũng nhỏ trong vùng. Xác người thân họ nằm nơi đây, tay bị trói cánh khủy, đạn bắn từ sau cổ xuyên qua miệng. Có nhiều rãnh hầm nối nhau với nhiều xác. Một số nạn nhân từ nội thành, những người khác từ các làng lân cận. Một số là sinh viên từ Huế về nhà ăn tết. Ðịa điểm thứ mười bốn nằm ở giữa Chùa Tăng Quang và Tường Vân, 2,5 cây số Tây Nam Huế. Ở đó có xác 4 người Ðức, 3 bác sĩ và một bà vợ, tìm thấy ngày 02-04-68. Ðịa điểm mười lăm ở Ðông Gi, 16 cây số phía đông Huế trên đường ra bờ biển, tìm thấy ngày 01-04-68. 101 xác, đa số bị trói và miệng nhét đầy giẻ. Tất cả đều nam giới, trong đó có15 sinh viên, nhiều quân nhân và nhân viên hành chính, già lẫn trẻ. Một vài xác không thể nhận diện được. Tới tháng 05-68, tổng cộng có trên 900 xác người bị coi là mất tích đã được tìm thấy. Dĩ nhiên còn nhiều người chưa được tính... Ðầu năm 1969 nhiều địa điểm khác được khám phá. Ðiểm chôn thứ mười sáu: Ðầu tiên ở làng Vinh Thái. Ðịa điểm thứ hai ở làng Phú Lương. Ðịa điểm thứ ba ở làng Phú Xuân, tất cả thuộc quận Phú Thứ. Tất cả được tìm thấy trong khoảng từ tháng 01 tới tháng 08-69. Quận này với quận kế bên bị cộng sản chiếm nhiều năm và nơi đây xảy ra nhiều cuộc không tập kéo dài nhiều tháng. Mãi tới đầu năm 1969 quân Cộng hòa mới tiến vào được vùng này... Ba làng này cách thị xã Huế chừng 15 cây số về các hướng Ðông và Ðông Nam, cách bờ biển từ 3 tới 5 cây. Theo các viên chức địa phương, trên 800 xác được tìm thấy trong các vùng trên trong vòng 6 tháng. Có hầm đào sâu, có hầm cạn. Nhiều xác chôn lâu rồi, quần áo đã mục... Trong số nạn nhân người ta nhận diện được 16 học sinh trung học, theo học ở Huế nhưng về quê ăn tết. Cả nhân viên hành chính, đàn ông, đàn bà, trẻ em, già lẫn trẻ. Một số tay bị trói, đa số đều chôn cùng một hố. Vùng làng Vinh Thái đào được 135 xác; làng Phú Lương 22; và làng Phú Xuân đợt đầu 230, đợt sau, khám phá vào cuối năm 69, 375 xác. Dù thời gian qua lâu, nhưng nhờ lượng muối cao của đất vùng này giữ, đa số tử thi hãy còn có thể nhận diện được. Nhiều nhân viên hành chính và quân nhân, bị bắn ở cổ và đầu. Ða số nạn nhân thuộc nam giới. Một vài phụ nữ và trẻ em và một vài người mang nhiều loại vết thương. Có các linh mục, tu sĩ và chủng sinh của các làng lân cận mất tích từ hơn 20 tháng kể từ biến cố tháng 02-68. Trong số 357 xác có cha Bửu Ðồng, một cha sở quận Phú Vang và 2 chủng sinh. Cha Đồng dấu được trong túi sau bộ đồ ngủ đen trên người một hộp mắt kính trong đó có ba bức thư tiếng Việt. Một trong ba lá thư này, có bản chụp trưng bày ở nhà thờ chính tòa Huế, ông viết cho bổn đạo mình (thư tìm thấy trên thi thể ngày 8-11-69). «Các con yêu dấu, «Ðây là bút tích cuối cùng để nhắc cho các con ghi nhớ bài phúc âm thánh Phêrô trên thuyền bão táp... (3 chữ đọc không ra) đức tin. Lời cầu chúc của Cha ngày đầu xuân cho mọi công việc Tông đồ của Cha giữa chúng con, nhớ... (hai chữ đọc không ra) khi sự sống của Cha sắp kết liễu theo ý Chúa. «Hãy mến Mẹ sốt sắng lần hột, tha mọi lỗi lầm của Cha, xin cám ơn Chúa với Cha, xin Chúa tha tội cho Cha và tận tình thương nhớ cầu nguyện cho Cha được sống trong tin tưởng, kiên nhẫn, trong khắc khổ để kiến tạo hòa bình của Chúa Kitô và phục vụ tinh thần Chúa và mọi người trong Mẹ Maria. Xin cầu nguyện cho Cha bình an sáng suốt và can đảm cùng mọi sự đau khổ tinh thần, thể xác và gởi mạng sống cho Chúa qua tay Ðức Mẹ. «Hẹn ngày tái ngộ trên nước Trời. Chúc lành cho chúng con”. (Chữ ký Cha Ðồng) Ðiểm chôn thứ mười bảy ở làng Thượng Hòa, quận Nam Hòa, bên bờ sông Tả Trạch, một phụ lưu sông Hương phía Nam lăng Gia Long. 11 xác được tìm thấy giữa các lùm cây trong tháng 07-69. Chỉ có ba xác nhận diện được là người của làng bên cạnh. Tất cả đều mang vết thương cổ và đầu, dấu chỉ của sự hành quyết. Ðiểm thứ mười tám ở Thúy Thạnh, quận Hương Thủy, tìm thấy tháng 04-69, và ở làng Vinh Hưng, quận Vinh Lộc, tìm thấy tháng 07-69. Cả hai làng nằm trong vùng bị cộng sản chiếm từ lâu... Trên 70 xác, nhiều xác không còn nhận diện được nữa, đa số là đàn ông, vài đàn bà và trẻ con. Họ được nhận diện là người của các làng lân cận và vài người có thể bị chết vì chiến cuộc bởi mình họ mang nhiều vết thương và xác không toàn vẹn. Các nạn nhân khác bị bắn ở cổ và đầu. Ðiểm thứ mười chín tìm thấy vào tháng 09-69 ở Khe Ðá Mài, quận Nam Hòa, một con suối nhỏ chảy vào Khe Ðại, phụ lưu sông Hương. Khe chứa đầy xương người, có xương đủ bộ, có xương nằm riêng, sọ nằm riêng; tất cả được nước suối mài trắng tinh. Dân đi cưa gỗ tìm thấy địa điểm này. Nạn nhân có lẽ đã được chôn bên bờ suối trong mùa mưa và nước suối đã dần soi mòn đất để lộ xác ra, cũng có thể là nạn nhân bị vất xuống suối, chứng cớ là các mảnh quần áo được tìm thấy dọc bờ hoặc ngay dưới khe, thì việc chôn lấp nạn nhân có lẽ xảy ra trong các tháng mùa mưa (tháng hai, ba, tư). Và điều này có nghĩa là nạn nhân đã được dẫn thẳng tới đây hoặc được mang tới đây sau khi bị bắt một thời gian ngắn. Nếu chôn trong mùa suối khô, thì sự kiện xảy ra trong khoảng từ tháng 06 tới 10. Có lẽ để giữ bí mật khi rút lui Việt cộng đã thanh toán vội vàng các nạn nhân tại đây. Theo luật thông thường, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, kẻ thù thường chôn cất xác đồng đội đàng hoàng. Tuy nhiên cũng có thể đây là xương và sọ của lính Mặt Trận và Bắc Việt. Như vậy thì số phận nào cho những người Phủ Cam bị mất tích? Nghiên cứu các phúc trình quân sự Mỹ thì không thấy có một cuộc không tạc lớn hoặc của máy bay B52 nào ở vùng trên, ngoại trừ trận chiến gần Lộc Sơn vào hạ tuần tháng 04-68, một địa điểm cách xa nơi đó chừng 10 cây số. Vả lại lập luận mang người bị chết vì bom B52 băng qua vùng đất gập ghềnh để đưa về chôn ở suối này quả không vững. Ðường lên núi dễ dàng hơn nhiều. Cũng vậy, nếu kẻ thù bị thiệt hại nặng ở trận Lộc Sơn và, theo thói quen sẵn có, đã mang xác 500 đồng đội đi thì hẳn lộ trình phải là hướng núi, gần và dễ di chuyển hơn nhiều, chứ làm sao mà chọn băng qua cánh rừng dày đặc khó xuyên qua được này. Trong thời gian cuộc tấn công của cộng sản có xảy ra giao tranh lớn kéo dài từ Huế qua Bến Ngự, tới gần cầu Nam Giao và trong Nhà dòng Thiên An. Nhưng đã không có tiếp tục đánh nhau lớn về mạn Nam, khi quân thù chọn đường rút lui lên núi, hướng trái với Ðá Mài. Khe Ðá Mài nằm cách thành phố 40 cây số về hướng Nam, bên ngoài vùng lăng tẩm; nơi nầy được coi là vùng không người, chỉ có cộng quân lai vãng. Khe chứa 500 sọ. Ðịa thế cách trở, cách xa mọi văn minh bởi rừng đồi vách đá cho thấy người ta không muốn để số xác kia, xác của những người mang từ Huế ra bị khám phá, mà nếu có khám phá thì cũng không nhận diện được. Nằm lẫn với xương là các mảnh quần áo thường, không phải kaki hay vải màu xanh bộ đội miền Bắc hoặc quân phục Mặt Trận. Các sọ vỡ xương trán tất thảy cho thấy bị đánh bởi một vật gì nặng. Một số sọ khác không thấy vết tích gì ở xương, đây có thể là nạn nhân chết trong lúc giao tranh. Lần lượt tất cả hài cốt được chuyển về thành phố, nơi họ ra đi và tống táng trong an bình... Sau khi Ðá Mài được khám phá, vẫn còn vài trăm người mất tích. Trong số đó có một số sinh viên, điển hình là các anh Ngô Anh Vũ, Nguyễn Văn Bích. Cả hai bị bắt ở nhà thờ Phủ Cam. Những người khác, viên chức hành chánh, thành viên chính đảng, thanh niên công giáo, Phật giáo, tu sinh, giáo chức và quân nhân. Họ bị bắt đi, biệt tăm tin tức. Bên cạnh các hầm chôn tập thể, còn có các nạn nhân lẻ tẻ, bị giết tức tưởi. Có khi cả gia đình bị tiêu diệt như gia đình ông Nam Long, thợ buôn, bị bắn cùng vợ và 5 con tại nhà. Ông Ngô Bá Nhuận bị bắn dã man trước rạp chiếu bóng địa phương và ông Phan Văn Tường, lao công, bị giết ngoài nhà ông với bốn đứa con... Nguyễn Lý Tưởng
Những hành động dã man của Việt Cộng 1- Tại Phú Cam, khi VC tiến vào làng này, lực lượng nghĩa quân ở đây chiến đấu rất hăng say. Nhưng quân số VC quá đông, cấp tiểu đoàn, nên anh em nghĩa quân giấu súng và chạy lẫn lộn trong dân chúng. Việt Cộng đã vào nhà thờ bắt tất cả các người đàn ông, thanh niên đem đi. Có hơn 300 người đã bị bắt trong đó có Lê Hữu Bôi, Lê Hữu Bá... hai người nầy từ Nam Giao chạy về Phú Cam hy vọng nơi đây không có VC. Họ đã trốn trong nhà thờ để tránh bom đạn. Những người Phú Cam bị bắt, bị giết tập thể tại khe Đá Mài thuộc vùng núi Đình Môn, Kim Ngọc, quận Nam Hòa, Thừa Thiên. Xác chết nằm dưới khe, thịt thối rữa bị nước cuốn trôi đi, chỉ còn sọ và xương lẫn lộn. Tháng 10-1969, sau gần hai năm mới tìm được chỗ đó. Thân nhân đến nhận các dấu vết như thẻ căn cước bọc nhựa, quần áo, đồ dùng, tràng hạt, tượng ảnh. Trong số các di vật nầy có thẻ căn cước của Lê Hữu Bôi (Bôi là Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên Sài gòn năm 1963, nổi tiếng qua phong trào tranh đấu của Phật tử chống TT. Ngô Đình Diệm). Có những em học sinh bị bắt trong nhà thờ Phủ Cam, cũng bị giết chết tập thể bằng đại liên, bằng mìn tại Khe Đá Mài như Bùi Kha (16 tuổi), Phan Minh (16 tuổi), Nguyễn Duyệt (17 tuổi) v.v.. Đại úy Trung, khóa 16 Đà Lạt, sĩ quan liên lạc của SĐ 101 Dù Mỹ bị kẹt ở Phú Cam. Ông trốn ra được và cùng lực lượng quân đội ta trở lại tái chiếm Phú Cam đã bị tử trận. 2- Tại Thành Nội và Gia Hội là nơi Cộng Sản chiếm đóng rất lâu, nhiều người bị bắt, bị đem ra xét xử. Cộng Sản đã lập ra tổ chức Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình đưa giáo sư Lê Văn Hảo (Đại Học Văn Khoa Huế) lên làm Chủ Tịch và Thượng Tọa Thích Đôn Hậu (Chánh Đại Diện Miền Vạn Hạnh) và Bà Nguyễn Đình Chi (Nguyên Hiệu Trưởng Trường Đồng Khánh Huế) làm Phó Chủ Tịch. Nguy hiểm nhất là bọn theo phong trào tranh đấu chống chính quyền VNCH năm 1966 như Hoàng Phủ Ngọc Tường (giáo sư), Hoàng Phủ Ngọc Phan (sinh viên Y khoa), Nguyễn Đắc Xuân (sinh viên Sư Phạm), Trần Quang Long (sinh viên Sư Phạm), Phan Chánh Dinh tức Phan Duy Nhân (sinh viên) v.v... Khi quân đội Chính Phủ ở Sài gòn ra Huế tái lập trật tự vào mùa hè 1966, bọn chúng chạy vào chiến khu theo Việt Cộng, nay trở lại Huế, dẫn VC đi lùng bắt bạn bè, những sinh viên ở trong các chính đảng quốc gia chống Cộng như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Cách Mạng và những anh em công chức, cán bộ, cảnh sát, sĩ quan v.v... bị kẹt lại trong khu vực VC kiểm soát. Chúng lập tòa án nhân dân để xét xử họ, trả thù những người trước đây đã chống lại chúng. Trước Tết Mậu Thân mấy tháng, Lê văn Hảo đã bị Cảnh Sát Thừa Thiên bắt giam vì lý do đã phát hành báo bí mật tuyên truyền chống Mỹ, chống chiến tranh và ủng hộ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Nhưng sau đó y đã làm đơn nhận lỗi và xin khoan hồng, đồng thời giáo sư Lâm Ngọc Huỳnh, Khoa Trưởng Đại Học Văn Khoa cũng đã vận động xin chính quyền VNCH tại tỉnh Thừa Thiên khoan hồng cho y nên ông Đoàn Công Lập, Trưởng Ty Cảnh Sát Thừa Thiên đã trả tự do cho y. Sau khi quân đội VNCH tái chiếm Thành Nội Huế, Lê văn Hảo chạy theo Việt Cộng ra Hà Nội và trở lại Huế năm 1975, được cho làm ở Ty Thông Tin Văn Hóa. Nhân cơ hội được Cộng Sản cho đi Úc, Lê Văn Hảo đã xin tỵ nạn chính trị, hiện y đang sống ở Pháp. Trả lời cuộc phỏng vấn của Đài BBC, y đã xác nhận việc Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan và đồng bọn đã lập tòa án nhân dân trong Tết Mậu Thân để xét xử sinh viên và những người quốc gia ở Huế là đúng. Y nói y không tham gia tòa án đó. Việt Cộng đã bắt được ông Nguyễn văn Đãi (Phụ Tá Đại Biểu Chính Phủ), ông Bảo Lộc (Phó Tỉnh Trưởng) tại tư gia. Riêng ông Lê Đình Thương, Phó Thị Trưởng Huế, không chịu ra đầu hàng khi VC tấn công vào, ông tự tử bằng lựu đạn. Nghị Sĩ Trần Điền, Chủ Tịch ủy Ban Canh Nông Thượng Nghị Viện, một trong những vị lãnh đạo cao cấp của Hướng Đạo VN, đã từng làm Tỉnh Trưởng Quảng Trị, làm giáo sư ở Huế, đã bị bắt và bị chôn sống. Thiếu Tá Từ Tôn Kháng, Tỉnh Đoàn Trưởng Xây Dựng Nông Thôn Thừa Thiên, nhà ở 176 Bạch Đằng (gần cầu Đông Ba) Huế, trốn trong nhà đã ba bốn ngày. VC vào nhà bắt vợ con ra đứng giữa sân và tuyên bố nếu ông Kháng không ra trình diện thì sẽ tàn sát cả nhà khiến ông phải ra nộp mạng. VC đã trói tay ông, cột ông vào cọc giữa sân, xẻo tai, cắt mũi, tra tấn cho đến chết. Thật là dã man và kinh hoàng. Ông Trần Ngọc Lộ, Bí Thư Đại Việt Cách Mạng (ĐVCM) Quận Phú Vang, người lập ra môn phái võ Thần Quyền ở Huế, bị bắt cùng với vợ của ông, đã bị chúng giết để lại bầy con dại bơ vơ. Anh Trần Mậu Tý, thuộc Đặc Khu Sinh Viên ĐVCM ở Huế bị bắt và tra tấn dã man cho đến chết. Con số đảng viên ĐVCM chết tại Huế trong Tết Mậu Thân lên đến trên 300 người. Trước 1975, tôi có giữ danh sách đó, sau vì hoàn cảnh phải thủ tiêu, nay đang sưu tầm lại. Bên VN Quốc Dân Đảng, có Giáo sư Phạm Đức Phác, ông Lê Ngọc Kỳ v.v... là những đảng viên cao cấp cũng bị VC giết chết trong Tết Mậu Thân. VC đã tàn sát cả nhà bà Từ Thị Như Tùng và chồng là Trung Tá Nguyễn Tuấn, chỉ huy Thiết Giáp ở Gò Vấp, chỉ có một em bé may mắn sống sót hiện ở Mỹ. Ngày 9-2-1968, tiểu đoàn K.8 của Việt Cộng tấn công vào làng Dương Lộc, nghĩa quân và dân làng chiến đấu quyết liệt, VC thiệt hại nặng. Sau khi nghĩa quân rút ra khỏi làng, VC đã bắt Linh Mục Lê Văn Hộ và em Nguyễn Tiếp mới 13 tuổi, giúp lễ cho cha. Chúng đã chôn sống Linh Mục và em Tiếp tại vùng Chợ Cạn (Triệu Phong). Tại Phú Vang, VC vào trường La San bắt ba sư huynh và chôn sống với đồng bào vô tội. VC cũng bắt Linh mục Bửu Đồng đi và sau đó đã giết ngài. 3. Những mồ chôn tập thể tại chùa Áo Vàng (đường Võ Tánh), tại Sân Trường Gia Hội, phường Phú Cát hoặc vùng Phú Vang, Phú Thứ v.v... hàng trăm nạn nhân bị chôn trong những mồ chôn tập thể, nạn nhân bị đâm bằng lưỡi lê, bị đánh bằng cán cuốc vào sọ, bị bắn bằng súng hay bị chôn sống, tay bị trói bằng giây điện hay giây tre v.v... Ba bác sĩ Alterkoster, Discher và Krainick, người Tây Đức, giảng dạy tại Đại Học Y Khoa Huế cũng bị VC giết trong Tết Mậu Thân vì cho là CIA. Ông Võ Thành Minh (người thổi sáo kêu gọi hòa bình ở Genève, 1954), tết Mậu Thân 1968, ông đang ở trong từ đường cụ Phan Bội Châu ở Bến Ngự Huế thì bị VC bắt và đề nghị ông đứng ra làm Chủ tịch Liên minh Dân tộc Dân chủ Hòa bình của VC. Ông từ chối, bị bắt lên núi và bị chúng giết. Những nơi khác ngoài Huế mà chúng tôi được biết, cũng không kém phần dã man, như ở quận Hoài Nhơn, VC đã tàn sát 200 người một lúc trong đó có cả em bé 12-13 tuổi, có các cụ già v.v... vì tất cả những người nầy đã cùng ông Nguyễn Giảng (ĐVCM) chống lại chúng, không chịu đầu hàng. Nhân dân địa phương có lập bia kỷ niệm, nhưng bia đá nầy đã bị VC phá sau 30-4-1975. Theo con số tổn thất về nhân mạng được chính quyền VNCH công bố, tại Huế có khoảng 6000 người chết, trong đó về phía quân đội VNCH có 384 người chết và 1800 người bị thương, về phía Mỹ có 147 chết và 857 người bị thương. Con số nầy đã được các sách vở, báo chí thời đó ghi lại. Riêng cá nhân tôi trong thời gian làm Dân Biểu và hoạt động cho Hội Nạn Nhân CS trong Tết Mậu Thân tại Huế và Thừa Thiên, chúng tôi ghi nhận được 4000 gia đình có thân nhân chết, có khai báo tên tuổi để xin trợ cấp. Thiệt hại ở các tỉnh khác, tôi không rõ. Nhưng có lẽ không nơi nào trên toàn lãnh thổ VNCH có số tổn thất cao hơn Huế được, vì Huế đã bị VC chiếm giữ trong thời gian quá lâu. Sau Tết Mậu Thân ít lâu, tình hình Huế và Thừa Thiên trở nên yên tĩnh, kế hoạch bình định phát triển rất tốt. Một số các gia đình nạn nhân bỗng nhiên được người chết về báo mộng và họ bắt đầu đi tìm, nhờ đồng bào bí mật hướng dẫn nên họ đã tìm ra các nạn nhân. Sau đó chính quyền Huế đã mở các cuộc hành quân tìm xác nạn nhân và đã tìm được ở những nơi xa như Phú Vang, Phú Thứ v.v... những hầm chôn tập thể. Những nơi trong thành phố đã được phát hiện rất sớm, khoảng trong vòng một tuần sau khi VC bị đẩy ra khỏi thành phố. Nhưng những nơi xa, có nơi vài ba tháng, có nơi gần hai năm sau mới tìm được như tại Khe Đá Mài mà chúng tôi đã nói trên đây. Năm 1968 và 1969, có một ủy Ban đi tìm xác đã làm việc tích cực và họ cũng đã vào Sài gòn thuyết trình và trưng bày bằng chứng tại Quốc Hội (Hạ Nghị Viện). Theo tôi được biết, ông Võ Văn Bằng, nghị viên ở Thừa Thiên đã từng tham gia các đoàn người đi tìm xác nạn nhân năm 1968, hiện đang có mặt ở quận Cam, Nam Cali. Những buổi lễ tưởng niệm và an táng các nạn nhân tại Huế được tổ chức nhiều lần: tại núi Ba Vành vào mùa hè 1968 và tại núi Ba Tầng (Ngự Bình) vào tháng 10-1969. Những nơi đó đã được xây dựng thành di tích, trồng cây, dựng bia v.v... Ngày nay VC đã cho lệnh phá các di tích đó để cho hậu thế không còn nhắc nhở đến nữa. Viết về Mậu Thân 1968, có lẽ phải đến cả cuốn sách dày. Đây chỉ là một vài điều nhỏ gợi nhớ mà thôi. Ước mong những người trong cuộc, còn nhớ nhiều, biết nhiều sẽ đóng góp thêm, lên tiếng bổ túc cho chúng tôi... Tết Mậu Thân là bài học cho người quốc gia, cho các thế hệ mai sau. Khi chúng tôi đứng trước một mồ chôn tập thể ở Huế, chúng tôi thấy trong đó có đủ mọi hạng người, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, địa phương hay thành phần xã hội. Tất cả đều là nạn nhân của Cộng Sản, cùng chôn chung một hố. Khi thân nhân đến nhận xác đem đi rồi, chỉ còn lại máu nạn nhân thấm vào đất. Và không ai phân biệt được trong hố đất đó, đâu là máu của người Công Giáo hay Phật tử, đâu là máu của quân nhân hay sinh viên học sinh, đâu là máu của cán bộ đảng nầy hay đảng nọ. Tất cả chỉ là máu của người quốc gia, nạn nhân CS mà thôi. Năm 1975, khi bước chân vào nhà tù Cộng Sản, chúng tôi cũng gặp đủ mọi hạng người, thuộc đủ mọi tôn giáo, mọi thành phần xã hội. Nhà tù cũng chẳng khác chi cái mồ chôn nạn nhân VC trong Tết Mậu Thân. Khi đất nước rơi vào tay Cộng Sản thì mọi người không phân biệt tôn giáo, đảng phái đều là nạn nhân của CS hết. Đó là bài học rất đắt giá cho tất cả chúng ta.
Cuộc thảm sát tại khe Đá Mài Linh mục Phêrô Nguyễn Hữu Giải và Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi Vài lời mở đầu Biến cố tết Mậu Thân sắp được hầu hết toàn thể dân tộc VN, đặc biệt nhân dân miền Nam, kỷ niệm lần thứ 40 với trái tim vẫn còn rỉ máu, vì hàng trăm ngàn nạn nhân của cuộc thảm sát này –mãi cho tới hôm nay- chưa bao giờ nghe được một lời tạ lỗi và thấy được một cử chỉ sám hối từ phía các tay đồ tể là đảng Cộng sản Việt Nam, đồng bào ruột thịt của họ. Chúng tôi nói là hàng trăm ngàn người, vì ngoài con số 14.300 nạn nhân vô tội gồm tu sĩ, công chức, giáo sư, giáo viên, sinh viên, học sinh, dân thường ở miền Nam (riêng Huế chiếm gần một nửa), còn phải kể đến 100.000 bộ đội miền Bắc (con số do chính CS đưa ra) đã bị nướng vào cuộc tàn sát dân tộc này, cuộc tàn sát man rợ nhất lịch sử đất nước mà người chủ xướng là Hồ Chí Minh và các lãnh đạo cao cấp trong đảng CS thời đó. Chúng tôi viết lên bài này như nén hương lòng tưởng nhớ các ân sư, thân nhân, bằng hữu, đồng nghiệp của chúng tôi đã bị CS tàn sát trong biến cố ấy như 3 linh mục người Huế là Hoàng Ngọc Bang, Lê Văn Hộ, Nguyễn Phúc Bửu Đồng, ba linh mục người Pháp là Guy, Cressonnier và Urbain, 3 tu sĩ dòng Thánh Tâm là Héc-man, Bá-Long, Mai-Thịnh, ba chủng sinh là Nguyễn Văn Thứ, Phạm Văn Vụ và Nguyễn Lương, hai sư huynh dòng La San là Agribert và Sylvestre cùng nhiều người khác… Chúng tôi cũng viết lên bài này như lời kêu gọi đảng và nhà cầm quyền CSVN phải biết thừa nhận sự thật, lãnh nhận trách nhiệm, công nhận tội ác tầy trời mà chính họ đã gây ra cho dân tộc VN trong những ngày xuân năm 1968, phải chấm dứt ngay việc trình bày biến cố Mậu Thân như một chiến thắng lừng lẫy, phải phục hồi danh dự cho các oan hồn bằng cách chính thức tạ tội và để tự do cho bất cứ cá nhân hay tập thể nào tưởng nhớ các nạn nhân này, phải tôn tạo ít nhất ngôi mộ tập thể chôn cất di hài của họ tại núi Ba Tầng (núi Bân), phía Nam thành phố Huế. Ngôi mộ này lưu giữ hơn 400 bộ hài cốt chủ yếu bốc từ Khe Đá Mài nhưng đã bị chính CS phá đổ trụ bia và để cho hoang phế suốt 32 năm trời. Đây cũng là điều mà mới đây, trong Thỉnh nguyện thư viết ngày 29-09-2007 cùng 124 Kitô hữu VN khác, chúng tôi đã đề nghị với Hội đồng Giám mục Việt Nam: “Việc tưởng nhớ, cầu nguyện, minh oan cho họ (các nạn nhân biến cố Mậu Thân) để linh hồn họ được giải thoát, gia đình họ được an ủi là căn cốt trong truyền thống của mọi tôn giáo và nhất là của Kitô giáo. Đây cũng là cơ hội để các đao phủ thảm sát đồng bào bày tỏ thành tâm thiện chí, thống hối lỗi lầm, dọn đường cho việc hòa giải dân tộc cách đích thực. Nhớ lại năm 2002, nhân kỷ niệm 30 năm biến cố Đại lộ kinh hoàng Quảng Trị (1972), Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đã làm lễ cầu siêu cho các nạn nhân. Chúng con thiết tưởng Công giáo chúng ta cũng nên nhân cơ hội tưởng niệm 40 năm biến cố Tết Mậu Thân để làm nghĩa cử đối với các oan hồn uổng tử đồng bào đồng đạo. Vậy chúng con kính xin Quý Đức Cha và Hội đồng Giám mục can đảm tổ chức lễ cầu nguyện khắp nơi cho các nạn nhân vô tội, đặt ra một ngày tạm gọi là “ngày nhớ Mậu thân”. Đồng thời yêu cầu nhà cầm quyền cộng sản dựng một tấm bia mới tại nghĩa trang Ba Tầng (thành phố Huế), nơi chôn cất hài cốt của hơn 400 nạn nhân, vì tấm bia cũ đã bị phá hủy ngay sau năm 1975”. Trong toàn bộ biến cố Tết Mậu Thân, có lẽ những gì xảy ra tại Huế là đau thương và đánh động hơn cả. Nhưng trong những gì xảy ra tại Huế, thì có lẽ cuộc thảm sát tại Khe Đá Mài là rùng rợn, dã man và thê thảm nhất. Tiếc thay, theo sự am hiểu của chúng tôi, hình như người ta chỉ biết đến kết cục của nó là hàng trăm bộ hài cốt dồn lại một đống dưới khe sau khi thịt thối rữa bị nước cuốn đi lâu ngày, từ đó suy diễn ra sự việc hơn là biết rõ diễn tiến của toàn bộ sự việc kể từ lúc các nạn nhân bắt đầu bị dẫn đi đến chỗ hành quyết. Lý do là vì chỉ có hai con người duy nhất trong đoàn tử tội đã chạy thoát được trước khi thảm kịch xảy đến, họ nắm được một ít chi tiết nhưng lại chẳng biết rõ địa điểm, do vụ việc xảy ra giữa đêm khuya trong rừng già; họ lại còn quá trẻ rồi sau đó đăng lính, mất hút vào cơn bão chiến tranh, khiến mãi tới ngày 19-09-1969, tức gần hai năm sau, nhờ khai thác tù binh Việt cộng, chính phủ VNCH mới biết đó là Khe Đá mài trong vùng núi Đình Môn, Kim Ngọc, thuộc quận Nam Hòa, tỉnh Thừa Thiên (xã Dương Hòa, huyện Hương Thủy ngày nay) và mới tiến hành việc tìm kiếm hài cốt các nạn nhân xấu số. Thời gian sau, một trong hai người đã chết trận, đem theo bí mật xuống đáy mồ. Chúng tôi may mắn gặp được chứng nhân duy nhất còn lại, nay gần lục tuần. Ông đã tường thuật mọi việc cho chúng tôi khá tỉ mỉ. Nhưng vì lý do an ninh của đương sự, chúng tôi viết theo dạng tự thuật để khỏi nêu tên ông. Chúng tôi cũng xin phép bỏ đi nhiều chi tiết có thể giúp CS lần hồi dấu vết của ông để báo thù. Lm Phêrô Nguyễn Hữu Giải và Lm Phêrô Phan Văn Lợi ******************************** Hồi ấy tôi mới 17 tuổi, đang là học sinh trung học đệ nhị cấp. Vì tình hình bất an, gia đình tôi đã từ quê chạy về thành phố, cư ngụ tại giáo xứ Phủ Cam, thôn Phước Quả, xã Thủy Phước, tỉnh Thừa Thiên (nay gọi là phường Phước Vĩnh, thành phố Huế) từ mấy năm trước. Sáng sớm mồng một tết Mậu Thân, tôi cùng gia đình đi thăm bà con thân thuộc và du xuân với các bạn đồng trang lứa, trong một khung cảnh tạm an bình, vắng tiếng súng, nhờ cuộc hưu chiến mà hai miền Nam Bắc đã cam kết tuân giữ. Bỗng nhiên, khuya mồng một rạng mồng hai tết, nhiều tiếng đại bác và súng lớn súng nhỏ vang rền khắp xứ đạo của chúng tôi. Sáng hôm sau, tôi nghe nói Việt Cộng đang tấn công vào toàn bộ thành phố Huế và đã chiếm nhiều nơi rồi. Hoảng hốt, cả gia đình tôi cũng như rất nhiều giáo dân chạy đến nhà thờ (lúc ấy mới hoàn thành phần cung thánh và hai cánh tả hữu) để ẩn trú, vì đó là nơi an toàn về mặt thể lý (xây vững chắc, tường vách dày, trần xi măng rất cao) cũng như về mặt tâm lý (có thể trông cậy vào ơn phù hộ của Chúa và đông đảo người bên nhau thì bớt hãi sợ…). Tôi thấy đủ hạng: nữ nam già trẻ, linh mục tu sĩ, ngồi chen chúc nhau cả mấy ngàn người (giáo xứ Phủ Cam lúc đó lên tới 10.000 giáo dân). Đang khi ấy, ở bên ngoài, lực lượng địa phương quân, nhân dân tự vệ cùng các quân nhân chính quy về nghỉ phép hợp đồng tác chiến, chống giữ không cho Cộng quân tiến vào giáo xứ từ hướng An Cựu, Bến Ngự, Nam Giao, Ngự Bình... Cuộc chiến đấu xem ra rất ác liệt! Thế nhưng, đến chiều mồng 6 Tết, do lực lượng quá nhỏ, lại không có tiếp viện (vì mặt trận lan khắp cả thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên), các chiến sĩ đang bảo vệ giáo xứ đành phải rút lui, bỏ chạy. Thế là VC tràn vào! Khuya hôm đó, lúc 1g sáng, chúng mang AK và đèn đuốc xông vào nhà thờ Phủ Cam để gọi là “bắt đầu hàng” và lục soát mọi ngõ ngách. Sau này tôi mới biết chúng có ý lùng bắt cha xứ mà chúng nghi là người chỉ huy cuộc kháng cự, lùng bắt tất cả những ai mà chúng nghĩ đã chống cự lại chúng trong 5 ngày qua, cùng mọi cán bộ viên chức chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, như xảy ra tại nhiều nơi khác trong thành phố Huế lúc ấy. Thấy chúng vừa xuất hiện, tôi liền lợi dụng bóng tối, nhanh chân chạy đến cầu thang sắt phía cánh trái nhà thờ (gần mộ Đức Cố Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền hiện nay), leo lên trần xi măng, sát mái ngói. Từ trên đó, qua mấy lỗ trổ sẵn để gắn đèn cao áp (nhưng chưa gắn), tôi mục kích khá rõ sự việc diễn ra bên dưới. Tôi thấy lố nhố VC địa phương (du kích nằm vùng) lẫn bộ đội chính quy miền Bắc. Chúng lật mặt từng người, chỉ chỏ bên này bên kia. Một câu nói được lặp đi lặp lại: “Đồng bào yên tâm! Cách mạng đến là để giải phóng! Các mẹ, các chị, các em có thể ra về. Còn các anh được mời đi học tập, chỉ 3 ngày thôi! Không sao đâu!!!” Thế là mọi tráng niên và thanh niên từ 15 đến 50 tuổi đều bị lôi đứng dậy và dẫn đi, dù là học sinh, thường dân hay công chức…. Tiếng kêu khóc thảm thiết vang động cả nhà thờ. Con khóc cha, vợ khóc chồng, cha mẹ khóc con. Ai nấy linh cảm chuyến đi “học tập” này sẽ chẳng có ngày đoàn tụ. Sau này tôi biết thêm là linh mục quản xứ chúng tôi, cha Nguyễn Phùng Tuệ, nhờ ngồi giữa đám nữ tu dòng Mến Thánh Giá với lúp đội trên đầu, nên may mắn chẳng bị VC nhận diện. Bằng không thì bây giờ ngài đã xanh cỏ. VC ở lại trong nhà thờ suốt đêm hôm đó vài tên, còn những tên khác đi lùng khắp giáo xứ để bắt thêm một số người nữa, cũng từ 15 đến 50, thành thử có nhiều thanh niên hay học sinh gặp nạn. Sáng hôm sau, lúc 8 giờ, bỗng có hai tên VC theo thang sắt trèo lên trần và khám phá ra tôi. Một đứa tên Hồ Sự, du kích gốc Long Hồ, vừa được đồng bọn giải thoát khỏi nhà lao Thừa Phủ (là nhà lao nằm giữa lòng thành phố Huế, ngay sau lưng tòa hành chánh tỉnh). Tên kia là Đỗ Vinh, sinh viên, người gốc làng Sịa. Sau khi lôi tôi xuống, chúng hỏi tôi tại sao lại trèo lên núp (nấp). Tôi trả lời là vì nghe con nít khóc ồn ào, chịu không nổi, phải trèo lên đấy để nghỉ. Chúng dẫn một mình tôi -lúc ấy chẳng còn hồn vía gì nữa- đi xuống dốc nhà thờ, nhưng đến chắn xe lửa thì quẹo trái, men theo đường xe lửa tới chắn Bến Ngự. Từ đây, chúng dẫn tôi lên chùa Từ Đàm là nơi VC đang đặt bản doanh. Chúng rất đông đảo, vừa sắc phục vừa thường phục, vừa bộ đội miền Bắc vừa du kích nằm vùng miền Nam. Vào trong khuôn viên chùa, tôi nhận thấy ngôi nhà tăng 5 gian thì 4 gian đã đầy người bị bắt, đa số là giáo dân giáo xứ Phủ Cam của tôi. Gian thứ 5 (đối diện với cây bồ đề) còn khá trống, để nhốt những người bị bắt trong ngày mồng 7 Tết. Tôi cũng trông thấy ông Tin, chủ hiệu ảnh Mỹ Vân, người rất đẹp trai, đang bị trói nơi cây mít. Một tên VC nói: - Thằng ni trắng trẻo chắc là cảnh sát, bắn quách nó đi cho rồi! May thay, có một người trong nhóm bị bắt đã vội lên tiếng: - Tội quá mấy anh ơi, đây là ông Tin chụp ảnh tại Bến Ngự, cảnh sát mô mà cảnh sát! Nhờ thế ông Tin thoát nạn, được cho về. Tiếp đó, VC đưa cho tôi một tờ giấy để làm bản lý lịch. Chúng bảo phải khai rõ tên cha, tên mẹ, tên mình, nguyên quán ở đâu, cha mẹ làm chi, bản thân bây giờ làm chi. Khai rõ ràng chính xác, Cách mạng sẽ khoan hồng. Khai tơ lơ mơ, khai dối láo là bắn ngay tại chỗ. Lúc ấy không hiểu sao Chúa cho tôi đủ sự thông minh và điềm tĩnh nên đã khai hoàn toàn giả, giả từ tên cha mẹ đến tên mình, và giả mọi chi tiết khác, như nghề của cha là kéo xe ba gác, nghề của mẹ bán rau hành ở chợ Xép, bản thân thì đang học trường Kỹ thuật!?! May mà bọn VC chẳng kiểm tra chéo bằng cách hỏi những người cùng giáo xứ bị bắt đêm hôm trước. Bằng không thì tôi cũng rồi đời tại chỗ! Chúng tôi ngồi tại chùa Từ Đàm suốt cả ngày mồng 7 Tết, không được cho ăn gì cả. Lâu lâu tôi lại thấy VC dẫn về thêm một số tù nhân, trong đó tôi nhớ có cậu Long, 16 tuổi, học sinh, con ông Nguyện ở xóm Đường Đá giáo xứ Phủ Cam. Thỉnh thoảng chúng lại trói ai đó vào gốc cây bồ đề, bắn chết rồi chôn ngay trong sân chùa. Sau này người ta đếm được có 20 xác, trong đó có anh Hoàng Sự, vốn là cảnh sát gác lao Thừa Phủ, bị đám VC khi được thoát tù đã bắt đem theo lên đây. VC cũng cho một vài kẻ về nhắn thân nhân bới cơm nước lên cho người nhà, nhưng với điều kiện: nhắn xong phải đến lại trong ngày, bằng không bạn bè sẽ bị chết thế. Thế là một số anh em Phủ Cam lên tiếng xin thả ông Hồ (khá lớn tuổi, làm nghề hớt tóc, nhà ở gần cabin điện đường Hàm Nghi) để ông về lo chuyện tiếp tế thực phẩm. Tay VC liền hỏi: “Ai tên Hồ?” thì có một cậu thanh niên nào đó nhảy ra nói: “Hồ đây! Hồ đây!” Thế là nó được thả về và rồi trốn luôn, thoát chết. Một vài bạn trẻ cùng tuổi với tôi cũng được cho về nhắn chuyện bới xách rồi quyết không lui, nhờ vậy thoát khỏi cơn thảm tử. Còn ai vì hãi sợ hay thương bạn mà lên lại Từ Đàm thì cuối cùng bị mất mạng như tôi sẽ kể. Các “sứ giả” về thông báo với bà con là ai có thân nhân “đi học tập” hãy bới lương thực lên chùa Từ Đàm. Vậy là vài hôm sau, người ta ùn ùn gánh gồng lên đó gạo cơm, cá thịt, muối mắm, bánh trái ê hề (Tết mà!)… Họ chẳng thấy thân nhân đâu mà chỉ gặp mấy tên cán bộ VC bảo họ hãy an tâm trở về nhưng để đồ ăn lại. Nhờ mưu mô thâm độc này mà VC tạo được một kho lương thực khổng lồ để ăn mà đi giết người tiếp!! Lân la dò hỏi và nhìn quanh, tôi thấy trong số thanh niên Phủ Cam bị bắt có rất nhiều người bạn của tôi: anh Trị tây lai con ông Ngọc đàn ở nhà thờ, con trai ông Hoàng lương y thuốc Bắc ở chợ Xép, hai con trai ông Thắng nấu rượu, hai con trai ông Vang thổi kèn, anh Thịnh con ông Năm, hai anh em Bình và Minh con ông Thục mà một là bạn học với cha Phan Văn Lợi… Tôi cũng nghe nói có hai thầy đại chủng viện mà sau này tôi mới biết là thầy Nguyễn Văn Thứ, nghĩa tử của cha Nguyễn Kim Bính và bạn cùng lớp với cha Nguyễn Hữu Giải, rồi thầy Phạm Văn Vụ, đồng nghĩa phụ với cha Lợi… Khi trời bắt đầu sẫm tối, VC bắt chúng tôi ra sân xếp hàng và một tên tuyên bố: - Anh em yên tâm! Như đã nói, Cách mạng đưa anh em đi học tập 3 ngày cho thấm nhuần đường lối rồi sẽ về thôi! Bây giờ chúng ta lên đường! Rồi chúng bắt đầu dùng dây điện thoại trói thúc ké từng người một chúng tôi, trói xong chúng xâu lại thành chùm bằng một sợi dây kẽm gai, 20 người làm một chùm. Tôi nhớ là đếm được trên 25 chùm, tức hơn 500 người. Khi chúng tôi bị lôi ra đường (đường Phan Bội Châu hiện giờ), chừng 7g tối, tôi thấy có một đoàn cố vấn dân sự Hoa Kỳ khoảng 14 người cũng bị trói nhưng sau đó được dẫn đi theo ngã khác hẳn. Áp giải chúng tôi lúc này không phải là VC nằm vùng, địa phương, nhưng là bộ đội miền Bắc, khoảng 30 tên. Bọn nằm vùng ở lại để đi bắt người tiếp. Bỗng một kẻ mặc áo thầy chùa xuất hiện, đến cạnh chúng tôi mà nói: - Mô Phật! Dân Phủ Cam bị bắt cũng nhiều đây! Chỉ thiếu Trọng Hê và Phú rỗ! Trọng (con ông Hê) và Phú (mặt rỗ) là hai thanh niên công giáo, nhưng lại là “tay anh chị” khét tiếng cả thành phố. Về sau tôi được biết đa phần những thanh niên bị bắt đêm mồng 6 Tết tại nhà thờ Phủ Cam và sau đó bị giết chết đều là học sinh, sinh viên, thanh niên nhút nhát hiền lành. Còn hạng can đảm, có máu mạo hiểm hay hạng “du dãng, anh chị” đều đã đi theo binh lính, dân quân để chiến đấu tự vệ hoặc nhanh chân trốn chạy, không tới nhà thờ trú ẩn, nên đều thoát chết. Sự đời thật oái oăm! Hết đường Phan Bội Châu, chúng tôi đi vào đường Tam Thai (bên trái đàn Nam Giao), sau đó men theo đường vòng đan viện Thiên An, xuôi về lăng Khải Định (xin xem bản đồ). Từ con đường trước lăng Khải Định, VC dẫn chúng tôi bọc phía sau trụ sở quận Nam Hòa (lúc đó chưa bị chiếm), ra đến bờ sông Tả Trạch (thượng nguồn sông Hương). Chúng tôi lầm lũi bước đi trong bóng tối, giữa trời mờ sương và giá lạnh, vừa buồn bã vừa hoang mang, tự hỏi chẳng biết số phận mình rồi ra thế nào, tại sao VC lại tấn công vào đúng ngày Xuân, giữa kỳ hưu chiến!?! Tới bờ sông, VC cho chặt lồ ô (nứa) làm bè để tất cả đoàn người vượt qua phía bên kia mà sau này tôi mới biết là khu vực lăng Gia Long, thuộc vùng núi Tranh hay còn gọi là vùng núi Đình Môn Kim Ngọc. Lúc ấy vào khoảng 9g tối. Từ đó, chúng tôi bắt đầu đi sâu vào rừng, lúc lên đồi, lúc xuống lũng, lúc lội qua khe, lần theo con đường mòn mà thỉnh thoảng lại được soi chiếu bằng những cây đèn pin hay vài ngọn đuốc của 30 tên bộ đội. Tôi thoáng thấy tre nứa và cây cổ thụ dày đặc. Trời mưa lâm râm. Đến khoảng 11g rưỡi đêm, chúng tôi được cho dừng lại để tạm nghỉ ăn uống. Tôi đoán chừng đã đi được hơn chục cây số. Mỗi người được phát một vắt cơm muối mè, đựng trên lá ráy (môn rừng). Hai cánh tay vẫn bị trói. Ít người ăn nổi. Riêng tôi làm hai vắt. Ăn xong thì được cho ngủ. Chúng tôi ngồi gục đầu dưới cơn mưa, cố gắng chợp mắt để lấy lại sức. Bỗng nhiên như có linh tính, tôi chợt choàng dậy và thấy rung động toàn thân hết sức dữ dội. Máu tôi sôi sùng sục trong đầu. Có chuyện chẳng lành rồi đây! Quả thế, tôi thoáng nghe hai tên VC gần kề nói nhỏ với nhau: “Trong vòng 15–20 phút nữa sẽ thủ tiêu hết bọn này!” Tôi nghe mà bủn rủn cả người! Nghĩ mình đang là học sinh vô tội, lại còn trẻ trung, thế mà 15 phút nữa sẽ bị giết chết, tôi như muốn điên lên. Dù thế tôi vẫn cầu nguyện: “Lạy Chúa, từ lâu Chúa dạy con phải hiền lành thật thà, không được làm hại ai, vậy mà giờ đây lại có người muốn giết con và các bạn của con nữa. Xin Chúa ban cho con mưu trí, can đảm và sức mạnh để tự giải thoát mình…”. Tôi ghé miệng vào tai thằng bạn bị trói ngay trước mặt: “Tụi mình rán mở dây mà trốn đi! Mười lăm phút nữa là bọn hắn bắn chết hết đó!”. Chúng tôi quặt ra tay sau, âm thầm lần múi dây trói. Nhờ trời vừa mưa vừa tối, dây điện thoại lại trơn nên chỉ ít phút sau là nút buộc lỏng, vung mạnh cánh tay là sẽ bung ra. Chúng tôi cũng mở múi buộc dây thép gai đang nối mình với những người khác. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn giữ vị thế bị trói thúc ké, để bọn VC khỏi nghi ngờ. Tôi dặn thằng bạn tiếp: “Hễ tao vỗ nhẹ sau lưng là tụi mình chạy nghe!” Đánh thức chúng tôi dậy xong, một tên lên tiếng nói lớn cho cả đoàn: - Chúng ta sắp đến trại học tập rồi. Vậy trong anh em ai có một là vàng, hai là tiền, ba là đồng hồ, bốn là bật lửa thì nộp lại để Cách mạng giữ cho, học xong 3 ngày sẽ trả. Kẻo vào trại, ăn cắp lẫn nhau rồi lại đổ lỗi cho Cách mạng, nói xấu cán bộ! Thế là mọi người riu ríu và khổ sở móc ra những thứ quý giá còn giữ trong người. Ai chậm chạp hoặc ngần ngừ thì mấy tên bộ đội tới “giúp” cho. Bọn chúng lột sạch và cho tất cả vào mấy cái ba lô vải. Lúc đó tôi mới để ý thấy tay bộ đội áp giải chùm của tôi đang mang trên hai vai và cột quanh lưng ít nhất cả chục cái radio lớn nhỏ mà chắc hắn đã cướp được của dân dưới thành phố. Với khẩu AK trên tay lại thêm từng ấy máy móc trên người, hắn bước đi lặc lè, chậm chạp, khá cách quãng mấy tên khác. Chúng tôi lại bắt đầu đi xuống dốc. Tôi nghe có tiếng nước róc rách gần kề. Lại một khe nữa! Được vài bước, tôi vỗ nhẹ vào lưng thằng bạn. Cả hai chúng tôi vung tay, dây tuột, và nhanh nhẹn phóng ra khỏi hàng. Lấy hết sức bình sinh, tôi đá mạnh vào gót rồi vào dưới cằm tên bộ đội áp giải (tên mang cả chùm radio ấy!). Hắn ngã nhào. Hai chúng tôi lao vào rừng lồ ô. Bọn VC tri hô lên: “Bắt! Bắt! Có mấy thằng trốn” rồi nổ súng đuổi theo chúng tôi. Chạy khoảng mấy chục mét, thoáng thấy có một lèn đá -vì trời không đến nỗi tối đen như mực- tôi kéo thằng bạn lòn vào trong mất dạng. Tôi dặn hắn: “VC nó kêu, nó dụ, tuyệt đối không bao giờ ra nghe! Ra là chết!” Một lúc sau, tôi nghe có tiếng nói trong bóng đêm: “Bọn chúng chạy mất rồi, nhưng rừng sâu thế này khó mà thoát chết nổi! Thôi đi tiếp!!!”. Khi nghe tiếng đoàn người đi khá xa, chúng tôi mới bò ra khỏi lèn, đi ngược lên theo hướng đối nghịch. Chừng 15-20 phút sau, tôi bỗng nghe từ phía dưới vọng lên tiếng súng AK nổ vang rền và lựu đạn nổ tới tấp, phải mấy chục băng và mấy chục quả. Một góc rừng rực sáng! Chen vào đó là tiếng khóc la khủng khiếp –chẳng hiểu sao vọng tới tai chúng tôi rõ ràng- khiến tôi dựng tóc gáy, nổi da gà và chẳng bao giờ quên được. Hai chúng tôi đồng nấc lên: “Rứa là chết cả rồi! Rứa là chết cả rồi! Trời ơi!!!” Lúc đó khoảng 12 đến 12g30 khuya đêm mồng 7 rạng ngày mồng 8 Tết. Tôi bàng hoàng bủn rủn. Sao lại như thế? Các bạn tôi dưới ấy đều là những người hiền lành, chưa lúc nào cầm súng, chưa một ngày ra trận, chẳng hề làm hại ai, họ có tội tình gì? Bọn chúng có còn là người Việt Nam nữa không? Có còn là người nữa không? Sau này tôi mới biết đấy là vụ thảm sát khủng khiếp nhất trong cuộc chiến Quốc-Cộng. Địa danh Khe Đá Mài –mà lúc ấy tôi chưa rõ- in hằn vào lịch sử nhân loại và cứa vào da thịt dân tộc như một lưỡi dao sắc không bao giờ cùn và một thỏi sắt nung đỏ chẳng bao giờ nguội. Chúng tôi tiếp tục chạy, chạy mãi, bất chấp lau lách, gai góc, bụi bờ, vừa chạy vừa thầm cảm tạ Chúa đã cho mình thoát chết trong gang tấc nhưng cũng thầm cầu nguyện cho những người bạn xấu số vừa mới bị hành quyết quá oan ức, đau đớn, thê thảm. Sáng ra thì chúng tôi gặp lại con sông. Biết rằng bơi qua ngay có thể gặp bọn VC rình chờ bắt lại, chúng tôi men theo sông, ngược lên thượng nguồn cả mấy cây số, đến vùng Lương Miêu thượng. Tới chỗ vắng, tôi hỏi thằng bạn: - Mày biết bơi không? - Không! - Tao thì biết. Thôi thì hai đứa mình kiếm hai cây chuối. Mày ôm một cây xuống nước trước, tao ôm một cây bơi sau, đẩy mầy qua sông. Rán ôm thật chặt, thả tay là chìm, là chết đó. Trời này lạnh tao không lặn xuống cứu mày được mô! Đúng là hôm đó trời mù sương và lạnh buốt. Thời tiết ấy kéo dài cả tháng Tết tại Huế. Có vẻ như Ông Trời bày tỏ niềm sầu khổ xót thương bao nạn nhân vô tội ở đất Thần Kinh này. Vừa bơi tôi vừa miên man nghĩ tới các bạn tôi. Máu của họ có xuôi theo triền dốc, hòa vào giòng nước sông Tả trạch này chăng? Oan hồn họ giờ đây lảng vảng nơi nào? Có ai còn sống không nhỉ? Chúng tôi cập gần bến đò Lương Miêu. Từ đây, xuôi dòng sẽ về trụ sở quận Nam Hòa, hy vọng gặp binh lính quốc gia, nhưng cũng có nguy cơ gặp bọn VC chặn đường bắt lại. Thành thử chúng tôi nhắm hướng bắc, tìm đường về Phú Bài. Thằng bạn tôi, do suốt đêm bị gai góc trầy xước, đề nghị đi trên đường quang cho thoải mái. Tôi gạt ngay: - Ban đêm thì được, chớ ban ngày thì nguy lắm. Chịu khó lần theo đường mòn! Chúng tôi thấy máu và bông băng rơi vãi nhiều nơi, chứng tỏ có trận đánh gần đâu đó. Đang đi, tôi đột nhiên hỏi thằng bạn: - Chừ (=bây giờ) gặp dân thì mày trả lời ra răng (=thế nào), nói tao nghe. - Nhờ anh chứ tôi thì chịu! Lúc khoảng 9g, chúng tôi gặp 3 thằng bé chăn trâu. Tôi lên tiếng nói: - Hai anh là học sinh ở đường Trần Hưng Đạo dưới phố (con đường chính của khu buôn bán, không nói là Phủ Cam). Cách mạng (không gọi là Việt cộng) số về đánh dưới, số còn trên ni. Hai anh vừa mang gạo lên chiến khu hôm qua cho họ. Nay họ cho hai anh về, nhưng ướt cả áo quần lại đói nữa. Mấy em biết Cách mạng có ở gần đây không, chỉ cho hai anh, để hai anh kiếm chút cơm ăn, kẻo đói lạnh quá! - Hai anh qua khỏi đường này thì sẽ thấy mấy ông Cách mạng đang hạ trâu ăn mừng! Thế là chúng tôi hoảng hốt tuôn vào rừng lại. Chạy và chạy, chạy tốc lực, chạy như điên, không dừng lại để nghỉ. Một đỗi xa, chúng tôi mới hướng ra lại đồng bằng. Bỗng một đồn lính xuất hiện đằng xa, đến gần thấy bên trong lố nhố mũ sắt. Phe ta rồi! Lần này thì vô đây chứ không đi mô nữa cả. Nhất định vô! Lúc đó khoảng 10 giờ trưa. Đây là đồn biên phòng của một đơn vị quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Chúng tôi nghe từ trong đồn có tiếng dõng dạc vang vọng: - Hai thằng VC muốn về hồi chánh hả? Vào đi! Nhớ để tay lên đầu. Thả tay xuống là bắn đó! Chúng tôi nhất nhất tuân theo. Vào được bên trong, hoàn hồn, chúng tôi mới nói: - Hai đứa em là học sinh ở dưới Phủ Cam, Phước Quả, bị VC bắt lên rừng từ tối hôm qua với mấy trăm người khác. Nghe tụi nó định giết hết, hai đứa em đã liều mở dây trói, đánh thằng VC rồi bỏ chạy. Còn mấy người kia chắc là chết hết cả rồi! Giờ tụi em chỉ có một nguyện vọng : xin đồn phát súng cho bọn em đánh giặc với, chớ không thể đi ra khỏi đồn nữa. Viên sĩ quan chỉ huy cất tiếng: - Tổ quốc đang lâm nguy! Đứa con nào trung, đứa con nào hiếu lúc này là biết liền. Thôi, mấy em thay áo quần, xức thuốc xức men, ăn uống thoải mái rồi ở lại với mấy anh. Tội nghiệp!!! Họ hỏi chúng tôi về chỗ xảy ra cuộc hành hình nhưng chúng tôi hoàn toàn không thể trả lời được. Giữa rừng rậm lại đêm khuya, biết đâu mà lần. Gần nửa tháng sau tôi mới gặp lại gia đình họ hàng, bằng hữu thuộc giáo xứ Phủ Cam đang chạy về lánh nạn tại Phú Lương và Phú Bài. Hai chúng tôi quyết định bỏ học để đăng lính. Phải cầm súng bảo vệ tổ quốc thôi. Phải báo thù cho anh em bạn bè bị VC giết quá ư dã man, tàn ác, vô nhân đạo. Tôi nhập bộ binh. Thằng bạn tôi đi nhảy dù. Nhưng vài năm sau, tôi nghe tin nó chết trận! Tội nghiệp thật, nhưng đó là cái chết ý nghĩa! Đến gần tháng mười năm 1969, nhờ bắt được và khai thác mấy tù binh VC, chính phủ VNCH mới biết địa điểm tội ác chính là Khe Đá Mài, nằm trong rừng Đình Môn Kim Ngọc thuộc quận Nam Hòa (nay là xã Dương Hòa, quận Hương Thủy). Nơi đây không thể vào được bằng xe vì đường đi không có hoặc không thể đi lọt, mà chỉ vào được bằng lội bộ. Cây cối chỗ này rất cao, lá dày và mọc theo kiểu hai tầng, tầng thấp gồm những bụi tre và cây nhỏ, tầng cao gồm những cây cổ thụ, với những nhánh lớn xoè ra như lọng dù che khuất đi những gì bên dưới. Bên dưới hai tầng lá này, ánh sánh mặt trời không chiếu sáng nổi. Đúng là nơi có thể giết người mà không cần phải chôn cất. Công binh đã phải bỏ hai ngày, dùng mìn phá ngã các cây cổ thụ để tạo ra một khoảng trống lớn đủ cho máy bay trực thăng đáp xuống, và tiểu đoàn 101 Nhảy Dù Quân lực VNCH đã phụ trách việc bốc các di hài nạn nhân. Các binh sĩ đã tìm thấy cuối một khe nước chảy trong veo (về sau mang thêm tên Suối Máu, Phủ Cam Tử lộ), cả một núi hài cốt, nào sọ, nào xương sườn, nào xương tay xương chân trắng hếu, nằm rời rạc, nhưng cũng có những bộ còn khá nguyên. Xen vào đó là dây điện thoại và dây thép gai vốn đã trói chúng tôi thành chùm. Rồi áo quần (vải có, da có, len có) nguyên chiếc hay từng mảnh, lỗ chỗ vết thủng. Rồi tràng chuỗi, tượng ảnh, chứng minh thư, ống hít mũi, lọ dầu nóng… vương vãi trên bờ, giữa cỏ, dưới nước. Nhờ những di vật này mà một số nạn nhân sẽ được nhận diện. Khi tất cả hài cốt, di vật được chở về trường tiểu học Nam Hòa (nay gọi là Thủy Bằng) bên hữu ngạn sông Hương, đem phân loại, thân nhân đã ùa đến và không ai cầm nổi nước mắt. Tất cả òa khóc, nghẹn ngào. Có người cầu nguyện, có người nguyền rủa, có người lăn ra ngất xỉu khi khám phá vật dụng của người thân. Cái chủ nghĩa nào, cái chế độ nào, cái chính đảng nào đã chủ trương dã man như thế? đã tạo ra những con người giết đồng bào ruột thịt cách tàn nhẫn như thế? Cuối cùng, đa phần các hài cốt (hơn 400 bộ) được quy tập một chỗ, mang tên nghĩa trang Ba Tầng, nằm phía Nam thành phố Huế, khá cận kề khu vực Từ Đàm (đất của Phật giáo) và Phủ Cam (đất của Công giáo). Nghĩa trang xây thành hình bán nguyệt. Hai bên, phía trước, có hai bàn thờ che mái, cho tín đồ Phật giáo và Công giáo đến cầu nguyện. Ở giữa, phía sau, một trụ đá dựng đứng với giòng chữ Hán làm bia tưởng niệm. Từ đó, tại giáo xứ Phủ Cam của tôi, hàng năm, ngày mồng 10 Tết được coi là ngày cầu nguyện tưởng nhớ các nạn nhân Mậu Thân. Chúng tôi có thể tha thứ cho người Cộng sản nhưng chúng tôi không bao giờ quên được tội ác của họ, y như một câu ngạn ngữ tiếng Anh: “Forgive yes! Forget no!” Tiếc thay, sau khi vừa chiếm được miền Nam, Cộng sản đã dùng mìn phá ngay trụ bia và hai bàn thờ. Lại thêm một phát súng vào hương hồn các nạn nhân mà nỗi oan vẫn chưa được giải. Đến bao giờ họ mới được siêu thoát đây? Cũng phải nói thêm một điều đáng tiếc nữa là trong Đại hội thường niên từ 8 đến 12-10-2007 năm nay tại Hà Nội, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã hoàn toàn im lặng trước đề nghị Giáo hội Công giáo VN hãy tưởng niệm 40 năm biến cố này, theo như Thỉnh nguyện thư mà cha Giải, cha Lợi cùng nhiều linh mục và giáo dân khác đã viết hôm 29-09-2007. Kể lại cho hai cha Nguyễn Hữu Giải và Phan Văn Lợi trong tháng kính các đẳng linh hồn, 11-2007 Tú Gàn (Lữ Giang) Trong bài trước chúng tôi đã đưa một số tài liệu chứng minh Hà Nội đã quyết định chiếm Huế và giữ lâu dài, và diễn biến của các cuộc thảm sát theo chỉ thị của Hà Nội. Trong bài này chúng tôi xin ghi lại một số chuyện bi thảm đã xẩy ra trong Tết Mậu Thân và sau Tết Mậu Thân ở Huế do một số nhân chứng kể lại. Có lẽ cuốn sách viết đầy đủ hơn cả về vụ thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế là cuốn “The Vietcong Massacre at Hue” (Cuộc thảm sát của Việt Cộng ở Huế) xuất bản năm 1976 của Bác sĩ Elje Vannema, người có mặt ở Huế khi biến cố xẩy ra. Mới đây, hai Linh mục Phan Văn Lợi và Nguyễn Hữu Giải có đưa ra lời khai của một nhân chứng giấu tên kể lại vụ thảm sát ở Khe Đá Mài. Đọc câu chuyện này chúng tôi thấy giống hệt câu chuyện do một người có bí danh là Lương đã kể và được Bác Sĩ Elje Vannema ghi lại trong cuốn “The Vietcong Massacre at Hue”, chỉ thêm bớt một số chi tiết. Chúng tôi tin câu chuyện do Bác Sĩ Elje Vannema và Linh mục Phan Văn Lợi ghi lại cùng do một một người kể. Đây là một câu chuyện rất bi thảm. Lời tường thuật của các nhân chứng khác, Việt Nam cũng như ngoại quốc, cũng sẽ giúp chúng ta thấy rõ hơn sự dã man của các cuộc thàm sát. Trong một bài tường thuật dưới đầu đề “Mậu Thân: Nỗi Đau Không Dứt Của Huế”, cụ Lê Hàn Sinh, người chứng kiến các cuộc thảm sát ở Gia Hội, Huế, đã cho chúng ta thấy các cuộc thảm sát đó đã được tiến hành như thế nào. Cụ viết: “Với người dân Huế, khi nhắc đến hai chữ Mậu Thân, gần như nó không còn gắn liền theo thứ tự của mười hai con giáp, mà là một tiếng gọi đặc biệt, tượng trưng cho một cuộc tàn sát man rợ. Thủ tiêu, ám sát, chôn sống, giết người bằng mã tấu, bằng bọng cuốc phang vào sau đầu, trói bằng dây thép gai. Cụ thể là ở khu phố 4 Gia Hội (sau khi chiếm Huế Cộng Sản chia thành phố ra làm 4 khu) với tên thợ nề vô học tên Bé được giữ chức chủ tịch khu phố. Mọi sinh sát nằm trong tay y. Ước lượng nạn nhân của bọn này lên tới hàng trăm. Vì tư thù cá nhân, chúng giết cả những thường dân vô tội. “Cái chết của bà Trâm ở đường Mạc Đĩnh Chi (đường Ngự Viên) là một thí dụ. Bà bị thị Gái bắn bằng súng AK ngay tại nhà. Gái nguyên là Việt Cộng nằm vùng chuyên đi giúp việc quanh các nhà ở phường Phú Cát, Quận 2. Tuy là đi giúp việc nhưng lúc nào áo quần cũng bảnh bao, tóc búi kiểu Lào. Gái vì dây dưa với chồng bà Trâm nên bị bà này mắng chửi thậm tệ và hình như cũng có đánh đập gì đó nên giờ Gái trả thù món nợ tình ngày trước. “Cũng cần nói thêm về tên Bé thợ nề. Không ai biết xuất xứ của hắn. Y hành nghề một cách độc lập, rất lương tâm; làm từ 7 giờ sáng tới 6 giờ chiều, không nghỉ trưa, ăn uống thế nào cũng được, tiền công không đòi cao hơn kẻ khác. Do vậy, người này làm xong lại giới thiệu cho bạn bè. Cứ thế mà Bé âm thầm điều tra nắm rõ ai làm gì ở đâu, cơ quan nào... để báo cáo cho tổ chức. Nhờ thế, khi Việt Cộng vào là chúng đã có một danh sách khá đủ thành phần mà chúng cho là quan trọng để thanh toán ngay sáng mùng một Tết, không cần phải gọi ra trình diện tại trường Gia Hội. “Người đi bắt và bắn chết không ai khác hơn tên Linh (Diệu Linh), người Quảng Ngãi làm nghề thầy bói, khoác áo Việt Nam Quốc Dân Đảng Thừa Thiên. Thời gian bầu cử tổng thống, lúc ông Vũ Hồng Khanh về Huế vận động, chính y là người ngồi cùng xe bên cạnh ông Khanh. Nghe đâu y cũng là cộng tác viên cho cảnh sát đặc biệt Thừa Thiên. Sáng mùng một, hắn bận complet màu đà (bộ hắn vẫn thường mặc) tới nhà tìm tôi nhưng không gặp. “Cho tới nay tôi vẫn không hiểu tại sao mà ông Rớt (có bà vợ bán bún bò ngon nhất Huế) ở trên đường Nguyễn Du lại bị bọn Linh bắn chết. (Người chung quanh nghi ông làm cộng tác viên cho cảnh sát và nghe đâu ông xin được chết gần gia đình nên chúng bắn ông tại nhà). “Mãi cho đến ngày 20 tháng giêng bọn chúng mới bắt đầu làm mạnh, nghĩa là ra lệnh trình diện lần hai rồi giữ lại thủ tiêu luôn. “Trên đường Gia Hội (tức đường Chi Lăng) bọn chúng bắt giết anh Lê Văn Cư, nguyên là Phó giám đốc cảnh sát quốc gia vùng một và anh Phú (em vợ anh Cư), Quận Trưởng Quận 2. Cả hai bị bắn cùng một lần. Cũng trên đường này anh Dự hình như đang làm trưởng ty cảnh sát Phan Rang về thăm nhà cũng bị bắt giết. Võ Nguyên Pha, nhà ở ngay sau lưng chùa Diệu Đế, nghe đâu đã trốn sang hữu ngạn rồi lại sốt ruột vì vợ con trở về để lãnh bản án tử hình. “Câu chuyện cái chết của anh Từ Tôn Kháng, Thiếu tá Tỉnh đoàn trưởng Xây Dựng Nông Thôn Thừa Thiên, không biết thực hư đến mức nào. Nghe đâu CS bao vây nhà anh, tra khảo bắt chị Kháng chỉ chỗ ẩn của chồng nếu không thì phải chết. Anh Kháng nằm núp trên máng nước, đành phải xuống (có người bảo chị đã chỉ chỗ ẩn của chồng. Hoàn cảnh này dù có xảy ra thì tôi nghĩ cũng không nên buộc tội chị). “Ở đường Võ Tánh có anh Vĩnh sĩ quan cảnh sát bị bắn chết ngay nhà, mấy năm sau tôi vẫn thấy ngôi mộ đất vẫn còn nằm ngay trước cổng nhà. Nhà anh Vĩnh nằm ngay cạnh chùa Áo Vàng, nơi Cộng sản làm trụ sở trình diện cho các công viên chức và sĩ quan quân đội Cộng hòa, nên không trốn vào đâu được. Gần đó có anh Hồ Đắc Cam, làm công nhân nhà đèn Huế, bị bắn vì có tên trong Đại Việt Quốc Dân Đảng. Điều đáng buồn là anh Cam bị anh Kim Phát, cũng đảng viên Đại Việt, khai ra. Cộng Sản biết Kim Phát là người Đại Việt nên bắt anh phải khai những người trong tổ chức. Anh đến nhà tôi đầu tiên nhưng tôi không có ở nhà. Sau đó Kim Phát cũng chịu chung số phận như bạn bè. “Đường Bạch Đằng có anh Hiền, một lão tướng đá bóng trong hội S.E.P.H của Huế thời thập niên 40. Anh chẳng liên hệ gì tới chính quyền thế mà bị giết. Người ta đoán anh bị bắn vì trước đó đã tát tai một thằng bé gần nhà. Tên này sau khi Cộng Sản vào tham gia thanh niên khu phố nên có dịp trả thù. “Không ít người chết vì không hiểu Cộng sản, tưởng cộng tác với chúng là được tha. Điển hình là ông Soạn làm Chủ tịch phường Phú Cát, Quận 2 và hai anh em song sanh tên Lan (con ông Sâm cho mượn đồ đưa đám tang trên đường Chi Lăng); một trong hai người này làm cảnh sát. “Theo nằm vùng cộng sản nhận định, nhóm tiểu thương chợ Đông Ba là lực lượng yểm trợ mạnh nhất trong cuộc đấu tranh Phật giáo ở Huế vào các năm 1963 và 1966. Vì thế để lấy lòng nhóm này, chúng lôi anh Phú ra giết. Anh Phú có phần hùn đấu thuế chợ Đông Ba nên vẫn hay ra thu thuế bạn hàng. Tưởng thế, nhưng cái chết của Phú chẳng gây phản ứng nào nơi nhóm tiểu thương...” Ở các khu khác, câu chuyện thảm sát cũng đã xẩy ra gióng hệt như thế. Trong cuốn “The Vietcong Massacre at Hue” (Cuộc thảm sát của Việt Cộng ở Huế) Bác sĩ Elje Vannema đã ghi lại câu chuyện các nạn nhân đã bị dẫn đi thảm sát trên đường từ chùa Từ Đàm đến Khe Đá Mài do một nhân chứng chạy thoát được kể lại. Đọc câu chuyện này, không ai không cảm thấy đau lòng và tự hỏi tại sao Cộng Sản đã hành động dã man như vậy. Vì bài báo có giới hạn, chúng tôi chỉ ghi lại những đoạn quan trọng: “Bên trong nhà thờ chính tòa Phủ Cam, đàn ông và thiếu niên được lệnh sắp thành hàng rồi bước ra ngoài với cán bộ hộ tống. Từ nhà thờ họ băng qua các đường Phủ Cam lên chùa Từ Đàm. Bị giữ ở đấy một ngày rồi lại tiếp tục đi về phía Nam, hướng Nam Giao. Đàn bà trẻ con nhao lên nhưng được trấn an rằng cha, chồng, con họ phải ra phục dịch bên ngoài thành. Một số bà đi theo xa xa, nhưng rồi bị chặn lại. Trong số người ra đi có anh lính trẻ Cộng hòa và Lương (nhân vật kể lại câu chuyện này). “Ngày kế tiếp, cuộc hành trình kéo dài suốt chiều tới tối, thoạt tiên rời Từ Đàm đi về hướng Nam rồi bẻ hướng Đông Nam. Sáu cây số đường đi mà Lương nghĩ là một cuộc trường chinh. Không ai nói với ai. Chỉ một lần yên lặng bị cắt đứt bởi một câu hỏi của ai đó: "Ta đi mô đây?" Có tiếng phụ họa: "Lên núi hay tới chỗ chết?" “Bộ đội Mặt Trận nói là họ được đưa đi học tập. Không ai biết mình đi đâu nhưng tự thâm tâm nhiều người tin rằng có lẽ đời mình sắp kết thúc. Ông già đi bên cạnh Lương bổng ngã quỵ. Cho tới lúc đó anh không biết có ông già đi bên mình. "Bắt gió cho ông ta", tiếng ai đó vang lên... Lương ôm lấy ông cho tới khi người canh gác tới. Mắt ông già hé mở trong chiều xẩm tối. Tiếng nói lạc giọng thều thào: "Xin để tui ở lại đây. Tui không đi xa hơn được nữa!" Ông van xin, bàn tay xương xẩu níu lấy cánh tay người gác. Có lệnh: "Đứng dậy!" Ông già gượng dậy, cố thẳng người thêm được vài bước rồi lại ngã. Người gác đoàn lúc này hết kiên nhẫn, đạp ông ra lề đường rồi bỏ đi. Vài phút sau, một phát súng xé không khí cùng với một tiếng kêu yếu ớt vang lên... Xác ông được dập vào một hố gần đó, hai tù nhân được lệnh lấp đất. Một tháng sau xác ông được đồng bào khám phá. “Vô vọng, đoàn người bước đi càng lúc càng chậm, câm lặng, uất nén. Người gác cứ hối thúc. Rồi có tiếng hô: "Dừng lại!" Lương thấy đám người phía trước được lệnh bỏ túi xách xuống và ngồi xuống. Họ đã tới đích! Đám canh gác phía sau miệng là hét thúc những những người còn lại đi nhanh hơn, chân họ đá vào sườn những kẻ đi chậm... Sau này, Lương nhớ lại mình đã đi qua thôn Tứ Tây. “Ít lâu sau, chừng 18 người đã bị kêu lên phía trước. Hợ bị tố cáo có tội ác với nhân dân. Các nạn nhân bị lôi đi ngay. Chả ai biết gì về số phận của họ vì chẳng bao giờ gặp lại họ nữa. Những người khác được lệnh đi về phía lăng Đồng Khánh. Sau một giờ đi, một nhóm nạn nhân được lệnh dừng lại và được chia thành hai nhóm nhỏ. Họ được lệnh đào hầm rãnh. Họ đào đã hai, ba tiếng, ai nấy im lặng gặm nhấm suy nghĩ của mình. Người gác nói: “Hố đào là để trú ẩn và làm mương dẫn nước.” Có lẽ họ đào mồ cho lớp người tới sau, chứ chính họ thì chỉ vài mạng phải nằm ở đây mà thôi! “Như một ác mộng kinh hoàng thăm viếng địa cầu, nhưng ác mộng không do quỷ ma mà do chính con người tạo ra. Thoạt tiên, Lương nghĩ chắc mình sẽ không qua khỏi. Dù vậy, trong một hoàn cảnh có thể nói là tuyệt vọng, anh và người lính trẻ vẫn cố tìm cách thoát thân. Hai người thất thần nhìn nhau, mắt mở lớn. Chung quanh Lương, đám người đói, lạnh, có kẻ bị bệnh... Không ai dám quay về nhìn thành phố thân yêu đổ nát đang chìm trong bóng tối sau lưng họ. Một tiếng nổ kèm với tiếng la vang lên! Thần chết vây bủa không gian. Tại sao mình ở đây? Đa số họ là Công giáo, chả ai quan tâm tới chính trị, một số do hoàn cảnh lịch sử phải vào lính như bao nhiều thanh niên Việt Nam và các thanh niên khác trên khắp thế giới đến tuổi như họ. “Sau khi đào xong một hố rãnh, đám đông được lệnh đi tới một đụn cát để nghỉ đêm. Vài người bị dẫn đi. Một số la thét lên vì sợ. Lương thấy người bạn ở cùng phố mà anh quen từ mấy năm nay bật khóc nức nở. Một người hoảng lên chạy quẩn để rồi bị bắt giữ lại. Lương hoảng hốt. Chân anh như điện giật. Anh nghĩ phải liều ngay. Chung quanh cán bộ gác đầy dẫy, nhưng nếu lao vào được bóng tối thì có cơ thoát. “Ác mộng tiếp tục. Người la. Kẻ bị đánh. Người rú lên cười kinh hoàng. Lương ở trong một đám khá đông đang bước đi. Đám người khập khễnh lê lết xuyên qua một đám cây rậm đi xuống đụn cát phía Nam. Khi họ xuống đồi, Lương lách người lao vào bóng tối. Một viên đạn rít bên tai. Anh phóng qua đám rừng, tai vẫn nghe tiếng đạn và tiếng la hét. Chỉ vài phút anh tới một con suối và chạy theo dòng nước hướng về phía Đông. Anh đi suốt đêm, thỉnh thoảng bị khuấy động bởi trái sáng thả từ máy bay và tiếng đại bác. Sáng ra, anh thấy mình băng qua một con đường sắt. Từ đó anh tiếp tục đi tới quốc lộ, lòng mong sớm thoát được vùng tử địa. Xế chiều anh tới con đường phía Nam cách Phú Bài mấy dặm. Mãi tới ngày 16-2, Lương mới về lại được thành và kể cho chị Kim những gì đã xảy ra... “Người ta đoán rằng đám nạn nhân từ Phú Cam tiếp tục đi nhiều ngày nữa về hướng Nam, xuyên qua một vùng cây cối khó đi. Mải tới trung tuần tháng 9 năm 1969 người ta mới tìm thấy xác họ trong một con suối nhỏ, khe Đá Mài, con suối chảy ra khe Đại đổ vào sông Hương... Trong số 428 bộ cốt tìm được ở đó, rất ít được nhận diện. Vì không tìm thấy ở đâu khác, gia đình họ Nguyễn (thân nhân người lính trẻ) tin rằng con mình đã chấm dứt cuộc đời nơi khe suối này...” Trong số các nạn nhân bị thảm sát trong Tết Mậu thân, người ta thấy có cả những người ngoại quốc như bốn người Đức dạy ở Đại Học Y Khoa Huế: Ông bà Bác sĩ Hort Gunther Krainick, Bác sĩ Raimund Discher và Bác sĩ Alois Alterkoster. Họ bị bắt ngày 5-2-1968 và về sau người ta tìm thấy xác họ ở gần chùa Tường Vân. Bác Sĩ Elje Vannema đã kể lại như sau: “Các bác sĩ đều là người Công giáo và họ đã đến Việt Nam dưới thời ông Ngô Đình Diệm. Sau khi ông Diệm bị lật đổ, họ được khuyên nên rời khỏi Việt Nam, nhưng đã được mời ở lại ngay sau khi tình hình lắng dịu... Bác sĩ Discher là người tới sau cùng, và hai vợ chồng ông chẳng bao giờ nói tới chuyện chính trị. Ông vừa đưa vợ và con về Đức và mới trở lại Việt Nam trong tháng giêng 1968. Khi tới Hàng Không Việt Nam đặt vé đi ngày 24 tháng giêng, người ta khuyên ông chớ nên ra Huế, vì tình hình không ổn. Nhưng ông nói ông phải có mặt với sinh viên, mặc dù lúc đó còn đang là mùa nghỉ Tết. Hàng Không Việt Nam không bay. ông liền sang đi nhờ máy bay Mỹ ra Huế. “Ông và ba giáo sư người Đức khác đã bị bắt sau khi Cộng quân chiếm Huế. Họ được đưa về chùa Từ Đàm ở phía nam thành phố. Ngày hôm sau họ được chuyển tới chùa Tăng Quang Tự, rồi đưa qua một chùa nhỏ có tên là Tường Vân. Chùa này được bao bọc bởi vài căn chòi, nằm cách Tăng Quang Tự độ một dặm. Cha Châu, một linh mục công giáo làm việc với tôi hồi còn ở trường Pellerin, ngày mồng 6 tháng 2 được yêu cầu chuẩn bị "thức ăn Mỹ" cho các bác sĩ Đức. Ngày 7 tháng 2, một ký giả Đức theo chân các thành viên của Tổ Chức Cứu Trợ Công Giáo (ICC) cố vào tìm các bác sĩ tại căn nhà họ ở trước đây, nhưng bị lính Mỹ cản. Ngay cả vào để dọn đồ cũng không được phép. Tôi bước tới cách nhà độ 15 mét thì một anh lính Mỹ chĩa súng vào người và nói: "Ông kia... quay ra". Khi tôi bảo tôi có quyền vào nhận diện dấu vết những gì đã xây ra, anh lính này dí súng bảo tôi đi. Họ bận rộn khiêng vác bàn ghế, tranh ảnh và một tấm gương ra khỏi nhà. Mãi tới đầu tháng 4 thì một sinh viên y khoa tên Anh, được một vị sư có tên là Châu báo cho biết có một ngôi mộ trong miếng đất nằm giữa cây cối, cách chùa Tường Vân nửa dặm về phía nam. Anh và hai sinh viên nữa đã tới đó vào chập tối. Vì quá trễ nên ngày hôm sau họ quay trở lại, đào xác các thầy mình lên và chuyền về Sài gòn để hai bác sĩ người Pháp nhận diện. Về sau, bác sĩ Le Hir cho tôi hay có nhiều vết thương nơi đầu và thân mình, nhưng vết thương kết liễu là viên đạn xuyên qua đầu và ót. Tháng năm, Toà Đại Đứ Đức ở Sài Gòn chính thức thông báo rằng các công dân của họ đã bị hành quyết... “Sau này, Sư Châu kể rằng một trong các chú tiểu của ông thấy người ta đào hố và nghe thấy tiếng súng. Ngày hôm sau chú đi ra xem thấy những nấm đất mới. Vì quá sợ nên mãi mấy tuần sau mới dám hé môi. Riêng Bác Sĩ Erich Wulff, cũng đến dạy y khoa ở Đại học Huế năm 1961 như ba bác sĩ Đức khác. Nhưng ông đã tích cực ủng hộ phong trào đấu tranh của Phật Giáo, do đó sau cuộc nổi loạn của Phật Giáo ở Huế và Đà Nẵng năm 1966 bị thất bại, ông đã rời VN năm 1967, nhờ vậy ông thoát chết. Bác Sĩ Discher đến thay ông nên gặp nạn”. Tạp chí Time, số ra ngày 5-4-1968 có đăng bài “An efficient massacre” (Một cuộc tàn sát có hiệu quả) của ký giả Stewart Harris. Tạp chí Time đã giới thiệu Harris như là một ký giả người Anh chống lại chính sách của Hoa Kỳ tại Việt Nam, Nhưng sau khi đến Huế để điều tra cuộc thảm sát của Việt Cộng trong Tết Mậu Thân, ông đã nhận ra được sự thật và ghi lại như sau: “Vào buổi chiều nắng đẹp, tại một thung lũng xanh cỏ ở vùng Nam Hoà, cách phía nam Huế 10 dặm, tôi cùng chuẩn uý Ostara, một cố vấn quân sự của quân đội VNCH, đứng trên sườn đồi đầy những lỗ vừa mới đào. Dưới chân đồi là những tấm chiếu phủ trên bạt ni lông. Ostara lật chiếu lên, tôi thấy hai xác người, tay họ bị trói phía trên cùi chỏ, giật ngược về phía sau. Nạn nhân bị bắn từ phía sau đầu, đạn trổ ra đằng miệng. Khó mà nhận diện được nạn nhân. Ngày hôm trước, 27 người đàn bà trong làng đã vác cuốc chim đi đào xới kiếm xác chồng con họ ở một nơi cách làng 3 dặm, sau khi nghe nói có người nghe tiếng đào xới đất đá ở cạnh con đường mà Việt Cộng đã đi qua để đến Huế. Việt Cộng đã bắt đi 27 người, trong đó có vài người là viên chức trong làng và một số là thanh thiếu niên, để làm phu khuân vác, hay để xung vào bộ đội của chúng. “Bob Kelly, một cố vấn cao cấp của tỉnh Thừa Thiên cho biết, các nạn nhân chỉ đơn giản bị tòa án nhân dân kết án một cách vội vã rồi bị xử tử với tội danh "Kẻ thù của nhân dân". Họ là những viên chức xã ấp, thường là ở cấp thấp. Một số người khác bị giết vì họ không còn hữu ích cho Việt Cộng, hoặc không cộng tác với chúng. Vài cộng tác viên của ông Bob Kelly bị phanh thây một cách thảm khốc. Ông Bob Kelly cho rằng những người này bị chặt ra thành từng khúc sau khi họ đã bị giết. Nạn nhân bi trói và bị bắn từ phía sau đầu. Ông Kelly đã giúp đào xới tìm xác một nạn nhân. Ông Bob Kelly đã nói với người viết bài này rằng một người Việt Nam mà ông hằng kính trọng cho biết, một số nạn nhân đã bị chôn sống. “Trung Uý Gregory Sharp, một cố vấn Hoa Kỳ của tiểu đoàn 21 Biệt Động Quân cho tôi biết, hôm 14 tháng 3, binh sĩ của ông ta đã tình cờ khám phá ra 25 ngôi mộ mới trong một nghĩa trang ở cách Huế 5 dặm về hướng đông. Trong số những ngôi mộ đó, có đến 6, 7 nạn nhân bị chôn ngập đến cổ, đầu nhô lên khỏi mặt đất. Theo Trung Uý Sharp thì hình hài nạn nhân chẳng còn nguyên vẹn, vì đã bị kên kên và chó tranh nhau xâu xé. Trung Úy Sharp cho biết, một số nạn nhân bị bắn vào đầu, một số khác không bị bắn, mà bị chôn sống. Cũng theo viên trung úy này thì ở một vài nơi ông ta đã thấy những vệt kéo trên mặt cát, như thể nạn nhân cố bám vào mặt đất khi bị kéo lê. Ở khu Tả Ngạn, 3 sĩ quan Úc đã tìm thấy 7 thi hài trong 3 hố chôn. Những người này bị trói thúc ké và bị bắn từ phía sau đầu. Ngay sau khi đến Huế, tôi đã dùng xe jeep đi chung với 3 sĩ quan Việt Nam để xem xét một vài địa điểm đang khai quật tìm kiếm thi hài nạn nhân của vụ thảm sát. Đầu tiên chúng tôi đến trường Trung học Gia Hội ở Quận 2, phía đông Huế. Ở đó người ta đã tìm thấy 22 hố chôn mới. Mỗi hố có từ 3 đến 7 nạn nhân. Không khí kinh hoàng vẫn bao trùm khu vực này. Các sĩ quan cho tôi biết, các nạn nhân đều bị trói, bị bắn từ phía sau đầu, hoặc bị chôn sống như ở những nơi khác. “Điều gì đã xẩy ra đối với khoảng 40 ngàn dân Công Giáo ở Huế? Ba phần tư số giáo dân này sống ở vùng Phủ Cam, khu ngoại ô phía Nam thành phố Huế. Họ đã chống cự mãnh liệt khi Việt Cộng đến, một số bị giết chết. Bốn giáo sĩ VN bị bắt đem đi, ba giáo sĩ ngoại quốc bị giết. Hai giáo sĩ người Pháp được Việt Cộng cho phép trở lại Phủ Cam để giúp các bà sơ, nhưng họ đã bị giết trên đường về. Một giáo sĩ người Pháp bị hành quyết có lẽ vì ông ta là Tuyên úy của Quân Đội Hoa Kỳ”. Trong cuốn “Vietcong Stratregy of Terror” (Chiến lược khủng bố của Việt Cộng), Giáo Sư Douglas Pike đã mô tả cuộc tìm xác của các nạn nhân ở Khe Đá Mài như sau: “Binh đoàn 101 Không Vận HK thấy không thể dùng đường bộ đến khe Đá Mài. Đường không có lối ra và không đi qua được. Tầng lá cây dày đặc, ở VN người ta gọi đó là cái lọng đôi, nghĩa là có hai tầng lá, một ở gần mặt đất, gồm cây và bụi rậm, và một tầng lá cao, che phủ bên trên. Bên dưới chỉ có ánh sáng lờ mờ. Công Binh Quân đội Hoa Kỳ đã phải mất hai ngày để chọc thủng một cái lỗ xuyên qua cái lọng đôi bằng cách cho trực thăng bay lưng chừng bên trên rồi thòng chất nổ xuống qua khỏi các tầng lá cây và cho nổ để tạo lỗ trống cho những chiếc trực thăng hốt cốt có thể đáp xuống được. Rõ ràng đây là nơi xác chết có thể được giấu kín không cần chôn cất. “Trên một đoạn khe dài hơn một trăm mét là sọ người chết, các bộ xương và các mãnh xương người. Xác chết được để trên mặt đất (theo thuyết vật linh, linh hồn của những người không được chôn cất sẽ đi lang thang mãi mãi trên trái đất), và trong vòng 20 tháng, nước suối chảy đã làm cho xương sạch trơn và trắng bạch.” Trong bài “Mậu Thân 1968: Cải táng đồng bào bị thảm sát”, ông Võ Ngọc Tụng, Quận Trưởng Quận Phú Thứ ở Thừa Thiên, đã kể lại câu chuyện ông đi tìm các hố chôn tập thể và cải táng các nạn nhân như sau: “Khi biến cố Tết Mậu Thân xảy ra, tôi là một sĩ quan thuộc Phòng 3 Bộ Tham Mưu Sư Đoàn I bộ binh đóng tại Mang Cá, Thành Nội Huế, nơi duy nhất không bị Cộng Sản chiếm trong đêm đầu, tức đêm mồng 1 Tết. Sau đó, tôi được biệt phái qua Tiểu Khu Thừa Thiên đi làm Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng Phú Thứ - một trong ba quận có nhiều mồ chọn tập thể dân Huế. Đó là các quận Phú Vang, Phú Thứ và Nam Hoà tỉnh Thừa Thiên. “Vùng có nhiều hố chôn tập thể hơn cả là vùng cát gần các thôn Xuân Ô, Xuân Đợi, Ba Lăng, Quảng Xuyên, Lương Viện, Viễn Trình. Nạn nhân bị bắt được CS dẫn đi theo hai lộ trình chính: Một lên hướng Nam Hoà đi vào khe Đá Mài (nhiều trăm xác được tìm thấy tại đây). Hai qua ngã Chợ Cống hoặc Dạ Lê rồi đi về các vùng Đông Đổ, Ba Lăng, Lương Viện, Trường Hà, Mộc Tụ thuộc quận Phú Thứ. “Việc tìm kiếm các hố chôn tập thể có nhiều cách. Một trong những cách đó là dân theo hướng những tiếng rú hãi hùng trong đêm. Bởi khi bị dồn thành hàng dưới các hố rãnh, biết rằng mình sẽ bị hành hình nên các nạn nhân đã rú lên kinh hoàng. Dân các làng chung quanh tùy theo chiều gió đã nghe rất rõ những tiếng rú ấy trong đêm khuya. “Mỗi cuộc cải táng phải có sự phối hợp chu đáo giữa xã, quận và tỉnh. Trước hết phải thành lập các toán nhận dạng nạn nhân. Họ là những người chuyên môn và tình nguyện, thường là một nhóm 6 người gồm 3 người đặc trách nhận dạng. Khi lấy xác lên, họ tìm kiếm giấy tờ nếu có, kiểu và màu sắc áo quần, giới tính, tóc, răng hay những điểm nổi bật khác. Sau ba, bốn ngày hoặc ngắn hơn tùy theo số lượng xác tìm được vượt quá số từ 500-600, một lễ cải táng được tổ chức trang nghiêm để đưa lên nghĩa trang Ba Đồn, Ba Tầng gần Nam Giao. Rất nhiều xe GMC được trưng dụng, mỗi xe chở 10 "tiểu" có gắn biểu ngữ, cờ tang và có ban nhạc đi theo. “Lần tổ chức cải táng sau cùng ở Phú Thứ để dời lên nghĩa trang Ba Đồn và Ba Tầng, người ta đã tìm được 454 xác, trong đó có một hố với 4 xác chôn sống của 2 linh mục và 2 thầy đại chủng viện. Đó đó là xác linh mục Bửu Đồng và linh mục Đẳng, còn lại hai thầy tôi không nhớ tên. Vì có cảm tình riêng với linh mục Bửu Đồng, tôi đã dò theo dấu vết ngài từ họ Sư Lỗ qua các thôn ấp, gia đình ngài trú ngụ và cuối cùng dẫn ra chỗ chôn ngài. Trên người ngài còn đủ cả giấy tờ và hình ảnh với 1 lá thư do chính tay ngài viết gởi cho mẹ. Lần đào xác nầy có một số ký giả ngoại quốc đến Bộ Chỉ huy tại Quận Phú Thứ. Tôi có ý định mời họ đến tận nơi quan sát nhưng vì mỗi lần tổ chức, CS tăng gia hoạt động để phá hoại an ninh và việc cải táng nên các ký giả không thể đến nơi để thấy tận mắt được...” Ông Võ Văn Bằng, Trưởng ban Truy tìm và Cải táng Nạn nhân CS Tết MT, đã hồi tưởng: “Các hố cách khoảng nhau. Một hố vào khoảng 10 đến 20 người. Trong các hố, người thì đứng, người thì nằm, người thì ngồi, lộn xộn. Các thi hài khi đào lên, thịt xương đã rã ra. Trên thi hài còn thấy những dây lạt trói lại, cả dây điện thoại nữa, trói thành chùm với nhau. Có lẽ, họ bị xô vào hố thành từng chùm. Một số người đầu bị vỡ hoặc bị lủng. Lủng là do bắn, vỡ là do cuốc xẻng.” (RFA 31-1-2008). Như chúng tôi đã trình bày, Đảng CSVN muốn tạo sự kinh hoàng trong quần chúng để mọi người hoảng sợ và tuân phục, nên đã ra lệnh thực hiện những cuộc tàn sát dã man như thế. Đây là chính sách mà Lénin đã áp dụng tại Liên Sô trước đây. Trong quyển "The Unknown Lenin", ông Richard Pipes, Giáo sư Sử Học Nga thuộc Harvard University, ghi nhận rằng yếu tố lạnh người nhất là Lenin đã ra lệnh "tạo sự kinh hoàng" trong quần chúng trên toàn quốc. Hồi đầu tháng 9-1918, Lenin viết: "Cần thiết và khẩn cấp chuẩn bị cho sự kinh hoàng, một cách bí mật". Tháng 8-1919, Lênin chỉ thị cho bọn cầm quyền tỉnh Penza phải treo cổ ít nhất 100 người, một cách công khai. Lênin truyền lệnh: "Hãy thực hiện chuyện này bằng một phương cách mà người ta sẽ thấy, từ xa hàng trăm dặm, run sợ, biết đến, và gào thét. Họ bị treo cổ, và sẽ treo cổ đến chết bọn địa chủ hút máu". Đảng CSVN cũng bắt chước đường lối này khi nghĩ rằng có thể chiếm giữ Huế lâu dài. Người Cam-bốt có hai tác phẩm danh tiếng nói lên tội ác diệt chủng của Khmer Đỏ, đó là cuốn “Survival in the Killing Fields” (Sống còn trong Các Cánh Đồng Giết người) của Haing Ngor, Roger Warner, và cuốn “When broken glass floats – Growing up under the Khmer Rouge” (Khi mảnh chai nổi lên – Lớn lên dưới chế độ Khmer Đỏ) của Chanrithy Him. Cuốn “Survival in the Killing Fields” đã được đóng thành phim dưới cái tên "Killing Field". Hai tác phẩm này đã đánh động được lương tâm nhân loại, nên ngày nay các lãnh tụ Khmer Đỏ đang phải ra trước tòa án hình sự để bị trừng phạt về tội diệt chủng và tội ác chống nhân loại. Người Việt “quốc gia chống cộng” có trình độ văn hóa và cuộc sống cao hơn người Cam-bốt, nhưng ngoài những bài chửi Cộng Sản bằng dao to búa lớn, không có một tác phẩm nào nói về tội ác của CSVN trong Tết Mậu Thân có giá trị tư pháp hay sử liệu như hai tác phẩm nói trên, nên những kẻ phạm tội vẫn còn ung dung tại vị. Đó là một điều đáng buồn, rất đáng buồn! Saigon Nhỏ ngày 15-2-2008
III- NHẬN ĐỊNH TỔNG HỢP Từ Mậu Thân đến Mậu Dần 30 năm không quên tội ác của CSVN Trần Nam Ân Mừng Xuân Mậu Dần, không ai là không chạnh lòng nhớ tới mùa Xuân đầy máu và nước mắt, đầy khăn sô và xác người của 30 năm về trước. Ba mươi năm đã qua, nhưng người Việt Nam không thể quên được những gì đã xảy ra cho dân tộc, cho người dân xứ Huế và bao nhiêu tỉnh thành miền Nam trong dịp Tết Mậu Thân, 1968. Đã có một thời gian dài từ ngày đó đến nay để những gì bị bưng bít, che giấu được phơi bày trước ánh sáng, được viết vào lịch sử. Người ta không còn đặt những câu hỏi vu vơ như "Tại sao ?", "Ai bày ra cảnh tang thương, chết chóc ?"... Nhiều tài liệu đã được phổ biến công khai. Nhiều chứng nhân người nước ngoài cũng như cả hai phía Việt Nam đã kể lại những gì đã xảy ra trong "biến cố Tết Mậu Thân". Những tài liệu, chứng cứ nói lên sự thật về vụ tổng công kích Tết Mậu Thân với những cuộc tàn sát dã man nhắm vào dân lành tại miền Nam, đặc biệt là ở Huế, đều xác quyết thủ phạm chính là giới lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam. Họ đã chủ trương đưa quân đội tiến chiếm miền Nam để thống nhất đất nước bằng vũ lực nên mới xảy ra những cuộc tàn sát tang thương đến thế. Bài viết này không nhằm kể lại diễn tiến những biến cố xảy ra trong Tết Mậu Thân mà chỉ xin phân tích những tội ác của đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) qua những chính sách khát máu của người lãnh đạo. Những tội ác của cộng sản trong Tết Mậu Thân thì chất chồng, hàng nghìn, hàng vạn... Có thể phân loại thành những tội ác xúc phạm truyền thống dân tộc, tội ác phản bội cam kết, tội ác diệt chủng dã man, tội ác giết hại đồng đội... Tội ác xúc phạm truyền thống. Đối với truyền thống nghìn đời của dân tộc Việt Nam, Tết Nguyên Đán là những ngày quan trọng mang tính chất thiêng liêng nhất trong một năm. Tết là dịp để gia đình sum họp, sum họp giữa những người sống để cùng tưởng niệm những người đã quá cố. Theo phong tục của ta, những người lữ hành, những người đi buôn bán, làm lụng nơi xa, ai cũng cố gắng hết sức để trở về mái ấm gia đình trong ba ngày Tết. Tết xa nhà, Tết tha hương là một nỗi buồn, là nỗi bất hạnh của mọi người dân Việt Nam. Vì vậy, ngay trong thời chiến tranh, nhiều binh lính và sĩ quan cũng được nghỉ phép về quê ăn Tết. Đêm 30 Tết, còn gọi là Đêm Giao Thừa, Đêm Trừ Tịch, người Việt Nam trân trọng hương đèn thỉnh vọng các vị tiền nhân đã quá cố về ăn Tết với con cháu. Dù giàu, dù nghèo thì nhà nào cũng có mâm cơm thịnh soạn cúng các cụ. Rồi người ta sum vầy trước bàn thờ tổ tiên đếm từng bước thời gian trôi qua năm mới. Con cháu chúc Tết, mừng tuổi ông bà, cha mẹ; các cụ chúc lành con cháu... Quả là bức tranh tuyệt đẹp của nền phong hóa Việt Nam. Sau Giao Thừa, người Việt Nam có tục lệ xuất hành hoặc đi chùa hái lộc, cầu phúc cho cả năm... Tết là một dịp vui tưng bừng, nhộn nhịp và cũng là thời gian để người dân nghỉ ngơi sau những tháng ngày đồng áng, chợ búa... Người Việt Nam, trẻ cũng như già mặc quần áo mới, chưng hoa, chưng cảnh, đốt pháo mừng Xuân. Nhiều nơi hội Tết kéo dài cả tháng: "Tháng giêng ăn Tết ở nhà...". Người ta vui vẻ, lạc quan trong lúc thiên nhiên thay mùa. Không ai được nghĩ, được nói đến tang thương, chết chóc. Truyền thống hòa bình của dân tộc ta được thể hiện rõ nhất trong ba ngày Tết. Những vướng mắc, xích mích, thậm chí thù hận cũng được hóa giải trong dịp này. Thế nhưng, giữa Đêm Giao Thừa, bài thơ chúc Tết Mậu Thân của ông Hồ Chí Minh lại chính là lệnh tiến hành một cuộc chém giết chưa từng thấy trong chiến tranh Việt Nam. Sau "lời chúc tết" này, lửa đạn đã đổ lên bao nhiêu thành phố ở miền Nam, dội lên đầu bao nhiêu người dân vô tội mà Hồ Chí Minh gọi là "đồng bào"! Âm mưu "tổng tấn công" Tết Mậu Thân, theo tập đoàn lãnh đạo đảng cộng sản sau này cho biết, là do Bộ Chính Trị và Trung ương Đảng CSVN dưới sự chủ tọa của Hồ Chí Minh đã điều nghiên từ năm 1967. Vì vậy tội ác này không phải do binh lính cộng sản, cũng không phải chỉ do những người chỉ huy mặt trận hay của quân đội, mà là tội ác của tập đoàn lãnh đạo đảng CSVN, đứng đầu là ông Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh và đảng cộng sản đã vi phạm truyền thống của dân tộc. Họ đã biến những ngày Tết, đáng lẽ phải hòa bình, vui tươi, hạnh phúc thành những ngày tang tóc, đổ nát, thê lương cho dân chúng... Họ đã quên cả phong tục, quên cả tết nhất là những ngày thiêng liêng nhất đối với dân tộc Việt Nam. Lịch sử không bao giờ quên được tội ác này. Tội ác phản bội lời cam kết. Người ta thường đổ lỗi cho chiến tranh, cho súng đạn vô tình để giải thích những hành động "đáng tiếc". Thực ra chiến tranh từ xưa tới nay đều có những quy luật của nó. Những quy luật này, nhiều cái đã trở thành những hiệp định, hiệp ước quốc tế. Hai bên giao chiến cũng có lúc thỏa thuận cùng nhau ngưng bắn trong một thời gian để tản thương. Cũng trong khuôn khổ nhân đạo đó, vào những dịp lễ tôn giáo lớn, những ngày Tết, các bên giao chiến đều đề nghị hưu chiến. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam vừa qua, vào những dịp lễ Giáng Sinh, Tết Dương Lịch và nhất là Tết Nguyên Đán đều có hưu chiến. Sự hưu chiến ở đây là để cho dân chúng hai bên được hưởng ba ngày Tết trong sự yên bình ngắn ngủi, chứ không phải chỉ để cho quân đội hai phe nghỉ ngơi và chuẩn bị cho các cuộc giao tranh khác. Đề nghị hưu chiến thường được đưa ra từ phía Việt Nam Cộng Hòa và phía cộng sản Bắc Việt. Tết Mậu Thân, phía Việt Nam Cộng Hòa đề nghị hưu chiến 3 ngày. Khác với mọi lần, phía quân cộng sản đã đề nghị 7 ngày. Vì thế trong miền Nam, ngoại trừ những quân nhân trực gác doanh trại, đa số còn lại được nghỉ phép ăn Tết. Tội ác đã diễn ra khi Hà Nội nổ súng tấn công đồng loạt trên toàn lãnh thổ miền Nam, đánh vào hầu hết các thành phố là nơi tập trung dân cư. Theo lời của ông Trương Như Tảng (lúc đó là Bộ trưởng Tư pháp của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam, công cụ và bình phong trá hình của cộng sản Hà Nội), thì CS Bắc Việt thời bấy giờ đã sử dụng 9 sư đoàn chính quy, không kể quân địa phương trong trận đánh quy mô này. Binh pháp không loại trường hợp dùng trá mưu để đánh lừa quân địch. Nhưng ở đây, sự bội ước của thiểu số lãnh đạo CSVN không chỉ nhắm vào việc tấn công quân đội Việt Nam Cộng Hòa mà họ đã nhẫn tâm nã đạn vào dân chúng trên toàn cõi miền Nam. Hành động này nói lên bản chất hiếu chiến của lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam, họ sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn tàn bạo nhất để cưỡng chiếm miền Nam. Người dân các thành phố còn đang yên giấc, đạn pháo kích của cộng sản dội lên đầu họ, đạn AK, B40, thượng liên, trung liên lựu đạn xả vào nhà họ... Những vũng máu, những xác chết thi nhau đổ xuống ngay trong đêm Giao Thừa và những ngày Nguyên Đán. Không phải chỉ là những cái chết do tên bay, đạn lạc. Có rất nhiều người, già trẻ, lớn bé, đàn ông, phụ nữ, nhất là tại Huế đã bị quân đội cộng sản gọi ra trước sân nhà rồi xả súng sát hại... Họ chết mà cũng không hiểu tại sao bị giết. Đó là những cái chết tức tưởi. Oan khiên ngập trời ! Người Việt Nam cũng như cả thế giới đều không thể hiểu nổi sự hung bạo của quân cộng sản tại Huế. Có người cho rằng vì cán binh cộng sản tưởng rằng khi họ kéo quân vào thành phố, sẽ được đồng bào ra hoan hô, đón mừng, tiếp tế, dẫn đường...; nhưng khi tới nơi thấy đồng bào chạy trốn nên họ cho là phản động và ra tay sát hại không thương xót. Hồ Chí Minh và tập đoàn lãnh đạo cộng sản Hà Nội thường khoe khoang về "quân đội anh hùng" của họ. Than ôi, không có thứ anh hùng nào mà bắn vào đàn bà trẻ con, bắn vào thường dân vô tội, bắn vào những người đang bị trói tay, trói chân... Đây quả là mối nhục ngàn đời của quân đội cộng sản. Lịch sử không bao giờ quên được tội ác này. Tội ác diệt chủng. Vì những đánh giá chủ quan về mặt tâm lý quần chúng và trên trận địa, mặc dù có gây được bất ngờ và tiến vào đánh phá tại các thành phố, chiếm cứ được một số nơi đến 26 ngày như ở Huế, nhưng về mặt quân sự thuần túy, cuộc "tổng tấn công Tết Mậu Thân" của cộng sản Hà Nội là một thất bại to lớn. Quân cộng sản đã bị đánh bật ra khỏi các thành phố và đã bị tổn thất nặng nề về quân số. Hai địch thủ lâm trận thì tổn thất là lẽ đương nhiên phải có cho cả hai phía. Nhưng điều phải nêu lên ở đây, là những tội ác mang tính chất diệt chủng, giết người hàng loạt của quân đội cộng sản Hà Nội. Những vụ giết người dã man nhất đã xảy ra tại Huế. Ông Bùi Tín đã viết trong cuốn "Mặt Thật" những lời biện hộ cho các vụ thảm sát này, đại khái cho rằng chỉ cần một vài trăm gia đình tang tóc cũng có thể khiến người ta tưởng là có đến hàng nghìn... và đổ cho máy bay Mỹ dội bom truy kích khiến quân sĩ đôi bên và "tù binh" bị quân cộng sản dẫn theo cũng bị thương vong... Ông viết : "Tôi nghĩ con số 5000, 6000 người bị giết là con số cố tình thổi phồng lên quá đáng. Con số 3000 cũng là con số cao hơn thực tế, nếu chỉ kể số thường dân bị giết". Thật ra, những người bị giết hàng loạt khi không có tấc sắt trong tay, bị trói giật cánh khuỷu thì ai là thường dân, ai là quân đội, thật là khó nói. Họ đều giống nhau, là những nạn nhân của những người điên dại vì chủ nghĩa, vì hận thù. Khi chiếm cứ được một phần cố đô Huế, quân đội và cán bộ chính trị cộng sản đã tưởng là "giải phóng" được vĩnh viễn thành phố này. Họ bắt tay ngay vào việc bắt các quân cán chính của chính quyền miền Nam đang có mặt tại tỉnh ra trình diện. Thực chất họ mang đi giết. Giết tại nhà, giết trước ngõ, giết trên hè phố, giết trên đường rút quân... Một số "tòa án nhân dân" được lập ra và chỉ biết tuyên án tử hình. Họ đã biến trường học thành lò sát sinh đồng loại, như trường Thiên Hựu, trường Gia Hội... Hồng Châu đã viết : "Góc tường, nhiều vết đạn lỗ chỗ và một vũng máu lớn lan đọng trên nền, chỗ còn đỏ tươi, chỗ đã đen thẫm, bốc lên một mùi tanh hôi khó tả của máu người... Bao nhiêu người đã bị xô vào góc tường này để hứng lấy những phát đạn bắn gần... Hầu như ít ai lọt vào đây mà được trở về..." Những người lọt vào đây là ai ? Có những quân cán chính đang đi phép ăn Tết, có những thường dân, buôn gánh, bán bưng, chẳng liên quan gì đến chính quyền, có những linh mục, tu sĩ, có những giáo sư đại học, những sinh viên, học sinh... và có cả những người nước ngoài tới giảng dạy cho sinh viên Việt Nam trong trường đại học Huế. Các bác sĩ Krainick và phu nhân, Discher và Alterkoster đã bị bắt ngay tại cư xá đại học và đưa về Chùa Từ Đàm rồi sau đó người ta đã tìm thấy nấm mồ của hai vợ chồng trong sân một ngôi chùa nhỏ gần đó. Họ đều bị bắn từ sau ót trổ ra trước mặt, đập nát xương sọ... Nhưng những vụ giết người trong thành phố chưa ghê rợn bằng những vụ hành quyết hàng loạt trên đường rút lui của cộng sản. Để an toàn tháo chạy, "bộ đội anh hùng của bác Hồ" đã giết người bịt miệng. Còn tàn nhẫn nào hơn khi chính các nạn nhân bị bắt đào hố, gọi là để tránh phi pháo. Nhưng khi đào xong thì những loạt súng oan nghiệt nổi lên. Họ ngã nhào xuống hố. Hơn thế nữa, khi khai quật lên người ta đã thấy những xác chết bị siết cổ, bị đập bể sọ, hoặc bị chôn sống trong thế ngồi. Hai linh mục dòng Thiên An là các cha Urbain bị chôn sống, cha Guy bị bắn từ sau ót. Trên thi hài linh mục Bửu Đồng người ta còn tìm thấy một miếng giấy giấu trong bao kính lão, đó là lá thư tuyệt mệnh của ngài. Theo tài liệu quân sử thì quân đội cộng sản Bắc Việt đã chia ra làm nhiều đơn vị phân tán rút lên Trường Sơn. Mỗi đoàn đều có một số "tù binh" bị đem theo để làm bia đỡ đạn và trước khi đào tẩu, họ đã bị thủ tiêu toàn bộ. Hơn 19 mồ chôn tập thể đã được phát hiện tại Huế và các vùng lân cận. Có đến hơn 3000 xác chết đã tìm thấy được, nhưng cũng còn hàng ngàn người khác bị mất tích. Rất nhiều người đã bị hạ sát dọc đường và vùi dập trong lùm bụi nên không ai tìm thấy. Những nạn nhân đều bị trói và dẫn theo các đoàn quân cộng sản hành quân triệt thoái. Cho dù chấp nhận luận cứ của cộng sản rằng đây là những "tù binh" thì cũng không một lý do nào cho phép họ hạ sát những nạn nhân một cách dã man như vậy. Với chủ trương bưng bít thông tin, người dân miền Bắc không hề biết đến những tội ác tày trời này của nhà nước lãnh đạo. Đây chính là tội ác diệt chủng đối với dân tộc Việt Nam và đối với nhân loại. Lịch sử không bao giờ quên được tội ác này. Tội ác giết hại đồng đội. Đảng cộng sản đã lấy ước mơ làm sự thật và gieo vào đầu óc cán binh rằng nhân dân miền Nam sẽ ủng hộ và sẵn sàng nghênh đón "quân giải phóng"; nhưng khi họ đột nhập các thành phố thì dân chúng bỏ họ chạy về phía quốc gia, mặc cho họ bị cô lập trước hỏa lực của quân đội VNCH và đồng minh. Họ đã lừa gạt quân đội của mình, biến họ thành những tay sai để phục vụ cho mộng bành trướng đế quốc của đàn anh vĩ đại Liên Xô. Cũng với chính sách lường gạt này, Hà Nội đã kêu gọi đồng bào miền Bắc dấn thân vào cuộc Nam tiến để giải phóng miền Nam ra khỏi ách đô hộ của người Mỹ. Chống Mỹ cứu nước là một niềm hãnh diện vô biên, bao nhiêu bà mẹ đã tình nguyện hiến dâng con mình cho đảng và nhà nước để cứu lấy miền Nam thân yêu, mặc dù con của họ còn rất trẻ. Đồng bào miền Nam vô cùng ngỡ ngàng khi đứng trước những anh cán binh chỉ mới 12, 13 tuổi, ốm yếu xanh xao... Hơn nữa, cho dù động viên cách mấy đi nữa về lực lượng, Hà Nội cũng vẫn không đủ quân số và hỏa lực cũng như tiếp vận để đồng loạt tấn công và chiếm giữ hơn 30 thành phố với những đơn vị mới từ xa tới, không am hiểu địa thế, mặc dù có sự hướng dẫn của bọn nằm vùng ... Ông Trương Như Tảng cho biết là cuộc tấn công Tết Mậu Thân là nhằm đánh vào tinh thần bạc nhược của phong trào phản chiến ở Hoa Kỳ và Âu Châu nhằm áp lực Hoa Thịnh Đốn rút khỏi Việt Nam. Nếu chỉ vì muốn tác động lên phong trào phản chiến để phải hy sinh hàng vạn bộ đội của mình thì thật là một dã tâm to lớn. Vì đổ hết lực lượng để tấn công nhiều nơi trong lúc không tiên liệu được khả năng chống trả và phản công của quân đội VNCH và đồng minh nên các đơn vị cộng sản không thể tiếp viện được nhau. Đúng là cảnh đem con bỏ chợ. Bộ đội đã bị Đảng bỏ rơi và chiến đấu đơn độc để hoặc đầu hàng, bị bắt làm tù binh hoặc chết đến người cuối cùng. Thậm chí một số các bộ đội non trẻ còn bị trói chân vào các khẩu đại bác để họ không thể trốn chạy mà phải tử chiến đến cùng. Nhiều anh bộ đội khi nhìn thấy cảnh hai bên bắn giết nhau, nhìn lại đều là người Việt Nam cả, họ suy nghĩ thật nhiều và họ đã sẵn sàng buông tay súng. Thêm vào đó, sự sung túc của miền Nam trái hẳn với những điều Bác và Đảng nói càng làm cho họ bị hoang mang, bao nhiêu người định trốn đi khỏi vùng chiến tranh để tìm hiểu sự thật. Nhưng Bác và Đảng đã dự trù hết những trường hợp này, họ sẵn sàng hạ thủ khi thấy binh lính của mình bị chao đảo tinh thần. Vì thế, trên mặt lãnh đạo, chỉ huy, đảng CSVN đã phạm tội ác thí quân, gián tiếp và trực tiếp giết hại chính quân sĩ của mình. Trên đây là cách đối xử của cấp lãnh đạo CSVN đối với quân đội chính quy. Bên cạnh lực lượng này còn có thành phần nằm vùng thuộc lực lượng Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Sau những biến cố đấu tranh ở Huế năm 1963, cộng sản đã trà trộn và tổ chức cơ sở trong giới thanh niên, sinh viên. Nhiều người, trong đó có cả giáo sư đại học cũng đã tham gia vào Mặt Trận Giải Phóng của cộng sản. Một số đã được đưa ra bưng huấn luyện để trở về "hoạt động nội thành". Sau đó một số đông bị phát giác và phải ra bưng trở thành "quân giải phóng". Những người này đã theo quân cộng sản tiến chiếm Huế, hợp với những thành phần nằm vùng tiếp tay trong việc hướng dẫn, chỉ điểm cho quân chính quy. Lúc rút quân, một số đông những sinh viên, học sinh này xin ở lại thành phố. Họ đã bị liệt vào hàng ngũ phản động và chịu chung số phận với các nạn nhân vô tội khác để bảo đảm an toàn cho căn cứ địa. Người ta tìm được tử thi của những người này ở trường học Gia Hội, ở Chùa Tăng Quang và nhiều địa điểm khác. Họ cũng bị một viên đạn bắn từ sau ót trổ lên đầu... "Thà giết lầm 10 người còn hơn tha lầm 1 người"!!! Cấp lãnh đạo mà chủ trương lường gạt, sẵn sàng giết hại binh sĩ của mình chỉ vì muốn bảo đảm an toàn tháo chạy thì không xứng đáng là người chỉ huy quân đội. Trong biến cố này, Hà Nội đã đẩy hơn 10.000 binh lính vào chỗ chết. Tội ác này, lịch sử không bao giờ quên. Thay lời kết. Hai, ba năm sau trận chiến Tết Mậu Thân, cố đô Huế còn vang tiếng gào khóc, khăn tang phủ trắng đất Thần Kinh. Những đám tang tập thể hàng trăm quan tài mộc mạc kéo dài hàng chục cây số. Những nấm mồ mới khói hương không an ủi được nỗi hờn của người quá cố... Đã 30 năm qua, nhưng vết thương Mậu Thân còn chảy máu. Những vụ bắn giết vô nhân đạo của quân cộng sản không những chỉ diễn ra ở Huế trong dịp Tết Mậu Thân. Vào Năm 1972, trong trận Quảng Trị, quân cộng sản lại nã súng vào đoàn dân chúng di tản trên quốc lộ 1 từ Quảng Trị về Huế. Cả một đoạn đường hàng chục cây số, xác người ngổn ngang, máu chảy đỏ đất bên cạnh những đuôi đạn súng cối 61, đạn B40 là những loại súng không bắn xa hơn 1 cây số. ở tầm nhìn đó, hẳn những người tác xạ nhìn rõ được những người trên đường là thường dân hay quân đội. Điều phi nhân và đáng kết tội hơn nữa là sau khi chiếm được miền Nam vào năm 1975, lãnh đạo Hà Nội đã hạ lệnh san bằng những mồ chôn tập thể này tại Huế để phi tang đi những bằng chứng của tội ác của họ. Những tội ác này không thể tha thứ được. Thế giới đang truy tầm những tên tội phạm chiến tranh trong cuộc Đệ Nhị Thế Chiến, tại Bosnia, tại Nam Tư cũ... Thế giới phải truy tìm bọn tội phạm này tại Hà Nội. Vấn đề không phải là hận thù phải trả, nhưng là công lý phải được phục hồi. Đảng CSVN, những người lãnh đạo, chỉ huy quân sự trong chiến tranh Việt Nam phải gánh nhận trách nhiệm và hậu quả của tội ác diệt chủng, chống nhân loại của mình. Có như vậy thì hàng nghìn, hàng vạn đồng bào ở Huế và trên cả nước mới ngậm cười nơi chín suối. Về những nấm mồ tập thể ở Huế, ký giả Elje Vannema đã liệt kê như sau : 1) Trường Gia Hội: trước sân có 14 hố với 101 tử thi, xung quanh có nhiều hố khác với trên 203 xác, cộng 304 xác; 2) Chùa Tăng Quang : 12 hố 43 xác trong đó có nhiều xác bị trói bằng dây thép gai; 3) Bãi Dâu : 3 hố, 26 xác; 4) Cồn Hến một hầm, 100 xác; 5) Sau Tiểu chủng viện, 2 hầm, 3 xác gồm 2 Mỹ, 1 Pháp; 6) Quận Tả Ngạn : 3 rãnh, 21 xác; 7) Phía Đông Huế 5 dặm : 25 xác; 8) Khu vực lăng Tự Đức, Đồng Khánh trên 20 hầm 9) Cầu An Ninh : 20 xác; 10) Khu vực cửa Đông Ba : 1 hầm, 7 xác; 11) Trường tiểu học An Ninh Hạ : 1 hầm, 4 xác; 12) Trường Văn Chi : 1 hầm, 8 xác; 13) Chợ Thong (cách thành phố 2 cây số về hướng Tây) : 102 xác; 14) Khu vực Lăng Gia Long : khoảng 200 xác; 15) Địa điểm giữa chùa Tăng Quang và chùa Tường Vân : 4 xác (trong đó có xác 3 người Đức); 16) Địa điểm Đông Gi (gần biển) : 101 xác. Tới tháng 5,1968, tổng cộng có trên 900 xác người mất tích đã được tìm thấy. Dĩ nhiên còn nhiều người chưa được tính... Đầu năm 1969 nhiều địa điểm khác được khám phá ... 17) Quận Phú Thứ : trên 800 xác được tìm thấy ở 3 làng Vinh Thái (135 xác), Phú Lương (22 xác) và Phú Xuân (230 xác, sau đó người ta còn tìm thấy trong khu vực này 357 xác nữa. 18) Làng Thượng Hòa, quận Nam Hòa (phía Nam lăng Gia Long) : 11 xác; 19) Thúy Thạnh, quận Hương Thủy : 70 xác; 20) Khe Đá Mài 428 bộ xương... http://tiengnoitudodanchu.org/vn/ http://lichsuviet.cjb.net/view_article.asp?id=433&cat=6
Xuân nhớ Huế Mậu Thân 68 Nén hương lòng tưởng niệm Hồng Lĩnh Tuy đã 39 năm rồi, mặc dầu thời gian là thần dược cho lãng quên nhưng cứ mỗi độ xuân về hình ảnh tang thương của Huế Mậu Thân 68 cứ khơi giòng lệ. Mùa xuân năm ấy Cộng sản Việt Nam đã vi phạm thỏa ước hưu chiến do chúng đề nghị để tàn sát dân cố đô trong các ngày trọng đại và thiêng liêng nhất của dân tộc. Thế kẹt quân sự của Cộng sản Việt Nam Trong khoảng thời gian 1966–1967 Cộng sản Việt Nam tuy đã thí rất nhiều thanh niên miền Bắc với khẩu hiệu “sinh Bắc tử Nam” nhưng tất cả đã tan tành trên các mặt trận do liên quân Mỹ–Việt nện cho. Vì lý do ấy, Võ Nguyên Giáp đành tạm thời ngưng lưu động chiến và trận địa chiến, rút quân qua Cambodia hay vào rừng sâu núi thẳm của dãy Trường Sơn. Trước thế bí và sa lầy của ván bài quân sự xâm lăng từ Bắc vào Nam, vào đầu Xuân Mậu Thân 68 Võ Nguyên Giáp đã thí một cách vô tội vạ 70.000 Bắc quân (1) đem chiến tranh về thành phố. Giáp liều mạng đem quân đánh sâu vào các đô thị miền Nam. Không biết Giáp đã nhắm mục tiêu gì cho cuộc thí quân mang một hợp từ rùng rợn “tổng công kích–tổng khởi nghiã”? Mục tiêu chính trị thay cho giải pháp quân sự (2). Trước sức mạnh quân sự của liên quân Mỹ–Việt và tinh thần chống cộng của nhân miền Nam, Giáp rơi vào thế sa lầy và tìm lối thoát bằng cách đặt đối thủ vào thế yếu chính trị. Giáp khai triển phong trào phản chiến tại Mỹ bằng cách tạo cú sốc tâm lý làm nản lòng dân Mỹ trong việc ủng hộ quân dân VNCH chiến đấu bảo vệ tự do. Giáp triển khai hai chiến lược (3): Chiến lược số một đánh vào dư luận quần chúng Việt Nam bằng cách tung một lúc các đoàn quân cảm tử chiếm 35 thành phố trong một thời gian cần thiết, tạo ra một cuộc sát hại đẫm máu tất cả những ai chống lại Cộng sản Việt Nam. Từ các chiến khu xa xôi trong rừng thẳm, quân cảm tử của Giáp phải chia ra từng nhóm nhỏ để tránh khỏi bị lộ trên đường di chuyển về các thành phố. Do đó số quân vào tới các thành phố không nhiều lắm với mơ hồ muốn đảo ngược tình thế quân sự lúc ấy. Một cán binh chết còn để lại trong túi bài thơ “Ngóng chờ đại quân như trông giòng sữa mẹ”. Chúng cố gắng tung nhiều lực lượng vào hai điểm chính: Sài Gòn và Huế. Mặc dầu bị bất ngờ nhưng Quân lực VNCH đã phản công nhanh chóng trên toàn quốc nên chỉ có Huế bị chúng chiếm tới 26 ngày. Cái mà Cộng sản Việt Nam muốn tạo ra đã không xảy ra nơi dân chúng miền Nam: một cuộc nổi dậy như chúng mơ ước. Chiến lược số hai nhằm làm xúc động và nản lòng quần chúng Mỹ bằng cách tấn công vào tòa Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn. Giáp muốn chứng tỏ cho dân chúng Mỹ biết là Cộng sản Việt Nam có khả năng tiến chiếm bất cứ một thành phố nào tuy vào thời điểm 1968 Mỹ có 536.000 quân tham chiến, và VNCH (4) có 820.000 quân. Ba nhân chứng trong cuộc của phe Cộng sản Việt Nam đánh giá hai chiến lược này của Giáp như sau: Trung Tướng Trần Độ (5) chỉ huy chiến dịch tổng công kích–tổng khởi nghiã có phát biểu: “Với tất cả sự thật, chúng tôi không đạt được mục tiêu chính là tạo ra cuộc nổi dậy tại miền Nam. Tuy thế, chúng tôi đã gây nhiều mất mát nặng nề cho Mỹ và ‘bù nhìn’ và là một thành công to lớn. Về phần tạo một chấn động tại Mỹ, không phải chủ tâm của chúng tôi, nhưng là một thành công vĩ đại”. Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa (6) đã tuyên bố tại Sài Gòn vào năm 1981: “Chúng tôi đã mất hầu hết những phần tử ưu tú nhất của chúng tôi, Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam”. Thượng Tướng Trần Văn Trà (7) trong báo Quân sử phát hành năm 1982 tại Hà Nội viết: “…Chúng tôi không đánh giá đúng mức tương quan lực lượng của chúng tôi và của địch. Chúng tôi biết địch còn nhiều khả năng kinh khủng và khả năng của chúng tôi rất giới hạn”. Giáp đã khai triển hai chiến thuật bội ước và nghi binh để tạo bất ngờ cho liên quân Việt–Mỹ (8). Bội ước thỏa ước hưu chiến. Cộng sản Việt Nam tấn công vào thời điểm hưu chiến do chính chúng đề nghị vào những ngày thiêng liêng nhất của dân tộc. Đối với chúng, cứu cánh biện minh cho phương tiện. Nghi binh. Vào ngày 21 tháng giêng (9), Cộng sản Việt Nam đánh nghi binh vào căn cứ Thủy quân lục chiến Mỹ tại Khe Sanh với chủ ý để liên quân Việt–Mỹ rút quân về bố trí gần Khe Sanh và bỏ trống các thành phố, nhất là Huế và Sài Gòn. Thật thế, để tăng cường cho Khe Sanh, Tướng Westmoreland đã điều động hai lữ đoàn của sư đoàn Kỵ binh không vận từ Cao Nguyên và sư đoàn 1 Thủy quân lục chiến từ Huế tới gần Khe Sanh (10). Sự chuyển quân ấy làm yếu phòng thủ cố đô Huế. Hơn nữa, vào những giờ đầu phản công, VNCH tham chiến chỉ có 1/2 tổng số quân, nửa kia đang nghỉ phép ăn tết tại gia đình, còn phía quân Mỹ tuy đang có mặt tại chỗ nhưng chỉ tham chiến vài giờ sau đó. Cho nên ta không ngạc nhiên khi thấy chỉ có Huế bị cộng quân chiếm giữ lâu như thế. Bất ngờ đến đâu? Liên quân Việt–Mỹ thực ra không hoàn toàn bị bất ngờ. Do tin tức cung cấp của số tù binh CS bắt được trước đó và do tình báo riêng, ta đã biết địch sẽ đánh lớn nhưng không ngờ chúng sẽ đánh vào dịp tết và không rõ sẽ đánh những điểm nào. Cần ghi nhận ba sự kiện: Một là cảnh giác cao độ của tình báo Mỹ tại Sài Gòn. Tình hình Khe Sanh và Huế không đáng ngại nên phía VNCH cho các quân nhân về phép ăn tết rất đông. Nhưng trước đó ít lâu, viên Tướng tư lệnh Mỹ đảm trách bảo vệ Sài Gòn, sau khi phân tích tình hình chung, đã phát giác có một sự kiện bất thường có vẻ giống tình hình của mùa đông năm 44 trước khi Hitler phản công vào dịp Giáng sinh tại Ardennes. Các hoạt động bên ngoài của cộng quân xem ra không ăn khớp với nhau. Từ đó ông linh cảm là cộng quân sắp làm một chuyện gì lớn. Tướng Westmoreland chấp nhận phán đoán của Tướng trách nhiệm bảo vệ Sài Gòn và điều động ngay 15 tiểu đoàn chiến đấu từ biên giới Miên–Việt về chung quanh Sài Gòn vào giờ phút chót. Ông cũng điện về Washington (11) cho hay có nhiều dấu hiệu cho thấy cộng quân sẽ mở nhiều cuộc tấn công cấp trung đoàn vào dịp Tết tại khu vực Huế. Nhưng không hiểu vì lý do gì Huế đã không được báo động đúng mức. Trong khi đó tại Huế, Chuẩn tướng Ngô Quang Trưởng, tư lệnh sư đoàn 1 Bộ binh đã ra lệnh cho trung đoàn 3 ra khỏi thành nội Huế tảo thanh, do đó thành nội bị bỏ trống, chỉ còn lại đại đội Hắc Báo. Tại Đàn Nam Giao có thêm Đại Đội I Trinh Sát của sư đoàn 1 Bộ binh. Cộng sản Việt Nam tổ chức đánh Huế. Cộng sản Việt Nam đã quyết định đánh Huế từ tháng 7 năm 1967. Để đánh Huế, Cộng sản Việt Nam đã đặt riêng một bộ tư lệnh chỉ huy chiến dịch, dùng tới hai trung đoàn bộ binh và các đặc công thành đội làm chủ công và hai trung đoàn bộ binh khác làm chi viện. Hai trung đoàn chủ công là Đoàn 5 do Nguyễn Vạn làm Thủ trưởng, và Đoàn 6 do Trung Tá Nguyễn Trọng Dần làm Thủ trưởng. Hai Trung đoàn chi viện là Đoàn 9, hay Trung đoàn Cù Chính Lan cũ, do Trung Tá Di chỉ huy. Còn Đoàn 8, hậu thân của Trung đoàn Sông Lô, mãi vào phút chót mới tham dự tấn công. Chúng tới Huế vào khoảng 30-1-68 qua các ngã Mộc Năng và Đình Môn, La Chữ, Cối Kê (chi viện). Tổng cộng có tới 7500 tên địch lọt vào thành phố Huế cộng với đặc công thành đội (12). Cố đô trong biến cố. Sau khi 7500 quân Cộng sản Việt Nam đã lọt vào thành phố Huế, Cộng sản Việt Nam tự do đi lại và hành động trong các khu phố suốt từ mồng hai (31-1-68) đến mồng bốn Tết (2-2-68) mà không gặp một phản ứng nào từ phía quân lực VNCH. Trong các ngày tự do hành động, chúng lập Mặt trận Liên minh dân chủ và hòa bình do Giáo sư Lê Văn Hảo làm chủ tịch. Ông này đã trở về sau khi trốn khỏi thành phố Huế ngày 28-1-68. Một số sinh viên và dân chúng từng thuộc thành phần Phật giáo đấu tranh và Hội đồng cứu quốc mấy năm trước tham gia vào tổ chức này. Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân cũng tham gia phong trào của Giáo sư Hảo. Địch làm chủ thành phố ngay từ đêm mồng một tết (30-1-68). Chúng dùng thời gian nầy để kiểm tra dân trong thành phố. Đầu tiên chúng vào từng nhà gọi tất cả ra tập hợp và phân loại. Công chức, quân nhân, cảnh sát bên Tả ngạn bị chúng bắt đi mất tích, còn bên Hữu ngạn bị nhốt tại toà Đại biểu chính phủ một đêm sau cho về. Tất cả dân chúng thành phố bị đoàn thể hóa và tất cả máy thu thanh bị tịch thâu. Kế đến chúng kêu gọi tất cả công chức, quân nhân, cảnh sát còn đâu đó phải ra trình diện nạp vũ khí. Ai ra trình diện được chúng phát cho một thẻ và cho về. Nếu không ra bắt được sẽ bị hành quyết ngay. Sau đấy chúng bắt đầu giết và khủng bố. Sau hai ngày của giai đoạn hai, chúng đi từng nhà gọi cán bộ quốc gia và đồng bào đi học tập. Tất cả thành phần công chức, cảnh sát, quân nhân và dân chúng có tinh thần quốc gia bị chúng thủ tiêu trong lúc “học tập”. Ngoài ra còn một số dân không thấy trở về nữa. Chính họ phải tự đào lấy hố chôn mình. Đêm đến người bị giết hay bị trói, rồi bị xô xuống hố (13). Rải rác tại các nơi như trường trung học Gia Hội, chùa Tăng Quang Tự, Bãi Dâu (30 hầm), Lăng Tự Đức (20 hầm). Sau ngày quân lực VNCH và Mỹ giải phóng Huế, những xác đào lên cho thấy những đồng bào bạc phước ấy bị giết một cách vô cùng dã man như bị chặt đầu, chặt tay trước khi chôn, hoặc bị chôn sống trói từng cụm từ 10 tới 15 người rồi bị xô xuống lấp đất. Trong thời gian này, có ba người Đức là hai Giáo sư Bác sĩ Raimund Discher và Alois Alterkoster cùng với bà Hort Gunther Krainich bị bắt sáng 31-1-68 và sau đấy cũng bị chôn sống (14). Họ đến Việt Nam giảng dạy y khoa trong chương trình thân hữu. Mãi tới tháng 4-68 mới tìm ra hầm chôn các Bác sĩ và bà Krainich. Sự thảm sát nầy đã làm cho cả thế giới công phẫn và chấn động. Ông Trần Đình Phương, phó thị trưởng Huế, bị hạ sát ngay trước nhà. Thiếu tá Trần Hữu Bào, phó nội an, Thiếu tá Bửu Thạnh, ủy viên toà án, bị giết không tìm ra xác. Ông Nguyễn Khoa Hoàng, chánh án tòa thượng thẩm Huế, cùng con trai lớn cũng bị bắt và giết. Trước khi được đội cảm tử Hắc Báo giải cứu, đã có nhiều bác sĩ, y tá và các thương bệnh binh bị sát hại trong bệnh xá sư đoàn ở Mang Cá. Xác của họ nằm ngổn ngang chất đống trên giường, dưới đất, tràn lan khắp nơi từ các phòng ra tới sân. Xác chết tan hoang đầy nhát chém và lỗ đạn. Máu me chảy từng giòng. Từ người tàn tật không vũ khí tới kẻ làm việc nhân đạo với các dụng cụ y khoa đang nắm chặt trong tay, tất cả đều bị sát hại một cách tàn nhẫn không gớm tay. Số nạn nhân bị giết, theo ông Douglas Pike, trong cuốn: The Viet Cong Strategy of Terror, có tới trên 7500 người (15). Sau cơn sát hại, giải khăn sô bao trùm xứ Huế. Báo chí các nước lên tiếng về cuộc thảm sát qua: Ký giả Stewart Harris của báo Times tại Luân Đôn cực lực phản đối qua trang đầu với hàng chữ lớn nhan đề “Chính sách hành quyết tập thể tại Huế”. Ký giả Yves Gautron của báo Minute viết: “Không thể tha thứ đuợc hành vi man rợ của Cộng sản Việt Nam đã sát hại những dân vô tội tại Huế”. Thanh niên Pháp đã tổ chức một cuộc biểu tình tại công trường Ternes lên án các hành động dã man của Cộng sản Việt Nam ở Huế. Những lời tuyên bố của một vài nhân vật chủ chốt từ phía Cộng sản Việt Nam. Hoàng Phủ Ngọc Tường (16) khi trả lời phỏng vấn trong bộ phim tài liệu dài 13 cuốn “Vietnam” của đài Television History đã khẳng định như sau “Quân đội cách mạng phải làm như vậy để những phần tử có nợ máu với nhân dân không còn thực hiện được tội ác nữa”. Trung Tướng Trần Độ (17) chối đây đẩy những hình ảnh thảm khốc tại Huế và quan niệm rằng ai đó đã “chế” các hình ảnh và phim các xác chết. Lời kết Đã 39 năm rồi, cho dù không còn VNCH nữa nhưng mảnh khăn sô cho xứ Huế vẫn còn. Cái tang ấy luôn mãi mãi trong tâm trí người Việt về một đầu xuân đẫm máu. Người Việt sát hại người Việt vì một ý thức hệ ngoại lai. Ý thức hệ ấy đã tạo ra một lớp người man rợ, hết tình người và trở thành lang sói. Cộng sản Việt Nam đã ngang nhiên gây đổ máu và tan hoang cho đồng bào trong những giây phút thiêng liêng nhất của dân tộc. Các nạn nhân xứ Huế của xuân 68 đã phải vội ra đi khi chưa dứt tiếng cười trong ba ngày Tết. Chỉ những kẻ vong bản mới dám công khai làm thế! Một bài học đừng bao giờ quên về con người Cộng sản Việt Nam. Tưởng niệm linh hồn anh cả HĐT bị Cộng sản Việt Nam thảm sát tại Huế 1968 Quan Điểm 30-01-2007 Copyright © 2006–2007 DCVOnline (1), (4) Cái chết của Nam Việt Nam, Phạm Kim Vinh, ấn bản XuânThu 1988, trang 96. (2) Offensive du Tết, Wikipédia, l’encyclopédie libre, page 1. (3) Offensive du Tết, Wikipédia, l’encyclopédie libre, page 2. (5), (8) Việt Nam, Stanley Karnow, Presse de la cité Paris 1984, page 318. (7) Việt Nam, Stanley Karnow, Presse de la cité Paris 1984, page 327. (8) Việt Nam, Stanley Karnow, Presse de la cité Paris 1984, page 335. (9) Offensive du Tết, Wiképédia l’encyclopédie libre, page 3. (10) Cái chết của Nam Việt Nam, Phạm Kim Vinh, ấn bản Xuân Thu 1988, trang 95. (11) Chiến Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Phạm Phong Dinh, Tủ Sách Vinh Danh in lần thứ ba 11/2003, trang 48. (12) Cuộc Tổng Công Kích–Tổng Khởi Nghiã Của Việt Cộng Mậu Thân 1968, Loại lịch sử chiến đấu, TT Phạm Văn Sơn, Trưởng khối Quân Sử/P5.TTM, Cơ sở xuất bản Đại Nam 1968, trang 230. (13), (14) Cuộc Tổng Công Kích–Tổng Khởi Nghiã Của Việt Cộng Mậu Thân 1968, Loại lịch sử chiến đấu, TT Phạm Văn Sơn, Trưởng khối Quân Sử/P5.TTM, Cơ sở xuất bản Đại Nam 1968, trang 215. (15) Chiến Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Phạm Phong Dinh, Tủ Sách Vinh Danh in lần thứ ba 11/2003, trang 67. (16) Chiến Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Phạm Phong Dinh, Tủ Sách Vinh Danh in lần thứ ba 11/2003, trang 64. (17) Việt Nam, Stanley Karnow, Presse de la cité Paris 1984, page 324.
Quý vị và các bạn trẻ thân mến Hôm nay chúng tôi hân hạnh tiếp tục gởi đến Quý vị và Quý bạn tập 2 về Mậu Thân. Với cùng lược đồ như tập 1, nó cũng trình bày nhiều tài liệu và chứng từ về một biến cố quá khứ đầy đau thương, tủi nhục, chia rẽ và hận thù của dân tộc . Người Cộng sản VN luôn miệng kêu gọi Đồng bào VN : "Lãng quên quá khứ, xóa bỏ hận thù, hòa giải hòa hợp!" Thế nhưng chính họ vẫn tiếp tục ăn mừng "chiến thắng của cuộc Tổng công kích nổi dậy tết Mậu Thân". Hôm 1-2-2008, kỷ niệm 40 năm biến cố, bí thư thành Hồ Lê Thanh Hải có nói tại buổi mít-tinh ở dinh Thống Nhất: Cuộc “tổng tấn công và nổi dậy” năm 1968 “đã tạo một cú 'choáng đột ngột' với địch ở miền Nam..., là điểm son chói lọi của lịch sử dân tộc”, còn Trung tướng CS Nguyễn Ðình Ước thì đã viết trên báo Nhân Dân: Biến cố ấy “đã đi vào lịch sử như là một sáng tạo độc đáo của chiến tranh cách mạng, thể hiện một đỉnh cao ý chí và trí tuệ của Việt Nam..." Đúng là một “sáng tạo độc đáo” với nhiều nét mà chỉ CS mới có nổi!!! Trước tiên, đó là vi phạm thỏa ước hưu chiến mà CS đã cam kết cách long trọng, khiến phía Việt Nam Cộng Hòa đã tin lời mà cho một nửa số quân nhân được về ăn tết với gia đình, nên bước đầu đã phần nào bị động. Thứ hai, đó là chà đạp những ngày Tết thiêng liêng của dân tộc. Giữa cảnh sum họp êm ấm, CS đã gây cảnh tan nát chia lìa. Giữa bầu khí yêu thương hòa giải, CS đã đem tới hận thù bạo lực. Thứ ba, đó là giết chết thường dân, bất kể tu sĩ linh mục, y tá bác sĩ, viên chức cán bộ, văn nhân nghệ sĩ, thầy giáo học trò, thậm chí cả những kẻ buôn thúng bán bưng, lao công độ nhật… Thứ tư, đó là đưa ra chiêu bài “trình diện học tập cho thông suốt đường lối để tiếp tục phục vụ chính quyền cách mạng” hầu lừa người ta đến chỗ chết. Thứ năm, đó là dụ khị nạn nhân cơm đùm gạo bới hay dụ khị thân nhân tiếp tế lương thực trong nhiều ngày để rồi cướp lấy của họ. Thứ sáu, đó là giết chết các nạn nhân bằng cách đập vỡ sọ bằng cuốc và báng súng, bằng cách trói từng người hay từng chùm một rồi chôn sống họ. Thứ bảy, đó là tàn phá trực tiếp hay gián tiếp các kho tàng văn hóa của dân tộc bằng cách tiến chiếm các nơi này để làm công sự phòng thủ hay hang ổ kháng cự, cụ thể là khu vực Đại nội và Cấm thành tại Huế. Tập tài liệu này chỉ muốn phơi bày tất cả các khía cạnh kể trên để mong người CS chân thành nhận ra sự thực và nghiêm chỉnh sám hối về tội ác của họ. Có như thế, việc lãng quên quá khứ, xóa bỏ hận thù, hòa giải hòa hợp dân tộc mà họ luôn kêu gọi mới thực sự bắt đầu! Khối Tự do Dân chủ cho Việt Nam 8406
I- NGHIÊN CỨU TỔNG QUÁT tại Sài Gòn và Huế Tết Mậu Thân 1968 Mường Giang Cuối tháng 12-1960, VC thành lập tại Hà Nội cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, dùng làm bình phong lừa bịp thế giới về âm mưu cưỡng chiếm VNCH bằng quân sự. Ðể hoàn thành giấc mộng nhuộm đỏ toàn cõi VN, Hồ Chí Minh bắt các cán binh, bộ đội gốc Miền Nam, đã tập kết ra Bắc năm 1954 phải hồi kết, qua đường mòn Trường Sơn. Số này sẽ kết hợp với các cán binh nằm vùng năm xưa và một vài trí thức khoa bảng đang bất mãn chính phủ Ngô Ðình Diệm, vì đa số thuộc thành phần địa chủ, thượng lưu có quốc tịch Pháp, mà xí nghiệp, ruộng đất đang bị quốc hữu hóa, theo luật pháp của Quốc Gia VN. Tất cả sẽ dấy lên một phong trào tranh đấu giả tạo, để lật đổ chính quyền hợp pháp của Miền Nam bằng kế hoạch ba mặt giáp công. Ðó là chính trị, binh vận và quân sự của Miền Bắc, quyết tâm chiếm cho được nửa phần đất nước Việt còn lại, từ bờ nam sông Bến Hải (Quảng Trị), vào tới Mũi Cà Mâu. Cuộc binh biến ngày 1-11-1963 với kết quả đưa VNCH vào tình trạng vô chính phủ và gây nên những xáo trộn chính trị triền miên, suốt những năm 1964-1967. Nắm lấy thời cơ vàng ròng mà Hồ Chí Minh cho là đã chín mùi tại Miền Nam, nên đầu năm 1964, đảng ra lệnh tập trung các cán bộ Y tế, Giáo dục, Văn hóa, Thể dục Thể thao, Nhà văn, Nhà báo, Nông nghiệp, Bưu điện, Tiếp vận... khắp đất Bắc, để học tập, huấn luyện, lên đường vào Nam, tiếp tay với bọn ăn cơm Quốc gia thờ ma cọng sản, dấy lên phong trào cướp chính quyền ở Huế, Ðà Nẵng, Sài Gòn và nhiều thành phố khác. Ðợt đó có 300 người bị tập trung tại Trường Huấn luyện Ðặc biệt ở Phú Thọ, mang tên là Ðoàn K-33. Ngày 22-12-1964 lớp học bế mạc. Tất cả các học viên đều lên đường vào Nam. Ðể che mắt và lừa bịp công luận quốc tế, mọi người được trang bị như VC chính hiệu ở Miền Nam, với quần áo bằng vải kaki Nam Ðịnh, mũ tai bèo may bằng vải rộng vành, dép râu Bình Trị Thiên, cổ quàng khăn rằn và ai cũng thuộc bài “Giải Phóng Miền Nam” của Huỳnh Minh Siêng, tức Lưu Hữu Phước, lúc đó cũng đang có mặt tại Cục R ở Nam phần. Trong số cán bộ trên, hiện còn nhiều người sống sót và được đảng thưởng công rất hậu như Nguyễn Trung Hậu (Bí thư tỉnh ủy Thuận Hải), Trần Ngọc Trác (Chủ tịch tỉnh Thuận Hải), Ngô Triều Sơn (quyền Bí thư tỉnh ủy Bình Thuận), Nguyễn Tường Thuật (Chủ tịch tỉnh Phú Yên)... Ngoài ra còn có các nhạc sĩ, nhà văn như Phan Huỳnh Ðiểu, Thuận Yến, Lê Anh Xuân, Tô Nhuận Vỹ, Dược sĩ Nguyễn Kim Hùng, Tiến sĩ Võ Quảng, Nguyễn Thới Nhậm, Nguyễn Khoa Ðiềm.. Qua bài thơ “40 Năm Gặp Lại” đăng trong tờ Xuân Ất Dậu 2004 của VC, Bình Thuận, Nguyễn Khoa Ðiềm đã viết : “Những người cùng đi trên chuyến tàu lửa ngày ấy Qua khu bốn, qua sông Xê-Bang-Hiên, đường chín nhìn thấy đêm Noel trong một chớp sáng Vâng, chúng ta đã chia tay nhau ở Xê-Phôn Tôi rẽ theo vĩ tuyến…” Qua lời thơ đã xác nhận, từ cuối năm 1964 khi vào Nam, Nguyễn Khoa Ðiềm đã được chỉ định hoạt động tại các tỉnh miền hỏa tuyến, thuộc Vùng I chiến thuật của VNCH. Về Huế, y đã trà trộn trong Ðại Học Văn Khoa và bị bắt vào những năm 1964-1966 nhưng có điều chỉ bị giam ở Nhà Lao Thừa Phủ, mà không bị giải ra Côn Ðảo như đồng bọn. Khi VC làm chủ được thành phố Huế, vào những ngày đầu Tết Mậu Thân 1968, Nguyễn Khoa Ðiềm được giải thoát và trở thành xếp chúa lúc đó. Vì là một cán bộ chính quy có đảng tịch, cho nên chắc chắn y đã ban lệnh hay đề nghị thảm sát đồng bào bị kẹt lại trong thành phố, để trả thù “Ngụy quân-Ngụy Quyền”, những thành phần đối tượng mà từ người cha là Hải Triều (Nguyễn Khoa Văn) tới con Nguyễn Khoa Ðiềm “không đội trời chung”. Lâu nay nhiều người thắc mắc về sự liên hệ giữa Nguyễn Khoa Ðiềm và Hoàng Phủ Ngọc Tường. Thậm chí không ít người quả quyết cả hai chỉ là một. Nhưng có một hay hai thì chúng vẫn là những ác nhân thiên cổ, đã tàn nhẫn dã man mất hết nhân tính khi ra lệnh chôn sống, đập đầu và tùng xẻo hàng ngàn đồng bào vô tội tại Huế vào những ngày Tết Mậu Thân (1968). Sau ngày 30-4-1975, cộng sản Hà Nội huênh hoang tuyên bố tất cả những trò lừa bịp chính trị đã làm từ năm 1930 là thời gian mà đảng cộng sản quốc tế chính thức xâm nhập vào VN, cho tới khi dùng bạo lực cưỡng chiếm được toàn thể quê hương. Ðể chia chung tội danh thiên cổ đã làm hủy hoại đất nước suốt bao năm qua, Việt Cộng đểu cáng đã lôi bọn việt gian VNCH, kể cả đám sư sãi cha cố từng giúp giặc đâm sau lưng người lính miền Nam vào chung xuồng, tung hê ca tung bọn ăn chén đá bát này khi viết lại lịch sử cận đại bằng chủ thuyết Mác-Lê cộng với những huyền thoại hoang tưởng về cái gọi là chiến thắng ba đại đế quốc Pháp, Nhật, Mỹ… Trong khi đó, tội bán nước cho Tàu đỏ cùng với hằng ngàn thảm kịch chiến tranh núi xương, sông máu và những cơn giông bão nước mắt của triệu triệu nạn nhân cộng sản trong bao năm qua, bị chế độ độc tài đảng trị cùng những trí thức không tim óc tiếp tay, chôn giấu vùi dập một cách tận tuyệt trong đáy mộ thời gian. Nhưng lịch sử vốn vô tình và rất công bằng, bởi vậy đã có rất nhiều trí thức trong và ngoài nước, buổi trước đã ồn ào ca tụng Việt Cộng, nay vì lương tâm và trên hết là sự thật, phải thay ngòi bút để viết lại lịch sử. Nhờ vậy những uẩn khúc bi kịch về cuộc chiến VN đã đội mồ sống lại, lột trần những huyền thoại sắt máu dối gian của ngụy quyền Hà Nội từ 1945 -2007. Và trong muôn ngàn câu chuyện “hồi tưởng” đặc biệt nhất cũng vẫn là cái mang tên “Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968” của 40 năm về trước. Ðây là cuộc thảm sát của Cộng Sản Bắc Việt, nhắm vào thường dân vô tội khi chúng tấn công VNCH mà sự khổ đau thê thiết nhất đã xảy ra tại Huế và Sài Gòn. Giống như những người Nhật còn sống sót khi đã hứng hai trái bom nguyên tử của Mỹ năm 1945, hiện có một số lớn nạn nhân may mắn sau thảm kịch Tết Mậu Thân Huế 1968, đã quả quyết thủ phạm chính cuộc tàn sát dã man lúc đó là những thành phần trong mặt trận Liên Minh Dân Tộc Hòa Giải do Hà Nội dựng lên tại Huế vào ngày mồng ba tết MT (1-2-1968) gồm Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Ðắc Xuân, Nguyễn Ðoá, Ðào Thị Xuân Yến, Hoàng Phương Thảo... Tất cả bọn nam nữ ác quỷ lúc đó đều thuộc thành phần thượng lưu trí thức, ăn trên ngồi trước, gì gì cũng thừa thải… chỉ thiếu có máu và xác người. Bia đá trăm năm có thể bị huỷ diệt bởi con người và thời gian, lịch sử cũng có thể bị thay đen đổi trắng bởi bọn cầm quyền và đám bồi bút vô loại, nhưng bia miệng thì không bao giờ bất biến bởi chúng là những tác phẩm vô hình không chữ nghĩa. Ngoài ra còn có luật trời và tòa án lương tâm, nhất là đối với những người có lòng tin tôn giáo “Quả Báo Nhãn Tiền”. Nên nay có mặc áo vàng, áo đỏ, áo lam, áo đen hay ở trần đóng khố thì rốt cục cuối đời cũng phải mặc áo quan để về với đất. Tất cả hãy lấy bọn ác tặc trên để sám hối trước khi “về nguồn” sửa soạn tái sinh, và cơ duyên xấu hay tốt của kiếp tới đều do kiếp này gieo quả. Ai là người miền Nam VN, đã được sống sót và đầu thai trở lại khi may mắn đến được bờ đất hứa tự do, chắc không làm sao quên được sự dã man có một không hai của cán binh VC tại bất cứ nơi nào khi chúng hiện diện trước tháng 4-1975. Sau đó là những cảnh xử giảo các thành phần “Quân Cán Cảnh VNCH” qua cái gọi là Tòa Án Nhân Dân. Hình ảnh Cố Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tỉnh trưởng Chương Thiện tại pháp trường Cần Thơ năm nào, bị VC bẻ gập gãy xương sống rồi dùng mã tấu đâm nát cơ thể trước khi bắn, vào những ngày đầu tháng 5 mất nước. Cảnh tượng dã man đó làm sao xóa được, để mà hớn hở hòa hợp, về nguồn khi người tỵ nạn cộng sản đã đi hết biển ? Nguyễn Ðắc Xuân, tên đao phủ thủ số một trong cuộc tàn sát đồng bào Huế vào những ngày Tết Mậu Thân (1968) mới đây có khoe trên báo Kiến Thức Ngày Nay số 594 xuất bản tại thành Hồ vào ngày 10-2-2007. Y chỉ nhân danh “Phật Tử” mà đã được các chùa hải ngoại khắp nước Mỹ đưa đón trọng thể. Nhờ đó Xuân mới biết, tới nay sau 32 năm, đồng bào Việt hải ngoại, chỉ vì cái bài vị và di ảnh của Dương Văn Minh được gửi trong chùa Quán Thế Âm ở Orange County, Nam CA, nên biểu tình chống đối và gọi đây là chùa VC (?). Bao nhiêu xảo ngôn đó, đủ thấy muôn đời VC vẫn là VC, cho dù chúng có thay đổi màu da như cắc kè… Lịch sử VN đã bị đảo lộn vì sự bóp méo của ngòi bút trí thức. Dân tộc VN bị mất chủ quyền đất nước và quyền sống vào tay ngụy quyền Hà Nội, cũng chỉ vì mù quáng tin thật vào những đảo lộn của lịch sử và hậu quả dối trá trên nay vẫn là món hàng thời thượng không mất giá. H.C.M một đời bán nước hại dân làm ngàn tội ác, nay vẫn được thành Bụt ngồi trên bệ thờ trong chùa, trước các đấng thần linh. Lũ ác gian ăn ốc, dân lành VN đổ vỏ từ thế hệ này cho tới thế hệ khác và tới bao giờ mới chấm dứt ? VN là như vậy đó, thì làm sao mà về nguồn để tìm lại bản sắc dân tộc Hồng Lạc ngàn đời, nay đã bị tức tưởi tanh hôi dưới hố sâu máu và xác người dân Việt đói nghèo trong ngục tù nô lệ VC ? 1- LỘT TRẦN NHỮNG BÓP MÉO XUYÊN TẠC VNCH : Ngày nay những luận điệu điêu ngoa láo bịp, bẻ cong ngòi bút của đám truyền thông báo chí phương tây mà phần lớn là Mỹ nhắm vào VNCH đã trở nên lỗi thời, sau khi Bắc Việt công khai xé bỏ hiệp ước ngưng bắn mà chúng đã ký với Hoa Kỳ vào năm 1973. Về trận chiến Tết Mậu Thân, Sir R Thompson, nhà bỉnh bút người Anh đã dựa vào lời kể của Dương Quỳnh Hoa, Trần Văn Trà, Hoàng Văn Hoan, Viễn Phương.. viết: “Ðây là ý đồ của Võ Nguyên Giáp, muốn tạo sai lầm chiến thuật, để đẩy VC miền Nam vào chỗ chết. Có vậy Hà Nội mới đưa được cán binh Bắc Việt vào Nam trám chỗ các đơn vị địa phương vừa bị QLVNCH và Ðồng Minh tiêu diệt, để dành lấy địa vị độc tôn sau cuộc chiến”. Sự thật là vậy nhưng hệ thống truyền thông HK đã đổi trắng thay đen, biến thất bại quân sự của CS tại miền Nam thành một chiến thắng chính trị trên đất Mỹ, gieo sự nghi ngờ tới tầng lớp dân chúng về những công bố của chính phủ trong cuộc chiến VN. Từ đầu năm 1967, Hà Nội đã ban hành nghị quyết số 13, kêu gọi đồng bào miền Nam “đồng khởi” để giành thắng lợi trong một thời gian ngắn. Sở dĩ có hiện tượng này là vì Ðảng quá tin tưởng vào cảnh rối ren đang xảy ra khắp VNCH nhất là tại Miền Trung, bỉ ổi tới cái độ đem bàn thờ Phật ra đường để biểu tình. Vin vào cảnh loạn ngầu trên, Lê Duẩn kết luận rằng khi phát động cuộc tổng công kích, dân chúng miền Nam sẽ đứng dậy theo chúng và lật đổ chính quyền như họ đã từng làm vào ngày 1-11-1963. Do ảo tưởng trên, Hà Nội đã chuẩn bị sẵn chính quyền tương lai cho miền Nam bằng cái gọi là “Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình” để làm mồi danh lợi câu bọn trí thức khoa bảng phản thùng VNCH. Ðồng thời dùng liên minh trên để thay thế Mặt Trận Ma GPMN đang hấp hối sắp bị tiêu diệt. Ngoài ra Duẩn còn ban lệnh cho tất cả cán binh bộ đội miền Bắc thẳng tay tàn sát “ngụy quân” để làm tan rã “ngụy quyền”. Kết quả VC đã gây nên một cuộc tàn sát có một không hai trong giòng sử Việt tại VNCH mà ghê gớm nhất ở cố đô Huế. Tất cả đều là ảo tưởng vì chỉ có Huế bị giặc chiếm lâu ngày nên đồng bào không chạy thoát được. Những nơi khác tại VNCH, kể cả hai thành đồng của “bác” là Phan Thiết và Bến Tre, cũng chẳng thấy ai đứng dây đồng khởi. Ngược lại ở đâu đồng bào đều di tản vào các vùng do QLVNCH trấn giữ, để tránh bị thảm sát vì giặc và bom đạn. VC còn hoang tưởng tới độ cho rằng lính miền Nam đánh thuê cho Mỹ, nên không có lý tưởng, do đó sẽ buông súng đầu hàng “cách mạng” chống lại chánh quyền. Nhưng đã không có chuyện gì xảy ra. Và dù quân số tại hàng rất ít, thế mà QLVNCH vẫn giữ vững được phòng tuyến và phản công sau đó để chiếm lại hầu như tất cả những lãnh thổ bị giặc cưỡng chiếm ban đầu. Dịp này Duẩn bắt giam Hoàng Minh Chính, Vũ Ðình Huỳnh, Ðặng Kim Giang… đồng thời sang chầu Nga, Tàu mua chịu bom đạn súng ống. Riêng Mao tăng viện cho 300.000 quân phòng không và công binh, để giúp phòng thủ đất Bắc từ Thanh Hóa trở ra. Theo Xuân Sách thì năm 1967, không quân Hoa Kỳ oanh tạc Bắc Việt dữ dội. Kế hoạch tổng công kích Tết Mậu Thân nhằm tấn công thẳng vào VNCH, cũng để giải vây cho Hà Nội. Tất cả các kế hoạch đột kích miền Nam được chuẩn bị rất chu đáo và bí mật, trong đó có công tác của đội văn công trung ương. Vì quá tin tưởng sẽ chiếm được VNCH nên Duẩn ra lệnh cho Xuân Sách, Huy Du, Vũ Trọng Hối, Huy Thục, Doãn Nho… dàn dựng một bản đại hợp xướng với tiêu đề “Xuân chiến thắng”, được nữ ca sĩ Kim Oanh hát và thu vào băng nhựa để phát ra khắp miền Nam sau khi chiếm được Sài Gòn vào giờ G. Nhưng năm Mậu Thân 1968 vĩnh viễn không có giờ G để đám Việt Gian có dịp hát. Vì vậy cuối cùng Ðảng chỉ xài có phần 3 của bảng hợp xướng để tuyên truyền qua tựa “VN trên đường chúng ta đi”. Chính Võ nguyên Giáp là người đã soạn thảo kế hoạch còn Hồ Chí Minh thì ban lệnh tổng tấn công, qua bài thơ máu nay vẫn còn : “Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua Thắng trận tin vui khắp mọi nhà Nam-Bắc thi đua đánh giặc Mỹ Tiến lên ! toàn thắng ắt về ta!” Giáp cũng là tác giả vụ “đổi lịch mới” từ 1-1-1968, để cho ngày mùng một Tết trên đất Bắc trùng với giờ giao thừa tại miền Nam, hầu đánh lừa dư luận để giữ kín bí mật quân sự. Sau tháng 5-1975, VC khoe thành tích và ăn mừng chiến thắng Mậu Thân hằng năm nhưng năm 1969, khi Giáp được một nhà báo phương tây phỏng vấn, thì cũng chính miệng hắn chối là Hà Nội không hề hay biết gì về cuộc chiến Tết Mậu Thân xảy ra tại Miền Nam. Tư cách của các chóp bu đảng CS là thế đó, nên khi chúng nắm được quyền lãnh đạo đất nước, VN không đói nghèo hèn nhục trước giặc Tàu và thế giới, thì mới là chuyện lạ. Trong khi đó tại VNCH, gần suốt 20 năm hiện diện, dù đang bị chiến tranh triền miên và từ Tổng thống Diệm tới Tổng thống Thiệu đều bị tố cáo tham nhũng độc tài, thế nhưng cả nước đâu cũng có quyền biểu tình xuống đường chống chính phủ, làm báo viết văn phỉ báng cá nhân cấp lãnh đạo không chừa lớn bé nếu thích, chẳng ai làm gì ai, vì đó là quyền tự do ngôn luận. Những câu chuyện sử mà sau tháng 5-1975 được viết kể lại để khoe thành tích “nằm vùng, đâm sau lưng người lính trận” của đám Việt Gian như là những vết dao trí mạng của cuộc đời. Bi thảm nhất là ngay tại thủ đô Sài Gòn vào những ngày lửa đạn người chết nhà cháy, thì một số chùa đình lại là nơi giặc Hồ đặt Bộ Chỉ huy quân sự, kho chứa súng đạn, hầm giấu người… Trên tờ Thế Giới Mới số 220 xuất bản tại thành Hồ ngày 20-1-1997, sư Thích Trí Dũng đã khoe thành tích hợp tác với các đặc công trong Biệt Ðộng Ðội VC tại Thủ Ðức như Bùi Kỳ Vân, Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Bá, Nguyễn Văn Thắng… để xây dựng các cơ sở bí mật tại chùa Một Cột (Thủ Ðức) và chùa Phổ Quang kế phi trường Tân Sơn Nhất, để nuôi dưỡng và che giấu các tên đặc công thuộc Lữ đoàn 316 Biệt Ðộng Sài Gòn. Sư Dũng cũng là người chỉ huy trực tiếp các cơ sở bí mật của VC tại Sài Gòn cho tới ngày 1-5-1975. Tàn nhẫn vô nhân đạo nhất là hành động sư đã cậy nắp mồ của Ngô Ðình Cẩn để giấu súng đạn vũ khí bên trong. Trong trận Tết Mậu Thân, chùa Phổ Quang là điểm khai hỏa trong đêm tấn công phi trường cũng như chổ ẩn nắp của Trần Hải Phụng (Thiếu tướng công an VC) và Trần văn Bá (chỉ huy đặc công Sài Gòn-Gia Ðịnh). Trong khi đó chùa Giác Lâm ở Tân Bình (Gia Ðịnh), trong gian thờ Thập Ðiện Diêm Vương là cơ sở hậu cần nuôi chứa cán bộ hoạt động trong thủ đô. Các sư Hồng Hưng, Thiện Thuận đều là VC. Năm 1969 khi Hồ về chầu tổ Mác, chính chùa này đã công khai tổ chức lễ truy điệu cáo vương. Bên cạnh còn có chùa Giác Viên ở đường Lạc Long Quân, quận 11 Bình Thới, cũng là cơ sở hậu cần nuôi giấu cán bộ VC do sư Minh Nguyệt chỉ huy. 2- MẶT TRẬN SÀI GÒN : Từ tháng 4-1965, tổ đặc công thành lập tại Sài Gòn, Gia Ðịnh qua bí số T.300 thuộc Quân khu 6 do Ðỗ Tấn Phong chỉ huy, gồm hai tổ A-20 và A-30 có nhiệm vụ chuyển vận và chôn giấu vũ khí tại các cơ sở nằm vùng. Dương Long Sang, Sáu Mía, cha con Võ Văn Nhân phụ trách chuyển vận súng ống từ ngoài vào Sài Gòn bằng đường bộ và đường sông. Trước khi mở màn cuộc chiến, VC đã có được 8 hầm bí mật chứa vũ khí tại Sài Gòn gồm nhà Năm Lai ở 287/70 Nguyễn Ðình Chiểu (Gia Ðịnh), Nguyễn Thị Phê số 59 Phan Thanh Giản, Ðỗ Văn Căn số 183/4 Minh Mạng. Riêng Bộ Chỉ Huy Ðặc Công thì đặt tại tiệm phở Bình. Ba Ðen (Ngô Thanh Vân) chỉ huy toán đánh Tòa Ðại Sứ Mỹ, Trần Phú Cương chiếm Ðài Phát Thanh, Lê Tấn Quốc tấn công Dinh Ðộc Lập và Ðỗ Tấn Phong đột kích Bộ Tổng Tham Mưu. Trong khi đó Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Nam của VC, vào những ngày sắp tết đóng tại Ba Thu là một xóm Việt kiều trên đất Miên, sát tỉnh Kiến Tường. Ðây là một gò đất nổi nằm giữa vùng đất trũng đầm lầy giáp với khu Ðồng Tháp Mười, mùa khô nước sông cạn nhưng sát đáy có nhiều bùn lún rất nguy hiểm. Trên bờ kênh có thể đi bộ nhưng cũng rất khó khăn vì đất thịt gồ ghề trơn trợt nếu có mưa. Năm đó VC được lệnh ăn Tết sớm vì lệnh tổng tấn công dự định vào ngày mùng bốn rạng mùng năm. Cũng theo kế hoạch, Ðảng sẽ tổ chức một Tết vĩ đại gọi là Tết Quang Trung tại vườn Tao Ðàn Sài Gòn để ăn mừng thắng lợi. Vì vậy trưa ngày 29 tháng chạp âm lịch (28-1-1968), tất cả Bộ đội VC tại Miền Nam cũng như BCH Miền gồm Võ Văn Kiệt (Sáu Dân), Trần Bạch Ðằng (Trương Gia Triều - Tư Ánh) đang lúc chuẩn bị ăn Tết thì nhận được lệnh hỏa tốc của Phạm Hùng (xứ ủy Miền Nam thay Nguyễn Chí Thanh đã chết), qua truyền đạt của Nguyễn văn Linh (Mười Cúc) “Tổng Tấn Công Miền Nam vào lúc 1 giờ sáng ngày Mùng Một Tết Nguyên Ðán Mậu Thân (31-1-1968)”. Vì có lệnh hưu chiến trong ba ngày Tết nên phía VNCH có phần lơ là trong việc phòng thủ, nhất là tại các yếu điểm Ðức Hòa, Bến Lức… nên VC đã dùng xuồng nhỏ di chuyển quân từ kênh kháng chiến tới kênh Bo Bo rồi vào sông Vàm Cỏ nằm đầy dọc trong các ruộng lúa và dọc bờ sông Bến Lức (Long An). Cuối cùng vào lúc 15g ngày 30 tết, VC đã tập trung tại Bến Cây Dương và gần sáng 01 mới tới Long Cang. Trong khi đó thì nhiều tỉnh ở Miền Trung và Cao Nguyên, trận chiến đã mở màn do lệnh không thống nhất vì “đổi lịch mới”. Riêng lực lượng chính tấn công vào Tổng Nha CSQG tại Sài Gòn là Tiểu đoàn Long An, từ Tiểu đòan trưởng xuống tới du kích, theo lời kể của Trần Bạch Ðằng, thì ai cũng đang say rượu. Bộ đội lệnh lạc và kế hoạch như thế, quả thật Võ Nguyên Giáp đã chơi màn tháu cáy sâu hiểm, lùa gọn cán binh Mặt Trận Ma GPMN vào tử lộ để QLVNCH và Ðồng minh tiêu diệt. Lúc 2 giờ 50 phút sáng mùng một Tết Mậu Thân, đang lúc đồng bào thủ đô đang vui vẻ đón xuân mới vì lệnh giới nghiêm được mở và là thời gian hưu chiến, nên quang cảnh ban đêm cũng rộn rịp như ban ngày. Bỗng dưng từ hướng Dinh Ðộc Lập trên đường Thống Nhất, các loại súng lớn nhỏ thi nhau nổ rầm trời, làm thành những cột khói xanh phá tan màn đêm. Tiếp theo là súng đạn nổ khắp nơi gần như bốn phương tám hướng, nơi nào cũng có, át hẳn tiếng pháo nổ đì đẹt. Mọi người túa ra đường coi vì tưởng có đảo chánh. Mãi tới 7 giờ sáng ngày mùng một Tết, đài phát thanh Sài Gòn mới ban lệnh giới nghiêm của Tòa Ðô Chánh và cho biết VC đang tấn công một vài nơi trong thành phố như Dinh Ðộc Lập, Tòa Ðại Sứ Mỹ ở đường Thống Nhất, Ðài Phát Thanh Sài Gòn trên đường Phan Ðình Phùng, BTL Hải Quân ở Bến Bạch Ðằng, Bộ TTM, Ngã Tư Hàng Xanh ngoài xa lộ, Trại Hoàng Hoa Thám của Nhảy Dù, phi trường Tân Sơn Nhất, trại Quân Cụ ở Gò Vấp, Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, Tòa Ðại sứ Phi Luật Tân ở đường Trương Minh Giảng, Trại Phù Ðổng của Thiết Giáp… Tại Sài Gòn, VC tấn công 3 đợt bắt đầu đêm mùng một Tết, sử dụng lực lượng Biệt Ðộng Thành F-100 và các đơn vị chủ lực của cục R. do Trần Văn Trà, Mai Chí Thọ, Lê Ðức Anh, Võ Văn Kiệt, Nguyễn Văn linh và Trần Bạch Ðằng chỉ huy. Về phía QLVNCH ngoài lực lượng CSQG, các đơn vị cơ hữu chuyên môn… còn có Chiến Ðoàn 1 Dù (TÐ 1,6 và 8) từ Vùng 1 về + Liên Ðoàn 5 BDQ (TÐ 30, 33, 34 và 38) và Chiến Ðoàn B/TQLC. Trong những ngày lửa loạn, bộ mặt Sài Gòn khác hẳn với Huế, Nha Trang, Phan Thiết với quang cảnh chết thật sự. Tại thủ đô, dù hai bên đang đánh nhau ngập trời máu lửa nhưng ngoài phố lúc nào cũng đông người. Ðó là những nạn nhân chiến cuộc rời bỏ các vùng đang giao tranh để tới các khu an toàn hơn. Sau đó lại phải chạy lòng vòng vì rốt cục chỗ nào cũng xảy ra giao tranh. Ðó là bức tranh vân cẩu của những ngày tết Mậu Thân, ghi lại những khuôn mặt hốc hác đau khổ, bên cạnh xác chết, nhà cháy và sự thắc mắc trong lòng mọi người lúc đó là tại sao VC lại có thể mang được súng đạn vào SG nhiều quá vậy ? Cuối cùng VC cũng bị đánh bật ra khỏi thủ đô, chỉ tội nghiệp cho đồng bào cứ tin theo đài BBC Luân Ðôn với những loan báo trên trời dưới biển, làm cho cả chánh phủ VNCH lẫn Hoa Kỳ phải yêu cầu người Anh cãi chánh mãi. 3- THẢM SÁT TẾT MẬU THÂN TẠI HUẾ : Tỉnh Thừa Thiên nằm giữa miền Trung VN, có diện tích 5054km2 và dân số tính đến năm 2000 là 1.045.134 người với các quận Phong Ðiền, Quảng Ðiền, Hương Trà, Phú Vang, Hương Thủy, Phú Lộc, A Lưới và Nam Ðông. Tỉnh lỵ là thành phố Huế hiện có diện tích 380km2 với 209.043 người. Theo từ nguyên, Huế là do Hoá tên nôm của Thuận Hóa đọc trại ra nhưng đến nay vẫn chưa tìm được xuất xứ, ngoài tên Huế được đề cập lần đầu, trong bài văn viết bằng chữ nôm “Thập giới cô hồn quốc ngữ văn” của đại đế Lê Thánh Tôn (1460-1497). Là cố đô của nhà Nguyễn (1802-1945), Huế muôn đời vẫn đẹp và thơ mộng, mang nhiều sắc thái tiêu biểu cho dân tộc, nhân chứng của một chặng đường lịch sử, văn hóa, kiến trúc VN, nên trong hội nghị lần thứ 17 tại Catagenna nước Columbia, vào tháng 12-1993, tổ chức UNESCO của LHQ, đã công nhận Huế là di sản văn hóa của nhân loại cần bảo tồn Nghĩ về Huế, dù là địa phương hay kẻ viễn khách, ai cũng đều ưa thích những công trình kiến trúc lịch sử cung điện và lăng tẩm của các tiên vương nhà Nguyễn. Kinh thành Huế do vua Gia Long cho khởi công xây cất từ năm 1805 mãi tới năm 1838 đời vua Minh Mạng mới xong. Ðây là một tòa thành hình vuông, mỗi cạnh 2.223m, bề cao 6,60m, chân thành có hào sâu 4m, phía đông nam sát bờ sông Hương nhìn về phía trước là núi Ngự Bình. Ngoại thành hướng bắc có pháo đài Mang Cá, ngoài ra còn có 10 cửa chính với những vọng lầu cao ngất, dùng để ra vào. Tòa thành được kiến trúc độc đáo, từ kiểu Vauban của Pháp cho tới nghệ thuật xây cất Á Ðông, biểu hiện nét hoành tráng, lộng lẫy nhưng không kém phần thơ mộng trang đài từ vách thành, vọng lầu, cửa ngọ môn… cho tới đền đài cung các được chạm trổ, điêu khắc hài hòa trong cảnh trí thiên nhiên tuyệt diệu. Ngược dòng lịch sử, từ năm 1366 Huế đã là thủ phủ của Ðàng Trong, tức là hai Châu Ô, Rí do vua Chế Mân của Chiêm Thành dâng cho nhà Trần làm sính lễ cưới công chúa Huyền Trân của Ðại Việt, từ đó trở thành đất Thuận Hóa. Những gì còn lại của Huế hôm nay chỉ là một phần công trình của cố đô trong đống gạch vụn do Việt Cộng và bọn Việt Gian VNCH tàn phá vào Tết Mậu Thân 1968. Ngoài ra Huế còn nhiều nét tiêu biểu khác như Chùa Thiên Mụ, cầu Trường Tiền, Chợ Ðông Ba, với trường Quốc Học cổ kính nằm cạnh bờ sông với hàng phượng vỹ nở rộ mỗi độ hè về, núi Ngự Bình trước tròn sau méo, sông An Cựu nắng đục mưa trong, hồ Tịnh Tâm sen nở ngút ngàn và Phú Văn Lâu trơ gan cùng tuế nguyệt. Nói tới Huế để nhớ về những hình ảnh nổi bật dịu dàng của người dân đất Thần kinh như mái tóc thề, tà áo dài trắng, chiếc nón bài thơ, những giọng hò, câu hát… tất cả là những nét đẹp làm Huế miên viễn sống với sông núi thời gian. Ðến Huế để ăn những món vương giả cũng như bình dân tính hơn 600 món vừa chay vừa mặn, vừa cháo vừa chè, kể cả bánh, mứt và đủ thứ dưa. Ðến Huế đâu quên món bún bò giò heo cọng to rất cay, rồi thì bánh khoái nơi cửa Thượng Tứ, chiều tối đi ăn cơm Âm Phủ, là thứ cơm thập cẩm đặc biệt với món dưa gang làm món chua rất ngon. Cũng đâu quên được cơm hến bến Cồn, một hương vị đặc thù của Huế, giống như nem chua An Cựu, mè xửng và ốc gạo bến Cồn, mực Thuận An và sò huyết Lăng Cô. Cuối cùng nhớ Huế là nhớ đến công trình mở nước vĩ đại của các Chúa Nguyễn Hoàng, Sãi Vương, Hiền Vương, Phúc Chu, Phúc Trú… cho ta một giải giang sơn gấm vốc tới tận mũi Cà Mâu no giàu để con cháu về sau một đời sung mãn. Những đấng Tiên Vương công đức và sự nghiệp ngất cao như núi trên, từ khi VC lên nắm quyền, đã bị chúng huỷ diệt, để giành công, giành tiếng và giành địa vị độc tôn yêu nước trong dòng sử Việt. Từ năm 1967, Hà Nội đã quyết định tổng tấn công VNCH vào những ngày hưu chiến Tết Mậu Thân 1968. Trong số 44 tỉnh, thị tại miền nam bị đột kích, thì Sài Gòn và Huế là quan trọng hơn cả. Vì trại Lực lượng đặc biệt A Shau rút đi, nên thung lũng A Shau bị bỏ ngỏ và VC đã lợi dụng dịp này để chuyển một số lớn bộ đội vào tấn công Cố đô với sự dẫn đường chỉ lối của đám Việt gian VNCH tại Huế. Trận chiến mở màn vào sáng mồng 02 Tết, nhằm ngày 31-1-1968, bằng 2 cánh quân : Ðoàn 6 gồm các tiểu đoàn đặc công K1, K2, K6 và K12 từ phía bắc tả ngạn sông Hương, tấn công BTL. SĐ I BB tại đồn Mang Cá, phi trường Tây Lộc, Ðại Nội. Ðoàn 5 gồm các tiểu đoàn K4A, K4B, K10 và K21 từ phía nam hữu ngạn sông Hương, hợp với Thành đội tấn công các cơ sở hành chánh phía nam. Ngoài ra còn có Ðoàn 9 gồm 2 tiểu đoàn 416, 418 hợp với 1 đơn vị mang tên Ðường 12, tấn công mặt tây. Cũng nói thêm là VC đã lợi dụng những xáo trộn tại Huế trong các năm 1965,1966, xâm nhập hoạt động cũng như móc nối dụ dỗ một số học sinh, sinh viện quá mê thầy mà phản bội lại VNCH. Thật ra mặt trận quan trọng nhất của VC ở Huế là mặt trận chính trị, vì vậy Hà Nội bất chấp máu xương của cán binh và thường dân vô tội, ra lịnh cho đám tàn binh phải cố thủ trong Ðại Nội dù thực trạng bi thảm tuyệt vọng bởi các vòng vây của quân lực Hoa Kỳ và VNCH. Phụ trách công tác tổng khởi nghĩa, để lập chính quyền cách mạng ở Huế là Hoàng Kim Loan và Hoàng Lanh, đã vào nằm vùng từ lâu trong nhà một giám thị trường Quốc Học là Nguyễn Ðoá. Ngoài ra còn có Nguyễn Trung Chính, Nguyễn Hữu Vân (giáo sư trường Âm nhạc kịch nghệ), Phan Nam, Nguyễn Thiết. Ngày 14-2-1968 đài VC phát thanh tại Hà Nội cho biết đã lập xong chính quyền cách mạng tại Huế do Lê Văn Hảo làm chủ tịch, còn Ðào Thị Xuân Yến và Hoàng Phương Thảo làm phó. Ngoài ra còn có cái Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình được Hà Nội nặn ra ngày mồng ba Tết (1-2-1968) cũng do Lê Văn Hảo, tiến sĩ giảng sư về nhân chủng học tại Ðại học Huế và Sài Gòn làm chủ tịch liên minh. Theo Hảo vì trốn lính, nên 1953 qua Pháp du học và tiêm nhiễm chủ nghĩa cọng sản của Trần Văn Khê, Nguyễn Khắc Viện, rồi vào các năm 1965, 1966, dù đang sống trong cảnh giàu sang, chức trọng lại được khỏi đi lính nhưng vẫn tán tận lương tâm, theo VC nằm vùng là Hoàng Phủ Ngọc Tường và Tôn Thất Dương Tiềm. Hai tên này vào MTGPMN và ra bưng cuối tháng 12-1967. Trong Liên Minh Ma này còn có Hoàng Phủ Ngọc Tường, Thích Ðôn Hậu, Nguyễn Ðoá, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân... Tóm lại mặt trận được chỉ huy tổng quát bởi Lê Minh, Trưởng ban an ninh khu ủy Trị Thiên, còn Tống Hoàng Nguyên và Nguyễn Đình Bảy Khiêm chỉ lo về phần thủ tiêu, giết người vô tội tại Huế. Theo Bảy Khiêm, chính y đã giết rất nhiều sĩ quan và cán bộ, công chức VNCH bị kẹt tại Huế, cùng các giáo sư người Ðức dạy tại Ðại học Y khoa, qua chỉ điểm của VC nằm vùng và sau này Lê Minh lẫn Bùi Tín đều xác nhận Việt Cộng đã tận tuyệt tàn sát vô nhân đạo đồng bào vô tội tại Huế vào Tết Mậu Thân 1968. Ngay từ đầu, nhờ lợi dụng dịp hưu chiến, nhiều đơn vị cho các quân nhân về nhà ăn Tết, nên VC đã chiếm được hầu hết các cơ sở hành chánh, khu Đại Nội, chợ Ðông Ba, cửa Thượng Tứ, An Hòa, Chánh Tây… ngoại trừ BTL. SĐ I BB tại đồn Mang Cá, cơ sở MACV, Tiểu khu Thừa Thiên, Ðài phát thanh, Trường Kiểu Mẫu và cầu tàu Hải Quân vẫn do QLVNCH kiểm soát. Ngày mồng ba Tết 1-2-1968, một ngày sau đó, Chiến đoàn Dù với 2 tiểu đoàn 2, 7 và chi đoàn 2/7 từ phía bắc vào giải vây Huế. Hai đại đội TQLC cùng 4 chiến xa M48 trong Chiến doàn X-Ray đóng tại Phú Bài cũng về Huế tăng cường phòng thủ MACV. Chiều ngày mồng 4 Tết, TÐ 9 Dù được trực thăng vận vào chiến trường. Từ đây cho tới ngày 12-2-1968, cuộc chiến trở nên khốc liệt bạo tàn với sự tổn thất nhân mạng rất cao của cả hai phía. Cùng ngày đó, Chiến đoàn A Thủy quân lục chiến VN gồm các tiểu đoàn 3, 4, 5 thay thế chiến đoàn Dù, tiếp tục giải tỏa áp lực VC tại sân bay Tây Lộc và Ðại Nội. Ngày 19-2 TQLC mở chiến dịch Sóng Thần 739/68. Ngày 22-2 hai tiểu đoàn 21 và 39 BDQ được tăng cường tại Huế và VC cũng bắt đầu tháo chạy. Ngày 25-2-1968 Biệt động quân chiếm lại Khu Gia Hội, chấm dứt chiến cuộc tại Huế với đổ nát, điêu tàn, nhà cửa, cầu cống, cây cối, đường xá gần như tử địa với xác người nằm la liệt đã sình thối. Tất cả chỉ còn là sự tàn nhẫn, thê lương, từ bàn tay đẫm máu của VC và bọn Việt gian mang đủ loại mặt nạ gây nên. Tóm lại không còn lời nào để đủ viết về Huế đang quằn quại trong lửa máu, giống như những nhịp cầu Tràng Tiền trên Hương Giang đớn đau gãy sập. Hỡi ôi sắt thép, gỗ đá còn biết rơi nước mắt với Huế thê lương, trong khi đó lại có không ít người thản nhiên đứng vỗ tay cười. Những hành động dã man nhắm vào dân lành tại Huế, làm nhớ tới Nga Sô tàn sát hơn 5000 hàng binh Ba Lan phần lớn là sĩ quan vào tháng 9-1939 tại rừng Katyn ở phía tây thành phố Smolensk, chứng tỏ bản chất hiếu sát vốn tiềm tàng trong máu óc của cọng sản, dù chúng là ai chăng nữa, tất cả đều giống nhau vì cùng chung một tổ, một lò. Trong trận chiến Tết Mậu Thân 1968, Huế là thành phố bị thiệt hại nặng nhất về nhân mạng cũng như vật chất vì bị VC chiếm đóng lâu dài nhất. Riêng người Huế sở dĩ bị tàn sát dã man, theo một số nhân chứng, do VC được chỉ điểm bởi một số nằm vùng địa phương vì thù oán nhau mà trả thù, rồi lại được tự do đi lại trong thành phố nên tự do hành động, nhất là trong khoảng từ mồng hai tới mồng bốn, tha hồ đi từng nhà, lôi từng người ra bắn giết theo ý muốn, đúng với kỹ thuật bắt và thủ tiêu theo KGB và Mao-ít. Ðọc lại những trang sử của VNCH từ 1963 tới tháng 4-1975, ngày nay cả thế giới đều công nhận là VC thua VNCH trên mặt trận quân sự nhưng ngược lại chiếm được miền Nam bằng thủ đoạn chính trị, qua phương cách xách động quần chúng, đồng thời vin vào đó mà nặn ra những mặt trận MA như Giải Phóng Miền Nam năm 1960, rồi sau đó là Hội Ðồng Nhân Dân Cứu Quốc do phần lớn cọng sản nằm vùng lãnh đạo như Lê Khắc Quyến, Lê Tuyên, Tôn Thất Hanh, Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Tôn Thất Dương Tiềm… Trong số các hung thần can dự tới bữa tiệc máu tại Huế, dư luận trước sau vẫn nhắm vào Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân. Năm 1966 khi còn là một sinh viên, Nguyễn Đắc Xuân từng tổ chức đoàn “Phật Tử Quyết Tử” quậy nát Huế, sau đó trốn theo VC và trở lại cố đô vào Tết Mậu Thân, phụ trách đội “Công tác thanh niên” và khuyến dụ các quân nhân VNCH bị kẹt, để lập cái gọi là đoàn nghĩa binh… Trái với dự đoán của cộng sản, dân chúng Huế không hưởng ứng tổng khởi nghĩa, trái lại bỏ trốn sang các khu vực có QLVNCH như Mang Cá, Trường Kiểu Mẫu, Tiểu Khu Thừa Thiên, Bến Tàu, Phú Bài… Bắt đầu ngày mồng ba Tết, QLVNCH và Hoa Kỳ phản công, ngày 7-2-1968 VC giựt sập cầu Trường Tiền. Ngày 15-2 Quân Ủy cọng sản tại Hà Nội ban lệnh cho VC tử thủ tại Huế, nhưng tình hình càng lúc càng bi đát cho VC nên Lê Minh muốn rút quân. Ngày 23-2 VC bị đẩy ra khỏi Huế, lá cờ VNCH lại tung bay trên kỳ đài ở Phú văn Lâu. Nói chung cọng sản tàn sát đồng bào Huế nhiều nhất là tại khu dân cư Gia Hội vì vùng này bị VC chiếm lâu nhất, từ ngày mùng 2 Tết đến 22-2-1968 mới được Biệt Ðộng Quân giải tỏa, bởi vậy giặc và Việt gian mới có cơ hội giết nhiều đồng bào vô tội. Cho đến nay không ai biết chính xác số người bị VC tàn sát tại Huế là bao nhiêu nhưng căn cứ vào thống kê số hài cốt tìm được trong một số hầm chôn tập thể sau khi giặc bị đánh đuổi khỏi thành phố, tại các địa điểm Trường Gia Hội, Chùa Theravada, Bãi Dâu, Cồn Hến, Tiểu Chủng viện, Quận tả ngạn, Phía đông Huế, Lăng Tự Ðức, Ðồng Khánh, Cầu An Ninh, Cửa Ðông Ba, Trường An Ninh Hạ, Trường Vân Chí, Chợ Thông, Chùa Từ Quang, Lăng Gia Long, Ðồng Di, Vĩnh Thái, Phù Lương, Phú Xuân, Thượng Hòa, Thủy Thanh, Vĩnh Hưng và Khe Ðá Mài... tổng cộng đếm được 2326 xác. Về câu hỏi tại sao VC tàn sát thường dân vô tội, đến nay Hà Nội vẫn tránh né, còn Võ Nguyên Giáp thì đểu giả hơn. Khi bị các ký giả ngoại quốc phỏng vấn sau Tết Mậu Thân, đã trả lời là Bắc Việt không hề biết vì đó là chuyện của MTGPMN và VNCH. Theo các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, động cơ cộng sản tàn sát dân chúng tại Huế, ngoài lý do nhỏ là sự trả thù do hờn oán trước đây giữa cá nhân và cá nhân, thì đó là theo kế hoạch phá huỷ và làm rối loạn bộ máy cầm quyền của VNCH, điều này đã được ghi lại trong một tài liệu của cán bộ VC, bị SĐ 1 Không kỵ Hoa Kỳ bắt được tại tỉnh Thừa Thiên ngày 12-6-1968. Tàn sát để khủng bố và cảnh cáo đe dọa dân chúng đừng tòng quân chống cộng. Tàn sát tín đồ Công Giáo để chia rẽ sự đoàn kết tại miền nam, tạo sự nghi kỵ giữa các tôn giáo cho tới ngày VC cưỡng chiếm dược miền Nam mới chấm dứt vì VC độc tài đảng trị, cấm biểu tình xuống đường, nên bốn bên bốn phía bình đẳng chịu sống chung hòa bình. Từ đó mới không thấy tự thiêu, tuyệt thực và ra báo chống đối, bêu xấu, hạ nhục chính quyền như cơm bữa thời VNCH. Tàn sát dân chúng để gây tiếng vang với thế giới. Trong dòng Việt Sử, từ thời Vua Hùng dựng nước cho tới ngày nay, chỉ thấy có ghi lại một cuộc tàn sát tập thể là tàn sát tôn thất nhà Hậu Lý do Trần Thủ Ðộ gây ra vào năm 1232 bằng thủ đoạn cho giựt sập nhà trai đàn, giết chết chừng vài chục người trong tôn thất nhà Lý. Hành vi trên dù đã thuộc vào quá khứ, đến nay vẫn bị đời nguyền rủa, dù mặt thật của lịch sử, nếu không có Trần Thủ Ðộ sẽ không có Trần Thái Tông quyết chiến chống quân Mông Cổ xâm lăng Ðại Việt lần thứ 1 với câu nói vang danh thiên cổ : “Đầu Ðộ chưa rơi, không thể đầu hàng giặc Mông!”. Cũng qua dòng Việt sử, ta thấy kinh thành Thăng Long từ lúc được vua Lý Thái Tổ chọn làm kinh đô vào năm 1010 cho tới thời Pháp thuộc vào năm 1884 đã 10 lần bị giặc Tàu, giặc Chiêm, giặc Pháp tàn phá chiếm đóng (Pháp cũng chiếm đóng kinh thành Huế năm Ất Dậu 1885), nhưng tuyệt nhiên không thấy nói tới quân ngoại quốc tàn sát người Việt khi làm chủ thành. Tóm lại, dù bị kết tội như thế nào chăng nữa, người Tàu, Chiêm, Pháp cũng còn nhân đạo hơn VC trăm ngàn lần, về cung cách đối xử với thường dân trong chiến tranh. Ðem các biến cố năm 1885 tại Huế và 1946 ở Hà Nội để so sánh với Mậu Thân 1968 tại Huế, bỗng thấy lạnh mình về những lời chạy tội của tên Ðại Tá VC Bùi Tín, khi trả lời về cuộc tàn sát của VC đối với thường dân tại Huế năm 1968. Theo nhận xét của Nguyễn Đức Phương trong “Chiến Tranh toàn tập”, thì Bùi Tín không biết gì về qui ước Genève dành cho tù binh chiến tranh, hoặc biết nhưng giả bộ ngây thơ không biết để có lý do bào chữa sự tàn ác dã man của cán binh VC và biết thêm về quan niệm của Hà Nội, luôn qui chụp tất cả những ai chống đối họ, đều bị gán là tù binh với kết quả như Bùi Tín nói là phải được chết để giữ gìn bí mật quốc phòng. Theo Chính Ðạo trong “Mậu Thân 1968 thắng hay bại?” thì sau khi các mật khu bất khả xâm phạm của VC tại Tam Giác Sắt, các chiến khu C-D bị quân Ðội Ðồng Minh và QLVNCH phá tan nát, khiến Nguyễn Chí Thanh trùm cộng sản Hà Nội, chỉ huy Cục R đã phải thay đổi chiến lược tại Miền Nam vào tháng 5-1967, là đưa chiến tranh vào thành phố để cứu nguy cho cán binh và cơ sở VC tại nông thôn đang sắp bị tiêu diệt. Nhưng rồi Nguyễn Chí Thanh đột ngột chết vào mùa thu năm đó và cái chết của y tới nay vẫn chưa được đưa ra ánh sáng vì có quá nhiều nguồn tin và các cách chết khác nhau từ VNCH, Bùi Tín, Hoa Kỳ và Xuân Vũ, một cán binh VC hồi chánh từng sống hơn 2000 ngày tại Củ Chi và rất thân cận cũng như am tường chuyện thâm cung bí sử của vua chúa VC tại Cục R. Do trên, Lê Duẩn ra lệnh cho Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Lê Ðức Thọ, Phạm Văn Ðồng… cải tiến kế hoạch đột kích của Nguyễn Chí Thanh, thành tổng công kích và thêm vào đó là lập một mặt trận ngoại giao chính trị. Cũng theo Chánh Đạo, thì việc Trần Ðộ năm 1968 là Phó chính uỷ B2, phụ trách tình báo, có địa vị tại cục R rất khiêm tốn so với Phạm Hùng, Trần Nam Trung, Trần Văn Trà, Lê Trọng Tấn… nên dù là một trong những cấp chỉ huy trong mặt trận tại Sài Gòn vào Tết Mậu Thân 1968, cũng chưa chắc được Quân Ủy Hà Nội thông báo các kế hoạch bí mật trong Ðảng và lời tuyên bố không có cơ sở với ký giả Stanley Karnov năm 1981 rằng phản ứng của Mỹ trong cuộc chiến này chỉ là sự may mắn không có dự liệu trước. Chỉ vì dã tâm xâm lăng cho được VNCH, mà Hà Nội trong cuộc chiến Mậu Thân đã giết hại hàng chục ngàn người trên toàn quốc và chỉ riêng tại Huế lại chôn sống đồng bào, vậy mà tới nay từ Hà Nội cho tới bọn cộng sản tại Huế vẫn coi như không hề xảy ra một chuyện gì và cũng chẳng có ai nhận trách nhiệm, ngoài việc công khai đổ hết nợ máu cho Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ ngọc Tường, Hoàng Phủ ngọc Phan, Nguyễn Ðoá, Nguyễn Đắc Xuân. Năm 1998, ngày giỗ chung của gần 100.000 người VN chết trong cuộc chiến cũng là ngày VC ăn mừng chiến thắng Mậu Thân, ca tụng bài thơ của Hồ viết chúc Tết đồng thời cũng là mật hiệu cho cán binh tại miền nam mở cuộc tiệc máu. Chính Bộ Trưởng quốc phòng Bắc Việt lúc đó là Võ Nguyên Giáp soạn thảo kế hoạch, Phạm Hùng Ủy viên Bộ Chính trị chỉ đạo Trung Ương Cục Miền Nam chỉ huy trận tổng tấn công, vậy mà cũng chính Võ Nguyên Giáp đã trâng tráo dám nói láo với nhà báo Tây Phương vào năm 1969 là hoàn toàn vô can, vô trách nhiệm. Ðây là một tội danh thiên cổ mà VC đã gây ra trong dòng sử Việt, được các sử gia xếp chung với bốn cuộc tàn sát lớn trên thế giới cận đại như vụ quân Nhật tàn sát 300.000 người Hoa tại thành Nam Kinh ngày 13-12-1937, việc Ðức quốc xã giết hàng triệu dân Do Thái trong Đệ nhị Thế chiến 1939-1945, kế đến là cộng sản Liên Xô tàn sát 15.000 tù binh Ba Lan năm 1940 và Khmer đỏ tàn sát hơn 2 triệu dân lành sau năm 1975 khi chiếm được Cao Mên. Theo Nguyễn Lý Tưởng, thì những hành động dã man của VC tại Thành Nội và Gia Hội, do cái gọi là Toà Án Nhân Dân được quyết định bởi các chóp bu trong Liên Minh Dân Chủ Hòa Bình là Lê Văn Hảo, Thích Ðôn Hậu, bà Nguyễn Ðình Chi… nhưng chủ chốt và dã man tàn bạo vẫn là bọn theo phong trào tranh đấu chống VNCH năm 1966, sau đó theo VC và quay về Huế như Hoàng Phủ ngọc Tường (giáo sư), Hoàng Phủ Ngọc Phan (sinh viên y khoa), Nguyễn Đắc Xuân (sinh viên sư phạm), Trần Quan Long (sinh viên sư phạm), Phan Chính Dinh hay Phan Duy Nhân (sinh viên)… dẫn an ninh VC như Tống Hoàng Nguyên, Bảy Khiêm… đi lùng bắt bạn bè, thân nhân, các thành phần quân, công, cán, chính VNCH cũng như các đảng phái bị kẹt lại tại Huế. Hiện nay tất cả những bí mật của lịch sử gần như được khai quật trong đó có cuộc thảm sát thường dân tại Huế năm Mậu Thân. Những tội nhân thiên cổ ngoài bản án của lương tâm, đạo đức và sự nguyền rủa của đời, nên không ngớt tìm đủ mọi cách để biện minh về tội lỗi của mình. Năm 1988, trên báo Sông Hương và được dịch đăng lại trên tờ Newswwek ở Hoa Kỳ, Ðại Tá Bắc Việt Lê Minh, nguyên chỉ huy mặt trận Thừa Thiên-Huế, xác nhận và chịu trách nhiệm về việc tàn sát dân chúng Huế nhưng vẫn đưa ra lý do là lúc đó VC đang ở vào giờ thứ 25, nên không kiểm soát được. Còn thủ phạm chính Hoàng Phủ Ngọc Tường thì đổ thừa cho cục bộ, địa phương chứ không phải tại đảng, vẫn giữ nguyên ý là miền nam mất vì cách mạng chứ không bị cộng sản quốc tế xâm lăng, và trên hết vào ngày 12-7-1997 Tường công khai chối tội là không tham dự mặt trận Huế, vì lúc đó y đang trốn tại địa đạo trong quận Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Còn nhân vật bị bia miệng nhắc tới là Hoàng Phủ Ngọc Phan mà người Huế tưởng lầm là Lê Văn Hảo hiện đang sống tại Pháp cũng chối tội. Sau rốt chỉ có Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân vì lúc đó gần như là công an, cai tù, chánh án và đao phủ thủ.. nên người Huế ai cũng nhận được, vì vậy phải chịu tai tiếng nhơ nhớp muôn đời. Ngày nay ai cũng biết Tết Mậu Thân VC thua lớn và Tổng thống Hoa Kỳ là Johnson phải trực tiếp chịu trách nhiệm trước lịch sử vì đã cố tình tạo nên một lỗi lầm nghiêm trọng về đạo đức, gây tử vong cho nhiều người, có thể tránh khỏi nếu được báo trước sự thật. Tóm lại, dù Hà Nội đã chuẩn bị kế hoạch cưỡng chiếm VNCH thật chu đáo, cũng như đã tin tưởng tuyệt đối vào đám Việt gian Miền Nam nhưng cuộc tổng tấn công đã hoàn toàn thất bại về quân sự. Chúng cũng thua VNCH về phương diện đạo đức và chính nghĩa, khi đã tàn nhẫn bất lương, xô đẩy hàng trăm ngàn người vào cõi chết, kể cả bắt các thiếu niên đi lính đỡ đạn “sanh bắc tử nam”. Hồ, Duẩn lẫn Giáp đã phỉnh gạt cán binh chết lót đường cho chúng khi nói láo rằng “Miền Nam đã được giải phóng, nên miền Bắc chỉ vào tiếp thu mà thôi”. Rốt cục cận sử VN chỉ là một canh bài bịp, Hồ và băng đảng VC đã thắng cuộc, đã xây được một nấm mồ tập thể vĩ đại tại Huế và khắp nước suốt cuộc chiến “nồi da xáo thịt” từ 1945 đến 1975. Ngoài ra còn phải nói tới cái gọi là “bạo lực cách mạng”. Chính nó mới là niềm vinh quang của đảng. Hỡi ôi đã 40 năm qua rồi nhưng những ai còn sống sót sau cuộc chiến, chắc chắn làm sao quên được cảnh giết người man rợ của VC trong những ngày Tết Mậu Thân 1968. Xóm Cồn Hawaii, tháng giêng 2008
Thảm sát tại Huế Douglas Pike Huế là một trong những thành phố buồn nhất trên trái đất chúng ta, không phải chỉ vì những gì đã xảy ra ở đấy vào tháng 02-1968 mà vốn không thể tưởng tượng. Đó còn là một lời khiển trách thầm lặng đối với tất cả chúng ta, những kẻ thừa hưởng 40 thế kỷ văn minh nhưng trong thế kỷ này, lại đã cho phép những quan điểm tập thể hóa đẩy chúng ta vào những tội lỗi hiện đại xấu xa nhất, từ thờ ơ đến vô nhân đạo. Những gì đã xảy ra ở Huế làm cho mọi ai còn là văn minh trên hành tinh này phải dừng lại suy nghĩ. Nó phải được khắc ghi để khỏi bị quên lãng cùng với những hành xử vô nhân đạo khác giữa loài người với nhau vốn đã rải rác ghi dấu lịch sử nhân loại. Huế là một minh chứng khác về việc con người có thể đẩy mình đến chỗ làm những gì khi nó không đặt giới hạn cho hành động chính trị mà lại vô tình theo đuổi giấc mơ về một xã hội hoàn hảo nào đó. Những gì đã xảy đến tại Huế có thể được mô tả cụ thể qua vài con số thống kê. Một lực lượng Cộng sản lên tới 12,000 người đã xâm chiếm thành phố Huế đêm mồng một Tết, ngày 30-01-1968. Họ đã ở lại 26 ngày và sau đó bị quân đội (Việt Nam Cộng Hòa và đồng minh) đánh bật ra khỏi. Sau cuộc tấn công dịp Tết này, 5,800 thường dân Huế đã bị giết hại hoặc mất tích. Nay người ta biết phần lớn trong họ đã chết. Xác của phần lớn họ từ đó đã được tìm thấy trong những nấm mồ cá nhân và tập thể khắp tỉnh Thừa Thiên vốn bao quanh thủ đô văn hóa của Việt Nam này. Đấy là những sự kiện cơ bản, những thống kê quan trọng. Thế giới không tọc mạch biết được gì về Huế thì cũng chỉ như thế, vì đó là những gì đã được báo chí thế giới ghi lại cách khiêm tốn sơ sài. Xem ra nó đã chẳng ảnh hưởng gì lên lương tri hay lương tâm của thế giới cả. Đã không có những phản đối mạnh mẽ, những cuộc biểu tình trước các tòa Đại sứ Bắc Việt khắp năm châu. Trong một cung giọng hết sức cay đắng, người dân ở đây sẽ nói với bạn rằng thế giới không biết chuyện gì đã xảy ra ở Huế, hoặc nếu biết thì cũng chẳng bận tâm. Trận chiến Trận chiến tại Huế là một phần chiến dịch Đông-Xuân 1967-1968 của Cộng sản. Toàn bộ chiến dịch được chia làm ba giai đoạn: Giai đoạn I bắt đầu trong tháng 10, tháng 11, tháng 12 năm 1967 và đòi hỏi những “phương pháp chiến đấu phối hợp”, nghĩa là những trận đánh khá lớn, kiểu cổ điển nhắm vào các căn cứ quan trọng (của QLVNCH) hay những nơi tập trung quân Đồng minh. Các trận đánh ở Lộc Ninh tỉnh Bình Long, ở Dakto tỉnh Kontum và ở Cồn Tiên tỉnh Quảng Trị, cả ba tại các vùng đồi núi Nam Việt gần biên giới Cam Bốt và Ai Lao, đều là những trận đánh điển hình và do đó là yếu tố quan trọng của Giai đoạn I. Giai đoạn II diễn ra trong tháng 01, tháng 02, tháng 03 năm 1968, và kéo theo việc dùng “những phương pháp chiến đấu độc lập”, nghĩa là nhiều trận đánh do những đơn vị khá nhỏ thực hiện cùng lúc trên một diện tích lớn và sử dụng những chiến thuật du kích tiên tiến, tinh luyện. Vì rằng Giai đoạn I đã thực hiện chủ yếu với các toán quân chính quy Bắc Việt (lúc ấy khoảng 55.000 đang ở miền Nam), Giai đoạn II thực hiện chủ yếu với các toán Cộng quân miền Nam (tức Lực lượng Vũ trang Giải phóng). Cao điểm của Giai đoạn này là cuộc Tấn công Tết Mậu Thân trong đó 70,000 quân đánh vào 32 trung tâm dân cư lớn nhất của Nam Việt, kể cả thành phố Huế. Giai đoạn III, diễn ra trong tháng 04, tháng 05 và tháng 06 năm 1968, đầu tiên là phối hợp những phương pháp chiến đấu độc lập và hiệp đồng, kết thúc là một trận đánh lớn cố định đâu đó. Đây là điều mà các tài liệu bắt được đã thận trọng nhắc đến như “đợt sóng thứ hai”. Có thể đó đã là Khe Sanh, căn cứ Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ nằm ở góc cực Bắc của Nam Việt. Hoặc có thể là Huế. Đã không có đợt sóng thứ hai chủ yếu là vì trong Giai đoạn I và II, các biến cố đã không phát triển như mong đợi. Mặc dù vậy, cuộc chiến đã đạt tới độ đẫm máu nhất trong tám năm hồi ấy, suốt thời gian kể từ trận đánh Huế vào tháng 02 tới cuộc giải vây cho Khe Sanh vào mùa hè. Suốt ba tháng ấy, tổn thất của Hoa Kỳ trung bình vào khoảng 500 binh sĩ tử thương hàng tuần; tổn thất của Nam Việt gấp đôi; còn tổn thất của Việt Cộng (cả Bắc lẫn Nam) gần tám lần của Hoa Kỳ. Trong chiến dịch Đông Xuân, Cộng sản bắt đầu với khoảng 195,000 quân chính quy miền Bắc và du kích miền Nam. Suốt 9 tháng, họ mất (vì tử thương hay tàn phế vĩnh viễn) khoảng 85.000 người. Chiến dịch Đông Xuân là cố gắng toàn lực của Cộng sản nhằm đánh gãy lưng Quân lực Nam Việt và dồn chính phủ Việt Nam, cùng với các lực lượng Đồng minh, vào trong các khu vực phòng thủ ở thành phố. Nói cho đúng, Trận đánh Huế thuộc Giai đoạn I hơn Giai đoạn II vì nó đã sử dụng “các phương pháp chiến đấu hợp đồng” có lôi kéo quân đội Bắc Việt hơn là các du kích quân miền Nam. Về phía Cộng sản, chủ yếu là hai sư đoàn kỳ cựu của Bắc Việt trong đó có Sư đoàn 324-B, được tăng cường bằng các tiểu đoàn chính quy và một vài đơn vị du kích với khoảng 150 chính ủy và cán bộ dân sự địa phương. Tóm lại, trận đánh Huế gồm ba bước phát triển lớn sau đây: Cuộc tấn công khởi đầu của Cộng sản, chủ yếu do hai tiểu đoàn 800 và 802, đã đủ lực và đà để tiến vào Huế. Bình minh ngày đầu tiên, Cộng sản đã kiểm soát toàn thành phố ngoại trừ Bộ Tư lệnh Sư đoàn I Bộ binh và khu vực các cố vấn quân sự Mỹ. Việt và Mỹ đã điều động quân tiếp viện với mệnh lệnh tới hai điểm còn cầm cự đó để củng cố cho họ. Cộng sản liền điều động một tiểu đoàn khác, tiểu đoàn 804, với mệnh lệnh ngăn chận lực lượng tiếp viện. Việc này thất bại, hai điểm cầm cự đã được củng cố và không bao giờ còn bị đe dọa trầm trọng nữa. Từ đó, trận đánh mang tính cách một cuộc bao vây. Cộng quân ở trong Thành Nội và rìa tây thành phố. Quân Việt và Mỹ tại ba mặt còn lại, bao gồm phần phía Nam Huế của con sông (Hương), đã quyết tâm đánh bật chúng ra khỏi, với hy vọng ban đầu là dùng hỏa pháo và không kích. Nhưng Thành Nội được xây quá kiên cố và người ta đã sớm thấy rõ rằng nếu Cộng quân được lệnh cầm cự, thì chúng chỉ có thể bị đánh bật bằng chiến tranh thành phố, đánh chiếm từng nhà và từng khối, một hình thức chiến đấu đắt giá và chậm chạp. Lệnh đã được ban ra. Qua tuần thứ ba của tháng 02, việc bao vây Thành Nội đã tiến triển tốt đẹp và Quân đội VNCH lẫn Thủy quân Lục chiến Mỹ tiến từng thước qua Thành Nội. Sáng ngày 24 tháng 02, lính Sư đoàn I Bộ Binh giật xuống lá cờ VC đã treo 24 ngày trên vòng thành ngoài và thượng lá cờ mình lên. Trận chiến đã toàn thắng, dù thỉnh thoảng còn tiếp tục đánh nhau bên ngoài thành phố. Khoảng 2.500 cộng quân chết suốt trận đánh và 2.500 tên khác chết khi những thành phần Cộng sản bị truy đuổi bên ngoài Huế. Tử trận của Đồng minh là 357 người Những cuộc phát hiện Trong cảnh hỗn loạn tiếp theo sau cuộc chiến, mệnh lệnh đầu tiên cho công việc dân sự là cấp cứu, dưới hình thức cung cấp thực phẩm, ngăn ngừa bệnh dịch, săn sóc y tế cấp thời v.v… Tiếp đến là nỗ lực xây dựng lại nhà cửa. Chỉ sau đấy Huế mới bắt đầu lập bảng kê các thương vong của mình. Đã chẳng có một cuộc kiểm kê dân số thực sự ngay sau cuộc tấn công. Đến tháng 03, các viên chức địa phương mới báo cáo rằng 1.900 thường dân đã nhập viện với những vết thương chiến tranh và họ ước lượng rằng khoảng 5.800 người đã không tìm ra tung tích. Khám phá đầu tiên về các nạn nhân của Cộng sản là tại sân trường Trung học Gia Hội ngày 26-02: rốt cục 170 thi thể đã được tìm thấy. Trong những tháng kế tiếp, thêm 18 địa điểm chôn người được tìm thấy, lớn nhất là Tăng Quang Tự (67 nạn nhân), Bãi Dâu (77), vùng Chợ Thông (ước lượng khoảng 100), khu vực các lăng tẩm (201), Thiên Hàm (khoảng 200) và Đông Gi (khoảng 100). Tổng cộng gần 1,200 xác đã được tìm thấy trong những ngôi mộ đào vội vã, lấp sơ sài. Ít nhất một nửa trong họ đã cho thấy bằng chứng bị giết cách thảm khốc: hai tay bị trói bằng dây sau lưng, giẻ rách nhét đầy miệng, thân thể vặn vẹo không thương tích (cho thấy bị chôn sống). Gần 600 nạn nhân còn lại mang nhiều vết thương nhưng chẳng có cách nào xác định họ đã chết vì bị xử bắn hay vì lạc đạn. Nhóm phát hiện lớn thứ hai nằm trong bảy tháng đầu tiên của năm 1969 ở quận Phú Thứ (Độn Cát và Lệ Xá Tây), quận Hương Thủy (Xuân Hòa, Vân Dương) vào cuối tháng 03 và tháng 04. Thêm nhiều địa điểm chôn xác khác cũng đã được tìm thấy tại quận Vinh Lộc trong tháng 05 và quận Nam Hòa trong tháng 07. Lớn nhất trong nhóm này là các phát hiện ở Độn Cát tại ba địa điểm Vinh Lưu, Lê Xá Đông và Xuân Ổ, trong các cồn cát nhấp nhô với cỏ mọc thành búi gần biển Đông. Ngăn cách bởi những thung lũng đầm lầy nước mặn, các độn cát này thật lý tưởng để làm mộ địa. Trên 800 thi thể đã được phát hiện ở đây. Trong cuộc phát hiện ở Độn Cát, kiểu chung là trói các nạn nhân thành từng nhóm 10 hoặc 20 người, xếp hàng họ trước một con mương được dân công lao dịch địa phương đào rồi hạ sát họ bằng súng máy (một trong những kỷ vật trân quý của địa phương là một viên đạn súng máy đã bắn của Nga lấy được từ một ngôi mộ). Thường thì người chết bị chôn thành ba bốn lớp, khiến cho việc nhận diện hết sức khó khăn. Tại quận Nam Hòa là phát hiện thứ ba, hay còn gọi là phát hiện Khe Đá Mài, cũng được gọi là Phủ Cam tử bộ (dead march), diễn ra ngày 19-9-1969. Ba hồi chánh viên VC đã kể cho các sĩ quan tình báo của Lữ đoàn 101 Không vận HK rằng họ đã chứng kiến cuộc thảm sát vài trăm người tại Khe Đá Mài, cách phía nam Huế khoảng 10 dặm, vào tháng 02-1968. Vùng này rất hoang vu, không người ở và gần như bất khả xâm nhập. Lữ đoàn đã phái đi một nhóm thám sát, họ báo cáo rằng khe suối chứa rất nhiều xương người. Bằng việc ghép lại các mảnh thông tin, người ta xác định được những gì đã xảy ra tại Khe Đá Mài như sau: Vào ngày mồng 5 Tết tại Phủ Cam, nơi sinh sống của khoảng ba phần tư trong số 40.000 người Công giáo thành phố, một số lớn cư dân đã tìm nơi lẩn trốn trận đánh tại ngôi nhà thờ địa phương, một phương pháp lánh nạn chiến tranh thông thường tại Việt Nam. Nhiều người trong đó thật ra không phải là Công giáo. Một chính ủy Cộng sản đã đến nhà thờ và ra lệnh cho khoảng 400 người, một số thì đích danh, một số xem ra vì ngoại diện của họ (trông giàu có hoặc nhìn như thương gia đứng tuổi, ví dụ vậy). Y nói họ sẽ đi đến “vùng giải phóng” trong ba ngày để học tập cải tạo, sau đó ai nấy có thể về nhà. Họ đã đi bộ chín cây số về hướng Nam đến một ngôi chùa nơi Cộng sản thiết lập bộ chỉ huy. Tại đó 20 người bị kêu ra khỏi nhóm, tập hợp trước một tòa án quân sự dã chiến, bị xét xử, bị tuyên tội, bị hành quyết và chôn trong sân chùa. Số còn lại bị dẫn qua qua bên kia sông và được giao lại cho một đơn vị Cộng sản trong một sự trao đổi có giấy biên nhận đưa cho viên chính ủy. Có lẽ viên chính ủy định rằng tù nhân của y sẽ được cải tạo rồi trở về, nhưng với chuyện bàn giao, mọi chuyện thoát khỏi sự kiểm soát của y. Suốt nhiều ngày kế tiếp, chính xác bao nhiêu không ai biết, những người bị bắt và những kẻ bắt người lang thang vùng nông thôn. Và rồi đến một điểm nào đó, Cộng sản địa phương đã quyết định thủ tiêu các nhân chứng: Các tù nhân bị dẫn qua sáu cây số của một trong những vùng đất gồ ghề lởm chởm nhất miền Trung Việt Nam, đến khe Đá Mài. Tại đấy họ đã bị bắn hoặc bị đập vỡ sọ và xác của họ bị để cho trôi đi theo giòng nước chảy. Nhóm binh lính lo nhiệm vụ chôn cất của lữ đoàn 101 Không vận thấy rằng không thể vào tới khe bằng đường bộ, vì đường không có hoặc không thể đi qua. Tán lá nơi khe là cái mà tại Việt Nam gọi là nhị tầng, nghĩa là hai lớp, lớp một gồm những bụi rậm và cây thấp sát đất, lớp hai gồm những cây lớn với cành lá xoè rộng trên cao. Bên dưới là ánh sánh thường xuyên lờ mờ. Công binh lữ đoàn đã bỏ hai ngày để mở một lỗ xuyên qua hai tầng lá bằng cách cho nổ các quả mìn lúc lắc cuối những sợi dây dài dưới các trực thăng lượn lờ của họ. Việc này đã tạo ra một mặt phẳng cho các trực thăng chở quan tài hạ xuống. Rõ ràng đây là nơi mà xác chết dễ dàng bị che giấu không cần phải chôn cất. Lòng khe Đá Mài, dài khoảng một trăm thước Anh tính ngược lên hẻm núi, để lộ nhiều sọ, nhiều bộ xương và nhiều mảnh xương người. Xác chết đã bị để trên đất (đối với những người thờ vật linh giữa họ, điều ấy có nghĩa là hồn họ sẽ lang thang trên trái đất hiu quạnh mãi mãi, vì đó là số phận của kẻ chết không được chôn táng) và 20 tháng trong dòng suối chảy đã rửa sạch trắng những bộ xương. Nhà chức trách địa phương sau đó đã phổ biến một danh sách gồm 428 người mà họ nói đã được nhận diện từ những gì còn lại ở lòng khe. Lý do căn bản Cộng sản đưa ra về cách hành xử thái quá của họ chính là tiêu diệt các “phần tử phản cách mạng”. Danh sách 428 nạn nhân được phân ra như sau: 25 phần trăm là quân nhân: hai sĩ quan, còn lại là hạ sĩ quan và binh sĩ; 25 phần trăm là học sinh sinh viên; 50 phần trăm là công chức dân sự, viên chức làng xã, nhân viên phục vụ đủ loại và công nhân bình thường. Nhóm phát hiện thứ tư hay Phát hiện Ruộng muối Phú Thứ là vào tháng 11-1969, gần làng đánh cá Lương Viện, khoảng mười dặm về phía Đông của Huế, một nơi hoang vu khác. Quân đội chính quyền từ đầu tháng đã bắt đầu một nỗ lực tập trung nhằm dọn sạch khu vực tàn quân của tổ chức Cộng sản địa phương. Dân làng Lương Viện, khoảng 700 người, từng giữ im lặng trước sự hiện diện của quân đội suốt 20 tháng trời, sau đấy xem ra cảm thấy đủ an toàn khỏi bị CS trả thù nên đã phá vỡ im lặng và dẫn các sĩ quan đến chỗ phát hiện mộ. Dựa trên các mô tả của những dân làng mà trí nhớ không phải luôn luôn rõ ràng, các viên chức địa phương đã ước lượng số thi thể tại Phú Thứ ít nhất phải 300 và có thể tới 1000. Câu chuyện không hoàn tất. Nếu sự ước lượng của nhà chức trách Huế gần đúng, thì khoảng 2,000 người vẫn còn mất tích. Tổng kết số người chết và mất tích: Sau trận đánh, chính phủ Nam Việt ước lượng số thương vong dân sự do trận đánh Huế là 7,600: Bị thương (đem vào bệnh viện hay chữa trị ngoại trú) với thương tật do chiến cuộc: 1,900 Thường dân ước lượng chết vì bom rơi đạn lạc: 844 Các phát hiện thứ nhất: thi thể tìm ra ngay sau trận đánh, 1968: 1,173 Các phát hiện thứ nhì, gồm cả các phát hiện ở Độn Cát, tháng 3-7/1969 (ước lượng): 809 Cuộc phát hiện thứ ba, khe Đá Mài (quận Nam Hòa), tháng 9-1969: 428 Các phát hiện thứ tư, ruộng muối Phú Thứ, tháng 11-1969 (ước lượng): 300 Các phát hiện linh tinh suốt năm 1969 (khoảng chừng): 200 Tổng số còn thiếu: 1,946 Tổng số thương vong tại Huế: 7,600
Lý do căn bản của Cộng sản Việc giết người tại Huế cho thấy cuộc thảm sát ở đây đã vượt xa mọi việc tàn ác của CS trước đó tại Nam Việt về số lượng. Điểm khác biệt không chỉ ở mức độ mà còn ở thể loại. Đặc tính của sự khủng bố nhận thấy từ việc nghiên cứu Huế hoàn toàn khác với những hành vi khủng bố của CS ở chỗ khác, dù thường xuyên hoặc tàn bạo. Cuộc khủng bố tại Huế không phải là một hành vi nâng cao tinh thần (Cộng quân) vì đã thọc sâu và nhanh vào hang ổ đối phương để chứng minh chỗ yếu nhược của kẻ thù, sự toàn năng của du kích, tính khác biệt với việc bắn gục thường dân trong những vùng do du kích kiểm soát. Đó cũng chẳng phải là cuộc khủng bố để quảng cáo chính nghĩa, để gây bối rối và cách ly cá nhân về tâm lý, vì phần lớn các cuộc chém giết đều thực hiện trong bí mật. Đó cũng chẳng phải là cuộc khủng bố để triệt tiêu các lực lượng đối nghịch, dù có giết vượt quá sổ đen. Huế đã chẳng theo mô hình khủng bố nhằm khiêu khích phản ứng thái quá của chính phủ Nam Việt vì nó đã chỉ dẫn đến cái gọi là sự trợ giúp của chính phủ thôi. Có nhiều yếu tố khách quan, chân thực, nhưng không yếu tố nào giải thích được kiểu cách giết người rộng khắp và đa dạng mà Cộng sản đã thực hiện. Điều được đưa ra đây là giả thuyết cho rằng có lôgic và hệ thống đằng sau những gì xem ra là một cuộc tàn sát ngẫu nhiên và đơn giản. Trước khi đề cập đến nó, chúng ta hãy xem xét ba sự kiện vốn thường xuyên xuất hiện với một du khách đến Huế để khám phá chính xác cái đã xảy ra tại đó và quan trọng hơn nữa, chính xác tại sao nó đã xảy ra. Cả ba sự kiện này lởn vởn trước ý thức thông thường và ở một mức độ nào đó, mâu thuẫn với những gì đã được viết ra. Ngay cả khi dò hỏi đủ mọi nguồn -tỉnh trưởng, cảnh sát trưởng, cố vấn Hoa Kỳ, nhân chứng tận mắt, tù nhân bắt được, cán binh hồi chánh hay một số ít người thoát chết cách kỳ lạ- ba sự hiện ấy vẫn nổi lên đi nổi lên lại. Sự kiện thứ nhất, mà có lẽ quan trọng nhất, là bất chấp những dáng vẻ bên ngoài, không cuộc giết người nào của CS là do thịnh nộ, thất vọng hay hoảng loạn khi Cộng sản cuối cùng phải rút lui. Những lối giải thích như thế thường được nghe, nhưng nếu xem xét cẩn thận thì không đứng vững. Ngược lại thì có, vì truy nguyên bất cứ vụ giết người đơn lẻ nào, sẽ khám phá ra rằng hầu hết đều là kết quả của một quyết định có suy nghĩ và biện minh được trong tâm trí Cộng sản. Quả thế, phần lớn những cuộc hành quyết đều từ tính toán, mệnh lệnh của CS. Sự kiện thứ hai : trong chừng mực xác định được, gần như như tất cả các vụ hành quyết đều do cán bộ CS địa phương chứ không phải do quân đội Bắc Việt hoặc quân lực Cộng hòa hoặc những tay CS bên ngoài nào khác. Khoảng 12,000 binh lính VNCH đã tham gia trận đánh Huế và đã giết một số thường dân trong tiến trình chiến đấu nhưng đó chỉ là ngẫu nhiên trong nỗ lực quân sự của họ. Đa phần trong số 150 cán bộ dân sự CS hoạt động nội thành đều là người địa phương, nghĩa là từ khu vực tỉnh Thừa Thiên cả. Chính họ đã ra những lệnh tử hình. Mà cho dù họ đã hành động theo các chỉ thị từ bộ chỉ huy cao hơn (theo hệ thống tổ chức CS, ai nấy phải đảm nhận những gì mình đã làm) thì những chỉ thị đó như thế nào, cho đến nay chẳng ai biết rõ được. Sự kiện thứ ba: ngoài các cuộc hành quyết điển hình xử tử những “cường hào ác bá” nổi bật, phần lớn các vụ sát hại đều đã được thi hành cách bí mật với nỗ lực lạ thường là giấu các thi thể. Phần lớn những kẻ bên ngoài đều hình dung Huế như một pháp trường công khai với những mồ chôn tập thể dễ thấy mới đào. Các cuộc hành quyết tuyên bố công khai chỉ có trong những ngày đầu và chúng tương đối hiếm hoi. Các địa điểm chôn xác trong thành phố dễ dàng khám phá vì khó mà tạo nên một nghĩa địa không ai để ý trong vùng đông đảo cư dân. Mọi nơi phát hiện khác đều đã được giấu kỹ, tất cả đều nằm tại vùng đất dễ che đậy; có lẽ đây là lý do đầu tiên khiến các địa điểm đã được chọn lựa. Một thân xác chôn vùi trong độn cát cũng khó tìm như một vỏ sò ấn sâu xuống bãi biển mà bị sóng xoá dấu vết liền. Khe Đá Mài nằm tại phần xa xôi hẻo lánh nhất của tỉnh Thừa Thiên và hẳn đã làm cho Cộng sản rất tốn công khi đưa các nạn nhân đến đó. Nếu ba cán binh hồi chánh đã chẳng dẫn những người tìm kiếm đến điểm hoang vu vắng vẻ này, thì hẳn các xác chết vẫn mãi không được khám phá cho tới ngày nay. Viếng thăm mọi địa điểm sẽ cảm nhận ấn tượng là CS đã hết sức cố gắng che giấu các hành động của họ. Giả thuyết nêu lên ở đây nối kết và xác định đúng lúc việc CS đánh giá về triển vọng ở lại Huế của họ với loại mệnh lệnh giết người đã ban ra. Từ việc xem xét kỹ các bằng chứng, ta thấy rõ là họ đã không có sự đánh giá bất biến về chính họ và về tương lai của họ tại Huế; đúng hơn, tình hình thay đổi suốt diễn trình trận đánh đã làm đổi thay các triển vọng và ý định của họ. Cũng rõ ràng không kém từ các bằng chứng là CS đã chẳng có chủ trương nào về các mệnh lệnh hành quyết; thay vào đó, loại mệnh lệnh giết người ban ra đã thay đổi suốt diễn trình trận đánh. Mối liên hệ giữa cả hai rất rõ và chia ra ba giai đoạn. Thành thử có giả thuyết cho rằng kế hoạch của CS thay đổi suốt trận đánh Huế ra sao thì bản chất các mệnh lệnh giết người ban ra cũng thay đổi thể ấy. Kết luận này dựa trên những lời tuyên bố không úp mở của CS, trên chứng từ của tù nhân và hồi chánh viên, trên tường thuật của các nhân chứng tận mắt, trên những tài liệu bắt được và trên lô-gích nội tại của tình hình CS. Suy nghĩ trong Giai đoạn I đã được phát biểu rõ ràng trong một nghị quyết của Cộng đảng ở Nam Việt (Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam) ra cho các cán bộ ngày áp cuộc tấn công: “Phải bảo đảm sao cho các thành thị giải phóng được củng cố thành công. Mau chóng kích hoạt các đơn vị vũ trang và chính trị, thiết lập các cơ quan hành chánh ở mọi cấp, xúc tiến các hoạt động dân sự tự vệ và yểm trợ chiến đấu, thúc đẩy nhân dân thành lập hệ thống phòng không và rộng rãi động viên họ sẵn sàng chống lại địch khi chúng phản công...” Đây là quan điểm giới hạn ban đầu và đã được tuân theo trong thời gian ngắn. Những diễn biến sau đó tại Huế đã được tường thuật với những lời lẽ khác. Đài phát thanh Hà Nội ngày 04-02-1968 nói rằng: “Sau một giờ chiến đấu, Lực lượng Vũ trang Cách mạng đã chiếm được dinh thự của tên tỉnh trưởng ngụy (tại Huế), nhà tù và các văn phòng hành chánh ngụy… Lực lượng Vũ trang Cách mạng đã trừng trị những tên viên chức ác ôn nhất của địch và nắm quyền kiểm soát các đường phố… tập trung và trừng trị cả tá bọn ác ôn, đánh sập các cơ quan kiểm soát và áp bức của địch…” Suốt thời gian ngắn ở lại Huế, các cán bộ dân sự, được các toán hành quyết tháp tùng, đã tập hợp và giết chết nhiều yếu nhân, việc khử trừ này sẽ làm suy yếu nặng nề bộ máy hành chánh của chính phủ sau khi VC rút lui. Đây là giai đoạn sổ đen, thời gian của tòa án quân sự dã chiến. Các cán bộ với danh sách và địa chỉ trong hồ sơ xuất hiện rồi gọi ra trước tòa án bất hợp pháp “các kẻ thù khác nhau của Cách mạng”. Những phiên tòa của họ công khai, thường là trong sân một bộ chỉ huy dã chiến của CS. Mỗi phiên xử kéo dài khoảng 10 phút và chẳng có phán quyết vô tội nào được biết đến cả. Hình phạt, luôn luôn là “tử hình”, được thi hành ngay lập tức. Các xác chết hoặc được chôn gấp rút hoặc trả lại cho gia đình. Bị chọn lãnh kiểu đối xử này là các viên chức dân sự, đặc biệt những người liên quan tới an ninh hay công việc cảnh sát, các sĩ quan quân đội và vài hạ sĩ quan, cộng thêm những lãnh đạo không chính thức nhưng là tự nhiên của cộng đồng, đặc biệt là các nhà giáo và nhà tu. Với ngoại lệ là tấn công tàn độc giới trí thức ở Huế, kiểu thức của Giai đoạn I đúng là thủ tục hành động tiêu chuẩn của Cộng sản tại Việt Nam. Đó là những gì đã được tiến hành cách có hệ thống trong các làng mạc suốt 10 năm. Sổ đen thường trực, được bộ chỉ huy đảng trong vùng hay liên vùng chuẩn bị, đã tồn tại lâu dài để đem sử dụng khắp cả miền Nam, mỗi khi có cơ hội thuận tiện. Tuy nhiên, không phải mọi kẻ có tên trong những danh sách được dùng tại Huế đã bị thủ tiêu. Có rất nhiều người hiển nhiên bị ghi danh, ở lại trong thành phố suốt trận đánh, nhưng đã thoát nạn. Suốt thời gian 24 ngày, các cán bộ Cộng sản bận rộn săn lùng những con người có trong sổ đen của họ, nhưng sau một ít ngày, nỗ lực của họ đã chuyển qua một hướng mới. Huế: Giai đoạn II Trong những ngày đầu, cuộc tấn công Tết đã tiến triển rất thuận lợi cho CS tại Huế (mặc dù không như vậy ở miền Nam, nơi mà các lãnh đạo đảng đã nhận nhiều đánh giá khá ảm đạm từ những cán bộ ở giữa cuộc tấn công vùng đồng bằng sông Cửu Long), đến nỗi trong một lúc phấn khởi, họ đã tưởng mình có thể giữ được thành phố. Có lẽ ý kiến cho rằng CS vào Huế để ở lại đã không được các cấp cao hơn chia sẻ, nhưng nó đã lan rộng tại Huế và ở cấp độ tỉnh Thừa Thiên. Một bức điện bắt được của Cộng sản, xem ra viết ngày 02-02, cổ vũ các cán bộ tại Huế hãy chiếm giữ cho nhanh mà rằng: “Một thời kỳ mới, một giai đoạn cách mạng thực sự đã bắt đầu (nhờ các chiến thắng của chúng ta ở Huế) và chúng ta chỉ cần tấn công nhanh (ở Huế) là đạt được mục tiêu và chiến thắng hoàn toàn”. Tờ báo đảng chính thức ở Hà Nội, Nhân Dân, cũng nhắc lại cùng chủ đề: “Như một tia sét, cuộc tổng tấn công đã giáng xuống đầu bọn Mỹ ngụy… Bộ máy Mỹ ngụy đã bị trừng phạt đích đáng… Các cơ quan hành chánh ngụy… đã thình lình sụp đổ. Chính phủ Thiệu-Kỳ không thể thoát cảnh sụp đổ toàn diện. Quân đội ngụy đã trở nên hết sức yếu hèn và sẽ không thể tránh khỏi bị hoàn toàn tiêu diệt”. Đương nhiên, một số lời lẽ dông dài này chỉ nhằm cổ vũ những ai tin theo, và vì đó luôn là trường hợp khi đọc những gì CS đưa ra, nên rất khó phân biệt đâu là niềm tin, đâu là ước muốn. Nhưng lời chứng từ các tù binh và hồi chánh viên, cũng như những bức điện bắt được, cho thấy rằng cán binh cũng như cán bộ đều tin trong ít ngày rằng họ ở lâu dài tại Huế, và họ đã hành động phù hợp với niềm tin ấy. Trong số các hành vi của họ có việc mở rộng lệnh giết người và phát động cái trên thực tế là một thời kỳ tái xây dựng xã hội kiểu CS. Các mệnh lệnh, xem ra từ đảng ủy cấp tỉnh ban bố, là tập trung cái mà một tù nhân gọi là “những tiêu cực xã hội”, nghĩa là những cá nhân hay thành viên các nhóm có thể gây nguy cơ hay bất lợi cho trật tự xã hội mới. Đây là điều không liên quan đến riêng ai, chẳng phải là sổ đen các tên tuổi nhưng là sổ đen các tước vị trong xã hội cũ, không nhắm đến những con người nhưng nhắm đến các “đơn vị xã hội”. Như đã thấy trước đây tại Bắc Việt và tại Trung Cộng, người Cộng sản đã cố phá vỡ trật tự xã hội địa phương bằng cách thủ tiêu những thủ lãnh và những khuôn mặt then chốt trong các tổ chức tôn giáo (sư sãi Phật Giáo, linh mục Công Giáo), các chính đảng (bốn thành viên của Ủy ban Trung tâm Việt Nam), các phong trào xã hội như các tổ chức phụ nữ và các nhóm trẻ, kể cả việc hoàn toàn không thể giải thích nổi, là hành quyết những thủ lãnh sinh viên thân cộng thuộc các gia đình thượng lưu hay trung lưu. Phù hợp với điều này, trong vài trường hợp là giết cả gia đình. Trong một trường hợp có đầy đủ tài liệu suốt thời kỳ này, một toán có lệnh ám sát đã xông vào nhà một lãnh đạo cộng đồng lỗi lạc và bắn ông, vợ ông, con trai và con dâu, con gái còn nhỏ của ông, cặp gia nhân nam nữ và đứa con của họ! Con mèo của gia đình bị bóp cổ, con chó bị đánh đến chết, những con cá vàng cũng bị hất ra khỏi chậu, quẳng xuống nền nhà. Khi những tên CS bỏ đi, trong nhà chẳng còn gì sống sót. Một “đơn vị xã hội” đã bị tiêu diệt!!! Giai đoạn II cũng chứng kiến một nỗ lực tập trung nhằm thủ tiêu giới trí thức, mà có lẽ ở Huế nhiều hơn bất cứ nơi nào khác tại Việt Nam. Những trí thức Huế sống sót đã giải thích điều này là do một mối căm thù lâu đời của Cộng sản đối với giới trí thức của Huế, vốn chống Cộng theo kiểu cách xúc phạm nhất: từ chối coi trọng chủ nghĩa Cộng sản. Giới trí thức Huế đã luôn khinh bỉ ý thức hệ CS, gạt nó sang một bên như kẻ đến muộn trong lịch sử các tư tưởng và chẳng phải là cái gì có ý nghĩa. Vốn là một pháo đài của chủ nghĩa truyền thống, với những nhà trí thức đắm mình trong kiến thức Khổng giáo đan xen với Phật giáo, Huế đã không thèm để ý đến những công lao của chủ nghĩa Cộng sản, dẫu trong các thập niên biến động 1920-1930. Huế bất biết nó. Chẳng hạn các nhà trí thức tại viện Đại học, trong một giáo trình trọn năm về các tư tưởng chính trị, đã chỉ thí cho chủ thuyết Mác-Lênin nửa giờ, phác thảo nó như một loạt những khẩu hiệu chính trị man rợ và nông cạn, chẳng có chiều sâu và thực tế được thời gian trắc nghiệm như tri thức Khổng giáo, cũng chẳng có sự huy hoàng và tính nhân bản cao vời như tư tưởng Phật giáo. Vì lẽ người Cộng sản, đặc biệt người Cộng sản gốc Huế, xem trọng giáo điều của mình, y có thể trở thành quỷ quái khi bị một nhà nho coi như một kẻ ngu dốt về triết học, hay bị một Phật tử coi như một tên duy vật tầm thường. Hoặc tệ hơn bị coi thường là bị bất biết qua năm tháng. Thành ra với sự chính trực của một tín đồ chân thành, y đã tìm cách đánh trả để loại bỏ thái độ dửng dưng đầy thách thức này. Những người trí thức nay nói rằng cuộc săn lùng hàng ngũ của họ đã dạy cho họ một bài học khắc nghiệt, đó là phải coi trọng chủ nghĩa Cộng sản, không phải như một tư tưởng, nhưng ít nhất như một sức mạnh được sổ lồng trong thế giới của họ. Những cuộc tàn sát trong Giai đoạn II có lẽ đã giải thích việc 2,000 người bị mất tích. Nhưng điều tồi tệ nhất vẫn chưa chấm dứt. Huế: Giai đoạn III Một điều không thể tránh được, và như giới lãnh đạo tại Hà Nội hẳn đã phải thừa nhận khi xét đến những lực lượng điều động chống lại nó, là trận đánh tại Huế đã xoay chiều bất lợi cho CS. Một bản tin radio bắt được của Quân đội Nhân dân truyền đi từ Thành Nội ngày 22 tháng 2, đã xin phép rút quân. Bản trả lời: từ chối cho phép, phải tấn công ngày 23. Trận tấn công này là trận cuối cùng nhưng vô hiệu quả. Ngày 24, Thành Nội được lấy lại. Ít nhất một tuần trước đó, CS đã thấy việc trục xuất này là không thể tránh khỏi. Đây là lúc Giai đoạn III bắt đầu: giai đoạn xóa dấu vết. Có lẽ toàn thể cán bộ dân sự nằm vùng tại Huế đã lộ mặt suốt Giai đoạn II. Những ai dù đã không bị nghi ngờ cũng đứng lên công bố căn tính của họ. Điển hình là trường hợp một cư dân Huế đã mô tả sự ngạc nhiên của anh khi biết rằng người hàng xóm của mình là lãnh đạo một phường (đứng từ hàng thứ 10 đến 15 giới dân sự CS trong thành phố). Anh nói trong nỗi kinh ngạc: “Tôi biết ông ta đã 18 năm nay mà không bao giờ nghĩ rằng ông ta lại quan tâm đến chính trị như vậy.” Một cán bộ như thế có thể không hoạt động ngầm lại được trừ phi chẳng có ai xung quanh nhớ đến ông. Vì thế, Giai đoạn III là thủ tiêu các nhân chứng. Có lẽ số cuộc giết chóc lên cao nhất là ở giai đoạn này và cũng vì lý do đó. Những người từng bị bắt đi nhồi sọ chính trị có lẽ đã được dự tính sẽ thả về. Nhưng họ là dân địa phương như những kẻ đã bắt họ, quen biết tên tuổi và mặt mũi nhau. Nên khi kết cục đến gần, họ đã trở thành không phải một gánh nặng cho bằng một mối nguy đích thực. Chắc hẳn đó là trường hợp của nhóm người bị bắt đi từ nhà thờ Phủ Cam. Hay trường hợp của 15 học sinh trung học mà thi thể đã được tìm thấy ở ruộng muối Phú Thứ. Việc phạm trù hóa trong một giả thuyết như thế, dĩ nhiên, chỉ có tính cách tổng quát và may lắm thì có tính cách minh họa. Các sự việc không gọn gàng rõ rệt trong đời thực. Ví dụ suốt toàn bộ thời gian, cuộc săn lùng theo sổ đen” đã được tiến hành. Do đó, đã có những cuộc tàn sát trả thù của người Cộng sản nhân danh đảng, nhân danh cái gọi là “công lý của cách mạng”. Nhưng chắc hẳn cũng đã có những vụ tư thù, tư oán do các cá nhân đảng viên thực hiện. Quan điểm chính thức của Cộng Sản về việc tàn sát ở Huế được chứa đựng trong một cuốn sách được viết và phổ biến tại Hà Nội: “Tích cực phối hợp nỗ lực với Lực lượng Vũ trang Giải phóng và với nhân dân, những đơn vị tự vệ và vũ trang của thành phố (Huế) đã bắt giữ và kêu gọi đầu hàng những viên chức còn lại của Ngụy quyền và những sĩ quan binh sĩ của Ngụy quân còn lẩn lút. Các tên ngoan cố ác ôn đều đã bị trừng trị.” Tại Hòa đàm Paris sau này, Cộng Sản đã cho rằng những cuộc thảm sát ở Huế không do bàn tay của Cộng Sản nhưng do “những đảng phái chính trị đối kháng địa phương”. Dù vậy, tưởng cũng nên lưu ý: ngày 26-04-1968, khi chỉ trích nỗ lực tìm xác tại Huế, đài Phát thanh Giải phóng Hà Nội đã nói rằng các nạn nhân chỉ là “những tên tay sai côn đồ đã có nợ máu với nhân dân yêu nước ở Huế và họ đã bị các lực lượng vũ trang miền Nam cùng nhân dân tiêu diệt trong mùa Xuân”. Giọng điệu tuyên truyền này đã sớm bị bỏ qua để thay thế bởi một luận điệu khác: đó thực là những vụ thanh toán tranh chấp giữa các nhóm chính trị địa phương. Trích từ Viet Cong Strategy of Terror (Chiến lược khủng bố của Việt Cộng, tr. 23-29). Bản dịch của Linh mục Phan Văn Lợi
Trận chiến Mậu Thân tại Huế từ góc nhìn của Chỉ huy chiến trường Bắc quân Nguyễn Ngọc Bích Trình bày tại Vietnam Center, Sixth Triennial Vietnam Symposium, Ngày 13-15/3/2008. Texas Tech University, Lubbock, Texas. Bốn mươi năm trước đây, Cộng Sản Việt Nam, trong cố gắng đảo ngược thế cuộc chiến tranh vì các thất bại liên tiếp của họ vào hai năm 1966–1967, đã phát động cuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân từ tháng giêng đến tháng hai năm 1968. Cuộc Tổng Tấn Công này trở thành một đại thảm họa về quân sự cho phía Cộng Sản. Chính Cộng Sản Việt Nam đã thú nhận là họ thất bại nặng nề, với 48.000 tổn thất nhân sự (41.000 tử vong, 7.000 lính bị bắt làm tù binh, chưa kể thương binh) trên tổng số 84.000 quân trong lực lượng tấn công. Cộng Sản Việt Nam đã phải tốn ít nhất là 3 năm (theo Trần Văn Trà), đến 5 năm (theo Bùi Tín), để tái xây dựng lực lượng. Trên thực tế, hậu quả của cuộc tấn công 1968, nếu tính cả trận đầu cùng với hai lần tấn công theo sau, vào tháng 05-1968 và tháng 08-1968, thì sẽ cho người ta thấy rõ điều này: Cuộc chiến năm 1968 đã tiêu diệt một cách hữu hiệu hầu như toàn bộ bộ máy chiến tranh của họ tại miền Nam Việt Nam. Chiến địa duy nhất mà Cộng Sản Việt Nam cầm cự được hơn vài ngày là tại Huế, cố đô của Việt Nam, nơi quân Việt Cộng tử thủ đến 25 ngày nhờ vào sự kiên cố của các bức tường cổ thành. Walter Cronkite, phóng viên Hoa Kỳ, khi thăm Huế trong giai đoạn này đã gọi cuộc chiến là “không thể thắng được.” Tổng Thống Lyndon B. Johnson của Hoa Kỳ lúc bấy giờ than: “Nếu tôi mất [sự ủng hộ của] Cronkite rồi thì cũng coi như tôi mất sự ủng hộ của người dân bình thường tại Hoa Kỳ.” Đến tháng ba 1968, Johnson quyết định không tái tranh cử Tổng Thống cho nhiệm kỳ hai; thay vào đó, ông ra lệnh ngưng oanh tạc Bắc Việt, một điều đưa đến sự sửa soạn cho “Hòa đàm” Paris. Có thể nói rằng sự thảm bại quân sự khổng lồ nhất của Việt Cộng trong suốt cuộc chiến, bỗng nhiên dẫn đến bước ngoặt quan trọng nhất trong chiến tranh VN có lợi cho Cộng Sản Bắc Việt. Sau Tết 1968, cục diện chiến tranh Việt Nam thay đổi hoàn toàn: nếu trước đó, huyền thoại về một chiến tranh du kích do người dân miền Nam bị áp bức nổi lên vẫn còn được thêu dệt dù khó tin, sau Tết, vì quân của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam hầu như đã không còn nữa, Hà Nội trắng trợn chường ra bộ mặt của một kẻ xâm lăng, vi phạm Hiệp Định Genève năm 1954, hiệp định phân chia Việt Nam ra thành hai miền Nam Bắc rõ ràng trong khi chờ đợi một giải pháp chính trị (mà lúc đầu được quan niệm là sẽ thống nhất bằng một cuộc Tổng Tuyển Cử). Một năm bản lề Các sử gia tương lai sẽ ghi nhận rằng năm 1968 là một năm bản lề trong chiến tranh Việt Nam. Và trong năm đó trận chiến tại Huế sẽ nổi bật lên như là chiến trường đóng góp vào cái nhìn sai lạc mà lại được truyền bá cùng khắp thế giới, nhờ vào các hãng truyền thông của Hoa Kỳ. Sự truyền thông sai lạc này đã thuyết phục được những con diều hâu như Bộ Trưởng Quốc Phòng Clark Clifford trở thành những con chim bồ câu ngây thơ, và cuối cùng đã thúc đẩy Tổng Thống Johnson đi vào con đường bất khả đảo ngược dẫn đến sự triệt thoái và, cuối cùng là thất bại trên chiến trường Việt Nam. Điều đáng ngạc nhiên nhất, là tuy quan trọng như vậy, nhưng trận chiến tại Huế chỉ được nhắc sơ qua trong các sách sử tiêu chuẩn về chiến tranh Việt Nam. Duyệt qua các sách giáo khoa về cuộc chiến, người ta sẽ giật mình thấy một lỗ hổng lớn lao giữa tầm quan trọng của trận quyết định này trong chiến tranh Việt Nam và sự xem thường cuộc chiến tại Huế trong các sách giáo khoa như: Huế 1968 không được nhắc đến trong tác phẩm của Tướng Bruce Palmer, Jr., The 25 Year War: America’s Military Role in Vietnam (1984). Huế 1968 chỉ chiếm 1 dòng trong sách của Tướng Phillip B. Davidson, Vietnam at War (trang 475). Huế 1968 được nửa đoạn trong sách của Robert D. Schulzinger, A Time for War: The United States and Vietnam, 1941-1975 (trang 259), Huế 1968 được một đoạn trong sách của William S. Turley, cuốn The Second Indochina War được mô tả là một cuốn “Lược sử chính trị và quân sự, 1954-1975” (trang 109), một đoạn và 4 dòng trong sách của George C. Herring, America’s Longest War (trang 186-187), và một đoạn rưỡi trong sách của Neil Sheehan về “John Paul Vann và Hoa Kỳ ở Việt Nam” có tựa đề là A Bright Shining Lie (trang 719-720). Trong sách của Michael McClear, Vietnam, A Complete Photographic History, một đại tác phẩm dày 736 trang với trên 2.000 hình ảnh và bản đồ với những phụ đề chữ nhỏ li ti, đã không hề có một đề mục nào cho trận Mậu Thân tại Huế, trừ một chương với tiêu đề “Tìm hiểu về Tết” có nhắc đến trận này (để chỉ trích các thông tin sai lạc của đồng minh) trong ba đoạn rưỡi. Chỉ có một vài cuốn là dành cho Huế một ít chú tâm, nhưng ngay cả trong những sách như của A. J. Languth, Our Vietnam, câu chuyện cũng thiên về cuộc thảm sát tại Huế nhiều hơn là tự thân cuộc chiến (trang 475-478). Ngoại lệ duy nhất có lẽ là sách của Dave R. Palmer, Summons of the Trumpet, khi trận Huế được trân trọng dành cho tới hai trang (trang 192-193) nhưng lại đầy dẫy những thông tin sai lạc. Điều lạ hơn nữa, là ngay trong các sách Việt Nam, kể cả sách giáo khoa, trận chiến tại Huế cũng bị quên lãng. Thí dụ như, trong tập Lịch Sử Việt Nam, 1945-1975 (Trần Thục Nga và người khác, Lịch Sử Việt Nam, 1945-1975, Nhà xb Giáo Dục, 1987), sách giáo khoa được Đảng CSVN chuẩn nhận trong chương trình dành cho các thầy cô theo ngành sư phạm hiện nay tại Việt Nam, trận chiến tại Huế được nhắc đến trong hai đoạn văn (trang 145), mà đoạn sau không hơn không kém là một đoạn tuyên truyền. Về phía Quân Lực VNCH và người Việt hải ngoại, cuộc chiến tại Huế cũng chỉ nhận được nhiều lắm là vài trang (chính xác là 3 trang, 403-405) trong Chiến tranh Việt Nam toàn tập, tác phẩm được xem là đầy đủ nhất về lịch sử cuộc chiến của Nguyễn Đức Phương. Nếu đem so sánh với sự quan tâm to lớn dành cho vụ Thảm Sát tại Huế thì phải nói là ta sẽ không thể nào hiểu được vụ thảm sát kia nếu ta không hiểu trận Huế diễn ra như thế nào. Một ngoại lệ có thể tìm thấy trong tập Huế, Xưa và Nay (Hue, Past and Present – Vietnamese Studies Số 37) do Hà Nội xuất bản ngay sau Tết 1968, trong đó có đăng bài của Tôn Vy về “Cuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân 1968 của Nhân Dân tại Quảng Trị - Thừa Thiên” kể lại trận chiến trong 14 trang nhỏ. Tiếc thay, loạt bài này không có bản đồ, không chỉ rõ đâu là quân Bắc Việt và Việt Cộng, đâu là quân Việt Nam Cộng Hòa, và thêm thắt khá nhiều chi tiết tưởng tượng. Như vậy, câu chuyện thực về cuộc chiến Mậu Thân 1968 tại Huế, theo góc nhìn của người Việt miền Nam, vẫn còn cần được kể lại một cách trung thực. Những đặc điểm của trận Huế vào Tết Mậu Thân 1968 Cuộc chiến tại Huế vào Tết 1968 không chỉ đặc biệt vì Việt Cộng đã cầm cự được đến 25 ngày trong khi tại các địa điểm khác trong cuộc tấn công, quân xâm lăng đã bị đẩy lui ngay trong vòng vài tiếng đồng hồ đầu tiên, và nhiều lắm là vài ngày (tại Sài Gòn–Chợ Lớn là 9 ngày). Trận Huế năm 1968 đặc biệt là bởi vì, như tại Khe Sanh, quân tấn công là lực lượng chính quy Bắc Việt, những lính chuyên nghiệp dầy dạn chiến trường, được gửi vào từ Miền Bắc… Lý do chính là trước khi phát động cuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân, Việt Cộng đã sắp xếp lại các ranh giới quân sự quanh Sài Gòn và Huế để tăng sự đột ngột và sự công phá đến mức tối đa. Cuộc chiến tại mỗi đô thị được giao cho hai nhóm chỉ huy chiến trường. Tại Sài Gòn là Trần Văn Trà, Mai Chí Thọ, Lê Đức Anh - một người miền Nam kèm bởi hai tướng Bắc Việt - trách nhiệm việc tấn công từ phía Bắc thành phố. Võ Văn Kiệt và Trần Bạch Đằng chỉ huy việc tấn công từ phía Nam. Trong trường hợp Huế, Trung tướng Trần Văn Quang là Chỉ huy trưởng quân khu Trị Thiên -Huế, nhưng Đại tá Lê Minh lại nhận được lệnh trước khi ra quân rằng: “Về chiến dịch, anh là chỉ huy trưởng, về mặt Đảng, anh là trưởng ban công kích và khởi nghĩa của toàn khu.” Trên thực tế, cũng như trường hợp tại Sài Gòn, Lê Minh điều khiển vùng phía Bắc và Thân Trọng Một điều khiển sự tấn công từ phía Nam vào Huế. Mặc dầu vậy, Một nằm dưới quyền Minh, như chúng ta sẽ có dịp nhận xét sau này. Trận chiến tại Huế năm 1968 đặc biệt vì nếu các cuộc tấn công vào Sài Gòn là sự tổng hợp lực lượng giữa Quân Giải phóng của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, như các đơn vị miền Nam dưới sự chỉ huy của Trần Văn Trà, Võ Văn Kiệt, Trần Bạch Đằng, và các đơn vị chính quy Bắc Việt dưới quyền Lê Đức Anh, Mai Chí Thọ, thì sự việc tại Huế đã hoàn toàn dính liền với danh dự của riêng Quân đội chính quy Bắc Việt mà thôi. Điểm này rất quan trọng khi chúng ta bàn đến câu hỏi ai là thủ phạm trong việc thảm sát tại Huế năm 1968. Trận chiến tại Huế năm Mậu Thân cũng đặc biệt về thời điểm, vì sau Tết 1968, Hà Nội không còn cố gắng che giấu sự thực là những quân đoàn chính quy đông đảo, trong đó một số từng tham gia trận Điện Biên Phủ, đã hiện diện tại miền Nam, biến đổi hoàn toàn tính chất “du kích chiến” (được cho là do sự nổi dậy của kháng chiến quân miền Nam) sang cuộc chiến quy ước có trang bị vũ khí quân cụ đầy đủ (bởi các lực lượng ngoại bang và từ phía Bắc vĩ tuyến 17 mang xuống). Sự kiện này trở nên trắng trợn hơn nữa khi Hà Nội tấn công miền Nam, vào Lễ Phục Sinh 1972, với toàn lực của Quân Đội Nhân Dân Miền Bắc, tất cả là những đoàn quân chính quy (với chỉ một sư đoàn để lại ở miền Bắc vào tháng 12-1972). Hà Nội lại thảm bại trong trận chiến này, sau 56 ngày bao vây An Lộc thất bại (tháng 04-06/1972), và đặc biệt sau khi Thủy quân lục chiến Việt Nam Cộng Hòa tái chiếm Cổ thành Quảng Trị vào tháng 09-1972, chứng tỏ sự trưởng thành anh dũng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, 4 năm sau Tết 1968, khi trực chiến với Quân Đội Bắc Việt một khi có đầy đủ pháo binh và không quân yểm trợ. Sau cùng, trận chiến tại Huế 1968 đặc biệt vì đó là chiến địa duy nhất mà Việt Cộng có đủ thời giờ để thành lập cả một “hội đồng nhân dân” gồm đa số là dân địa phương bị Bắc Việt giật dây. Những kẻ chủ chốt trong việc này là Hoàng Kim Loan và Hoàng Lanh, hai tên nằm vùng ẩn náu trong nhà của Nguyễn Đóa, một Giám Thị tại trường Quốc Học. Hai ngày sau khi xâm nhập Huế, vào mồng 2-02, Đài phát thanh Hà Nội loan báo Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng Thừa Thiên - Huế được dựng lên với Giáo sư Đại học Văn khoa (ngành Dân tộc học) Lê Văn Hảo làm Chủ Tịch, và Bà Tuần Chi, một người trong ngành giáo dục, làm Phó. Mười hai ngày sau đó, 14-02, Đài phát thanh Hà Nội lại loan báo đã thành lập Ủy Ban Nhân Dân địa phương với Lê Văn Hảo làm Chủ Tịch, và hai phó là Đào Thị Xuân Yến (tên con gái của bà Tuần Chi) và Hoàng Phương Thảo. Trên thực tế, Việt Cộng đã vào Huế mang theo nhiều danh sách và địa chỉ do bọn nằm vùng cung cấp (như anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường và Hoàng Phủ Ngọc Phan, giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm, Nguyễn Đóa và Bà Tuần Chi - vợ Nguyễn Đình Chi, học giả Nguyễn Đắc Xuân, v.v…) và gần như lập tức đi lùng các người có tên trong danh sách. Trận thư hùng về quân sự Hướng dẫn bởi thành phần bất mãn do chính phủ VNCH đã dẹp cuộc khủng hoảng Phật Giáo miền Trung (1965-1967), Việt Cộng đã giữ được yếu tố bất ngờ khi họ tràn xuống từ vùng đồi núi phía Tây thành phố vào đêm 31-01-1968. Họ đã kiểm soát được thành phố trong một thời gian tương đối ngắn (chưa đầy 24 giờ) ngoại trừ căn cứ của Đại đội 81 Quân Cụ, Đài Phát Thanh Huế, Phi trường Tây Lộc, và đặc biệt là Đồn Mang Cá, tổng hành dinh của Sư Đoàn 1 Bộ Binh dưới sự chỉ huy của Tướng Ngô Quang Trưởng. Phần phụ lục đính kèm sẽ có chi tiết thời điểm rất rõ, nhưng ở đây chúng ta chỉ có thể tóm tắt trận chiến tại Huế như sau: 31-01-1968: Giữa đêm, bốn tiểu đoàn Bắc Việt dưới quyền Đại tá Lê Minh, hỗ trợ bởi một tiểu đoàn đặc công, tấn công Cổ Thành Huế từ phía Tây, Tây Bắc và chiếm một vùng lớn của thành phố, nhờ yếu tố bất ngờ. Bốn tiểu đoàn khác, cùng với tiểu đoàn đặc công thứ hai, dưới sự điều động của Thân Trọng Một, tấn công từ phía Nam. Toán đầu tiên gặp sự kháng cự tại sân bay Tây Lộc, trong khi nhóm thứ hai chạm trán với sự phòng thủ kiên cường của Đại Đội 81 Quân Cụ tại Tam Thai. Trong cùng thời gian, một tiểu đoàn Bắc Việt khác tiến vào An Hòa, phía Bắc của Huế nhằm chặn đường tiếp viện của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đến từ Quảng Trị. Cuối cùng, một lực lượng khác gồm hai tiểu đoàn Bắc Việt đóng chốt tại An Cựu và Phú Cam phòng ngăn quân tiếp viện đến từ phía Nam. 31-01 đến 03-02-1968: Việt Cộng kiểm soát được thành phố trong 4 ngày đầu. Sáng 01 tháng 2, họ tập họp dân chúng trong vùng bị kiểm soát, bắt học tập tư tưởng Mác-Lênin rồi cho về để chứng tỏ sự “khoan dung” của phe thắng trận, khuyến khích dân đi rủ những người còn đang trốn tránh ra trình diện. Rất nhiều người rơi vào bẫy này. Tuy nhiên, trong cùng thời gian, Tướng Ngô Quang Trưởng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã thành công trong việc gọi quân về để cũng cố phòng thủ Đồn Mang Cá ở phía Đông Cổ Thành. 04 đến 05-02-1968: Chiến trận tạm lắng vì cả hai bên đều kiệt lực, nhất là vì Việt Cộng hết đạn (có điện đánh về Hà Nội ngày 5-2-1968). 06 đến 07-02-1968: “Vào ngày thứ bảy của trận chiến, Hoa Kỳ nhập cuộc.” Tuy chiếm được đa số các mục tiêu nhưng vì đạn đã cạn gần hết, Lê Minh họp cấp chỉ huy và đề nghị rút lui vì “một chiến thắng quyết định” không thể đạt được. Lê Minh ra lệnh mang các chiến lợi phẩm về căn cứ của Việt Cộng tại vùng quê và trong rừng, cũng như tải thương và mang tù binh ra khỏi thành phố. 07 đến 09-02-1968: Lo ngại sự phản công của quân đội VNCH, Việt Cộng phá cầu Trường Tiền vào đêm 7 tháng 02. Nhưng thay vì rút lui, Tướng Bắc Việt Trần Văn Quang đã đến Huế và tái phối trí các đơn vị dưới quyền Lê Minh, rồi ra lệnh dồn hết sức tấn công đồn Mang Cá. Sau 3 tiếng đồng hồ giao tranh dữ dội (từ 9 giờ đêm đến 12 giờ khuya ngày 9/02), nỗ lực này của Bắc Việt đã hoàn toàn thất bại, và quân xâm lược đã phải rút khỏi trận địa. Một điện tín thứ hai được gửi cấp tốc về Hà Nội xin tiếp viện quân và đạn dược. Yêu cầu thứ hai này được Hà Nội hứa chuẩn y, ký bởi 3 vị tướng cao nhất là Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng và Song Hào. Một điện tín khác, sau đó, cũng từ Hà Nội hứa sẽ gửi binh tiếp viện. 10 đến 15-02-1968: Đạn dược tiếp liệu do Hà Nội hứa không bao giờ đến, và đội binh tiếp viện đã bị Sư Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ chặn và gần như tiêu diệt hoàn toàn trước khi đến Huế. Ngày 10-02, quân lực VNCH đã bắt đầu càn quét khi địa phương quân thay thế các đơn vị nhảy dù để họ có thể quay sang tấn công quân Bắc Việt. 12-02-1968: Thủy quân lục chiến Việt Nam đến thay thế lực lượng nhảy dù. Một đơn vị Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ (Đại đội 1 của Robert Thompson, Sư đoàn 5 Thủy quân lục chiến) cũng vượt sông Hương và bắt liên lạc với Tướng Trưởng tại đồn Mang Cá. 12 đến 20-02-1968: Giao tranh dữ dội, trên mọi đường phố và trong từng căn nhà với sự can dự của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ ở phía Đông và Đông Nam Cổ Thành. Việt Cộng phản công dữ dội khi Thủy quân lục chiến Việt Nam cố mở đường tấn công vào phía Tây Nam Cổ Thành, nhằm cắt đường tiếp viện của địch. Ngày 16-02, quân lực VNCH thành công trong việc tràn lên các vị trí của địch và hai ngày sau đó, 18-02, đã đến cửa Chánh Tây và góc Tây Bắc của Cổ Thành. 14-02-1968: Đài Phát Thanh Hà Nội thông báo sự thành lập chính quyền địa phương với Lê Văn Hảo làm chủ tịch (thị trưởng), kèm theo hai bên là hai phó chủ tịch phái nữ. Đứng sau Lê Văn Hảo là một số nhân vật có tiếng tại Huế mà người dân thành nội tin rằng chính là thủ phạm của các vụ Thảm Sát Tết Mậu Thân tại Huế: Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Tôn Thất Dương Tiềm, v.v… 21-02-1968: Dưới áp lực nặng nề của 3 lữ đoàn Thủy quân lục chiến VNCH, không kể Sư Đoàn 1, và 3 tiểu đoàn Hoa Kỳ, quân Bắc Việt “quyết định rút, bởi vì bây giờ dù quân chi viện có vào nữa thì cũng không thay đổi được tình thế.” 22-02-1968: Quân Bắc Việt cố gắng trong tuyệt vọng làm một cuộc phản công hầu tạo xao động cho lính VNCH. Nhưng Trần Ngọc Huế và đội Hắc Báo của ông đã tập hợp chống trả mạnh mẽ và chiến thắng. 24-02-1968: Cuối cùng, quân lực VNCH đã thành công trong việc tái chiếm kỳ đài để hạ cờ Việt Cộng vào lúc 5 giờ sáng, và thay bằng lá cờ vàng ba sọc đỏ của Việt Nam Cộng Hòa nơi cửa Thượng Tứ. Tổn thất Hà Nội chưa bao giờ công bố số quân Bắc Việt tử vong tại Huế, tuy một bài thơ của Chế Lan Viên (1920-1989) đã tự thú nhận: “Hai ngàn quân tràn xuống đồng bằng. Chỉ ba mươi người trở lại…”. Trần Văn Trà viết “Có những đơn vị tham chiến mà không ai sống sót trở về,” có lẽ để nói về trận chiến tại Huế. (Bài viết năm 1993, trang 62). Thống kê của Đồng minh ước đoán lính Việt Cộng tham chiến tại Huế có khoảng 7.500 người (tương đương với 15 tiểu đoàn), trong số đó 5.000 tử trận tại chỗ, còn 3.000 xác khác được tìm thấy tại những vùng đất chung quanh Huế. Tuy thật là khó tin, song xác những lính chính quy Bắc Việt tìm được chung quanh các đồi phía Tây của Huế có thể là những nhân sự Hà Nội đưa vào Nam với hoang tưởng là đã chiếm xong được Huế. Chỉ điều này mới giúp giải nghĩa được cảnh tượng sau đây trong những ngày chiến đấu cuối cùng tại Huế, như lời kể của Andrew Wiest qua tác phẩm Vietnam’s Forgotten Army: “Khi tiến lên cùng với lính của mình, Trần Ngọc Huế không thể tin vào mắt ông: những xác chết còn nguyên quân phục mới tinh, xếp chồng chất lên nhau hàng hàng lớp lớp ngút tầm mắt, tràn ra khỏi các mương rãnh, hố cá nhân và bụi rậm. [… Cuối cùng, tìm ra một người lính Bắc Việt còn sống] Huế hỏi tại sao đội quân của anh ta lại mặc quân phục đại lễ và mang theo cờ. Người tù chán nản trả lời: “Họ bảo chúng tôi rằng Huế đã được giải phóng và chúng tôi đến để diễu hành mừng chiến thắng” (trang 116). Nhật ký của Lê Minh xác nhận điều này: “Đến ngày 26-2-68 thì tất cả đã rút ra khỏi thành phố. Thực sự là bắt đầu rút từ ngày 22, và cuộc rút lui kéo dài trong 5 ngày mới kết thúc. Vì các chiến lợi phẩm đưa ra tấp ở ngoại thành hoặc ven rừng đều đã bị địch phản kích chiếm lại hết, nên lên rừng người nào là đói ngay trong ngày đó. Sau cuộc liên hoan mừng chiến thắng (sic) có cả nhân sĩ trí thức Huế ở Khe Trái thì cả rừng ăn muối. Khó khăn ập tới sau khi rút ra khỏi Huế là giống như tình hình hồi vỡ mặt trận.” “Hàng vạn người đã lên rừng phải lo ăn,” Lê Minh tiếp tục, “người ở ngoài kia [Bắc Việt] tiếp tục ập vào, nào công an, đài phát thanh, truyền hình, cục lưu trữ, kể cả cảnh sát giao thông, v.v… ở đâu cũng đòi gạo đòi muối; trong khi đó Trung ương lại cứ tiếp tục giao nhiệm vụ đánh Huế đợt 2 [vào tháng 05-1968].” Về phía đồng minh, Việt Nam Cộng Hòa bị tử thương 384 người, 1.800 người bị thương, và Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ báo cáo 147 tử thương, 857 bị thương nặng cần chuyển về bệnh viện. Tuy vậy, con số dân lành bị thiệt mạng trong cuộc chiến tại Huế thật khổng lồ. Gần 7.000 người mất tích, trong khi chỉ có 844 tử thương và 1.900 bị thương vì bom đạn. Trong số mất tích người ta tìm được 2.800 tử thi từ các hầm chôn tập thể ở rải rác nhiều nơi trong thành phố, nhất là tại Gia Hội, nơi nhiều người dân bị xử tử, và khoảng 19 địa điểm khác quanh Huế. Các nạn nhân này bị tàn sát bất kể người già, phụ nữ, trẻ em, ngay cả trẻ sơ sinh. Việt Cộng sợ rằng nếu có người sống sót trở về, họ sẽ tiết lộ các nơi trú ẩn của tàn quân Bắc Việt. Về chuyện này, ngay cả Lê Minh cũng bị nhói trong tim khi viết trong hồi ký: “Tôi thấy cần phải nói đến một điều đáng buồn. [Về] sự tang tóc trong biến cố Mậu Thân […] còn lại một mặt của vấn đề, việc trừng trị những người có tội ác với nhân dân (sic) trong một cuộc chiến tranh là điều không tránh khỏi, một khi quần chúng (sic) đã nổi dậy. […] Rốt cuộc là đã có những người bị xử lý oan trong chiến tranh. Dù lý do thế nào thì trách nhiệm vẫn thuộc về lãnh đạo, trong đó có trách nhiệm của tôi.” Nhận định sơ khởi Với những khảo sát kể trên, tôi mong là đã làm rõ được một số vấn đề chung quanh trận Mậu Thân tại Huế - một trong những cuộc giao tranh quan trọng nhất trong chiến tranh Việt Nam. Trận chiến quân sự, với tất cả những tính toán sai lầm và những giây phút hèn nhát ở cả hai phía, đã là một thiên hùng ca cho cả 3 quân đội: Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, và Quân Bắc Việt. Cả ba đã vượt sức mình để chiến đấu. Trong trận chiến chính trị, rõ ràng là Việt Cộng đã lầm to khi tiên đoán về cảm tình của người dân Huế mà họ hy vọng sẽ đứng về phía họ, một chuyện đã không xảy ra. Thế nhưng Việt Cộng đã thật bất ngờ khi cuộc tổng công kích Mậu Thân đã đưa Hoa Thịnh Đốn đến quyết định hoàn toàn thay đổi chiều hướng của cuộc chiến. Trên phương diện đạo đức, cuộc Thảm sát tại Huế năm 1968 sẽ đi vào lịch sử như một hành động cực kỳ tàn ác, vô nhân, và vô nghĩa lý của CSVN, nhắm vào người dân lành, mà chính Lê Minh, người chỉ huy quân Bắc Việt, cũng đã tự nhận có một phần trách nhiệm trong đó. Do vậy nên tất cả các chối bỏ tội ác bởi những đầu óc lệch lạc như Gareth Porter nhằm biện minh cho Cộng Sản là hoàn toàn không đứng vững. Keith Nolan cũng không có lý trong tác phẩm Battle for Hue của ông khi chối bỏ vai trò của Quân Lực VNCH trong trận chiến đặc biệt này, và hạ vai trò của họ xuống như là chỉ đi “theo dọn dẹp chiến trường cho Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ” (trang 87), cũng như kết án họ là “đi từ nhà này sang nhà khác như những nhóm có tổ chức để hôi của.” Ông Andrew Wiest đã công bằng hơn khi viết: “Từ những nỗ lực đầu tiên để giải tỏa khu MACV, các Thủy quân lục chiến Mỹ đã biểu lộ sự can trường cá nhân và sức chiến đấu của các đơn vị, một truyền thống của TQLC Mỹ, một binh chủng mà vẫn được xem như đòan bộ binh thiện chiến nhất thế giới. Rõ ràng là phía Hoa Kỳ đã hy sinh vô vị lợi. TQLC Mỹ đã chính tự thân giải phóng được thành phố mới ở phía Nam sông Hương và đánh một trận chiến hùng sử ở trong Cổ Thành, với 147 người bị tử thương. Song, trong một trận chiến ít được ngợi ca, Quân Lực VNCH đã thực sự đóng vai chính khi anh dũng chiến đấu để giành lại Thành Nội, những đơn vị thiếu quân số của họ đã đánh bại các lực lượng tự phụ của Bắc Việt và Việt Cộng trong trận chiến dai dẳng và đắng cay mà không hề có sự hỗ trợ trực tiếp của pháo binh cơ hữu hạng nặng. Tại chiến trường này, với số tử vong là 357 chiến sĩ, lính VNCH đã gây – một con số lạ kỳ - là 2.642 cái chết ngay trong lúc giao tranh cho bộ đội Bắc Việt và Việt Cộng.” Cuối cùng, tôi tin rằng Tổng tư lệnh quân đội Hoa Kỳ, Tướng William C. Westmoreland, đã có nhận xét và thông tin đúng đắn hơn Keith Nolan: “Rất nhiều người Mỹ tham dự trận chiến Tết Mậu Thân […], tuy nhiên… chỉ có một trận tấn công lớn của Việt Cộng vào căn cứ Hoa Kỳ tại vòng đai của Long Bình. […Như vậy] nói chung, cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968 của Cộng Sản đã hoàn toàn bị đẩy lui bởi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Chúng ta cần vinh danh Quân Lực VNCH, không quân Việt Nam, địa phương quân, cảnh sát quốc gia – tất cả đã đóng vai trò chính yếu trong việc đẩy lui cuộc tấn công của CS.” Nhận định tổng quát Như ai đã làm thầy giáo đều biết, nhận định công bằng nhất đối với một trận đánh phải đặt trên mục tiêu tiên khởi đưa đến việc làm ấy. Chỉ khi đó chúng ta mới thực sự đo lường được sự thành công hay thất bại trong công việc. Với ý tưởng này, thiết tưởng cũng nên nhắc lại tên do chính Hà Nội đặt cho cuộc tổng tấn công Mậu Thân là “Tổng Công Kích-Tổng Nổi Dậy”. Đó là vì trong lối nhìn của Hà Nội, họ không chỉ muốn ngừng lại ở chiến thắng quân sự (dù như có được), mà còn muốn nó được kèm theo bởi hình ảnh của một cuộc tổng nổi dậy để cho hành động xâm lăng này xem ra có “chính nghĩa.” Nói cách khác, Hà Nội không muốn bị nhìn là một kẻ hiếu chiến, mà muốn mang mặt nạ của một kẻ đi “giải phóng” nạn nhân của bất công, giúp những người từ lâu bị đàn áp dưới “chính thể tàn độc,” mà Hà Nội phỉ báng là “Đế quốc Mỹ” và “ngụy quyền Sài Gòn.” Về phương diện này, cuộc tấn công Tết Mậu Thân của Bắc Việt không chỉ là một thất bại quân sự nặng nề, mà còn là một thảm bại về chính trị lớn lao cho họ vì ở cả 25 thành phố và tỉnh lỵ bị tấn công trong năm định mệnh ấy, không nơi nào người dân Việt tiếp đón Cộng Sản cả. Ngay cả ở Huế, nơi mà trong suốt 3 năm trước đó, thành phố đã sôi sục với phong trào Phật Giáo đối lập với chính quyền Sài Gòn. Lúc đầu, Cộng Sản cố gắng khoác lên bộ mặt nhân đức. Hướng dẫn bởi các tên nằm vùng, với danh sách trong tay, cán bộ Cộng Sản đến từng địa chỉ đã định và đòi hỏi chủ nhà phải ra trình diện trong buổi họp mặt với “chính quyền mới” (Hiểu là: chúng tôi biết đích xác là các anh ở đâu). Sau đó, người dân được thuyết giảng về “cách mạng” và bị răn đe rằng cuộc “cách mạng” này, tuy “nhân đạo” song sẽ không tha thứ cho bất cứ ai chống đối. Rồi họ cho phép những người dân này trở về nhà và khuyến khích những người đang ẩn trốn đi ra trình diện. Không ít người rơi vào cái bẫy này: những người ra đầu thú bị bắt ngay lập tức, và có người còn bị xử bắn ngay trước mặt thân nhân, điển hình cho cái gọi là “công lý cách mạng.” Giai đoạn thứ ba, các thanh niên sinh viên được gọi ra trình diện và bị bắt đào các đường mương, hào làm chỗ trú bom cho bộ đội trong trường hợp bị thả bom hay pháo kích. Nhưng chỉ trong một thời gian ngắn, ai cũng nhìn ra rằng các hào sâu này chính là nơi Cộng Sản xử bắn những người bị gán tội “kẻ thù của nhân dân.” Vì Việt Cộng cần tiết kiệm đạn, đa số nạn nhân bị chôn sống sau khi bị đập vào đầu bằng báng súng hay “đánh cho chết bằng xẻng cuốc.” Nạn nhân của giai đoạn này đa số là đàn ông từng làm việc với cảnh sát và chính quyền Miền Nam. Cuộc hành quyết kéo dài nhiều đêm tại nhiều nơi khác nhau trong thành phố. Khi cuộc chiến đang diễn ra, Cộng Sản khám phá chỗ trú ẩn của nhiều người. Ban đầu, họ tập họp tất cả lại như tù nhân, nhưng chẳng bao lâu sau những tù nhân này bị xem như gánh nặng vì không đủ lương thực, thiếu phòng vệ sinh, và nếu gia đình đi thăm nuôi thì lại trở thành vấn đề thông tin phản gián, đưa đến quyết định là dời tù ra ngoài thành phố, đưa lên vùng đồi núi, hay giản dị hơn là thủ tiêu nạn nhân. Hoàn cảnh xấu nhất xảy ra khi, không thể chống lại sự phản công của phe quốc gia trong những ngày cuối, Cộng Sản phải quyết định triệt thoái lên núi. Việc rút này phải được tuyệt đối bảo mật. Họ đã thử dời tù nhân lên vùng đồi núi để giữ làm con tin hay làm bia đỡ đạn. Nhưng vì con số tù nhân quá đông, nên điều này trở thành không thể. Hơn nữa, không đủ lương thực để nuôi tù, không đủ thời gian để đưa họ đi ra Bắc. Thả tù ra là một đề nghị nguy hiểm vì chắc chắn tù binh được thả sẽ tiết lộ đường rút quân. Từ đó đưa đến quyết định bịt miệng và thủ tiêu nhân chứng. Điều này giải thích cho rất nhiều mồ chôn tập thể được tìm thấy sau này, dọc theo con đường rút quân của các đơn vị bộ đội Bắc Việt. Ai là thủ phạm của quyết định giết dân lành? “Thị trưởng” Huế trong thời gian này là Lê Văn Hảo (giữ chức Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng Thừa Thiên, Huế), sau đã trốn sang Pháp, không nhận đây là tội của ông. Ông khai rằng mình chỉ bị giật dây và sai khiến, không có tiếng nói trong mọi quyết định của Cộng Sản tại Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường, người sau này có vị thế lớn tại Huế, cũng nói ông không nhúng tay vào thảm kịch ghê sợ này, nhưng dù sao, như Lê Minh, ông ta đã không chối là có các mồ chôn tập thể, trong khi Gareth Porter hay Philip Hones Griffith, một người phản chiến, lại muốn đổ tất cả tội vào bom đạn của Hoa Kỳ. Nhưng ít ra thì người dân Huế, cho đến ngày hôm nay, 40 năm sau, vẫn còn nhớ như in cảnh Hoàng Phủ Ngọc Phan (em trai Hoàng Phủ Ngọc Tường) và Tôn Thất Dương Tiềm hay Nguyễn Đắc Xuân dẫn đường cho Cộng Sản đi từng nhà điệu nạn nhân ra, kết án họ đã “mắc tội với nhân dân” và có khi còn đọc bản án tử hình cho một số nạn nhân. Đây là đợt thảm sát đầu tiên trong thành phố Huế như Gia Hội. Còn những nạn nhân bị giết trên đường rút lui của Cộng Sản thì trách nhiệm phải thuộc những người chỉ huy quân đội như Lê Minh, người đã tự nhận một phần trách nhiệm, hay những người chỉ huy thấp hơn, đã tự động thủ tiêu nạn nhân trước rồi báo cáo sau, như Lê Minh ngụ ý trong lời khai của ông. Tuy nhiên, cách hành xử này đã rất phổ biến, đưa đến ít nhất là 22 mồ chôn tập thể được tìm ra sau này, và cho thấy lệnh thủ tiêu dân lành có thể được ban ra từ cấp chỉ huy cao hơn cả Lê Minh, rất có thể là từ Tướng Trần Văn Quang, tư lệnh quân khu Trị Thiên - Huế, hay ngay cả từ Hà Nội. Việt Báo Thứ Sáu, 21-3-2008, 12:02:00 AM
Huế, 40 năm sau Tết Mậu Thân, vết thương vẫn chưa lành Thiện Giao, phóng viên RFA 31-01-2008 Cách đây đúng 40 năm, trong chiến dịch Đông Xuân 1967-1968, Quân Đội Bắc Việt, dưới danh nghĩa là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, đã đồng loạt tấn công vào 41 tỉnh, thành phố, thị trấn và hàng trăm thị xã miền Nam Việt Nam. Thời điểm cuộc tấn công diễn ra đúng vào giao thừa trong bối cảnh hai phía Bắc – Nam và cả quân đội đồng minh đã thoả thuận hưu chiến 36 giờ đồng hồ để người dân được yên hưởng một Tết truyền thống trong hoà bình. Vi phạm thoả ước, Việt Cộng đã tấn công đúng vào giao thừa để dành phần bất ngờ. Chiến trường Huế, một địa điểm chính yếu trong toàn cuộc chiến, đã diễn ra ác liệt và kéo dài đến 25 ngày đêm. Khi quân đội Bắc Việt bị đánh bật ra khỏi thành phố, người dân Huế nhận ra rằng, nhiều ngàn người dân thường đã bị thảm sát, để rồi từ đó về sau, mỗi năm, Tết nguyên đán trở thành ngày giỗ người thân của hàng ngàn gia đình ở cố đô Huế. Tưởng niệm 40 năm biến cố Mậu Thân, đài Á Châu Tự Do xin kể lại cuộc thảm sát thông qua ký ức của chính những người trong cuộc, qua đối thoại trực tiếp hay tài liệu lưu trữ. Loạt bài gồm 5 phần, do biên tập viên Thiện Giao thực hiện. Khuya mùng Một, rạng sáng mùng Hai Tết Mậu Thân, tức là ngày 31 tháng Giêng năm 1968, Huế bắt đầu những ngày vui, nhưng bất ngờ chuyển thành ngưỡng cửa vào địa ngục, khi tiếng súng bỗng hoà vào, rồi thay hẳn tiếng pháo… Huế bị tấn công trong Chiến Dịch Đông Xuân 1967-1968 của quân đội miền Bắc chỉ một ngày sau các tỉnh, thành phố, thị trấn khác của miền Nam. Bị tấn công sau, nhưng Huế đã trở thành chiến trường tàn khốc nhất, dai dẳng nhất. Nếu chấp nhận một định nghĩa, rằng những tiếng đạn pháo đầu tiên qui định giờ khắc bắt đầu cuộc chiến, thì Huế bắt đầu trở thành chiến trường vào đúng 2g33 rạng sáng ngày 31 tháng Giêng. Ông Nguyễn Phúc Liên Thành, Phó Trưởng Ty Cảnh Sát Đặc Biệt Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia tại Thừa Thiên, kể lại: “Cuộc tấn công Huế chính thức vào đêm mồng Một, ngày 31-01-1968, rạng sáng Mồng hai Tết, lúc 2g33. Những quả đạn Việt Cộng đầu tiên bắn vào phi trường Tây Lộc, bộ Tư Lệnh và một số địa điểm Quận 3, thị xã Huế.” Huế đã nằm trong tay địch 25 ngày đêm liên tiếp. Khi quân đội Việt Nam Cộng Hoà cùng đồng minh Hoa Kỳ vãn hồi an bình cho Huế, với cao điểm là các trận tái chiếm Đại Nội, hạ cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, dựng lại cờ Việt Nam Cộng Hoà tại Kỳ Đài ở Phu Văn Lâu ngày 22 tháng Hai, Huế đã trải qua hơn 3 tuần kinh hoàng. 25 ngày thảm sát kinh hoàng Những kinh hoàng không dừng lại với hình ảnh của chiến tranh và âm thanh của đạn pháo. Huế, bắt đầu một cơn ác mộng khác nữa, khi người dân Huế bàng hoàng nhận ra, rằng nhiều ngàn người dân đất Thần kinh đã bị thảm sát, bằng nhiều cách khác nhau, trong đó có cả việc cột người ta lại thành từng xâu, rồi đẩy xuống hố chôn sống. Đây là lời kể của những kẻ chứng kiến tận mắt cảnh khai quật tử thi nạn nhân. Theo nhà báo Vũ Ánh, đương kim Chủ bút Nhật báo Người Việt, Cựu Phóng viên Mặt trận Hệ thống Truyền thanh Quốc gia Việt Nam Cộng Hoà, thì: “Ngay tại Phú Thứ, bác sĩ Lê Khắc Quyến nói với tôi là: Đây là cách giết người của người ở thời Trung Cổ.” Ông Võ Văn Bằng, Trưởng ban Truy tìm và Cải táng Nạn nhân Cộng Sản Tết Mậu Thân, hồi tưởng: “Các hố cách khoảng nhau. Một hố vào khoảng 10 đến 20 người. Trong các hố, người thì đứng, nào là nằm, nào là ngồi, lộn xộn. Các thi hài khi đào lên, thịt xương đã rã ra. Trên thi hài còn thấy những dây lạt trói lại, cả dây điện thoại nữa, trói thành chùm với nhau. Có lẽ họ bị xô vào hố thành từng chùm. Một số người đầu bị vỡ hoặc bị lủng. Lủng là do bắn, vỡ là do cuốc xẻng.” Mức độ kinh hoàng dâng lên, từ từ, từng ngày, từng tuần, từng tháng. Rồi, đến ngày 19-09-1969, tức là 20 tháng sau trận Mậu Thân, Huế vỡ oà với những phát hiện về vụ thảm sát tại Khe Đá Mài thuộc quận Nam Hoà. Người ta tìm ra khoảng 400 bộ hài cốt. Những hài cốt chỉ còn xương và sọ. Thịt da đã rữa và trôi đi theo dòng nước. Huế 1968, là Huế của “chiều đi lên Bãi Dâu, hát trên những xác người.” Huế 1968, là Huế của “đàn con nay lớn khôn, mang gươm đao vào xóm làng.” Huế 1968, là Huế của khăn sô vào áo tang trắng. Đó là những hình ảnh không thể nào quên với những ai đã một lần chứng kiến: “Mỗi lần nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế làm lễ, dân chúng đi lễ, cả nhà thờ mặc đồ trắng và để tang trắng cả nhà thờ”, Trần Tiễn San, Trung Uý Tiểu Đoàn 39 Biệt Động Quân vào năm 1968 nói. “Dọc đường, từ đường Lê Lợi, các quận lên mồ chôn tập thể Ba Tầng toàn khăn tang áo trắng”, Nguyễn Phúc Liên Thành, Phó Trưởng ty Cảnh sát Đặc biệt Lực lượng Cảnh sát Quốc gia tại Thừa Thiên phát biểu. Những địa danh của Huế, vốn chỉ được biết trong cộng đồng cư dân Huế, nay bỗng chốc, trở thành đề tài bán tán của dư luận, trên báo chí quốc gia, và cả quốc tế. Một Gia Hội, một Cồn Hến, một Chợ Thông, một Phú Thứ, một Khe Đá Mài, một Bãi Dâu. Ai đã thắng trận chiến dành lấy từng căn nhà, từng con đường của thành Nội, kéo dài trong 25 ngày tại Huế? Ai thắng có lẽ không phải là điều quan trọng? Hay ít nhất không phải là điều quan trọng nhất. Trách nhiệm thuộc về ai? Người dân Huế quan tâm hơn đến câu hỏi: Ai đã giết, ai đã chết, ai sẽ chịu trách nhiệm những gì xảy ra trong gần 4 tuần lễ kinh hoàng của Huế? Học giả Douglas Pike, thuộc Phòng Thông Tin Hoa Kỳ, trong bản báo cáo hoàn tất vào ngày 1 tháng Hai năm 1970 tại Sài Gòn, đã viết: chỉ trong một trận Mậu Thân tại Huế, gần 4,800 thường dân đã chết và mất tích. Ông Pike kết thúc lời mở đầu của báo cáo bằng một khẳng định: “Nếu báo cáo của tôi là một bản án đối với thái độ của người CS, thì thật sự nó là như vậy đấy. Đơn giản vì thái độ ấy đáng bị lên án.” Trong khi đó, trong một bài viết đăng trên số 33 tạp chí Indochina Chronicle, ngày 24-06-1974, tiến sĩ Gareth Porter phản bác lại tất cả những gì ông Pike đã viết. Tiến sĩ Porter nhận định rằng, vụ thảm sát Mậu Thân 1968 tại Huế, với chữ thảm sát để trong ngoặc kép, chỉ là một câu chuyện hoang đường phục vụ lợi ích của Hoa Kỳ và chính quyền miền Nam lúc bấy giờ. Đây là một kết luận đáng ngạc nhiên, vì ngay một cơ quan chính thức của nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa là Cục Văn Thư và Lưu trữ nhà nước từng gọi việc những người miền Nam di tản hồi cuối tháng tư năm 1975 là một “tội ác cưỡng ép di cư” cũng không dám đưa ra một kết luận tương tự như thế. Có lẽ, không ai, xin nhấn mạnh, không có bất cứ ai, có đủ tư cách và thẩm quyền để trả lời câu hỏi: Ai đã giết người dân Huế? Chỉ có thành phố Huế và người dân Huế, những nạn nhân trực tiếp của cuộc thảm sát, và những người trực tiếp tham gia công tác truy tìm, mai táng xác nạn nhân mới có thẩm quyền trả lời, và cả thẩm quyền để lên án. Những nhân chứng của 40 năm trước hồi tưởng: “Theo những báo cáo của các cuộc cảnh sát các xã thuộc 13 quận của thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, do các xã báo cáo, khoảng 5,300 nạn nhân bị chôn sống tại tỉnh Thừa Thiên” (Nguyễn Phúc Liên Thành, Phó Trưởng ty Cảnh sát Đặc biệt Lực lượng Cảnh sát Quốc gia tại Thừa Thiên). “Vết thương đó vẫn chưa khô máu, vết sẹo đó mỗi lần trái gió trở trời vẫn đau xót xa” (Huy Phương, cựu Phóng viên Cục Tâm lý chiến). Người Huế nói gì về biến cố Tết Mậu Thân? Và hôm nay, người dân Huế thế hệ Mậu Thân, đang sống tại Huế, nói gì? “Gió Nam thì vỗ về gió Nam, gió Nồm thì vỗ về gió Nồm. Ngã mô cũng khổ. Không theo thì chết. Không theo thì chôn…” - “Nó xô xuống, nó dập, khổ lắm. Ở Huế đây chết nhiều cái thê thảm!” - “Toàn dân không à! Mà họ nói là ác ôn, ri khác! Ai chết thì chết! Tui chừ tui cũng sợ, tui không dám về làng.” 40 năm qua là 40 năm người dân Huế đón Xuân cùng lễ giỗ. Bốn mươi năm nhưng vết thương chưa lành. Năm nay, người dân Huế ở hải ngoại lại tổ chức lễ tưởng niệm 40 năm thảm sát Mậu Thân. Ở trong nước, giới chính quyền, giới quân sự thì tổ chức hội thảo khoa học về chiến dịch Xuân MT 1968. Một trong các hội thảo được tổ chức tại Huế. Đến nay, đứng trước những cáo buộc suốt 40 năm của những Việt Nam Cộng Hoà cũ, và của cả giới nghiên cứu quốc tế, nhất là Hoa Kỳ, Hà nội vẫn chưa bao giờ có câu trả lời chính thức: Ai, bằng cách nào, và tại sao, đã giết hàng ngàn người Huế, trong đó có cả sinh viên, thanh niên, học sinh và phụ nữ. Nhân kỷ niệm 40 năm biến cố Mậu Thân, ban Việt ngữ đài Á Châu Tự do chúng tôi xin được tái hiện lại, trong chừng mực có thể, dựa trên lời kể của những người trong cuộc, về những gì đã xảy ra tại Huế trong năm 1968. Đó chẳng những là một cách để ghi lại những gì thực sự xẩy ra trong chuỗi ngày kinh hoàng ấy, mà còn là để tưởng nhớ những con người đã chết oan khuất, đớn đau trong một sự kiện lịch sử mà không ít người muốn chôn vùi hay gây nhiễu. Loạt bài này gồm 4 chủ đề, trình bày các khía cạnh dân sự lẫn quân sự của trận Mậu Thân trên nền những ký ức về vụ thảm sát. Cũng trong nội dung này, hành trình truy tìm và cải táng các mộ chôn người tập thể những tháng sau đó cũng sẽ được trình bày lại, theo lời kể của các nhân chứng, người Huế và cả các nhà báo theo dõi sự kiện này. Trên đây là bài thứ nhất trong loạt bài “Cuộc thảm sát Tết Mậu Thân 40 năm trước” do Thịên Giao thực hiện. Trong bài kế tiếp, chúng tôi xin gởi đến quí vị những hồi ức về Huế, những ngày trước Tết Mậu Thân. Đối với người dân thường, Mậu Thân là một cái Tết bình thường như bao cái Tết khác. Nhưng, họ đã không ngờ niềm vui và những ngày hoà bình hiếm hoi đang nằm trong nỗi kinh hoàng đang đến dần. Huế, những ngày ấy, như lời nhà văn Nhã Ca trong hồi ký “Giải Khăn Sô Cho Huế,” “Đang mở cửa địa ngục.” http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2008/01/31/
Huế, 25 ngày kinh hoàng của 40 năm trước Thiện Giao, phóng viên RFA 31-01-2008 Thưa quí vị, trong bài trình bày trước, để mở đầu cho loạt bài về biến cố Mậu Thân năm 1968 tại Huế, chúng tôi đã gởi đến những con số tổn thất nhân mạng, những nhận định liên quan đến vụ thảm sát nhiều ngàn người tại Huế trong tháng Hai năm 1968. Hôm nay, chúng tôi xin tiếp tục phần thứ nhì. Trong phần này, xin gởi đến tiếng nói của những người trong cuộc, kể lại Huế trong 25 ngày kinh hoàng cách đây đúng 40 năm. Bên cạnh đó, các nhân chứng cũng không khỏi bùi ngùi nhớ lại đất cố đô những ngày trước thảm sát, trong một không khí thanh bình, cho dù vẫn còn văng vẳng xa xa tiếng đại bác. Biên tập viên Thiện Giao trình bày sau đây. Những ngày giáp Tết Mậu Thân 1968, những ngày giáp Tết Mậu Thân, Huế vẫn bình yên, một tình trạng bình yên của thời chiến. Huế, những ngày ấy, bỗng nhiên thanh bình hơn. Chợ hoa đầu cầu Trường Tiền vẫn mở. Chợ Đông Ba, dân chúng vẫn tụ tập, mọi người vẫn hớn hở. Vẫn có tiếng đại bác xa xa vọng về, nhưng vẫn là một trạng thái yên bình. Linh mục Phan Văn Lợi, vào thời điểm năm 1968, mới 17 tuổi, hồi tưởng: “Tình hình tạm yên, vẫn nghe tiếng đại bác từ xa vọng về. Nhưng lúc ấy tôi thấy yên lành hơn. Vì thường thường hai bên đình chiến.” Đình chiến, một danh từ hấp dẫn. Đối với Huế, đình chiến có nghĩa là được thêm vài chục giờ thanh bình. Hồi tưởng lại những ngày giáp Tết Mậu Thân, ông Nguyễn Phúc Liên Thành, lúc ấy là Phó Trưởng ty Cảnh sát Đặc biệt Lực lượng Cảnh sát Quốc gia tại Thừa Thiên cho biết: “Huế những ngày ấy thanh bình hơn những ngày khác. Chợ Hoa đầu cầu Trường Tiền, Chợ Đông Ba, đông dân chúng tụ tập, mọi người hớn hở. Mọi người biết có thoả hiệp đình chiến giữa Việt Nam Cộng Hòa, đồng minh và Việt Cộng. Đình chiến 3 ngày Tết để dân chúng được hưởng một cái tết thanh bình giữa tình trạng chiến tranh.” Từ Sài Gòn, những người gốc Huế cũng háo hức về đất Thần kinh đón Xuân. Anh Nguyễn Xuân Thắng, năm 1968 vừa mới tròn 7 tuổi, nhớ lại: “Mình là dân Huế, được về Huế thì rất mừng. Khung cảnh Huế yên tĩnh, rất thơ mộng. Tối 30, ông Bác dẫn về nhà ông nội ở đường Hàn Thuyên đối diện nhà luật sư Lê Trọng Quát. Tối đó người lớn đi chơi thì chở mình đi theo.” Tấn công ngay trong đêm Giao thừa Khoảng thời gian đình chiến, theo tài liệu xuất bản tháng 8 năm 1968, do trung tá Phạm Văn Sơn chủ biên, trước định 48 giờ, sau được lệnh rút xuống 36 tiếng, nghĩa là, lệnh hưu chiến chỉ còn giá trị từ 18 giờ ngày 29 tháng Giêng đến 6 giờ ngày 31 tháng Giêng năm 1968. Quân đội Bắc Việt chọn tấn công miền Nam đúng vào giờ giao thừa, và xem đó là một trong những bí mật của trận Mậu Thân. Đại tướng Quân đội Bắc Việt Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh: trận Mậu Thân có ba điểm bất ngờ, là mục tiêu, qui mô, và trên hết là thời điểm, đúng giao thừa: “Ra đến cầu Tràng Tiền thì thấy xe tăng hai bên đường. Tôi nghe người lớn nói với nhau: Không biết chuyện gì xảy ra tối nay.” Mà thật là như vậy, tối hôm ấy, mọi chuyện bắt đầu xảy ra. Bộ đội Bắc Việt đã có mặt trong thành phố Huế từ sáng sớm mùng Một Tết. Ông Trần Ngọc Huế, vào thời điểm đó, là Đại Đội trưởng Đại đội Hắc Báo thuộc Sư Đoàn I Bộ binh, kể lại rằng cho đến buổi tối, khi phía Bắc Việt bắt đầu tấn công, ông mới trực tiếp nhìn thấy bộ đội đặc công di chuyển vào sân bay Thành Nội. Ông thừa nhận, quân đội Bắc Việt có ưu điểm là giữ bí mật: “Tối đó, sau khi bố trí đơn vị, tôi về nhà. Đến khuya thì một trung úy của tôi lái xe đi tuần. Tôi nói, mai về sớm để đón tôi vào đơn vị. Đến khuya thì phía Bắc Việt bắt đầu đánh. Tôi mặc áo quần rồi lấy chiếc xe đạp ra đi. Trên đường đi, tôi thấy Đặc Công tiến vào sân bay Thành Nội. Họ đi lúp xúp, tôi nhìn kỹ, thấy không phải mình. Khi thấy họ ngụy trang đi quẹo vào phi trường. Tôi đi chầm chậm sau đó, rồi băng qua cống Vĩnh Lợi rồi đánh kẻng báo động.” Đến 2 giờ 33 phút sáng ngày mồng Hai, những trái đạn pháo đầu tiên bắt đầu bắn vào phi trường Tây Lộc, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Một Bộ Binh và một số địa điểm tại Quận 3 thuộc thị xã Huế. Ông Trần Ngọc Huế nhớ lại, có thời điểm, Đặc Công của phía Bắc Việt đã vào đến bên trong Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Một Bộ Binh, cách phòng tướng tư lệnh Ngô Quang Trưởng chỉ có 30 mét, và tướng Trưởng cũng đang có mặt tại đó: “Đặc công đã vào trong bộ tư lệnh Sư Đoàn Một rồi. Lúc đó là 10 giờ sáng, chuẩn bị mở đường máu vào Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn để giữ an ninh cho bộ tư lệnh. Đặc công chỉ còn cách văn phòng tướng Trưởng 30 mét.” Cuộc thảm sát kinh hoàng Chiếm thành phố Huế đến đâu, phía Bắc Việt lập Chính Quyền Cách Mạng đến đó. Ông Nguyễn Phúc Liên Thành kể lại, khi Việt Cộng làm chủ Huế qua ngày thứ hai thì họ bắt đầu thành lập chính quyền Cách Mạng. Cụ thể, tại Quận Nhì, Thành Ủy Viên Thành Ủy Huế Hoàng Kim Loan, cấp trung tá, đứng đầu cùng Hoàng Lanh. Chính quyền Quận Nhất cũng được thành lập. Riêng Quận 3 chưa kịp nhưng được giao cho đại tá Bảy Lanh, phụ trách an ninh thành. Ông Liên Thành nhớ lại: “Sau khi lập chính quyền thì bắt đầu thảm sát. Đầu tiên họ kêu gọi quân nhân cán chính trong thành phố Huế ra trình diện. Sau khi trình diện thì được cấp giấy, có quyền đi lại, coi như giấy thông hành. Những người này về nói lại với những người khác, người kế tiếp ra trình diện. Đến lần thứ 3 thì họ yêu cầu tất cả những người đã trình diện lần l và 2 ra trình diện lại, đây là lần quyết định. Và cuộc thảm sát xảy ra.” Đầu tiên là những tòa án nhân dân: “Ngay lúc đầu, có một số người bị đưa ra tòa án nhân dân xử và chôn sống tại Bãi Dâu, tại vùng Chùa Áo Vàng gần chùa Diệu Đế và một số nơi khác trong Quận Nhì.” Tiếp theo là Dòng Chúa Cứu Thế và nhà thờ lớn Phủ Cam: “Riêng tại Quận Ba, Việt Cộng bắt đi hơn 500 người đang trốn trong Dòng Chúa Cứu Thế, dẫn đi hết, rồi chôn sống. Tội nghiệp nhất là một số nạn nhân hoàn toàn không dính dáng gì đến chính quyền. Ngoài ra, trong số này còn có một người rất tiếng tăm là Thượng nghị sĩ Trần Điền. Ngoài ra, tại vùng Phủ Cam, bốn ngày sau khi VC chiếm Huế, Nhà thờ lớn Phủ Cam bị ập vào, bắt đi 300 thanh niên sau này được tìm thấy xác ở vùng phía tây Nam Hoà, tức vùng núi dọc khe Đá Mài, lăng Gia Long.” Đã có bao nhiêu người bị giết, và đã có bao nhiêu địa điểm chôn người? Giáo sư Nguyễn Lý Tưởng, cựu Dân Biểu đại diện khu vực Thừa Thiên, nói rằng con số 5 đến 6 ngàn người là không sai lệch mấy. Và khoảng 22 địa điểm trở thành nơi che dấu các thi hài: “Tại thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, 22 địa điểm tìm được là các mồ chôn tập thể. Trong 22 địa điểm này, người ta đếm được 2,326 sọ người. Sau tết, chúng tôi lập Hội Gia Đình Nạn Nhân Cộng Sản trong Tết Mậu Thân. Các gia đình kê khai có người chết, có người mất tích, lên đến 4,000 gia đình. Người ta ước tính vào khoảng 6,000 người. có nhà báo ước tính 5,000. Chúng tôi cho con số 5 đến 6 ngàn là không sai lệch lắm đâu.” Ông Nguyễn Lý Tưởng kể rằng, cuộc tìm kiếm nạn nhân Tết Mậu Thân bắt đầu từ giai đoạn Tết đến mùa Hè năm 1968 và đỉnh điểm là vụ Khe Đá Mài, thuộc đỉnh núi Đình Môn Kim Ngọc, tại đây, khoảng 400 bộ hài cốt đã được tìm thấy. Những hài cốt tìm thấy tại Khe Đá Mài chính là của những người trú ẩn tại xứ đạo Phủ Cam, thuộc làng Phủ Cam, xã Thủy Phước, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên: “Cộng sản bắt đi trên 500 người, thanh niên từ 15, 16 tuổi đến ông già 60, 70 bị đưa đi giam ở chùa Từ Đàm. Đến đêm, họ bị dẫn đi lên đường núi và qua sông. Sau đó tàn sát hết mọi người trong tư thế bị trói. Khi tàn sát thì dùng súng máy, trung liên, đại liên, cả lựu đạn. Các xác đó đã bị vùi xuống khe. “Từ Tết, tức tháng 2 năm 1968 đến tháng 9 năm 1969, khoảng 20 tháng, có một số người của Cộng Sản về hồi chánh, họ chỉ. Mở đường hành quân vào tìm, thì tìm được. Sọ người xương người dồn đống dưới khe. Nơi đây thuộc quận Nam Hòa, có tên là Khe Đá Mài, thuộc vùng núi Đình Môn Kim Ngọc. “Quân đội mang hết xương và sọ về để tại một trường tiểu học thuộc quận Nam Hòa, các đồ vật gồm có thẻ căn cước bọc nhựa, có áo quần, đồ dùng, vật kỷ niệm mang theo trong người. Hàng ngàn thân nhân đến tìm. Nhờ đó, gia đình tìm được dấu vết. Trong số các nạn nhân, có cả học trò tôi, như em Phan Minh, Bùi Kha, mới 16, 17 tuổi.” Một trong các vụ thảm sát gây phẫn nộ dư luận quốc tế là vụ giết 4 bác sĩ người Đức sang giảng dạy và làm việc tại trường Đại Học Y Khoa Huế. Trong bài viết “The Vietcong Massacre at Hue,” xuất bản năm 1976, một bác sĩ có tên Elje Vannema kể rằng ông bà bác sĩ Horst Gunther Krainick và hai bác sĩ Raymund Discher cùng Alterkoster đã bị giết trong tháng 02-1968 tại chùa Tường Vân hoặc một vùng đất nhiều cây cối cách chùa chừng nửa dặm, nơi người ta tìm thấy thi hài của các nạn nhân. Bác sĩ người Pháp, có tên Le Hir khám nghiệm tử thi các nạn nhân cho biết có dấu vết đạn xuyên qua đầu và ót. Ngày 13-04, linh cữu đưa thi hài các bác sĩ này rời Việt Nam, về Đức. 250 sinh viên y khoa Huế và Sài Gòn cùng đội quân danh dự của Quân Lực VNCH đã đi theo chiếc xe có bốn ngựa kéo, bên trên chở linh cữu của các ân nhân. Chiến sự tiếp diễn trong thành nội Huế đến ngày 22 tháng Hai. Vào ngày này, các lực lượng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã kết thúc 2 trận đánh quan trọng, đẩy phía Bắc Việt lui khỏi Đại Nội, nơi cung điện các vua triều Nguyễn, và kéo lá cờ Việt Nam Cộng Hoà lên thay cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tại Kỳ Đài ở Phu Văn Lâu. Hai ngày sau đó, chiến trường Huế chấm dứt. Huế lại trở về vòng kiểm soát của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Vừa rồi là những nét chính về tình hình Huế những ngày trước và trong khi quân đội Bắc Việt kiểm soát thành phố. Như đã trình bày, gần như ngay lập tức sau khi kiểm soát Huế, Bắc Việt đã cho thành lập chính quyền và bắt đầu các cuộc thảm sát. Trong bài tiếp theo vào kỳ sau, biên tập viên Thiện Giao sẽ trình bày tổng quát kế hoạch tái chiếm Huế, hai trận đánh đặc biệt tại Đại Nội và Kỳ Đài Phu Văn Lâu qua lời kể của những người tham gia trận đánh. Cuộc truy tìm và cải táng nạn nhân trong các mồ chôn tập thể sau khi quân đội miền Nam cùng đồng minh tái chiếm Huế được thực hiện ra sao? Những nhân chứng cũng sẽ trình bày lại ký ức của những ngày đau buồn ấy, 40 năm trước.
Huế 1968: Khăn tang và Nước mắt. Đường lên Ba Đồn Thiện Giao, phóng viên RFA 01-02-2008 Trong bài thứ ba của loạt 5 bài tường thuật tưởng niệm biến cố Mậu Thân tại Huế năm 1968, biên tập viên Thiện Giao của đài chúng tôi sẽ tiếp tục gởi đến quí thính giả nghe đài những nét chính yếu của cuộc phản công tái chiếm Huế mà đỉnh cao là ngày 22 tháng Hai, khi quân lực Việt Nam Cộng Hoà tái chiếm Đại Nội và Kỳ Đài Phu Văn Lâu. Ngay sau những giờ khắc xúc động nhìn lá quốc kỳ VN Cộng Hoà được kéo lên trên đỉnh Kỳ Đài, người dân Huế bàng hoàng nhận ra rằng hàng ngàn thân nhân của mình, bị bắt trong vài tuần lễ phía Bắc Việt làm chủ thành phố Huế, sẽ không bao giờ trở về nữa. Họ đã bị thảm sát ra sao, và được che dấu trong các hầm chôn tập thể như thế nào? Xin hãy điểm lại ký ức của những nhân chứng từ 40 năm trước. “Người dân Huế bị dồn vào đường cùng, không còn chọn lựa nào khác nên phải chọn chiến đấu. Chiến đấu để tự tồn. Chiến đấu để có tự do. Chiến đấu để sống hay là chết”, ông Trần Ngọc Huế, người chỉ huy Đại đội Hắc báo thuộc Sư đoàn I Bộ binh tái chiếm Đại Nội ngày 22 tháng Hai năm 1968 nhớ lại. Huế, tháng Hai năm 1968, mỗi tấc đất là một tấc máu. Máu, của tất cả những ai có mặt tại Huế; của người dân Huế, của các lực lượng Việt Nam Cộng Hoà, của các lực lượng Hoa Kỳ, và của các lực lượng Bắc Việt. Huế trở thành chiến trường đổ lửa, vì Huế là nơi không một ai muốn mất. Cuộc phản công tái chiếm Huế Chỉ một thời gian rất ngắn sau khi vào Huế, phía Bắc Việt Nam đã có thể tự do đi lại. Trong ngày Mùng 02 Tết, quân đội Bắc Việt di chuyển trong thành phố kiểm soát dân chúng như chỗ không người. Và phía miền Nam, cùng đồng minh, phải bắt đầu từ đầu nhiệm vụ vãn hồi an bình cho Huế. Huế, trở thành chiến trường của an ninh, của vận mệnh, và có lẽ, của cả danh dự. Quân đội Bắc Việt, quân lực Việt Nam Cộng Hoà, và quân đội đồng minh Hoa Kỳ đã quần thảo trên một chiến trường không lớn, giữa thành vách kinh đô cũ và giữa nỗi kinh hoàng của dân Huế trong nỗi lo sợ thảm sát, đã xảy ra ngay từ đầu khi miền Bắc kiểm soát và lập chính quyền tại Huế. Theo lời kể của hai người trong cuộc, là ông Nguyễn Văn Ngẫu, vào năm 1968 là thiếu uý thuộc Trung đoàn 3, Sư đoàn I Bộ binh và ông Trần Ngọc Huế, Đại Đội trưởng Đại đội Hắc báo thuộc Sư đoàn I Bộ binh, các lực lượng tham gia chiến trường Huế vào thời điểm Mậu Thân gồm có: Phía Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà có Sư đoàn I Bộ binh. Thiết đoàn 7 kỵ binh. Lực lượng sư đoàn nhảy dù và Thuỷ quân Lục chiến Việt Nam. Các tiểu đoàn Biệt Động quân Quân đoàn I. Một đại đội trinh sát. Trực thăng và máy bay skyrider Việt Nam với sự yểm trợ của máy bay phản lực và trực thăng Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Phía Pháo binh có 2 tiểu đoàn cơ hữu thuộc sư đoàn 1. Phía Hải Quân có Giang đoàn 11 và 12 yểm trợ chiến trường. Phía Đồng minh Hoa Kỳ có Thủy quân Lục chiến, Sư đoàn 101 Nhảy dù và Sư Đoàn 1 Không kỵ. Thiếu uý Nguyễn Văn Ngẫu nhớ lại những ngày chuẩn bị phản công: “Sau 31 tháng Giêng, dân chúng đang ăn tết vui vẻ. Thành phố Huế trở thành trọng tâm của chiến trường. Đặc công và nội thành do trung tá Khánh Lửa dẫn quân vào bốn Kỳ Đài và 4 con đường chính gồm vùng An Hoà, Thượng Tứ, Cửa Ngăn, Cửa Sập từ vùng núi đi về tập kích. Lực lượng Nội Thành gần đó đang đóng ở Thượng Tứ, Cửa Ngăn, Cửa Sập cũng tiến vào. Đơn vị tôi đang đóng tại quận Hương Trà. Một ngày sau khi nổi lên, tướng Ngô Quang Trưởng trực tiếp điện đàm với quân Khu 1, tướng Hoàng Xuân Lãm, tổng tham mưu và sau hai ngày là bắt đầu phản công phản công.” Đại Đội trưởng Hắc báo, ông Trần Ngọc Huế hồi tưởng: “Huế không lớn nhưng đánh dai dẳng vì quyết tâm của Cộng Sản là muốn thắng lợi bằng bất cứ giá nào. Mà ý chí của miền Nam và Huế cũng bằng bất cứ giá nào phải giành lấy mảnh đất thiêng liêng của mình.” Cuộc phản công tái chiếm Huế diễn ra ác liệt. Hai bên giằng co từng căn nhà, từng khu phố, từng tấc đất. Ông Trần Ngọc Huế nhớ lại: “Hai bên quần thảo, tiến lên, rồi lui lại, rồi lại tiến lên, rồi lui lại, tranh từng căn nhà, từng khu phố. Mỗi tấc đất là một tấc máu. Từng cái nhà, đánh liên tục không có thời giờ ăn và thời giờ ngủ. Đánh liên tục. Nhiều khi phải chia thành từng tổ 2, 3 người thay phiên nhau ngủ.” Vòng vây ngày càng xiết chặt. Phía BV bắt đầu nao núng, lui vào Đại Nội cố thủ. Dựng lại cờ VNCH trên Kỳ Đài ở Phú Văn Lâu Đại Nội, biểu tượng của kinh thành Huế, nằm gần Kỳ Đài ở Phu Văn Lâu. Lúc ấy, cờ của Mặt trận Giải phóng Miền Nam vẫn đang bay giữa trung tâm Huế. Thế rồi, đến ngày 18 tháng Hai, ông Nguyễn Văn Ngẫu và đơn vị nhận được lệnh trình diện Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Tại đây, tướng Tư Lệnh Ngô Quang Trưởng trực tiếp giao nhiệm vụ đặc biệt cho tiểu đoàn của thiếu uý Nguyễn Văn Ngẫu: Đánh chiếm và dựng lại cờ Việt Nam Cộng Hoà ở Kỳ Đài. “Hướng dẫn đại đội ra khỏi sư đoàn và đến đường Mai Thúc Loan, tướng Trưởng chỉ vào lá cờ Mặt Trận Giải Phóng cách khoảng 1 cây số, nói “nhiệm vụ của toa đấy.” Rồi ông đưa bản đồ hành quân, các cơ quan liên lạc, và hỏi tôi hai câu. Tôi trả lời, chính tôi là kẻ muốn thắng trận, và tôi ngỏ ý cần một lá cờ để thay thế cờ Mặt Trận.” Cùng thời điểm ấy, người chỉ huy Đại đội Hắc báo cũng ngỏ lời với tướng Ngô Quang Trưởng, yêu cầu được giao nhiệm vụ tái chiếm Đại Nội: “Cuối cùng chúng tôi yêu cầu Tướng Tư Lệnh được tái chiếm Đại Nội, là biểu tượng về nền tự chủ và độc lập của VN từ năm 1802. Chúng tôi được vinh dự lãnh trách nhiệm tái chiếm Huế từ tay Cộng Sản. Và chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ của con dân Huế và miền Nam.” 10 giờ sáng ngày 22, cờ Việt Nam Cộng Hoà được kéo lên Kỳ Đài sau khi 2 người lính đã bị phía Bắc Việt từ Đại Nội bắn tỉa. “Bên kia là toà tỉnh, các phái đoàn tổng tham mưu, truyền hình, truyền thanh, hàng chục ngàn dân nhìn lên lá cờ để tưởng niệm những ngày tang thương nhất qua đi. Nhìn lá cờ mà rưng rưng nước mắt, bao nhiêu ngày bị bao phủ bởi khổ đau.” Hai giờ chiều cùng ngày, Đại Đội Hắc Báo chiếm Đại Nội: “Tấn công nhưng phải bảo vệ di tích lịch sử. Phải bảo tồn. Chúng tôi cũng yêu cầu người Mỹ như vậy. Tôi là con dân Việt Nam, tôi tôn trọng di tích tổ tiên để lại.” Hàng ngàn người vô tội bị giết hại Hai ngày sau, Huế hoàn toàn được vãn hồi an bình. Người dân trở lại thành phố, vừa ngơ ngác, vừa vui mừng, vừa chờ đợi. Họ chờ đợi sự trở lại của những người thân đã bị bắt đi trong thời gian phía Bắc Việt chiếm Huế. Chờ đợi, để rồi họ bàng hoàng nhận ra: Tất cả đã bị giết. Hành trình đau đớn truy tìm các hố chôn tập thể bắt đầu. Một trong những người tham gia đi tìm các hố chôn tập thể thời ấy là ông Võ Văn Bằng, Trưởng Ban Truy Tìm và Cải Táng Nạn Nhân Tết Mậu Thân, nói rằng Uỷ Ban của ông đã tìm được khoảng 3,000 hài cốt. Trong số ấy, đau đớn nhất, chỉ khoảng 10% được nhận diện và được gia đình mang về cải táng. Số nạn nhân còn lại phải được an táng tập thể tại 2 nghĩa trang ở Huế gần núi Ngự Bình là Ba Đồn và Ba Tầng. Dựa trên thi hài và các đồ vật còn sót lại của nạn nhân, ông Bằng phỏng tính là 20% số nạn nhân là quân nhân, 40% là công chức và 40% là dân thường: “Sau Mậu Thân, khoảng 1 đến 2 tháng, chúng tôi biết những cái chết rất vô lý. Ví dụ: tại vùng Gia Hội, có một chị tên Tuý. Chị là một sinh viên. Khi Cộng Sản đến tìm anh chị, không có nên bắt chị thay thế. Chị Tuý bị bắn và chôn tại cồn Gia Hội. Còn tại Vỹ Dạ, có chị tên Hương Sen. Hương Sen có nhiều anh tham gia quân đội. Khi vào bắt thì không có các anh của chị nên họ bắt chị ra hành quyết tại chỗ. Hoàn toàn là người vô tội.” Về nguyên nhân thành lập Uỷ ban Truy tìm và Cải táng Nạn nhân, ông Võ Văn Bằng cho biết nhờ một sự tình cờ, mà sau đó người dân Huế mới vỡ lẽ ra là thân nhân mình bị thảm sát tập thể: “Một năm sau, nhân cuộc hành quân của tiểu khu Thừa Thiên ngang qua khu vực giáp giới của Phú Vang, Hương Thuỷ và Phú Thứ, người ta thấy một đầu lâu trồi lên dưới một trảng cát dài hàng cây số. Đào lên, đó là thi hài của thiếu uý Trần Văn Đỉnh, nhận biết nhờ tấm thẻ bài. Tin này loan ra rất nhanh nên tạo phong trào tìm xác ở Phú Thứ.” Những cảnh tượng kinh hoàng Nhà báo Vũ Ánh, nguyên phóng viên mặt trận hệ thống truyền thanh quốc gia Việt Nam Cộng Hoà, đã có mặt tại Huế từ mùng Năm đến 29 Tết Mậu Thân và đi theo nhiều nhóm tìm hầm chôn xác tập thể, kể lại cảm giác của ông khi lần đầu nhìn thấy những cảnh tượng ấy: “Vùng nhiều nhất là quận Phú Thứ và Dạ Lê Thượng có nhiều hầm chôn xác tập thể. Cảm giác tôi lúc ấy rất lạ, như là bị tê liệt khi nhìn các hình ảnh đó.” Những hình đó là gì? Ông kể tiếp : “Ngay ở hầm Phú Thứ, chắc khoảng gần 1,000 người. Khi khui lên, đầu của họ phía sau sọ bị bể hết. Những thi hài bị nối nhau bằng dây điện thoại. Có những người không có vết thương, chứng tỏ bị chôn sống. Sau này tôi có hỏi các nhân chứng, là một phóng viên bị bắt đi theo Việt Cộng và bị An Ninh VNCH bắt lại, cho biết: Họ được lệnh đập đầu bằng đầu cuốc, từ phía lưỡi vào. Quan trọng nhất là, theo nhân chứng: người này phải đập người kia. Cứ 10 người bị cột vào điện thoại và đều bị đập vỡ từ phía sau.” Ông Võ Văn Bằng kể tiếp rằng, vì người ta bị chôn lớp này trên lớp khác, đến khi tìm được vị trí, thân xác đã không còn nguyên vẹn. Để giúp các thân nhân tìm được người thân, Uỷ ban đều đánh số lên thi hài và ghi các chi tiết liên quan, chẳng hạn đầu vỡ, sọ bể, tay bị cột như thế nào, dây lạt hay điện thoại, vạt áo, nilông còn sót. Và rồi đến bước cuối cùng: “Sau đó loan tin trên đài phát thành Huế để đồng bào nhận dạng.” Huế, trước Tết 1968, bình thường như mọi Tết khác! Huế, trong Tết 1968, kinh hoàng như chưa bao giờ! Huế, từ sau Tết 1968, đón Xuân trong niềm ngậm ngùi. 40 năm, có đủ để làm lành một vết thương? Thế hệ Mậu Thân của Huế vẫn còn đang sống, và năm nay, người dân Huế, ở trong nước thì chốn riêng tư, ở nước ngoài thì nơi công khai, vẫn tiếp tục tưởng niệm những nạn nhân xấu số của vụ thảm sát 40 năm về trước. Quí vị và các bạn vừa theo dõi một vài sơ lược những nét chính của cuộc tấn công tái chiếm cố đô Huế trong Tết Mậu Thân 40 năm trước và hành trình đi tìm các mồ chôn tập thể nạn nhân cuộc thảm sát Mậu Thân năm 1968. Bài tường thuật này được thực hiện trong khuôn khổ tưởng niệm biến cố Mậu Thân ở Huế, vào thời điểm và địa điểm mà nhiều ngàn người vô tội, không có vũ khí trong tay, đã bị thảm sát. Trong bài tường thuật thứ tư của buổi phát thanh sau, biên tập viên Thiện Giao sẽ tiếp tục gởi đến quí vị bài tìm hiểu về một số nhạc phẩm và hồi ký ra đời trong biến cố Mậu Thân. Đồng thời, chúng tôi cũng sẽ điểm lại 3 bức thư Linh Mục Bửu Đồng viết, nhưng chưa kịp gởi đến thầy mẹ, tín hữu và các em ngài. Những bức thư này chỉ được tìm thấy sau khi thi hài linh mục được tìm thấy trong lòng đất.
Những nhạc phẩm ra đời trong bối cảnh Mậu Thân 1968 Thiện Giao, phóng viên RFA 02-02-2008 Tiếp tục loạt bài nhân dịp tưởng niệm biến cố Mậu Thân tại Huế năm 1968, biên tập viên Thiện Giao sẽ trình bày một khía cạnh khác, liên quan đến những nhạc phẩm ra đời trong bối cảnh biến cố Mậu Thân. Từ sau năm 1968, chính quyền Việt Nam vẫn chưa bao giờ chính thức đưa ra các số liệu và những giải trình về con số nạn nhân tại Huế. Thậm chí, đến năm 1975, khi tiến vào miền Nam, nghĩa trang trên núi Ba Tầng, còn gọi là núi Bân, nơi an táng khoảng 400 thi hài tìm được nơi Khe Đá Mài vùng Đình Môn Kim Ngọc cũng bị đập phá. Trong một nghĩa nào đó, chính các tác phẩm âm nhạc sẽ là nơi lưu giữ lâu dài nhất những chứng tích liên quan đến Mậu Thân. Hát trên những xác người Mậu Thân 1968, những gì xảy ra cho người đã chết, sẽ còn mãi trong lòng người đang sống. Biến cố ấy sẽ không trôi qua trong quên lãng. Mậu Thân 1968, đã để lại dấu vết trong âm nhạc, trong văn chương, trong hồi ký, và trên báo chí. Mậu Thân được mô tả, rất thực trong bản nhạc “Hát Trên Những Xác Người” ghi dấu địa danh Bãi Dâu. Chiều đi lên Bãi Dâu. Hát trên những xác người. Tôi đã thấy, tôi đã thấy. Trên con đường. Người ta bồng bế nhau chạy trốn. Chiều đi lên Bãi Dâu. Hát trên những xác người. Tôi đã thấy, tôi đã thấy. Những hố hầm. Đã chôn vùi thân xác anh em… Mậu Thân được ghi lại trong “cơn mê chiều,” với cầu Trường Tiền, với Kim Long, Nam Giao, lên án “đàn con nay lớn khôn, mang gươm đao vào xóm làng.”: Chiều nay không có em. Mưa non cao về dưới ngàn. Đàn con nay lớn khôn. Mang gươm đao vào xóm làng. Chiều nay không có em. Xác phơi trên mái lầu. Một mình nghe buốt đau. Xuôi Nam Giao. Tìm bóng mình. Đường Nội thành. Đền xưa ai tàn phá. Cầu Tràng Tiền. Bạc màu loang dòng máu… Mậu Thân cũng được ghi lại trong hồi ký nổi tiếng một thời: “Dải Khăn Sô Cho Huế”. Mậu Thân ghi lại những hình ảnh qua âm nhạc, thực và rõ ràng hơn cả hàng trăm thước phim hay hàng loạt bài phóng sự. “Xác người nằm trôi sông. Trôi trên ruộng đồng. Trên nóc nhà thành phố. Trên những đường quanh co. Xác người nằm bơ vơ. Dưới mái hiên chùa. Trong giáo đường thành phố. Trên thềm nhà hoang vu… Xác người nằm quanh đây. Trong mưa lạnh này. Bên xác người già yếu. Có xác còn thơ ngây. Xác nào là em tôi. Dưới hố hầm này. Trong những vùng lửa cháy. Bên những vồng ngô khoai” Những cảnh tượng chết chóc Mậu Thân sẽ không trôi qua trong quên lãng, khi hàng ngàn người, vừa thanh niên, vừa trí thức, vừa sinh viên, học sinh, phải chết chỉ trong chưa đầy 1 tháng. Hai bài hát của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là “Bài ca viết cho những xác người” và “Hát trên những xác người” được sáng tác năm 1968, sau khi Trịnh Công Sơn từ Huế trở về Sài Gòn. Những ngày diễn ra biến cố tại Huế, Trịnh Công Sơn có mặt tại Cố đô. Một người bạn thân của ông là họa sĩ Trịnh Cung, hồi tưởng rằng Trịnh Công Sơn có kể với ông những tình tiết đã xảy ra cho người nhạc sĩ trong những ngày lưu lại Huế. Họa sĩ Trịnh Cung cho biết, tác giả bài ca Hát trên những xác người suýt chút nữa đã trở thành nạn nhân của Biến Cố Mậu Thân. “Gia đình Sơn bị lùa vào tập hợp tại một điểm tập trung tại Huế. Em Sơn là Trịnh Quang Hà cũng bị lùa vào. May mắn cho Sơn, những người bộ đội là từ miền Bắc vào, họ không biết Sơn là ai. Chứ nếu Sơn bị những người địa phương bắt, thì chắc anh em Sơn cũng đã cùng chung một số phận tại mồ chôn tập thể ở Bãi Dâu. Mẹ Sơn nhanh trí chỗ này. Bà ấy đến nói chuyện với mấy chú bộ đội ngoài Bắc. Bà xưng là mẹ: mẹ như thế này, các em thế kia. Các chú bộ đội ngoài Bắc thì lơ ngơ. Rồi bà nói đại khái là không có tội tình gì. Vậy là họ để cho mẹ Sơn dắt cả nhà ra về.” Trong một bài viết cách đây vài năm, nhà văn Phạm Xuân Đài, cũng là một người bạn của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, đã khẳng định, hai nhạc phẩm viết nhân vụ Mậu Thân là sự ghi lại trong vai trò của một nhân chứng. Ông viết: “Toàn là những xác người, gần giống như những thước phim tài liệu của Đức Quốc Xã ghi hình ảnh thi hài chồng chất của người Do Thái. Bài hát này của Sơn là một phóng sự bằng nghệ thuật cho người đời biết thế nào là sự chết chóc khi “anh em ta về” thành phố Huế dịp Mậu Thân. Chắc chắn, đó là dịp Sơn nhìn gần cái chết tập thể nhất, nhìn thấy sự man rợ, tuy vẫn thuộc phạm vi cuộc chiến nhưng không phải thuần tuý do động lực chiến tranh. Cả hai bài hát có cùng một đề tài trong hầu cùng một biến cố.” “Một nhạc phẩm khác, ít được phổ biến bằng hai nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn, nhưng chuyên chở một ý tưởng rất lạ, khi mở đầu bằng câu: “Đàn con nay lớn khôn, mang gươm đao vào xóm làng.” Phải chăng Cơn Mê Chiều, tên của bản nhạc, muốn nói về một lớp trí thức, bỏ Huế ra đi, rồi nay quay lại Huế trong vai trò mới. Một thanh niên trí thức Huế nhận định. “Trong vụ thảm sát Mậu Thân, ngoài nỗi đau đớn cho dân tộc trong một cuộc nồi da xáo thịt tàn độc, còn có một nỗi đau lớn hơn, là vai trò một số trí thức Việt Nam trong cuộc thảm sát này. Bài hát có câu: “Đàn con nay lớn khôn, mang gươm đao vào xóm làng.” “Đàn con nớ, có phải chăng là một số trí thức Huế đã đưa Việt Cộng vào làng, rồi sau đó theo ra bưng khi quân đội VN Cộng Hoà tái chiếm Huế? Chẳng hạn trường hợp Hoàng Phủ Ngọc Phan, phát biểu trước đây rằng những người bị thủ tiêu chôn sống là thành phần ác ôn có nợ máu với nhân dân. “Tôi tự hỏi là, nếu trí thức là lương tâm và trí tuệ của quốc gia, dân tộc, thì với những phát biểu như rứa, khi nào VN mới thoát ra được tù hãm của tâm thức thời Trung Cổ? Tôi nghĩ 40 năm đã trôi qua, đây là lúc những người trí thức thiên Tả, trí thức CS hãy tự thẳng thắn đánh giá, phê bình hành vi của mình trong biến cố Mậu Thân, lúc đó mới hy vọng có thể cứu chuộc được mình và cứu chuộc được dân tộc ni.” Những hình ảnh không thể nào quên Những nhân chứng thời ấy nói rằng, các đám tang tập thể tại Huế vào các năm 1968, 1969 là hình ảnh không thể quên cho những ai từng một lần nhìn thấy. Trong bài viết “Mass Murder, Mass Burial” của nhà báo Tito V. Carballo, đăng trên Vietnam Bulletin vào năm 1969, có đoạn mô tả một đám tang tập thể như sau: “Dưới ánh mặt trời chói chang, những dãy quan tài được xếp thành từng hàng ngay ngắn. Bên trong mỗi quan đóng vội này là những gì còn sót lại của các thi hài được tìm thấy. Khoảng 15,000 người, trong áo tang trắng, đứng chịu trận dưới trời nắng chang chang. Một ai đó âm thầm khóc, một ai khác khóc to vật vã. Thỉnh thoảng, họ lại nhìn nhau như thể đang tìm một lời an ủi, rằng đây không phải là sự thật, đây chỉ là một giấc chiêm bao.” Người dân xứ Huế thời ấy, đặc biệt là người Công Giáo, bàng hoàng trước cái chết của hai linh mục ngoại quốc, ba linh mục Việt Nam, hai sư huynh dòng La San cùng một số tu sĩ khác. Trong bài viết “Bút tích cuối cùng của Linh mục Bửu Đồng,” ông Nguyễn Lý Tưởng kể lại, hai linh mục ngoại quốc thuộc dòng Benedicto Thiên An là linh mục Urbain và linh mục Guy. Ba người Việt Nam là linh mục Bửu Đồng, linh mục Micae Hoàng Ngọc Bang và linh mục Giuse Lê Văn Hộ. Sau đây là lời kể của ông Võ Văn Bằng, Trưởng ban Truy tìm và Cải táng Nạn nhân Cộng Sản Tết Mậu Thân liên quan đến cái chết của linh mục Bửu Đồng: “Tôi xúc động nhất là khi đào lên, chúng tôi gặp xác 4 vị tu hành. Tôi còn nhớ rõ linh mục Bửu Đồng, linh mục Lê Văn Hộ và hai sư huynh dòng Lasan. Tôi thấy rõ cái thánh giá đeo ngang ngực. Linh mục Bửu Đồng còn để lại 3 bức thơ để trong một hộp thiếc, bên ngoài bọc bao nilon.” Ba bức thư được ông Bằng nhắc đến được lm Bửu Đồng viết, một bức gởi thầy mẹ, một bức gởi các em, và một bức gởi cho giáo hữu. Bức thư viết gởi thầy mẹ có nội dung như sau. “Thư gởi thầy mẹ. Lạy Thầy Mẹ quý mến, Thầy Mẹ rất đau khổ khi mất đi đứa con trưởng nam không được phục vụ Thầy Mẹ trong tuổi già, nhưng Thầy Mẹ sẽ được an ủi và vui mầng khi được tin con đã can đảm vì mến Chúa, yêu người trong chức vụ Linh mục và nhiệm vụ Tông đồ. Xin Thầy Mẹ hãy tha mọi tội lỗi và những gì không làm vui lòng Thầy Mẹ trong 57 năm nay. Xin hẹn gặp nhau trên nước Chúa. Xin Thầy Mẹ ban phép lành cho con.” Cuộc thảm sát Mậu Thân, đến hôm nay đã tròn 40 năm. Các chứng tích một thời, chẳng hạn nghĩa trang trên núi Ba Tầng, còn gọi là núi Bân, nơi an táng khoảng 400 thi hài tìm được nơi Khe Đá Mài vùng Đình Môn Kim Ngọc tháng 9 năm 1969, đã bị đập phá ngay năm 1975 khi quân đội miền Bắc tiến vào miền Nam. Linh mục Phan Văn Lợi kể lại: “Kể từ năm 1968, mỗi năm người ta vẫn đến để cúng vái, cầu nguyện nhân dịp Tết. Riêng bên Công Giáo, tại giáo xứ Phủ Cam, mỗi năm dành ngày mồng Mười Tết để toàn thể giáo dân lên đó cầu nguyện. Nhưng đến năm 1975, sau khi chiếm được miền Nam, Cộng Sản đã phá ngay tấm bia dựng ở phía sau và phá hai bàn thờ nằm ở phía trước. Từ đó về sau, người ta có đến cũng chỉ đến trong âm thầm lặng lẽ hoặc cá nhân mà thôi, không dám công khai.” Liệu, việc huỷ hoại những chứng tích ấy có thể che dấu sự thật đã xảy ra tại Huế, khi người VN thuộc nhiều thế hệ, đã hát hay đã đọc các chứng tích khác, được ghi lại qua âm nhạc, văn chương và báo chí? Mậu Thân 1968, những gì xảy ra cho người đã khuất, sẽ còn mãi trong lòng người đang sống. Biến cố ấy sẽ không trôi qua trong quên lãng. Quí vị vừa theo dõi bài thứ tư trong loạt bài tưởng niệm biến cố Mậu Thân 1968 tại Huế. Trong phần sau, cũng là phần cuối cùng, biên tập viên Thiện Giao sẽ có bài tổng kết lại những con số, các tài liệu liên quan đến số nạn nhân trong biến cố Mậu Thân. Trình bày lại các số liệu ấy cũng là một cách để đặt lại câu hỏi: đến bao giờ, nạn nhân của biến cố Mậu Thân sẽ được trả lại công lý và công bằng?
“Ai đã giết người dân Huế?” Câu hỏi 40 năm chưa trả lời Thiện Giao, phóng viên RFA 02-02-2008 Hôm nay, chúng tôi xin trình bày bài cuối cùng trong loạt bài gồm 5 phần, do biên tập viên Thiện Giao thực hiện, trong chương trình Tưởng niệm Cuộc Thảm sát Mậu Thân tại Huế năm 1968. Trong 4 phần trước, chúng tôi đã lần lượt điểm qua các giai đoạn của cố đô những ngày trước, trong và sau cuộc thảm sát. Nhiều ngàn người Huế đã bị giết trong vòng chưa đầy 1 tháng phía quân đội Bắc Việt chiếm đóng Huế. Cuộc thảm sát chỉ kết thúc khi quân đội Việt Nam Cộng Hoà và Hoa Kỳ tiến đánh, vãn hồi an bình cho Huế ngày 24 tháng Hai với đỉnh điểm là hai trận đánh tại Đại Nội và Kỳ Đài Phu Văn Lâu. Trong phần trình bày sau đây, qua lời kể của các nhân chứng và cả những người đã từng tham gia Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam lúc ấy, chúng tôi sẽ đặt lại câu hỏi: cuối cùng thì, ai sẽ phải chịu trách nhiệm về vụ thảm sát Mậu Thân. Xin theo dõi qua phần trình bày của Việt Long. Các nạn nhân xấu số Cuối cùng, mặt trận Mậu Thân 1968 tại Huế cũng chấm dứt. Ngày 25 tháng Hai năm 1968, những lực lượng cuối cùng của phía Bắc Việt bị đẩy lui ra khỏi thành phố. An bình được vãn hồi. Cờ Việt Nam Cộng Hoà được kéo lên trên tháp Kỳ Đài Phu Văn Lâu thay cho cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chễm chệ giữa cố đô trong hơn 3 tuần trước đó. Nỗi kinh hoàng đối với dân Huế qua đi, nhưng trong lòng họ, vẫn còn nỗi đau. Người còn sống vẫn đau với vết thương chưa lành, trong khi người đã khuất vẫn chưa được giải oan. “Vết thương đó vẫn chưa khô máu, vết sẹo đó mỗi lần trái gió trở trời vẫn đau xót xa.” Cho đến nay, chưa bao giờ chính quyền Hà Nội chính thức lên tiếng giải trình những thảm sát xảy ra cho Huế mùa Xuân năm 1968. Nhiều câu hỏi được đặt ra liên quan đến cuộc thảm sát kinh hoàng này: Ai sẽ chịu trách nhiệm cuối cùng trong Biến Cố Mậu Thân? Những cuộc thảm sát xảy ra trong hoàn cảnh nào? Các nạn nhân xấu số đã bị giết ra sao? “Theo những báo cáo của các cuộc cảnh sát các xã thuộc 13 quận của thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, do các xã báo cáo, khoảng 5,300 nạn nhân bị chôn sống tại tỉnh Thừa Thiên.” (Nguyễn Phúc Liên Thành, Phó Trưởng ty Cảnh sát Đặc biệt Lực lượng Cảnh sát Quốc gia tại Thừa Thiên). “Tại thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, 22 địa điểm tìm được là các mồ chôn tập thể. Trong 22 địa điểm này, người ta đếm được 2,326 sọ người. Sau tết, chúng tôi lập Hội Gia Đình Nạn Nhân Cộng Sản trong Tết Mậu Thân. Các gia đình kê khai có người chết, có người mất tích, lên đến 4,000 gia đình. Người ta ước tính vào khoảng 6,000 người. có nhà báo ước tính 5,000. Chúng tôi cho con số 5 đến 6 ngàn là không sai lệch lắm đâu” (Nguyễn Lý Tưởng, cựu Dân biểu khu vực Thừa Thiên) Thủ phạm của vụ thảm sát Nhiều nguồn dư luận được đưa ra, liên quan đến thủ phạm của vụ thảm sát. Có người nói rằng, chính những thành phần thiên Cộng tại Huế, đa số là sinh viên, đã thoát ly lên mật khu năm 1966 trong các phong trào sinh viên tranh đấu phải chịu trách nhiệm. Trong số này, những tên tuổi được nhắc đi, nhắc lại gồm có Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Lê Văn Hảo. Thật sự, một số thành viên trong nhóm này đã về lại Huế trong những ngày Mậu Thân. Điều này được khẳng định bởi ông Nguyễn Phúc Liên Thành, vào thời điểm 1968 là Phó Trưởng ty Cảnh sát Đặc biệt Lực lượng Cảnh sát Quốc gia tại Thừa Thiên: “Năm 1966, như Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân… đã vượt thoát lên mật khu, đã xâm nhập vào thành phố Huế trong thời gian đó.” Trở về Huế, họ có tham gia vào các cuộc thảm sát trong 25 ngày thành Huế thất thủ? Ông Nguyễn Phúc Liên Thành tin rằng, trên thực tế, trong thành phần sinh viên trở về Huế, một số người đã thực hiện các vụ hành quyết, nhưng chỉ là một số rất ít, vì tư thù cá nhân: “Trường hợp đó chỉ là 1 phần trăm. Như trường hợp các sinh viên tranh đấu cũ, nay trở lại, vì thù hận bạn bè, nay mang ra xử và chôn sống, nhưng rất ít, chỉ khoảng 1 phần ngàn.” Trong khi đó, ông Lê Văn Hảo, từng là Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Cách mạng Thừa Thiên–Huế vào thời gian ấy, khẳng định về sự vô tội của ông: “Đó không phải là sự thật lịch sử. Tôi chỉ là một con tin trong thế kẹt, phải nhận một chức vụ để bảo tồn sự sống còn để mong có ngày về với vợ con thôi. Chứ tôi nói thật, trong Tết Mậu Thân, vai trò của tôi hoàn toàn thụ động, chỉ ngồi trên núi thôi. Lâu lâu, các ông lãnh đạo, như Trần Văn Quang, ghé qua thăm, an ủi là thôi, sự việc diễn tiến như vậy thì mình đi theo Cách Mạng thôi.” Ông Hảo, trong cuộc trả lời phỏng vấn với Đài Á Châu Tự Do hồi năm 2006 cũng nói về vai trò bù nhìn của Mặt Trận Giải Phóng: “Khi lên trên núi, tôi biết ngay Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam chỉ là một trò bịp bợm, một tổ chức hữu danh vô thực của Cộng Sản thôi, do Hà Nội chỉ đạo. Mà họ có giấu điều đó đâu.” Ai chịu trách nhiệm Như vậy, thì câu hỏi là: Ai sẽ phải chịu trách nhiệm cho những cái chết oan khuất của nhiều ngàn người Huế cách đây 40 năm? Trước khi thử tìm cách đi vào trả lời câu hỏi này, hãy nghe những phát biểu nói về cố gắng che giấu, hay chính xác hơn, xúc phạm vào nỗi đau của các nạn nhân, từ phía chính quyền Hà Nội. Nhà báo Vũ Ánh, nguyên phóng viên chiến trường Hệ thống Truyền thanh Quốc gia Việt Nam Cộng Hoà trước 1975 nhớ lại: “Một bản tin của đài Giải Phóng mà về sau tôi nghe được qua kiểm thính của nhân viên của đài (Truyền Thanh Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà) thì họ nói đó là cảnh sát và quân đội VNCH khi thua, rút đi thì làm điều đó. Chuyện đổ vạ là điều bình thường của Cộng Sản từ trước đến giờ. Nhân chứng vẫn còn sống đây thôi, cả trong lẫn ngoài nước. Họ không thể xoá được những điều ấy.” Trong những trận đánh tại chiến trường Huế, người dân cố đô đã chọn cho mình phía bên nào? Một trung uý tiểu đoàn 39 Biệt Động Quân đã tham gia trận tái chiếm Huế, ông Trần Tiễn San, kể lại: “Lúc đánh ở Vỹ Dạ, lực lượng chính của Việt Cộng không còn nữa. Nhưng khó đánh vô cùng. Mình tiến từ nhà này qua nhà khác, nhà thì có kẽm gai, bờ tường. Mình bên này thì dân chúng bên kia thấy là họ đâm đầu họ chạy qua. Không biết làm sao. Dân thì ở giữa làn đạn. Mà họ thấy mình thì họ đâm đầu chạy qua.” Câu hỏi lại được đặt ra lần nữa: Ai đã giết người dân Huế năm 1968? “Người chịu trách nhiệm cuối cùng về vụ thảm sát? Vụ này không do một cá nhân nào chủ trương, không do một sự tình cờ hay hoàn cảnh bó buộc nào bắt buộc phải làm như vậy cả. Đây là chủ trương của Hà Nội, là dùng bao lực cách mạng trấn áp dân Huế. Hà Nội tin là khi họ chiếm Huế, người dân Huế sẽ nổi dậy theo họ. Đó là một đánh giá sai lầm. “Người Huế sợ cộng sản vô cùng. Vô cùng sợ. Khi Việt Cộng tràn vào Huế, họ đến đâu, dân chúng bỏ chạy đến đó. Mà chạy thì họ bắn. Đó là sự thật không hề nói thêm một lời nào hết. Những ai sống tại Huế thời đó điều biết.” Họ đã bị giết trong hoàn cảnh nào? “Năm 1972, tôi bắt được một trung tá Việt Cộng, tên Hoàng Kim Loan, là thành uỷ viên hoạt động bí mật tại Huế 20 năm. Tôi hỏi: tại sao các anh thảm sát đồng bào Huế man rợ đến như vậy? Thì Loan nói đây là chủ trương bạo lực Cách Mạng của cấp trên chỉ thị. Thứ hai, khi trên đường rút lui, do không thể đem theo tù nhân, nên phải giết. Loan nói, người Cộng Sản chúng tôi có chủ trương thà giết lầm còn hơn bỏ sót.” Và, họ đã bị giết ra sao? “Tôi hỏi tại răng không bắn họ, cho họ viên đạn còn dễ hơn lấy búa, dùng vật cứng đập đầu họ và đẩy xuống hố. Loan nói: Đạn chúng tôi để bắn Mỹ Ngụy. Đạn đâu để bắn những đám người như vậy.” Một vết thương chưa lành Rồi đến năm 1975, khi quân đội Bắc Việt tiến vào miền Nam, một lần nữa, những người đã khuất vẫn không được yên nghỉ. Nghĩa trang trên núi Ba Tầng, còn gọi là núi Bân, nơi an táng khoảng 400 thi hài tìm được nơi Khe Đá Mài vùng Đình Môn Kim Ngọc tháng 9 năm 1969 bị đập phá cả tấm bia và các bàn thờ. Linh mục Phan Văn Lợi kể lại: “Năm 1975, sau khi chiếm được miền Nam, Cộng Sản đã phá ngay tấm bia dựng ở phía sau và phá hai bàn thờ nằm ở phía trước. Từ đó về sau, người ta có đến cũng chỉ đến trong âm thầm lặng lẽ hoặc cá nhân mà thôi, không dám công khai.” Đã 40 năm trôi qua kể từ Biến cố Mậu Thân 1968, vụ thảm sát vẫn là một vết thương chưa lành, vẫn còn là đau mỗi khi trái gió, trở trời. Người dân Huế sẽ vẫn tiếp tục sống, tiếp tục vươn lên, đó cũng chính là cá tính của người dân đất Thần kinh.“Thân nhân bị mất, tài sản bị mất, trong một hoàn cảnh như vậy, nhưng người Huế khi nào họ cũng cố gắng vươn mình lên để sống. Thành ra, đời sống ở Huế trở lại rất là nhanh. Khoảng 5, 6 tháng sau, đời sống trở lại bình thường.” Riêng đối với người dân Huế, với sông Hương, với núi Ngự, với Nam Giao, với thành vách Kinh thành cũ, mùa Xuân 1968 vẫn luôn luôn là một ngày đại tang. Đến bao giờ, công lý và công bằng sẽ được trả lại cho người đã chết? Đến đây là kết thúc bài thứ 5, cũng là bài cuối cùng trong chương trình phát thanh tưởng niệm các nạn nhân của vụ thảm sát Mậu Thân tại Huế năm 1968. Tưởng cũng xin nhắc lại những gì đã được trình bày trước đây, cuối cùng, sẽ không một ai có đầy đủ thẩm quyền để trả lời câu hỏi: ai, bằng cách nào, và tại sao đã giết nhiều ngàn người Huế chỉ trong vòng vỏn vẹn chưa đến 1 tháng? Có lẽ, chỉ có người dân Huế, với tư cách là nạn nhân của thảm kịch, mới có quyền đòi hỏi công lý, đòi hỏi sự phán xét, và cả quyền đưa ra những lên án. Loạt bài tưởng niệm Biến Cố Mậu Thân tại Huế, xin hãy được xem là một nén hương, được thắp lên, để tưởng niệm những người đã chết, và cũng để chia buồn cùng tất cả những thân nhân đang còn sống, trong một biến cố đã bị chính quyền Hà Nội giữ kín gần nửa thế kỷ qua./. http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2008/02/02/
III- NHẬN ĐỊNH TỔNG HỢP Thảm sát Mậu Thân, ai là kẻ chủ mưu gây tội ác ? Hoàng Sơn Kẻ cướp có luật lệ của kẻ cướp và chiến tranh cũng thế, tuy nó là bữa tiệc xương máu tàn khốc, nhưng nó cũng đặt ra một thứ luật lệ riêng của nó. Chẳng hạn như trong Thế chiến thứ nhất, người ta qui định sau mỗi trận đánh, tổ chức Hồng thập tự sẽ giương cờ trắng yêu cầu hai bên ngừng bắn, để họ thu dọn chiến trường, cứu chữa cho những người bị thương. Đó là luật lệ của chiến tranh thể hiện tính nhân đạo thuần tuý. Luật lệ chiến tranh còn qui định các bên tham chiến tránh giao tranh ở nơi có đông dân cư sinh sống, cấm giết hại thường dân trong mọi trường hợp, cấm huy động phụ nữ có thai tham gia quân đội hoặc trực tiếp cầm súng, cấm huy động trẻ em dưới 16 tuổi tham gia chiến tranh, tôn trọng ngừng bắn khi có sự thoả thuận ngừng bắn giữa hai bên tham chiến v.v.... Nhưng khi nói đến chiến tranh Việt Nam, người ta liên tưởng đến sự tàn bạo không khoan nhượng của Việt cộng, một mất một còn với hai đối phương Mỹ - VNCH, không có một thứ luật lệ nào được áp dụng cho cuộc chiến, không có hai chữ "nhân đạo" dành cho phía bên kia trong chiến tranh, trái lại họ tìm mọi cách mọi thủ đoạn để giành chiến thắng. Đó là suy nghĩ và học thuyết của những kẻ bạo tàn mất hết tính người trong việc tiến hành cuộc chiến tranh bẩn thỉu tại Việt Nam cách đây hơn 40 năm về trước. Những kẻ chủ mưu trong cuộc chiến tranh đã tận dụng mọi thủ đoạn và cơ hội bẩn thỉu nhất, đê tiện nhất để đoạt được phần thắng. Mà điển hình là biến cố Tết Mậu Thân cách đây tròn 40 năm. Còn theo cách tuyên truyền của kẻ gây chiến, thủ phạm gây nên tội ác đó, chúng đặt cho một cái tên mỹ miều là cuộc "Tổng tiến công tết Mậu Thân lịch sử". Phải, sự kiện tết Mậu Thân sẽ đi vào lịch sử dân tộc không phải như là niềm tự hào chống quân xâm lược như VC đã từng rêu rao, mà nó là một vết nhơ, một nỗi đau không thể xoá nhoà về tội ác giết hại chính đồng bào mình mà thủ phạm không ai khác chính là đảng VC. Không những vậy, rồi đây Vc sẽ phải trả lời trước toà án La Haye về tội ác đã gây nên tại Huế năm 1968, như một tội ác chống lại loài người. Bốn mươi năm đã qua đi. Nhưng dấu tích của tội ác thì lịch sử không thể nào xoá lấp được. Ký ức hãi hùng về những vụ thảm sát, những bức ảnh, những nhân chứng là một bằng chứng không thể chối cãi. Hình ảnh những người dân vô tội bị hành quyết một cách man rợ đã cho ta thấy bộ mặt ghê tởm của loài ác thú đội lốt cộng sản. Những trẻ em vô tội, những người già, những phụ nữ bị giết hại mãi mãi là một bằng chứng không thể chối cãi về một tội ác trời không dung đất không tha. Chúng đã không từ thủ đoạn dã man nào để giết hại những người dân tay không tấc sắt, bằng những hình thức giết người dã man nhất: trói bằng dây kẽm gai, hạ sát bằng cách dùng cuốc, báng súng đập vỡ sọ, dí súng bắn vào đầu nạn nhân để hành quyết tập thể… tất cả đã cho thấy mức độ ghê tởm của cuộc thảm sát đó v.v... Mười chín hố chôn tập thể... Hố ít nhất năm bảy người, hố nhiều nhất lên tới gần ngàn người. Tất cả là 5.800 bộ hài cốt được tìm thấy với đủ các chứng tích về nhân thân, từ bộ quần áo cho tới những dụng cụ cá nhân, từ bức thư của cha cố cho tới những kỷ vật lứa đôi, từ đôi dép của những cụ già cho tới cặp sách của những em bé. Từ những phụ nữ (chắc chắn có những người mang thai) cho đến những học sinh, sinh viên tuổi đời còn trong trắng đã là nạn nhân trong ngày mùng 1 tết bi thương đen tối đó. Cho tới nay, con số những người bị chết và mất tích là bao nhiêu, chưa có ai chính thức công bố cả. Những lời kể của các nhân chứng sau 40 năm đã tái hiện cho chúng ta thấy một bức tranh khủng khiếp nhất về tội ác. Máu lửa ngập tràn... bầu không khí tang thương chết chóc bao trùm lên Cố đô suốt 26 ngày nằm trong tay những kẻ mệnh danh "cứu nước"! Thì ra họ cứu nước là thế này đây! Từng bầy từng đoàn người được phân tách do danh sách của những cán bộ "cứu nước" nằm vùng lập nên để phân loại. Ai bị cho là Việt gian phản động có nợ máu với Cách mạng, sẽ được đưa ra xét xử và được cách mạng cách cho cái mạng luôn tại nơi xét xử. Ai là kẻ có quan hệ làm việc với Ngụy quyền được tập trung để nghe huấn thị, đoạn đưa đi học tập cải tạo rồi đi luôn ...mãi không về. Bầu khí khủng bố bắt bớ bao trùm lên một Cố đô nghiêm trang. Những tiếng la hét... những tiếng van xin kêu cứu… như cứa vào lòng chúng ta. Những tiếng nổ chát chúa vang lên từng ngõ xóm, từng nhà thờ chùa chiền v.v…. Đâu đâu cũng ngập tràn tử khí chết chóc. Những cha đạo và tầng lớp giáo dân, thành phần bị cho là "tôn giáo thuốc phiện ru ngủ" đáng ghét nhất, là nạn nhân chính chiếm số lượng nhiều hơn cả trong vụ thảm sát Huế năm xưa. Tuy là lớp hậu sinh, còn nhỏ lúc xảy ra biến cố Mậu Thân, người viết bài này đã từng được nghe những dũng sĩ "diệt Mỹ" khi đó kể lại thành tích của bộ đội mình (trong đó có mặt người viết) trong cuộc tổng tiến công tết Mậu Thân. Sau khi chiếm được thành phố và thực hiện việc bắt bớ bắn giết tàn sát dân lành, Việt cộng xông vào các nhà thờ chùa chiền, nơi những người dân đang trốn ẩn trong đó. Chúng đã dã man hãm hiếp tập thể một phụ nữ trong nhà thờ Phú Cam, Phú Bài gì đó cho đến chết. Chưa dừng lại ở đó, chúng còn dùng lưỡi lê đâm khoét cửa mình chị, xẻo đầu vú chị một cách lạnh lùng ghê rợn.... Trước khi rút đi, chúng còn không quên gài một quả "lựu đạn" đã tháo chốt mỏ vịt an toàn, rồi gài dưới bụng xác chết nằm sấp, với âm mưu ghê tởm nhằm giết hại các nhân viên cứu thương hay mai táng. Thật là khủng khiếp! Tội ác chất chồng tội ác! Chính một số người đi bộ đội thời đó đã kể cho tôi nghe họ được lệnh cấp trên hạ sát cả một thôn ấp, khi người dân không chịu đi theo bộ đội bắc Việt mà còn có ý định chạy theo "ngụy quân". Vậy ai, ai là kẻ chịu trách nhiệm chính về tội ác này ?? Có những người do không suy xét thấu đáo, hay vô tình bào chữa bênh vực tội ác, chẳng hạn như tên đại tá Vc lưu vong Bùi Tín cho rằng đấy không phải là lỗi cố ý, không phải là chủ trương của bọn đầu sỏ Hà Nội, nhưng do tình thế bức bách phải giữ bí mật nên cấp dưới đã tự ý gây ra thảm trạng này! v.v. và v.v... Xin thưa! Không có một lời biện minh nào cho thủ phạm khi mà chúng ta đi sâu vào xem xét cái nguồn gốc tội ác nó bắt nguồn từ đâu! Chúng ta, những người VN ai cũng biết, sự thiêng liêng trang trọng của mọi người, mọi gia đình VN đối với ngày tết cổ truyền dân tộc. Trong những ngày đó, mọi người dù đi đâu làm gì, dù vất vả giàu nghèo, dù còn nhiều bất đồng mâu thuẫn, không bằng lòng nhau trong cuộc sống hàng ngày, thậm chí trong các cuộc chiến tranh dẫu cho có khốc liệt đến bao nhiêu, chưa một kẻ bạo tàn nào cho dù đó là ai. Hitler cũng còn phải ngưng chiến (để nhân dân và quân sĩ hai bên tận hưởng ngày lễ Noel trong trận chiến vòng cung Koursk-Stalingrad) Vượt lên trên tất cả mọi vấn đề còn đang tạm thời ngổn ngang bề bộn, để hướng về ngày tết cổ truyền thiêng liêng đó cho dù là ai đi chăng nữa, cũng không nỡ nói nặng lời với nhau trong ba ngày tết, nhất là ngày mùng một đầu năm mới thiêng liêng. Vậy mà có một người cùng với một nhóm cộng sự của ông ta, dã bất chấp tất cả đạo lý, bất chấp tất cả tình người và luật lệ của chiến tranh, để dắt tay nhau đi vào lịch sử của dân tộc như những tên tội đồ dã man nhất! Người đó chính là tên Hồ Chí Minh! Có ai ngờ lời chúc đầu năm mới của hắn gửi tới đồng bào cả nước (trong đó có đồng bào miền Nam), lại là hiệu lệnh của tên đồ tể ra lệnh khai hoả... bắn ..giết....dã man chính những người mà hắn vừa chúc tết xong... những người mà trước đó chưa đầy năm phút y (hắn) còn gọi là ĐỒNG BÀO*. Có ai ngờ sau đó hàng ngàn đồng bào trong "trái tim" y, đã bị thuộc hạ của y cướp đi mạng sống một cách oan khuất, đau thương nhất. Bất kỳ kẻ nào cho dù không trực tiếp nhúng tay vào tội ác, nhưng tội ác gây ra vào thời kẻ đó đang đứng đầu bộ máy chiến tranh thì kẻ đó phải chịu trách nhiệm. Huống hồ hắn là người trực tiếp phát lệnh, thì không có lời biện minh nào cho tội ác mà y đã gây lên. Kẻ chịu trách nhiệm chính trong vụ thảm sát Mậu Thân ở Huế năm 1968 không ai khác chính là Hồ Chí Minh. Tên của hắn sẽ được nêu đích danh và đứng đầu trong danh sách những tên đồ tể đã giết hại gần 6 nghìn đồng bào Huế. Những chứng lý và suy cho cùng nguồn gốc nảy sinh ra thảm hoạ đó, là do chính hắn ta là người phát động và phải chịu trách nhiệm. Hắn ta không xứng đáng với tên gọi Nguyễn Ái Quốc mà lịch sử phải cải tên cho ông ta là Nguyễn Sát Quốc, cho đúng với tội danh của hắn ta thì đúng hơn. Cho đến nay con số những người bị chết và mất tích trong vụ thảm sát Mậu Thân là bao nhiêu? Chưa có ai chính thức công bố? Cho đến nay, sau tròn 40 năm vụ thảm sát kinh hoàng, vẫn chỉ là những bức ảnh, vẫn chỉ là những bài báo lên án hành động tội ác đó. Chỉ còn lại rất ít nhân chứng sống bằng da bằng thịt, chứng kiến sự kiện Tết Mậu Thân bi thảm. Thử hỏi sau mười mười lăm năm nữa, những nhân chứng mất đi sẽ ra sao nếu chúng ta không đưa lũ Việt cộng khát máu ra ánh sáng nhân loại. Cho đến nay những nạn nhân của tội ác đó vẫn đang phải ngậm ngùi nơi chín suối. Chưa một ai, chưa một tổ chức nào kể cả chính phủ Việt nam cộng hoà xưa kia, phải có trách nhiệm tố cáo tội ác này trước toàn thế giới, phải có trách nhiệm đưa vụ thảm sát này ra trước toà án La Haye, nhưng họ đã không làm được việc đó và ngày nay, những người Việt có lương tri, những tổ chức đân chủ hải ngoại và những người thân của họ cũng không làm được việc đó! Những việc đáng ra họ phải làm, họ phải thay mặt những người dân vô tội bị chết oan khuất nói lên tiếng nói đau thương, gióng lên hồi chuông kêu gọi toàn thể nhân loại biết đến sự kiện đau lòng đó như một tội ác không thể tha thứ! Táng tận lương tâm và bỉ ổi hơn nữa, những kẻ gây lên vụ thảm sát Mậu Thân năm xưa đã không hề tỏ ra ăn năn hối lỗi, không hề thấy lương tâm cắn rứt. Nay chúng nó vẫn hãnh diện khua chiêng gõ trống rầm rĩ, dựng dậy cái kỷ niệm dã man năm xưa, như một chiến công oai hùng nhằm lấp liếm xóa nhoà tội ác. Chúng đã xúc phạm linh hồn những nạn nhân đã bị giết hại, chúng đã xúc phạm thân nhân họ, những người đang sống và lương tri tiến bộ trên thế giới. Chúng đã cố tình che giấu sự thật nghiệt ngã đó. Nhưng còn những người lính Bắc Việt năm xưa đã theo lệnh của chỉ huy, xả súng bắn vào những người dân vô tội họ nghĩ gì đây? Họ không ân hận và đau xót, lương tâm họ không ray rứt hay sao? Tội ác không thể nào bôi xoá, mong các anh hãy tỉnh ngộ, dũng cảm nhận lỗi trước lịch sử, trước nhân dân, cho lòng mình thanh thản. Suy cho cùng các anh cũng chỉ là nạn nhân cho một cuộc chiến huynh đệ tương tàn bẩn thỉu do những cái đầu bệnh hoạn hiếu chiến ở Ba Đình chủ mưu gây ra. Đồng thời trong mỗi chúng ta phải ghi xương khắc cốt tôị ác này, cũng như có trách nhiệm tố cáo tội ác này trước dư luận thế giới bằng những hành động cụ thể. Nhắc nhở con cháu chúng ta không quên tội ác này, coi nó như dấu tích của tội ác, để mãi mãi cố gắng đấu tranh, không bao giờ cho phép Việt cộng tái diễn tội ác trên mảnh đất Việt Nam thân yêu của chúng ta. Nhân đây tôi được biết nhân kỳ niệm 40 năm cuộc thảm sát Mậu Thân, đồng bào hải ngoại ở nhiều nơi trên thế giới đã tổ chức kỷ niệm, lên án tội ác dã man của đảng CSVN. Cộng đồng hải ngoại ở Houston đã thành lập một uỷ ban để tổ chức kỷ niệm. Nhưng việc lập lên một uỷ ban không phải chỉ để duy nhất mục đích tổ chức kỳ niệm, mà phải làm sao phải lập lên một uỷ ban có chức năng và nhiệm vụ rộng hơn là thu thập và điều tra tội ác thảm sát Mậu Thân nhằm mục đích đưa vụ án ra trước toà án La Haye để kiện Việt cộng tội ác diệt chủng chống lại loài người, như Saddam Hussein đã từng phạm tội thảm sát người Kurds ở miền Bắc I-Rắc, bị toà án xét xử cách đây hơn 1 năm. Hôm nay! Nhân sự kiện 40 năm, xảy ra cuộc thảm sát Mậu Thân! Trước giờ phút giao thừa thiêng liêng, tôi xin đề nghị mọi người Việt Nam đang sống ở bất kỳ đâu trên thế giới, không phân biệt thành phần, giai cấp, không hận thù, hãy cùng nhau thắp một nén nhang tưởng nhớ vong linh những người đã khuất! Xin hãy dành một phút mặc niệm để tưởng nhớ đến những người xấu số, những người dân vô tội, những cụ già, trẻ em, phụ nữ và những người bạn không may của chúng ta trong vụ thảm sát tết Mậu Thân năm 1968.......!!!!!!!!!! Việt Nam - Ngày 3/2/2008 - www.ddcnd.org
Cuộc tàn sát bị bỏ quên James O. Clifford Sr Từ Uyên chuyển dịch LTS. Tác giả: James O. Clifford Sr phục vụ trong Hải quân Hoa kỳ từ 1956-1958 với tư cách là phóng viên chiến trường tại Phi luật Tân, sau đó ông trở thành chuyên viên thông tin trong binh chủng Không quân trừ bị. Ông là thông tín viên hãng A.P. San Francisco đặc trách các tin liên hệ tới lịch sử. (Từ Uyên). Phải chăng cuộc tàn sát tại Huế là cuộc tàn sát được giấu kín nhất? Đúng như vậy nếu ta tin vào ngành truyền thông đại chúng Hoa kỳ cũng như trong môn học về lịch sử. Đó là lời kết luận của tôi sau 40 năm làm báo, phục vụ trong hai hãng thông tấn quan trọng nhất thế giới là United Press quốc tế (UPI) và Assocated press (AP). Tôi về hưu năm 2000 và như vậy ra khỏi ngành truyền thông, một ngành được coi như liên hệ tới nhiều cơ quan khác và nhằm thổi còi ra lệnh. Có thể việc giới hạn mọi báo cáo về cuộc tàn sát tại Huế là một màn giấu giếm cố ý và có tổ chức, đã khiến tôi băn khoăn ngay từ khi tôi còn là phóng viên non trẻ phục vụ cho UPI, lúc tôi được đọc thông cáo ngắn ngủi về vụ thảm sát này. Cuộc thảm sát có tổ chức giết ít nhất 2810 thường dân tại Huế (nhưng theo Douglas Pike, một nhà khảo cứu về Việt Nam, nạn nhân lên tới 5700) gồm ngoại kiều, trí thức, lãnh tụ tôn giáo, chính trị gia và nhiều người khác hình như do các cán bộ cộng sản tại địa phương thực hiện, không phải do quân chính qui miền Bắc xâm nhập sát hại. Mồ chôn tập thể được tìm thấy tại Huế ngày 26-02-1968 sau khi chiếm lại Huế, đáng lẽ xứng đáng là đề tài mà giới truyền thông phải nói lên nỗi khủng khiếp của cuộc thảm sát này. Nhưng tôi chờ đợi năm này qua năm khác không ai nhắc tới chuyện này. Việc bỏ quên vụ thảm sát này khiến tôi cảm thấy nhiệm vụ của báo chí được coi như cơ quan tiền phong của lịch sử đã bị biến thể. Trước đây theo truyền thống căn bản, người phóng viên có bổn phận viết phần đầu của mọi sử liệu. Một giáo sư của tôi đã dạy: "Rồi sau này, những năm tới sẽ có một hay nhiều giáo sư danh tiếng dùng tài liệu của anh mà viết thành sách". Ngày nay, phóng viên hay chủ bút đã thay thế sử gia để quyết định cho nhân dân nên nhớ hay quên cả việc quốc gia. Thí dụ rõ rệt: Hãng Associated Press Television and Radio Association họp Đại hội năm 1998 và trưng bày những bức hình coi như vĩ đại nhất trong 150 năm qua. Và ta thấy gì: Thế chiến thứ hai được tượng trưng qua bức hình Dựng cờ tại IWO JIMA và hình binh sĩ khải hoàn chiến thắng trở về, chiến tranh Cao ly được tượng trưng qua cánh tay lính Mỹ chết giơ qua lớp tuyết dày. Trận chiến tại Việt Nam trái lại trưng ra hình ảnh do Eddie Adams chụp năm 1968 cho thấy một sĩ quan Việt Nam bắn chết một tên khủng bố, cùng với hình em gái trần truồng chạy ra sau trận thả bom napalm năm 1972. Không một lời bình luận, không một hàng ghi chú. Khi nhìn hai bức ảnh đó, người coi có cả ngàn câu phỏng đoán về nơi xuất xứ của các tấm hình. Bức hình chụp trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân đã nhằm chứng minh cho nhiều người rằng Hoa kỳ đang trợ giúp một chính thể coi việc bắn giết như một trò đùa. Người lảy cò chính là Tướng Nguyễn ngọc Loan chỉ huy trưởng Cảnh sát. Ông qua đời năm 1998. Và cho tới ngày chót ông vẫn là bạn của Adams. Nhiếp ảnh gia này trong bài điếu tang đã thú nhận, người bắn cũng như tấm hình bắn giặc đã bị hiểu lầm. "Tôi rất bực tức vì tới khi ông chết, không ai hiểu gì về ông", Adams nói tiếp. Anh cho rằng Tướng Loan là một người anh hùng và Mỹ quốc phải khóc thương ông. Riêng tôi, tôi nghĩ rằng chẳng biết Adams khóc than Nguyễn Ngọc Loan hay than khóc cho sự bất công của bức hình phóng sự liên hệ tới việc xử bắn ngoài phố 30 năm về trước. Người mà Ông Loan bắn là một tên khủng bố, hắn đã sát hại cả một gia đình một sĩ quan cảnh sát. Hắn lại mặc thường phục và như vậy tại nhiều cuộc chiến Mỹ đã tham gia, hắn có thể bị bắn ngã. Như vậy không có nghĩa là việc bắn này là đúng. Hắn có thể bị đưa ra tòa xét xử. Nhưng bức hình đưa ra đã khiến người coi kết luận tướng Loan khát máu. Ông tức giận vì tù nhân này quá tàn nhẫn gây ra bao thảm sát. Tôi rất ngạc nhiên khi cảm thấy lương tâm dành cho chiến tranh tại Việt Nam chỉ nghiêng về một phía.Tường thuật về chiến tranh không phải là chuyện dễ, nhưng tại Việt Nam lại quá dễ. Những giới hạn ấn định dành cho phóng viên quá sơ sài so với các cuộc chiến tranh khác trước đây. Các phóng viên tại các cuộc chiến tranh trước phải tuân theo quân luật và phải chịu nhiều giới hạn cũng như đều bị kiểm duyệt các phóng sự. Muốn tới đâu phải được chấp thuận và hướng dẫn. Tại chiến trường Cao Ly phóng viên được coi như quân nhân, mặc quân phục, trái hẳn với cách ăn mặc của các phóng viên hoạt động tại Việt Nam qua bộ đồ Safari hay các cách ăn mặc lạ kiểu khác.Trong các trận chiến trước, phóng viên được coi như cái đuôi của quân đội, nhưng tại Việt Nam những cái "đuôi" này chỉ vẫy về một phía. Thí dụ điển hình nhất là vụ Mỹ Lai và vụ Huế. Tuy nhiên nếu Mỹ Lai được giấu khá lâu, vì báo chí không biết, thì Vụ thảm sát tại Huế ngay trước mắt cũng không được ai tìm hiểu và điều tra. Trái lại vụ Mỹ Lai không chịu đi vào dĩ vãng. Năm 1998, 30 năm sau vụ Mỹ Lai, cả nước hướng về câu chuyện chuẩn úy Hugh Thompson được coi như vị anh hùng đã cứu được một số nạn nhân tại Mỹ Lai, và khi nhắc tới hành động anh hùng này khi chạm trán với bộ binh Mỹ khi cứu nạn nhân, có người đã kết luận rằng" Đây là lúc đen tối nhất trong các cuộc chiến Hoa kỳ tham gia". Vụ thảm sát tại Huế xảy ra trước vụ Mỹ Lai hai tháng. Vậy việc thiếu sót thông tin, không tường thuật phải chăng vì lý tưởng thiên lệch. Chúng tôi không tin như vậy, vì nếu phóng viên được biết nhiều về Mỹ Lai, họ cũng như quần chúng biết rất ít về vụ thảm sát tại Huế. Tuy nhiên cũng có lý khi tin rằng có phóng viên muốn chôn luôn vụ thảm sát Huế và lãng quên luôn số nạn nhân trong cuộc thảm sát này. Thực vậy khi nói tới Mỹ Lai, người ta tăng dần số nạn nhân, khi nói tới Huế người ta lại giảm số thường dân bị thủ tiêu. Hãng AP truyền đi ngày 13-03-1998 từ Hà Nội kể lại chuyện tại Mỹ Lai em nhỏ được Thompson cứu và kết luận 504 người bị thảm sát. Đài CNN tường thuật nhân dịp kỷ niệm Mỹ Lai cho biết qua các loa phóng thanh tại địa điểm làm lễ kỷ niệm kể lại quân xâm lược Mỹ giết hại 407 nạn nhân. Còn về vụ Huế rõ ràng các phóng viên cố né tránh. Ngay cả phóng viên hãng AP Peter Eng khi đi một vòng theo các vị Mỹ dùng xe đạp du lịch Việt Nam ngày 10-01-1994 cũng kể lại lộ trình các vị này đi qua các vùng đã xảy ra kịch chiến như Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi và nhất là Mỹ Lai nơi quân Mỹ giết vài trăm dân lành. Thấy chưa: họ coi Huế là chiến trường còn Mỹ Lai là nơi bị thảm sát. Họ không nhắc tới tội ác tàn sát dân lành tại Huế. Eng cũng như những vị chủ bút của anh dùng lại như hệt những cụm từ cũng do AP đặt ra năm 1991 khi 38 người Mỹ bay đi Hà Nội để bắt đầu hai tuần đi bộ nhằm tạo tình hữu nghị giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, họ thăm Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Vinh, Vũng Tàu, Sài Gòn và có thể sẽ tới thăm Mỹ Lai nơi Mỹ gây thảm sát, tuyệt đối tránh vùng Huế. Không đả động một câu về thảm sát tại đây. Một thí dụ nữa khi ta thấy George Esper, người được coi là đặc phái viên của AP, viết bài dài 1000 chữ về cuộc thăm viếng Mỹ của một cựu chiến binh VN CS. George Esper làm việc tại Việt Nam từ 1965 tới ngày miền Nam sụp đổ năm 1975. Người cựu chiến binh VNCS gặp vài cựu chiến binh Hoa kỳ có lẽ trong số này có cả đối thủ cũ của anh. Câu chuyện nhan đề "Bạn và Thù" mở đầu bằng cảnh người cựu chiến binh Việt đứng trước đài kỷ niệm quân nhân Mỹ. Đài kỷ niệm có ghi rõ các địa danh chiến trận trong đó có Huế. Sau đó người cựu chiến sĩ Việt cho biết anh đã đổi khác cảm tưởng của anh về quân nhân Mỹ. Trước đây anh nghĩ lính Mỹ là những kẻ chuyên nghiệp được huấn luyện để giết người như tại Mỹ Lai. Tôi không thấy đoạn đối thoại nào nhắc tới Huế về cuộc chiến trong thành phố này cũng như về vụ thảm sát. Esper nay cũng về hưu, tôi hỏi anh nhiều lần tại sao anh ít đề cập tới Huế nhất là về chết chóc tại đây ? Anh tránh không bao giờ trả lời tôi. Tôi cũng hỏi cả Joe Galloway, người đã là phái viên của UPI trong chiến tranh VN và sau này anh còn là đồng tác giả cuốn We Were Soldiers Once, và cả Young người biết nhiều về trận Drang 1965. Anh có nhiều điều để nói. "Việc không cho viết lên hàng đầu các tin quan trọng là nguyên nhân của sự giấu giếm thảm sát ở Huế”. Và đó là bài học cho những ai tin vào Truyền thông đại chúng tại Hoa Kỳ. Đó là kết luận của tôi sau 40 năm theo đuổi nghiệp phóng viên, một sự nghiệp tôi theo đuổi trong đời làm việc với United Press International và The Associated Press, hai hãng thông tấn lớn nhất thế giới. Galloway nói với tôi, anh về hưu năm 2000 và anh chẳng còn để tâm tới vấn đề giết chóc nữa nhưng ai cũng biết Quân Bắc Việt và Việt Cộng vô cùng tàn bạo trên con đường chiếm đoạt chính quyền. Chúng tôi viết nhiều về những vụ xã trưởng, vợ ông và cả gia đình bị trói vào cọc, bị mổ bụng, bị chặt đầu rồi treo lên như một hình phạt để đe dọa nhân dân. Vụ thảm sát Huế cũng chỉ là vụ thanh toán tầm vóc lớn hơn. Đại úy George Smith phụ trách thông tin tại Huế cũng chung nhận xét: Khi viết cuốn The siege of Hué, ông ghi nhận ít ai để ý tới tàn ác tại Huế mà chính ông là nhân chứng khi tìm thấy trong tháng 3-1968 nhiều xác chết tay còn bị trói bằng dây thừng hay dây kẽm. Không như tại Mỹ Lai, sự thực chỉ bại lộ 20 tháng sau, tại Huế vụ thủ tiêu ghê rợn này chỉ được coi như một tin không đáng kể rất tầm thường trong một nước có chiến tranh. Ngày đó là như thế, và ngày nay cũng vẫn vậy. Tôi hiểu tại sao báo chí chỉ chú ý tới Mỹ Lai, Đó chỉ là một cách chuộc tội. Trước sau, vụ Mỹ Lai cũng do phía ta đưa ra ánh sáng. Tôi vẫn không hiểu tại sao các phóng viên và các vị chủ bút tới giờ này cũng vẫn tảng lờ vụ thảm sát ở Huế. Nếu có những tin trái ngược cũng phải nhảy vào vì câu chuyện còn chờ đó. Có nhiều nguồn tin trái ngược nhau lắm chứ kể từ khi tờ New York Times, AP, UPI, và Washington Post loan ra tháng 5-1968. Cho tới tháng 11-1969, tin trái ngược nhất do nhà Sử học D. Gareth Porter tốt nghiệp tại Cornell, trên tờ The Christian Kentury. Ông cho biết bản báo cáo về nạn nhân vụ Huế bị thổi phồng vì chính quyền muốn dọa dân nhằm cho họ thấy số phận họ một khi Cộng quân chiến thắng. Porter năm 1975 viết bài trên Ramparts magazine nhắc lại: Huyền thoại về vụ thảm sát tại Huế (The Myth of the Hue Massacre), lần này các bài phản đối ông xuất hiện nhiều và trung thực hơn điều ông viết. Porter được chính quyền Huế năm 1969 cho ông biết có gần 5000 người bị thảm sát, và ông kết luận ngay như vậy chứng tỏ việc này do chính quyền Việt Nam thời đó bịa đặt để tuyên truyền nhằm đánh lừa dư luận Mỹ, Việt và được báo chí Hoa kỳ chấp nhận không phê bình. Không phải chỉ mình nhà trí thức Porter có thái độ đó. Grover Furr, nhân viên ban Anh ngữ Đại học Montclair tại New Jercey cũng lầm lẫn khi dạy Sử Việt Nam. Qua một bài phỏng vấn với báo Sinh viên trường này năm 1984, ông cho rằng kẻ thủ tiêu người tại Huế chính là mật vụ VNCH và Tình báo CIA giả rạng để đổ lỗi cho Việt Cộng. Ông còn đi xa hơn khi cho rằng vụ Mỹ giết người tại Mỹ Lai là chuyện thường xuyên và không là chuyện đặc biệt. Tôi đọc được bài báo đó và tôi điện thoại cho Furr yêu cầu cho biết xuất xứ của các in này. Furr xác nhận tất cả do Porter đưa ra. Câu hỏi của ngày hôm nay: Liệu những lời tố cáo của Porter có thể được báo giới Hoa kỳ chấp nhận không? Cuộc tranh luận dài dài trên Internet và cả hai phe đả kích nhau liên tiếp. Thỉnh thoảng thấy bài trên báo, bài nhắc lại Mỹ Lai, bài đòi điều tra về vụ thảm sát Huể Có nhiều lá thư gửi cho Chủ bút, nhưng tuyệt nhiên không bao giờ thấy trên mục tin tức hàng đầu. Stanley Karnov công nhận từ lâu thảm sát tại Huế có thật nhưng toàn báo giới Hoa kỳ lặng câm. Tôi một lần đã nhờ trưởng phòng tôi yêu cầu cấp cao tại New York cho tôi làm một cuộc điều tra về vụ này và được trả lời: Quân Mỹ có bao giờ làm vậy, và hiểu ngầm rằng đó là do bên kia làm, cần gì phải điều tra thêm... Hơn nữa việc thảm sát tại Huế không còn là tin sốt dẻo. Ngoài việc làm cho AP tôi còn đọc thêm 7 tờ báo nữa mỗi ngày và từ 10 năm nay những tin tức về Huế chỉ còn đếm trên đầu ngón tay và phần nhiều viết về chiến tranh, đôi khi nhắc tới cuộc thảm sát qua vài hàng. Có vài câu chuyện cho biết nhà cầm quyền hiện nay đã không nhắc tới giết chóc, một cách lảng tránh đáng kể. Tuy nhiên một việc đáng chú ý, Việt Nam đang có Viện Bảo tàng trưng bày tội ác của Mỹ. Trong số người qua thăm có Raymond Schtrot, một phóng viên và cũng là giáo sư tại Đại học Loyola tại New Orleans. Trong một bài viết cho tờ báo danh tiếng Review của trường báo chí Columbia năm 1996, ông không ngạc nhiên khi được coi bức hình lính Mỹ trưng ra một cái đầu lâu. "Tôi đã thấy những hình như vậy qua báo "chui" hay báo chính thức tại Hoa kỳ hai mươi năm trước: những cảnh xác chết tại Mỹ Lai, cảnh trấn nước, cảnh xác chết của Việt cộng bị cán dưới gầm xe. Và dù người Việt (C.S.) có giấu giếm các chuyện thực cũng tìm thấy và người coi có thể nhận thức được căn bản của đạo đức, và của chính trị. Tuy nhiên trong tờ Review không một bài nào nói về Huế và chắc chắn nếu có bài về Huế thế nào cũng có người chú ý cũng như xúc động. Chuyện về Huế hoàn toàn bị lãng quên. Sự thiếu sót này nêu lên câu hỏi về lòng trung thực của báo chí. Độc giả và thính giả kết luận ra sao về các nguồn tin coi như chính thức này? Vậy những nguồn tin khác, nhất là các nguồn tin xuất xứ từ người Việt đang sống tại Hoa kỳ thì sao? Tuy nhiên dù tôi không dựa theo những nguồn tin của họ để viết thành câu chuyện, tôi cũng nghĩ tin của người tị nạn thỏa mãn được nỗi tò mò của tôi, ít nhất tôi có thể hiểu được lối làm việc của Porter. Porter nhấn mạnh rằng các tin cung ứng cho báo chí dựa theo một bản báo cáo của cán bộ cộng sản khi dịch ra có thể khó hiểu. Trong bản báo cáo tiếng Việt viết ta loại được 1892 nhân viên hành chánh địch. Porter khẳng địch chữ "diệt" dịch ra tiếng Mỹ chỉ là vô hiệu hóa và không có nghĩa là giết hại. Nhưng theo người Việt tị nạn, loại đối với V.C có nghĩa là thủ tiêu hay rõ rệt là giết chết. Ngoài nguồn tin của người Việt tị nạn, ngày nay còn có những cựu chiến binh trong cuộc ngày trước nay được tự do phát biểu. Bạn láng giềng tôi là Dan Diridoni trước đây là hạ sĩ trong tiểu đoàn 9 công binh thuộc Sư đoàn 1 thủy quân lục chiến. Hồi ức của anh được ghi trong cuốn sách mới của binh chủng do Jean Shellenbarger viết. Anh cho biết kỷ niệm đau thương nhất của anh khi tới nhà thờ vùng Huế: "Có chừng 100 tới 150 xác bị giết nằm la liệt trong đó" Hơn nữa ngày nay sau một thời gian, các tài liệu về Huế được giải mật nhờ quyền tự do tìm hiểu các tài liệu coi đây là việc ngụy tạo của chính quyền VNCH ngày đó hay thảm sát do lệnh của quân Bắc vì điên khùng tự ý gây ra hay chính họ đã nhận lệnh của cấp trên. Tôi tìm được một tài liệu của tổ chức Rand liên hệ tới hoạt động của Mỹ tại Huế và tìm được một tài liệu nhặt được : cuốn sổ tay của một cán bộ cao cấp BV hành quân trong vùng Huế. Tài liệu này cho biết đại thắng vì đã tiêu diệt được 3000 cán bộ VNCH trong đó có phó tỉnh trưởng bị sát hại. Tất cả ngụy quyền từ cấp xã tới tỉnh đều bị tan vỡ. Tài liệu này không phải do VNCH kiếm được mà do Đệ nhất sư đoàn không kỵ Hoa kỳ tìm thấy ngày 12-06-1968. Những gì đã xảy ra tại Huế nay rõ ràng hơn sau 30 năm im hơi lặng tiếng. Cựu Phó Tổng thống Al Gore đã khẳng định một điều mà ai cũng biết từ lâu: "Thật là nỗi lầm lẫn lớn cho những ai nghĩ rằng chiến tranh VN là sai khi cho rằng VC chỉ là những người nhà quê chiến đấu giành độc lập. Họ là công cụ của miền Bắc từ đầu đến cuối." Và mặc dầu báo chí vẫn im hơi lặng tiếng nơi mục tin tức thì trong mục Bình luận của tờ Register-Guard of Eugene tại Oregon ngày 06-02-1998 thấy đăng thơ của độc giả: Donald May, ông cho biết ông là cựu chiến binh của sư đoàn 101 nhảy dù. Để nối tiếp bài viết của AP nhân kỷ niệm 30 năm ngày Tết Mậu Thân ông viết: Bài về vụ thảm sát Huế thiếu một đoạn, tôi xin bổ túc "Mỹ Lai là một lỗi lầm, nhưng thảm sát tại Huế đã bị báo chí bỏ quên và người Mỹ do đó không có dịp biết đến." Phỏng dịch bài: "Forgotten massacre at Hue". Is the media’s treatments of My Lai and Hue massacre a case history in journalistic double standard? James O. Clifford Sr http://www.truyen-thong.org/so10/37.html
Đặt vấn đề cần xét xử cuộc tàn sát ở Huế Tết Mậu Thân Luật sư Trần Thanh Hiệp LTS. Luật sư Trần Thanh Hiệp là chủ tịch Trung Tâm Việt Nam về Nhân Quyền, trụ sở đặt tại Paris. Ông viết bài dưới đây theo lời yêu cầu của Ngày Nay nhân dịp kỷ niệm 40 năm CSVN tổng tấn công và tàn sát 6000 dân lành tại Huế hồi Tết Mậu Thân, 1968. Đêm mồng một Tết năm Mậu Thân (30-01-1968), 12 ngàn quân cộng sản đã nổ súng tấn công thành phố Huế, chiếm đế đô cũ của nhà Nguyễn trong 26 ngày. Chiến dịch Đông Xuân, cửa ngõ đi vào tội ác Cuộc binh biến này là một trong những cao điểm của Chiến dịch Đông-Xuân, với một quân số gần 200 ngàn người gồm cả bộ đội chính qui lẫn du kích, chính ủy, cán bộ CS xâm nhập từ miền Bắc cũng như tuyển mộ tại chỗ, mà Hà Nội đã mở ra ở chiến trường miền Nam, vào ba năm cuối thập niên 1960, trong ý đồ tạo thế mạnh trên chiến trường để áp đảo trên bàn hội nghị nếu buộc phải đi vào cuộc thương lượng. Ngày thứ 27, những tay súng xâm lăng Huế đã bị quân lực VN Cộng Hòa cùng với quân đội Đồng minh đánh bật ra khỏi những nơi họ chiếm đóng. Các trận đánh đã chấm dứt, một trong những việc khẩn cấp trong khi chờ đợi cuộc sống bình thường trở lại trên miền sông Hương núi Ngự là lo kiểm điểm thương vong. Đã không có cuộc kiểm tra dân chúng thật sự nào được thực hiện. Nhưng đại cương, chỉ biết rằng tính tới tháng 03-1968, theo thống kê của nhà cầm quyền thì có 1.900 dân thường được đưa vào bệnh viện vì thương tích chiến tranh và khoảng 5.800 người bị CS bắt đi mất tích. Và cho đến bây giờ, tất cả những người này coi như đã chết. Nhưng họ đã chết như thế nào? Đã có lúc người ta tưởng rằng đó là những bí mật đã bị chôn vùi dưới lòng đất và trước sau gì thì thời gian cũng sẽ xóa hết vết tích thôi. Nhưng không ngờ rằng chẳng bao lâu sau sự thật đã dần dần hé lộ. Và một loạt tội ác ghê rợn vì mức độ dã man làm chỗi dậy lương tâm loài người lần lượt được vạch trần ra trước ánh sáng. Vô số tử thi được tìm thấy rải rác, hay tập trung trong những hố chôn tập thể, ở những vùng chung quanh Huế thuộc tỉnh Thừa Thiên. Bốn mươi năm đã trôi qua. Không biết có bao nhiêu người nay còn muốn nhắc lại câu chuyện Tổng công kích cách mạng của cộng sản tại Huế, còn đoái hoài tới những kẻ xấu số đã mất đi mạng sống của mình một cách thảm thương. Đành rằng trước những tội ác đảo lộn luân thường đạo lý của Phát xít Quốc xã và Cộng sản toàn trị, thế kỷ XX đã bị tố cáo trước công luận thế giới là man rợ xưa nay chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại. Nhưng công luận đã không đáp ứng được nhu cầu công lý. Có gì để đền bồi cho thân nhân hàng ngàn người xấu số đã chết tức tưởi dưới bàn tay khát máu của cộng sản tại Huế trong dịp Tết Mậu Thân? Và những kẻ sát nhân đã phải trả lời ra sao về tội ác của chúng? Có thể đành tâm im lặng nhìn cuộc sống thị phi lẫn lộn kéo dài vô tận được không? Một người Mỹ từng có nhiều công trình nghiên cứu thâm sâu về những người Cộng sản Việt Nam, ông Douglas Pike, khi lập một hồ sơ về biến cố Tết Mậu Thân đã viết rằng: “Ngoài tiếng thở dài cay đắng, người dân sẽ nói cho quí vị hay những gì về Huế mà thế giới đã không biết tới, và nếu có biết, họ cũng chẳng quan tâm đến những gì ở Huế sau 27 ngày gọi là “giải phóng Thừa Thiên” (...). Những gì xảy ra ở Huế làm cho những ai còn là người văn minh trên địa cầu nầy phải dành nhiều phút giây tĩnh tâm để tư duy về những điều đã được khắc ghi, cùng với những tai họa khủng khiếp khác về những hành động dã man của người đối với người sẽ không bao giờ quên được và trở thành một dấu ấn sâu sắc trong dòng lịch sử nhân loại” (lời dịch của Tuệ Chương). Bốn mươi năm sau. Chúng ta, những người không Cộng sản còn nhớ được những gì và suy nghĩ gì về cuộc giết người hàng loạt này? Bộ mặt ghê rợn của ý thức hệ Một người dân Huế nhớ lại: “Tại thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, 22 địa điểm tìm được là các mồ chôn tập thể. Trong 22 địa điểm này, người ta đếm được 2,326 sọ người. Sau Tết, chúng tôi lập Hội Gia đình Nạn nhân Cộng Sản Tết Mậu Thân. Các gia đình kê khai có người chết, có người mất tích, lên đến 4,000 gia đình. Người ta ước tính vào khoảng 6,000 người. Có nhà báo ước tính 5,000. Chúng tôi cho con số 5 đến 6 ngàn là không sai lệch lắm đâu”. Nhiều đợt kiếm xác làm liên tưởng tới cảnh hành hình trong ngục của Diêm Vương. Các nạn nhân tay bị trói bằng dây thép gai buộc ra sau lưng, miệng nhét giẻ, thân xác không còn nguyên vẹn nhưng lại không có dấu vết bị thương. Chắc hẳn những người này đã bị chôn sống. Nơi tìm thấy nhiều xác nạn nhân nhất là ở những đồi cát của ba làng Vinh Lưu, Lệ Xá Đông và Xuân Ổ; đây là vùng đồi cát liên tiếp nhau, nhiều đụn cỏ, ở gần biển Đông. Cách xa cách vùng đầm nước mặn, đây là nơi thuận tiện để chôn tập thể. Đã có hơn 800 người được phát giác ở khu này. Các nạn nhân bị trói thành từng nhóm 10 hoặc 12 người, sắp hàng bên cạnh những cái hố do dân địa phương đào, sau đó bị bắn bằng súng máy mà nhờ có vỏ đạn bên cạnh hố chôn nên đoán là do Nga sản xuất. Một địa điểm khác nữa là ở quận Nam Hòa, chỗ gọi là khe Đá Mài, hay là nơi người dân Phủ Cam bị giết, tìm thấy hôm 19-9-1969. Cán binh Cộng Sản đào ngũ khai với viên chức tình báo thuộc đoàn Không Kỵ 101 của Hoa Kỳ rằng họ đã chứng kiến việc giết hàng trăm người ở khe Đá Mài, cách Huế 10 dặm về phía nam vào tháng 02-1968. Khu nầy hoang vu, không có dân cư, khó đến được, một toán tìm kiếm đã tới được khe Đá Mài báo cáo rằng trong dòng suối có rất nhiều đống xương người chồng chất lên nhau. Nhờ những tin tức gom góp được, người ta tạm phỏng đoán những gì xảy ra ở khe Đá Mài. Tại khu Phủ Cam, nơi có khoảng 40 ngàn dân, những người theo đạo Thiên Chúa chiếm 3/4 dân số thành phố. Hôm mồng 5 Tết, dân khu này chạy vào nhà thờ tránh súng đạn như ở Việt Nam người dân thường làm. Thực ra, nhiều người trong số đó không phải là người có đạo Thiên Chúa. Cán bộ Cộng sản vào nhà thờ bắt đi khoảng 400 người, một số theo danh sách có sẵn còn một số theo nhân dạng mà bắt (giàu có, sang trọng, trung niên v.v...). Cộng Sản cho biết họ phải vào vùng giải phóng để học tập chính trị trong vòng ba ngày, sau đó, sẽ được tha về. Họ bị đưa đi 9 cây số tới một ngôi chùa nơi Cộng sản đặt bộ Chỉ huy. Hai chục người được gọi ra trước cái gọi là “tòa án cách mạng”, bị tố cáo là có tội, bị hành quyết và chôn ngay trong sân chùa. Những người còn lại được đưa qua sông và giao cho đơn vị Cộng sản địa phương. Bảy ngày sau đó, không rõ số lượng bao nhiêu, cả người bắt và người bị bắt đã di chuyển về một vùng quê. Và để không cho ai thấy, người bị bắt bị dẫn đến những vùng núi non lởm chởm nhất miền Trung Việt Nam, tới khe Đá Mài. Tại đây họ bị bắn hay bị đập đầu, xác bị đạp xuống lòng khe. Ông Nguyễn Phúc Liên Thành, nguyên Phó Trưởng ty Cảnh sát Đặc biệt tại Thừa Thiên nhớ lại: “Sau khi lập chính quyền thì Việt cộng bắt đầu cuộc thảm sát. Đầu tiên họ kêu gọi quân nhân cán chính trong thành phố Huế ra trình diện. Sau khi trình diện thì được cấp giấy, có quyền đi lại, coi như giấy thông hành. Những người này về nói lại với những người khác, người kế tiếp ra trình diện. Đến lần thứ ba thì họ yêu cầu tất cả những ai đã trình diện lần một và lần hai ra trình diện lại. Đây là lần quyết định, và cuộc thảm sát đã diễn ra!” Ông Ông Philip W. Manhard, cố vấn Mỹ tại Huế bị bắt làm tù binh và bị giam giữ tại một trại tù binh ở ngòi Bắc cho đến năm 1973, đã xác nhận rằng khi phải rút khỏi thành phố Huế, bộ đội cộng sản đã hạ sát tất cả những ai không chịu đi theo, cũng như những người quá già hoặc quá ít tuổi gây trở ngại cho cuộc rút quân này. (*) Phải được thúc đẩy bởi những động cơ tâm lý như thế nào mới có thể giết người một cách vô cảm và phi nhân tính, theo đuổi ý đồ diệt chủng như vậy! Tìm cách giải nghĩa cuộc tàn sát Tết Mậu Thân dưới góc độ nhìn vấn đề như thế thì chỉ có một câu trả lời độc nhất, đó là sự thể hiện cụ thể nhất của hệ thống giáo điều ý thức hệ Cộng sản với căm hờn giai cấp, với vai trò lịch sử tự phong của lớp người tự nhận là vô sản, với chủ trương đảng trị độc tôn, toàn trị phi nhân quyền v.v... cho phép người cộng sản -như, đúng ra hơn cả Thượng Đế- có đủ mọi thứ quyền trên cõi đời này, kể cả quyền sinh quyền sát. Bởi vậy cuộc tàn sát đầu Xuân Mậu Thân vẫn còn là một vấn đề mà các thế hệ nói tiếp cần phải phân tích để thanh toán. Khoảng cách bốn mươi năm đã mang lại nhiều thay đổi từ tư tưởng đến thực tế đất nước, góp phẩn làm hiển lộ sự thật. Nếu vào thời điểm năm 1968, những người Cộng sản có được sự thản nhiên lạnh lùng để hạ sát một cách man rợ hàng ngàn đồng bào là tại vì lương tâm con người trong họ đã bị tham vọng quyền lực, quyền lợi che lấp. Phải bằng mọi giá loại trừ bất cứ trở ngại nào trên buớc đường họ cướp quyền để cầm quyền. Nhưng sau hơn 30 năm chiếm được trọn quyền trong cả nước, những người cộng sản qua suy nghiệm bản thân chắc đã không thể không nhận rõ được thực chất vô đạo, dối trá, man rợ, lạc hậu của ý thức hệ của mình. Họ biết rằng không thể mượn những ánh hào quang giả trá của chủ nghĩa để biện minh cho hành động giết người của họ. Nên họ đã ra sức che giấu tội phạm bằng những luận điệu, hình thức lố bịch tự ca ngợi chiến thắng, tạo nên những căng thẳng tâm lý, khơi sâu thêm hận thù trong xã hội. Nhưng họ che giấu bằng thái độ phi luân lý, bất cần tốt xấu, sai đúng, khinh miệt mạng sống con người. Mặc dầu trước công luận, thái độ này có chỗ dựa là chính quyền nhưng nó không thể làm nền tảng đạo lý cho môt nước Việt Nam dân chủ lương thiện được. Hồ sơ cuộc giết người hàng loạt Tết Mậu Thân vì vậy chưa thể xếp lại mà còn phải đưa ra trước công lý. Đường thẳng và những ngõ ngách để đi tìm công lý Chữ công lý có hai nghĩa. Hiểu một cách thông thường thì công lý là công bằng, hợp với lẽ phải, trái phải, công tội phân minh v.v... Công lý cho người dân cảm giác công chính, thỏa đáng, chính đáng. Nhưng điều này không phải tự nhiên đã có sẵn trong xã hội, cần phải thực hiện mới có và công lý chỉ thực hiện thông qua nhà cầm quyền. Chính quyền phải có những định chế để đáp ứng nhu cầu công lý của dân. Do đó, chữ công lý còn có nhiều nghĩa chuyên môn mang tính chất triết học, pháp lý. Công lý về mặt chuyên môn, và hiểu theo nghĩa đơn giản nhất, là một phạm trù luân lý-chính trị-luật học, biểu hiện một trạng thái quan hệ trong đó con người được đối xử công bình, nghĩa là bình đẳng với nhau trước pháp luật, trong sự tương kính, phù hợp với hệ thống giá trị được coi như tiêu chuẩn của cuộc sống chung. Công lý vì thế là đạo đức hàng đầu của chính quyền, là lẽ chính thống của một một chế độ, là diện mạo của văn minh. Cho đến cuối thế kỷ XX, trên đại thể, công lý là giá trị quốc gia. Nước nào có công lý của nước ấy, tuy rằng cũng phải qui chiếu vào cái hình bóng giá trị được gọi là công lý chung của nhân loại. Nhưng từ thập niên 1990 công lý chung này bắt đầu quá trình đột xuất dưới hình thức bào thai. Và đến năm 1998 thì nó chính thức ra đời ở thành phố Rome của nước Ý, dưới danh xưng Tòa Án Hình Sự Quốc Tế, có thể nói một tòa án hình sự đầu tiên của cả loài người. Như vậy là từ nay sẽ có hai nền công lý, đó là công lý quốc nội và công lý quốc tế. Đúng hơn, nên nói hai cách thực hiện công lý với những khác biệt từ hình thức đến nội dung. Việc nhận diện cho rõ những khác biệt này không đơn giản vì nó đòi hỏi nhiều kiến thức chuyên môn. Nhưng điều mà mọi người nên tránh là đừng đồng hóa một cách máy móc hai thứ công lý này. Câu hỏi thực tế được đặt ra là trong khuôn khổ hai nền công lý ấy, phải làm sao để xét xử vụ giết người hàng loạt Tết Mậu Thân? Có hai con đường thẳng và một số ngõ ngách để đưa vụ tàn sát Tết Mậu Thân ra trước công lý. Hãy bàn về những con đường thẳng để chọn hoặc con đường quốc tế hoặc con đường quốc nội. Về mặt công lý quốc tế thì vụ tàn sát này thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa Án Hình Sự Quốc Tế (TAHSQT). Thật vậy, những hành vi bắt người giết người và ý chí phạm tội của những thủ phạm cộng sản rõ ràng là những yếu tố cấu thành các tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử (thuật ngữ luật học gọi là “thẩm quyền đối vật”, compétence ratione materiae) của cơ quan tài phán này, chiếu điều 6, 7 và 8 của Quy chế Rome 1998 thiết lập TAHS QT. Với những đặc tính này, vụ tàn sát Tết Mậu Thân là những tội phạm quốc tế đích danh như diệt chủng, chống nhân loại và tội phạm chiến tranh. Nhưng điều trớ trêu là các tụng nhân Việt Nam lại không có tố quyền để khiếu kiện trước TAHSQT. Vì chiếu điều 11 của Qui chế kể trên, TAHSQT chi thụ lý để xử những viêc xảy ra sau khi Qui chế này bắt đầu có hiệu lực, nghĩa là năm 2001. Hơn nữa trong mọi trường hợp, TAHSQT cũng không có hiệu lực đối với nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa vì nước này không ký tên vào Quy chế Rome 1998 nên không bị ràng buộc vào quy chế Rome. Như vậy, con đường thẳng quốc tế đã bị tắc nghẽn, các tụng nhân Việt Nam chỉ còn trông vào ba ngõ ngách là các nước Tây Ban Nha, Bỉ và Hoa Kỳ là ba nước tự cho mình có thẩm quyền trên tòan cầu xét xử một số tội hình sự bất cứ ai phạm ở nước ngoài (**). Với điều kiện là thủ phạm phải có mặt trên ba nước này và nếu không có mặt thì sẽ được dẫn độ. Rốt cuộc cũng vẫn là những bước phiêu lưu mà kết quả cũng không hơn gì trường hợp không có tố quyền. Vì thủ phạm không dại gì tự mang thân vào vòng tù tội và yêu cầu dẫn độ cũng chẳng bao giờ được chấp thuận (**). Còn đường thẳng công lý quốc nội thì sao? Theo lẽ, những tụng nhân Việt Nam có thể vô đơn nhờ tòa án quốc nội xét xử vụ tàn sát Tết Mậu Thân. Như tòa án ở Phnom Penh đang xử những người Khơ Me Đỏ về tội diệt chủng. Nhưng người dân Việt Nam cũng sẽ đành phải bó tay thôi. Đương nhiên phải vậy bởi lẽ Đảng cộng sản, Đảng đã gây ra tội ác diệt chủng Tết Mậu Thân, vẫn còn đang cầm quyền khác với trường hợp Khơ Me Đỏ đã mất quyền. Thân nhân các nạn nhân vụ tàn sát Tết Mậu Thân chắc chắn là không hy vọng gì thấy được tòa án của chế độ hiện hữu chấp đơn khiếu kiện để tự mình xét xử mình và trừng phạt mình. Vậy chỉ còn ngõ ngách là tụ họp để khiếu kiện ngoài đường phố, đòi hỏi nhà cầm quyền mở cuộc điều tra để truy cứu các thủ phạm trong cuộc diệt chủng Tết Mậu Thân, trừ phi chính quyền tại chức bị mất chức và chính quyền thay thế sẽ không theo đưổi chính sách cai trị diệt chủng cũ. Nói tóm lại, trước mắt, đặt vấn đề tìm công lý cho những nạn nhân vụ giết người hàng loạt Tết Mậu Thân là đặt vấn đề thay đổi ở tận gốc những điều kiện thực hiện công lý để cho nước Việt Nam có thể thực sự hội nhập với nhân loại văn minh. Để tạo ra một không gian pháp lý mới trong đó pháp luật sẽ thay thế cho bạo lực thay vì chỉ giữ vai trò công cụ cho bạo lực. http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp [*] Phỏng theo và tóm lược các tài liệu đã được phổ biến trên mạng lưới internet. [**] Tây Ban Nha đã yêu cầu dẫn độ Pinochet, cụu Tổng Thống Chili để xét xử về cuộc tàn sát tập thể tại nước này. Anh quốc tuy đã bắt giữ tướng Pinochet nhưng đã từ chối không chấp đơn xin dẫn độ của Tây Ban Nha.
Đọc tài liệu & diễn văn của Cộng sản “ăn mừng chiến thắng Mậu Thân 1968” Đinh Lâm Thanh Tài liệu : TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY TẾT MẬU THÂN 1968 - NÉT ĐẶC SẮC CỦA CHIẾN TRANH NHÂN DÂN VN của Nguyễn Mạnh Hưởng, Phó Giáo sư Tiến sĩ, Viện Khoa học Xã hội Nhân văn Quân sự Bộ Quốc Phòng, đăng trên Tạp chí Cộng sản số 2 (146) năm 2008. Diễn văn: CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY TẾT MẬU THÂN 1968 – MỘT BÀI HỌC QUAN TRỌNG CÓ Ý NGHĨA MÃI MÃI ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM NGÀY NAY của Lê Thanh Hải, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Thành phố HCM trong buổi Lễ kỷ niệm 40 năm, đăng trên tạp chí Cộng sản số 3 (147) năm 2008. Tất cả tài liệu do đảng hoặc nhà cầm quyền chế độ Cộng sản phổ biến, phát xuất từ Bộ chính trị trung ương hay sao chép bởi các cấp lãnh đạo địa phương đều rập theo một khuôn mẫu, giọng điệu ‘trước sau như một’. Nói một cách rõ hơn, từ chủ tịch nước xuống cán bộ phường khóm xã ấp, cũng như từ một tiến sĩ giáo sư đại học cho đến tên công an gác cổng đều nói và viết những câu, những chữ rập theo sách vở đã được Bộ chính trị soạn và bắt học thuộc lòng! Thật ra không cần mất công để đọc những tài liệu nầy vì người ta biết trước những gì chúng viết trong đó. Họa chăng, ai muốn mua vui chốc lát hoặc muốn giải tỏa ấm ức trong lòng thì cứ liếc mắt qua vài giòng tài liệu của chúng, tôi tin chắc người đọc sẽ có cơ hội cười đùa thỏa thích rồi tự nhiên văng tục một cách thoải mái để trút những bực dọc trong lòng… Nhưng hai tài liệu nêu trên đây đã gây sự chú ý của tôi, không phải bằng những lời văn giá trị hoặc ý tưởng gì mới lạ. Nội dung của hai tài liệu trên là những bản văn ngụy biện sai sự thật, gây phẫn nộ đối với toàn dân Miền Nam, nhất là những người đã cầm súng chiến đấu cho Tự do cũng như nạn nhân của biến cố Tết Mậu Thân 1968. Việt Cộng muốn viết hưu viết vượn gì để ca tụng đảng và chế độ là chuyện nội bộ của chúng. Nhưng cố tình tráo trở, viết ngược lại sự thật về biến cố năm Mậu Thân 1968 là một điều vô liêm sỉ. Đã có hàng trăm tài liệu và hình ảnh cũng như những bài viết tố cáo, từ những nhân chứng sống của gia đình nạn nhân, các nhà nghiên cứu sử Việt Nam cũng như một số báo chí ngoại quốc đã chứng minh cho thế giới về tội ác diệt chủng tày trời của tập đoàn Cộng sản Việt Nam trong vụ tổng tấn công vào dịp Tết. Là một người cầm súng đối đầu với địch trong biến cố Mậu Thân, hơn nữa, gia đình bên ngoại là nạn nhân bị Cộng sản chôn sống tại Huế, tôi không thể bỏ qua khi đọc hai tài liệu của loài quỷ đỏ bôi nhọ nhân dân Miền Nam, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cũng những gia đình có thân nhân bị Cộng sản sát hại trong đợt bắn phá và tấn công vào các thành phố, quân lỵ Miền Nam mà chúng gọi là tổng nổi dậy!!!. Tôi trích những câu viết bởi hai tên Cộng sản gộc (bằng chữ in nghiêng, in đậm) để tất cả chúng ta cùng thấy lời lẽ xảo quyệt của loài rắn độc ngậm máu phun người mà chúng bắt dân chúng học tập cũng như hân hoan đọc trong những bữa tiệc MÁU để ăn mừng chiến thắng 40 năm ‘tổng khởi nghĩa’ thành công ! Bài viết nầy mục đích gởi đến : 1. Tập đoàn đảng Cộng sản, mục đích vạch trần những phô trương láo khoét hòng che đậy tội lỗi của chúng đã gây cho Miền Nam bằng hành động đưa bộ đội chính quy vượt ranh giới cướp nước, giết hại dân lành trong dịp Tết Mậu Thân. Tội ác tày trời đã phơi bày trước ánh sáng, đừng giả mù pha mưa làm trò hề nữa. Cả thế giới đang khinh tởm về lối tuyên truyền lật lọng cố hữu xưa nay vẫn không thay đổi. Hơn nữa, đừng qua mặt người Việt tự do nước ngoài bằng trò hòa giải hòa hợp để xin tiền bạc, kêu gọi đầu tư, hợp tác kinh tế, mời ngoại quốc giúp đỡ. Chế độ Cộng sản Việt Nam dưới sự cai trị của một tập đoàn lì lợm, khát máu, tham lam và ngu muội thì không thể tồn tại một khi dân chúng trong nước đã bừng tỉnh vùng dậy xuống đường hỏi tội. Bài viết nầy báo động cho tập đoàn Cộng sản hay rằng, một ngày rất gần, chính những thành phần nông-công-thương sẽ cuốc xẻng, gậy gộc, dao búa… kéo vào phủ chủ tịch, phủ thủ tướng và sào huyệt các tên đầu sỏ trong Bộ chính trị trung ương đảng để tìm những tên bán nước hại dân. Nếu người nào còn muốn nhìn thấy ánh sáng mặt trời thì hãy dứt khoát bỏ hàng ngũ đảng quay về với tự do, đi theo con đường chính nghĩa, góp tay cùng toàn dân trong và ngoài nước, lật đổ chế độ thối nát hầu chuộc tội với nhân dân Việt Nam. 2. Đồng bào Miền Bắc thấp cổ bé miệng, thành phần nghèo đói bị trị, thành phần tôn giáo lương thiện, thành phần trí thức tiến bộ, thành phần phục viên thất sủng, thành phần chống đối bạo quyền và tất cả những ai đã sáng mắt, biết suy nghĩ và đang hoài nghi về cái ‘Thiên Đường Ưu Việt’ của Cộng sản… để thấy đâu là sự thật, đâu là chính nghĩa và chế độ nào bóc lột dân lành, chế độ nào diệt chủng sát hại ngay cả chính dân mình? 3. Thành phần trẻ tại Việt Nam, sinh ra và lớn lên trong bưng bít xảo trá, trong tuyên truyền nhồi sọ một chiều của môi trường đỏ. Chế độ Hà Nội chủ trương lật lọng, đổi trắng thay đen không ngoài mục đích gây cho dân chúng, nhất là giới trẻ căm thù chế độ cũ. Thanh thiếu niên sống dưới chế độ Cộng sản không thể nào biết cũng không thể nào tưởng tượng được những gì đã xảy ra tại Miền Nam trước năm 1975, nhất là những vụ thảm sát tập thể dã man vô nhân đạo trong dịp Tết Mậu Thân 1968 đối với hàng ngàn thường dân vô tội. 4. Thế hệ thứ hai, thứ ba sinh ra và trưởng thành tại hải ngoại là những thanh thiếu niên không biết hoặc hiểu biết một cách khái quát những gì xảy ra tại Miền Nam mà đã khiến hàng triệu người trốn xuống ghe hoặc lên máy bay chạy trốn Cộng sản. Tuy nhiên cũng có một số thanh niên thắc mắc hoặc nghi ngờ các hoạt động chống Cộng nhiệt tình của cha chú cũng như các đảng phái hội đoàn tại hải ngoại, thì đây, tôi mượn bài viết nầy để góp ý với các bạn trẻ: Cộng sản biết rằng thanh thiếu niên Việt Nam hải ngoại, dù sinh ra, lớn lên và thành công trong môi trường Âu-Mỹ đầy đủ vật chất, văn minh tự do… nhưng trí óc, tâm hồn và con tim các bạn trẻ vẫn nặng tình quê hương dân tộc, vẫn hướng về Tổ quốc, vẫn nghĩ đến bà con ruột thịt và dân chúng đang thiếu thốn, đói khổ lầm than. Do đó, Cộng sản đã hướng trọng tâm vào việc kêu gọi, mua chuộc, dụ dỗ thành phần nầy. Đây là một thủ đoạn ‘kiều-vận-cấy-người’ thật nguy hiểm. Thanh thiếu niên hải ngoại cần tìm hiểu để biết những mánh lới thâm độc, những trò gian xảo bỉ ổi mà Cộng sản thường dùng để mua chuộc lòng yêu nước của những người xa quê hương, nhất là lớp trẻ sinh ra và lớn lên tại nước ngoài. 5. Những tên trí thức cò mồi đón gió đã và đang bám vào gấu quần Cộng sản. Những người đã cúi đầu tùng phục kẻ thù để cầu danh, kiếm ăn, nhận tiền bạc bố thí, thi hành lệnh quan thầy đánh phá cộng đồng người Việt nước ngoài. Người Việt hải ngoại không lạ gì một số bác sĩ, luật sư cũng như những tên đầu cơ thương mãi đã và đang ném đá giấu tay, chống phá Cờ Vàng ba Sọc Đỏ, lập lờ hoan hô ca tụng già Hồ và bè lũ bán nước. Gần đây nhất, cộng đồng hải ngoại tại Mỹ đã phẫn nộ, tẩy chay vài cơ quan truyền thông báo chí khi bọn văn nô trở ngòi bút bốc thơm chế độ Cộng sản và chống lại Người Việt Tự Do. Chúng nó chỉ là một lũ đói cơm, ngửa tay nhận tiền của kẻ thù thì phải làm việc trả nợ chứ chẳng phải thương nước yêu nòi gì. Ngoài ra, bài viết nầy cũng xin gởi đến một số phần tử quốc gia bị ‘dính chàm’ vì những sai lầm trong quá khứ mà phải lệ thuộc kẻ thù, làm tôi mọi suốt đời cho địch, chống lại bạn bè, đồng hương, đồng đội và nhân viên thuộc cấp ngày trước cũng như chụp mũ, chống phá cộng đồng người Việt Tự Do. Nội dung gồm 3 điểm, gởi cho 5 thành phần trên : 1. Các tài liệu của Cộng sản phổ biến ‘40 năm tổng nổi dậy’ là hoàn toàn bịa đặt, tráo trở, đổi trắng thay đen: Trích: Đêm ngày 30 rạng ngày 31-01-1968, quân và dân miền Nam đã đồng loạt tiến công và nổi dậy ở 4 thành phố lớn, trọng tâm là Sài Gòn-Gia Định và Huế, 37 thị xã và hàng trăm quận lỵ, thị trấn, tập trung đánh vào nội thành và cơ quan đầu não (Dinh Độc lập, Toà Đại sứ Mỹ, Bộ Tổng tham mưu, Hải quân, Tổng nha cảnh sát, Đài phát thanh Sài Gòn...), các căn cứ hậu cần, sân bay, bến cảng, nhiều sở chỉ huy cấp quân khu, quân đoàn, sư đoàn của Mỹ Ngụy. Trên địa bàn nông thôn, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, nhân dân ta đã nổi dậy giành quyền làm chủ, đập tan bộ máy chính quyền của địch ở nhiều nơi. Tổng tiến công và nổi dậy diễn ra trên một không gian rộng lớn ở cả ba vùng chiến lược, nông thôn đồng bằng, đô thị và miền núi. Hết trích. Dân quân Miền Nam hoàn toàn không ai đồng loạt tiến công nổi dậy mà chính Cộng sản đã xua bộ đội Miền Bắc vào cướp nước. Hà Nội đề nghị và ký kết việc hưu chiến để dân chúng hai miền Nam Bắc vui Xuân ba ngày Tết. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và Đồng Minh đã thi hành đứng đắn thỏa hiệp hưu chiến: Mỹ không oanh tạc Miền Bắc, các hang ổ và các vị trí chuyển quân Cộng sản tại Miền Nam. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ngưng các cuộc hành quân lục soát và truy kích bộ đội Bắc Việt, đồng thời cho phép một nửa quân nhân đồn trú các cấp về ăn Tết với gia đình. Nhưng ngay tối Giao thừa, chính già Hồ ban hành lệnh khai hỏa qua thư chúc Tết cho hàng chục sư đoàn quân chính quy Bắc Việt đang có mặt tại Miền Nam đồng loạt tấn công vào các trụ sở cơ quan đồn trú hành chánh cũng như quân sự của Việt Nam Cộng Hòa. Trò lưu manh khốn nạn của già Hồ và bè lũ đảng Cộng sản là đề nghị hưu chiến rồi xua quân đánh úp vào trọng tâm các cơ sở quân-dân-sự của Miền Nam. Trích: Sài Gòn - Gia Định, là trọng điểm lớn nhất và ác liệt nhất của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, vì nơi đây là trung tâm đầu não chỉ huy toàn bộ bộ máy chiến tranh, có hệ thống phòng thủ nhiều tầng, nhiều lớp vững chắc, tập trung lực lượng tinh nhuệ nhất của địch. Đêm 30 rạng ngày 31-01-1968, cuộc tiến công táo bạo, bất ngờ với đòn giáng phủ đầu của lực lượng Biệt động Thành vào những mục tiêu hiểm yếu, đầu não của bộ máy chiến tranh như Dinh Độc lập, Tòa Đại sứ Mỹ, Đài Phát thanh, sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh Hải quân,... Các lực lượng chính trị, võ trang của các đoàn thể, cơ sở quần chúng cách mạng ở thành phố đã phối hợp với lực lượng Biệt động Thành và lực lượng các tiểu đoàn mũi nhọn, lực lượng chủ lực tấn công địch bằng nhiều hình thức linh hoạt, đã tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch. Hết trích. Trích: Quần chúng nhân dân trên khắp các mặt trận nổi dậy có tổ chức, với khí thế quyết tâm cao, đặc biệt là tại thành phố Huế, quần chúng đã hăng hái tham gia vào các lực lượng chiến đấu, phục vụ chiến đấu trong thành phố. Với 26 ngày đêm chiếm giữ thành phố Huế, thắng lợi của quân dân ta là nguồn cổ vũ to lớn, thúc giục các đơn vị lực lượng vũ trang và nhân dân trên khắp các chiến trường tiến công và nổi dậy, tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ, làm chấn động mạnh mẽ đến bọn đầu sỏ Mỹ-Ngụy. Tiến công và nổi dậy kết hợp chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau; các chiến trường đô thị, nông thôn và miền núi tạo điều kiện cho nhau trong thế trận liên hoàn cùng tiến công địch. Hết trích. Tại Huế, sau khi chiếm được một nửa thành phố và vài quận ngoại ô, Cộng sản Hà Nội đưa các tên nằm vùng ra thành lập các tổ chức hành chánh và ra lệnh cho những tên nầy truy lùng, chém giết những người mà chúng cho là có nợ máu cũng như tất cả quân-cán-chính được phép vế ăn Tết với gia đình trong thời gian hưu chiến. Chúng tập trung dân lành để tổ chức đấu tố, bắt làm tù binh, bắn giết và chôn sống họ trong một thời gian ngắn, sau đó thì phải đâm đầu tháo chạy rút lui. Trong trường hợp quân Cộng sản Bắc Việt chiếm được Huế thêm một thời gian nữa, vùng đất giữa hai tỉnh Thừa Thiên Quảng Trị nằm vào tay chúng, thì không biết Quân Cộng sản sẽ còn giết hại biết bao nhiêu người nữa! Cứ thử tính thành phần quân-cán-chính, vợ con và thân nhân gia đình của họ thì sẽ có ngay con số. Vậy Cộng sản đã làm được gì ở mặt trận lớn nhất nầy theo bài viết huênh hoang mà tôi trích đoạn ở phần trên ? Thành tích sáng giá nhất là phá sập cầu Tràng Tiền để ngăn chận hướng tiến quân của QLVNCH và Đồng Minh. Bắn sập nhà thờ, phá hoại Đại nội, cướp của giết người, ăn cắp tài sản quốc gia và thảm sát bằng cách bắn vào đầu, đóng cọc thân người từ dưới lên trên, trói tay chôn sống tập thể gần 3000 người dân vô tội. Đây là thành tích để đảng Cộng sản tổ chức những bữa tiệc Máu ăn mừng 40 năm chiến thắng Mậu Thân ! Trích: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 cho thấy vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong việc phối hợp với các lực lượng vũ trang thực hiện nhiệm vụ tiến công tiêu diệt địch, giành quyền làm chủ. Nhân dân miền Nam đã tạo ra một thế trận tiến công thường xuyên và hiểm hóc trên cả chính diện và sau lưng địch, thực hiện bám trụ tại chỗ, “một tấc không đi, một ly không rời”, đánh địch khắp nơi, hãm chúng vào thế bị động, lúng túng, tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng vũ trang tiến công địch. Cuộc nổi dậy, chiến đấu rộng khắp của nhân dân miền Nam thực sự là chỗ dựa, nguồn tiếp sức và là lực lượng phối hợp để các đơn vị chủ lực đánh những đòn quyết định. Nhiều đơn vị chủ lực của lực lượng vũ trang ta bí mật đứng vững ngay tại cửa ngõ các đô thị lớn Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng... làm cho địch bị bất ngờ. Điều đó có được, trước hết là các đơn vị lực lượng vũ trang ta đã có chỗ dựa là lòng dân, đã dựa chắc vào lòng dân, vào “thế trận lòng dân”, vào các tổ chức đảng và cơ sở cách mạng ở các địa phương. Đây là nhân tố đặc biệt quan trọng bảo đảm cho các đơn vị lực lượng vũ trang hoàn thành nhiệm vụ tiến công địch. Không dựa vào lực lượng của nhân dân mà chỉ dựa vào lực lượng vũ trang, chỉ sử dụng các biện pháp quân sự, thì sẽ khó khăn trong việc giải quyết các tình huống, dễ dẫn đến tổn thất. Hết trích. Các trận đánh từ Quảng Trị vào đến các tỉnh cuối cùng của Miền Nam đều do bộ đội chính quy từ Bắc vào tham chiến. Quân đề cập trong hai bài trên là những tên du kích mang danh Mặt Trận Giải Phóng đều do lính Bắc Việt đội lốt và dân là những thằng nằm vùng (anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường-Hoàng Phủ Ngọc Phan và hai tên Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khoa Điềm….) cầm đầu bọn đầu trâu mặt ngựa và những tên bất hảo được Cộng sản thả ra từ các nhà tù. Chúng đi lục soát, bắt bớ tập trung dân chúng rồi dẫn đi thủ tiêu. Dân chúng Miền Nam vừa nghe Việt Cộng tấn công đã bỏ nhà, bỏ ruộng vườn, tài sản, bồng bế nhau liều mạng đạp lên nhau để chạy trốn. Hình ảnh rõ ràng nhất là cảnh dân chúng Quảng trị chạy trốn Cộng sản trên quốc lộ 1 năm 1972 và dân trên Cao Nguyên bỏ Pkeiku tháo chạy khi hay tin Quân Đoàn II rút về Quy Nhơn năm 1975. Nếu nói dân chúng đồng loạt tiến công thì tại sao Cộng sản phải xử dụng súng đạn lùa dân tập trung để tuyên truyền tại những vùng chúng nó vừa tạm chiếm? Tại sao Cộng sản phải lục soát, vào từng nhà ép buộc dân chúng tập trung, trói tay chân rồi dẫn đi để cản đường truy kích của QLVNCH cũng như để tránh bom, đạn pháo của Không quân và Pháo Binh Việt-Mỹ? Tại sao dân chúng các vùng quê không đứng lên theo bộ đội Cộng sản mà liều chết vượt lằn đạn để chạy qua vùng kiểm soát của VNCH? Nói láo một cách trắng trợn thì chỉ bịp được những người Miền Bắc hoặc đối với ai chưa bao giờ nghe, biết và thấy những gì trong miền Nam Tự Do. Trong số nầy cũng phải kể đến những người vừa lớn lên đã bị Cộng sản bưng bít nhồi sọ, nhuộm đỏ từ lúc vừa biết nói hoặc những tên trí thức trốn quân dịch, chạy chọt ra nước ngoài du học rồi ăn phải bã Cộng sản đến ngày hôm nay vẫn chưa sáng mắt. Tôi dẫn chứng bằng cách lặp lại lời phát biểu che dù cho Cộng sản Việt Nam của ông Bùi Tín nhân vụ Tết Mậu Thân : Để tránh xóa tên đơn vị, bộ đội chính quy bắt buộc phải rút khỏi thành phố Huế sau mấy tuần lễ chiếm đóng. Các đơn vị phải tháo chạy và buộc lòng phải giết những người bị bắt theo để trút bớt gánh nặng! Như vậy, có hai điểm quan trọng: Thứ nhất, Cộng sản sau vài tuần chiến được Huế đã bị QLVNCH và Đồng Minh đánh bại, bắt buộc phải rút quân tháo chạy nhưng vẫn bắt theo dân để cản đường, cản pháo và máy bay oanh kích của QLVNCH và Đồng Minh. Thứ hai, chứng minh một cách hùng hồn rằng không một người nào nổi dậy ủng hộ và chạy theo Cộng sản trong biến cố Mậu Thân tại Huế. Chỉ có mấy tên đồ tể như HPNT-HPNP-NĐX-NKĐ với bọn đầu trâu mặt ngựa thi hành lệnh lùng bắt, thủ tiêu và sát hại dân lành bám theo chân Cộng sản chạy ra Bắc thoát thân. Như vậy đâu có thể gọi là Miền Nam đứng dậy tổng khởi nghĩa theo tuyên truyền của cái ‘đỉnh cao trí tuệ’ mà CSVN thường vỗ ngực huênh hoang! Viết đảo ngược sự việc trắng trợn như vậy rồi bắt dân chúng học tập thì lối tuyên truyền nầy chỉ tìm thấy độc nhất ở loài khỉ, nơi được mệnh danh là ‘cái nôi của nhân loại’ mà thôi!!! 2. Kết quả của một cuộc tổng nổi dậy: Trích: Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968, quân và dân miền Nam phải đương đầu với bộ máy chiến tranh khổng lồ của Mỹ và ngụy quyền tay sai, với lực lượng quân có khoảng 1.200.000 quân (quân Mỹ khoảng 542.000, quân các nước phụ thuộc Mỹ khoảng 57.000) và nhiều vũ khí, trang bị, phương tiện chiến tranh hiện đại. Hết trích. Quân Bắc Việt xâm nhập vào thành phố một thời gian ngắn và chiếm được một vài căn cứ quân sự, hành chánh nhưng đã bị đẩy lui liền ngay sau đó. Hà Nội điều động quân số tham chiến cấp sư đoàn, bộ đội chính quy Bắc Việt tập trung tại một vài mặt trận lớn như Sài Gòn, Huế. Lợi dụng thời gian hưu chiến, chúng xâm nhập vào Sài Gòn trong lúc các đơn vị cơ động thiện chiến của QLVNCH đang có mặt tại mặt trận Khe Sanh, quân đồn trú thì đang nghỉ phép sum họp với gia đình. Cộng sản Bắc Việt dùng quân du kích với chiến thật cảm tử đã chiếm được đài phát thanh Sàigon và một cổng ra vào của Bộ Tổng Tham Mưu trong lúc hai đơn vị nầy được bảo vệ bởi một số quân phòng thủ tượng trưng. Đối với các đơn vị khác của QLVNCH và Đồng Minh thì phiến quân Cộng sản bị đánh bật ra tức khắc. Vậy mà ngụy quyền Hà Nội với trò bịp bợm cố hữu, chúng đã viết láo lếu theo các tài liệu dẫn chứng trên. Tại các quận ly hẻo lánh, Cộng sản dùng pháo bắn xối xả vào chỗ đông người, ai còn sống sót thì bồng bế nhau chạy giặc. Thành tích cuộc tổng nổi dậy do Cộng sản Hà Nội dựng nên là trên 14 ngàn thường dân Miền Nam vô tội và quân cán chính đang nghỉ phép bị giết. Những nơi nào quân Cộng sản ‘tổng nổi dậy’ thì có đổ nát, máu chảy, tang thương, chết chóc. Cả trăm ngàn gia đinh từ Quảng Trị vào đến Cà Mau không còn nơi nương tựa, nhà cửa điêu tàn, vợ mất chồng, con mất cha… tất cả là thành công vĩ đại của già Hồ và bè lũ gây ra. Thêm một điểm quan trọng mà tôi muốn nhấn mạnh ở đây là Cộng sản thường dùng thủ đoạn thí quân và lấy dân chúng làm bia đỡ đạn. Xung phong đánh đồn thì thí quân, làm hàng rào cản thì dùng dân. Muốn dứt điểm một nơi đồn trú, Cộng sản không thương xót dùng chiến thuật bao tử (bỏ đói) rồi ra lệnh cho đám ‘lính sữa’ phải ôm súng tiến lên, băng bãi mìn, phá rào kẽm để chiếm thực phẩm! Muốn cản họng súng của QLVNCH và Đồng Minh thì lùa dân ra phía trước, vì người quốc gia không bao giờ đưa súng hạ sát thường dân vô tội hoặc kẻ thù đưa tay đầu hàng hay trong tay không có khí giới. Hai bài viết dẫn chứng trên cũng như giọng điệu của Bùi Tín đã chạy tội cho Cộng sản rằng đảng không chủ trương giết hại dân lành là hoàn toàn láo khoét! Tôi nhắc cho Bùi Tín hay: sau trận Mậu Thân ở Huế, một ủy viên huyện ủy Quận Phú Vang (Thừa Thiên) tên Hồ Ty, bí danh Sơn Lâm, đã bị bắt; và trong cuộc thẩm vấn, tên nầy đã khai rằng việc thảm sát thủ tiêu tất cả dân lành vô tội bị dẫn đi trong dịp nầy là do lệnh của Quân Ủy Trị-Thiên-Huế. Vậy đây là lệnh của đảng Cộng sản, phải không ông Cộng sản nằm vùng? Trong thời gian đi tù Cộng sản tại trại KàTum, một quản giáo trong lúc nổi nóng đã phun ra trước mặt tôi và anh em tù cải tạo một câu đáng ghi vào lịch sử như sau: “Các anh may mắn được Cách mạng khoan hồng tha tội chết, vào đây thì phải biết ăn năn, học tập tốt để sớm trở về sum họp với gia đình. Tôi nói cho các anh biết, nếu năm Mậu Thân chúng tôi thắng trận thì ba triệu Ngụy Quân Ngụy Quyền và gia đình đã bị giết theo lệnh của Hồ Chủ Tịch!” Nếu cho rằng muốn thắng trận thì trong chiến tranh đôi lúc phải xử dụng thủ đoạn, nhưng đối với trò xảo quyệt của Cộng sản thì không thể tha thứ khi chúng chủ trương dùng xương máu thuộc cấp hay của dân lành để đạt cho bằng được mục tiêu. Đây là một hành động dã man vô nhân đạo khi già Hồ thí gần một trăm ngàn (theo tài liệu của Cộng sản vô tình tiết lộ - nhưng theo thống kê của VNCH thì chưa đến con số nầy) ‘bộ đội trẻ con miệng còn hôi sữa’ từ Miền Bắc bị xua vào Miền Nam để cướp chính quyền VNCH trong dịp Tết mậu Thân. Một điều ngạc nhiên là hai tài liệu dẫn chứng trên không thấy Cộng sản Hà Nội nêu số quân của QLVNCH bị loại ra khỏi vòng chiến là bao nhiêu, không nêu con số nhà cửa bị đốt phá bắn sập cũng như đã giết được bao nhiêu đồng bào ‘phản động’ tại Miền Nam. Đây không phải là một chuyện lạ đối với cái loa tuyên truyền của Cộng sản, vì chúng không dám đưa ra sự thật về sự thất bại cũng như tội ác mà chúng đã gây ra. 3. Qua ‘những gì Cộng sản đã làm’, Hà Nội còn liêm sỉ để kêu gọi Hòa Giải Hoà Hợp nữa hay không? Trích: Đảng ta đã huy động được mọi nguồn lực, sức mạnh của nhân dân, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tiến hành chiến tranh nhân dân; kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự, binh vận, ngoại giao; phát huy sức mạnh thời đại, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ to lớn của quốc tế, nhất là Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, cùng nhân dân tiến bộ Mỹ và các lực lượng tiến bộ trên thế giới, tạo nên sức mạnh tổng hợp của quân và dân ta trong đấu tranh, góp phần quyết định cho thắng lợi trọn vẹn. Hết trích. Đây là một điểm then chốt xin nhắn gửi đến những ai vô tình hay cố ý muốn bắt tay với CS theo chiều hướng Hoà giải Hòa hợp Dân tộc. Là Người Việt da vàng máu đỏ, cùng một bọc trứng chui ra thì giận hờn nào cũng phải nguôi, căm thù nào cũng phải xóa bỏ sau 33 năm chấm dứt chiến tranh. Nhưng Cộng sản Việt Nam, trước mặt chúng kêu gọi quên đi khá khứ xích lại gần nhau để xây dựng đất nước nhưng sau lưng chúng đã làm gì? Và đây là thiện chí của Cộng sản Việt Nam: - Cầu cạnh Mã Lai và Nam Dương đục xóa các bia tưởng niệm thuyền nhân bỏ mình trên biển cả, như vậy chứng tỏ Cộng sản Hà Nội vẫn còn hận thù những người đi tìm tự do. Các tượng bia tưởng niệm tuy chỉ là những vật vô tri giác, nằm trên những quốc gia xa hàng ngàn số vẫn không thoát khỏi sự thù vặt của tập đoàn Cộng sản, thì đối với những người còn sống, ngụy quyền Cộng sản Hà Nội còn căm thù và tìm cách phá hoại đến độ nào! - Đào xới, đập nát các nghĩa trang, nơi yên nghỉ của những người con thân yêu của Việt Nam Cộng Hòa Tự Do là một hình thức đập vào tâm hồn và thể xác thân nhân của người đã nằm xuống, đập vào con tim đang rướm máu của nhân dân Miền Nam, thì thử hỏi còn gì để Cộng sản có thể nói chuyện tình cảm với người Việt Tự Do! Chết là hết! Dù là ai, một khi nằm xuống cũng phải được tôn trọng, đó là quan niệm của những người dưới chế độ tự do được hấp thụ bởi một nền văn hoá nhân bản. Muốn gì thì Cộng sản hãy tỏ một chút thiện chí trước khi mở miệng nói chuyện bắt tay với nhau. Tôi nghĩ rằng đầu óc của những người trong Bộ chính trị quá thiển cận, ù lì, hoặc thiếu hẳn một chút liêm sĩ tối thiểu khi đưa vấn đề hòa giải hòa hợp ra kêu gọi người Việt tự do hải ngoại. - Ngụy quyền Hà Nội chi hàng tỷ ngoại tệ vào chương trình phá rối Cộng đồng thì đúng là trò khốn nạn: một mặt ve vuốt, một mặt đâm sau lưng cộng đồng người Việt hải ngoại. Những người bỏ xứ ra đi đều biết rõ ngọn ngành dối trá, đểu cáng của tập đoàn Cộng sản Việt Nam. Hãy dẹp ngay những bảo tàng viện tội ác Mỹ-Ngụy đang trưng bày cho dân chúng và du khách vào xem tại Hà Nội và các thành phố lớn. Đồng thời hãy bỏ hẳn những chương trình giáo dục nhồi sọ trẻ thơ gây căm thù với chế độ cũ qua sách báo và nhất là các tài liệu giáo khoa tại các trường từ mẫu giáo lên đến đại học. Có làm được những vấn đề nầy trước xong rồi hãy nói chuyện khác. - Năm Mậu Thân 1968, già Hồ và bè lũ trung ương đảng Cộng sản tráo trở thỏa ước hưu chiến để kéo quân vào cướp nước giết hại hàng chục ngàn đồng bào vô tội bằng những cuộc thảm sát dã man, mọi rợ. Bây giờ đã 40 năm, Hà Nội vẫn cho lệnh cả nước ăn mừng chiến thắng, khác gì đảng Cộng sản tổ chức tiệc MÁU khiêu khích nhân dân Miền Nam và Cộng đồng người Việt hải ngoại… thì đừng hòng nói chuyện ‘xóa bỏ quá khứ bắt tay hòa giải hòa hợp dân tộc’! Để kết thúc bài viết tôi xin gởi đến tất cả mọi người một câu nói đã đi vài lịch sử: Đừng nghe những gì Cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng sản làm. (lời của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu). Paris 20.02.2008
"Hội chứng Việt Nam" David Warren Vi phạm sự thỏa thuận ngừng bắn dịp Tết hàng năm, để tạo sự bất ngờ, du kích Việt cộng miền Nam và quân Việt cộng chính quy miền Bắc đã phát động chiến dịch Tổng công kích Tết Mậu Thân vào đêm 30 rạng ngày 31-01-1968, danh xưng được đặt theo năm mới âm lịch của Việt Nam. Chiến dịch này được tiếp tục dưới nhiều hình thức khác nhau cho suốt đến tháng Chín năm đó, chấm dứt trong một sự thảm bại hoàn toàn về mặt quân sự cho những kẻ hiếu chiến. Và một sự tuyên truyền thắng lợi tuyệt vời, cũng cho những kẻ giống như vậy. Suy nghĩ lại cuộc chiến tranh Việt Nam này vào tuần trước. Và trong khi tôi đang làm như vậy, thì một người bạn trẻ thiên tả đã viết cho tôi, về một đề tài hoàn toàn không liên quan, trêu chọc tôi với một câu nói về năm 2008 là “Năm cuối cùng của Ðế quốc Mỹ”, như thể là nó đã bắt đầu và chấm dứt với George W. Bush. Anh ta có vẻ như không muốn biết về câu hỏi: Cái chỗ trống đó sẽ được trám vào bởi đế quốc của ai ? Người bạn tôi không bao giờ nghĩ rằng anh ta là một kẻ thiên tả, mà chỉ là một người với “đầu óc cởi mở”. Chúng tôi cùng đồng ý về điều đó, nhưng định nghĩa chữ “cởi mở” thì khác nhau, như đối với tôi, một cái đầu mà không có một bộ óc bên trong thì hoàn toàn rỗng tuếch. Cho thêm vào bộ óc, hay nói một cách chính xác hơn là cho thêm bộ óc vào để xử dụng, thì bộ óc có thể giúp chống đỡ cho việc bị nhồi nhét vào đầu những điều phi lý. Bây giờ thì 40 năm đã trôi qua, 40 năm mà có người sẽ mô tả một cách điển hình như 40 năm của cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân chống lại nền văn minh Tây phương. Phương Tây đang đạt những thành quả khả quan trên chiến trường: chúng ta vẫn chưa thua một cuộc chiến thuần tuý quân sự nào với bất cứ kẻ thù nào của phương Tây. Quay ngược về quá khứ xa xôi, ngay cả người Pháp đã không thua cuộc chiến tại Algeria. Ðúng ra, Charles de Gaulle đã quyết định rằng cuộc chiến đó không còn giá trị để tiếp tục chiến đấu. Cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân là một trò tuyệt vọng của cộng sản tại Việt Nam. Hàng trăm ngàn quân cùng một lúc được ném vào hơn 100 thành phố, thị xã và tại trung tâm Sài Gòn của miền Nam Việt Nam. Những người cộng sản đã thông báo một cuộc tổng nổi dậy, nhưng điều đó đã không xảy ra. Cán cân đã thực sự nghiêng trong vòng vài ngày về phía quân đội Hoa Kỳ và quân đội miền Nam. Trong khi tái chiếm lại từng thành phố thị xã một, họ đã khám phá ra nhiều vụ thảm sát mà Việt cộng đã gây ra trong lúc chiếm đóng. Mục tiêu thật sự của cộng sản là nhằm cắt đứt toàn bộ đầu não của cả một xã hội Ông bạn tôi, Uwe Siemon-Netto, là một nhà truyền giáo Tin Lành người Ðức và đồng thời là một ký giả kỳ cựu, đã có mặt ở đó trong vai trò một phóng viên. Ði vào Huế khi khói lửa đang lắng xuống: “Tôi tìm lối đến khu ký túc xá đại học để tìm tin tức về những người bạn của tôi, những giáo sư người Ðức tại trường đại học y khoa Huế. Tôi được biết là tên tuổi của họ đã nằm trên một danh sách bao gồm khoảng 1,800 cư dân Huế bị liệt kê để thủ tiêu.” “Sáu tuần lễ sau đó, thi thể của các bác sĩ Alois Altekoester, Raimund Discher, Horst-Guenther Krainick, và bà vợ của bác sĩ Krainick là Elisabeth, đã được tìm thấy tại các nấm mồ lộ thiên mà họ đã bị buộc phải tự đào lấy cho chính mình. “Rồi thì nhiều ngôi mộ tập thể khổng lồ của phụ nữ và trẻ em được tìm thấy. Hầu hết đều bị đập vỡ đầu cho đến chết, một số thì bị chôn sống. Quý vị có thể nhận biết điều này từ các bàn tay được cắt, đánh bóng và sơn móng thật đẹp đẽ của các phụ nữ cố gắng cào bới để chui ra khỏi các nơi họ bị chôn sống." “Khi chúng tôi đứng tại một địa điểm như vậy, thì phóng viên thường trực Peter Braestrup của báo Bưu điện Hoa Thịnh Ðốn (Washington Post) đã hỏi một chuyên viên thu hình của một đài truyền hình Hoa Kỳ: “Tại sao anh không thu hình những cảnh này?”, anh ta trả lời: “Tôi không đến đây để reo rắc tuyên truyền chống CS”. Cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân chấm dứt không chỉ là một thắng lợi to lớn cho phe Đồng minh trên chiến trường: khoảng 45,000 bộ đội Cộng sản bị tiêu diệt, và toàn bộ cơ sở hạ tầng của họ bị phá huỷ. Ðó là một chiến thắng mà sau khi biến cố đó xảy ra đã chứng tỏ cho những người dân miền Nam còn nghi vấn về CS, và đáng lẽ cho cả thế giới thấy bản chất của kẻ thù mà những Đồng minh của chúng ta đã chiến đấu chống lại. Ông Walter Cronkite, người đọc tin tức nổi tiếng của đài truyền hình CBS, đã khơi mào sự phản ứng của giới truyền thông Hoa Kỳ. Sau một chuyến thăm viếng rất ngắn ngủi đến Sài Gòn, nơi mà ông đươc thu vào phim ảnh lúc đang mặc áo chống đạn, khi trở về Hoa Kỳ đã tuyên bố trước một khối lượng khán giả đông đảo vào giờ truyền hình cao điểm: “Càng lúc càng rõ ràng cho kẻ tường thuật này thấy rằng lối thoát hữu lý duy nhất sẽ là thương lượng, không phải như những kẻ chiến thắng, nhưng như là một người có danh dự đã thực hiện lời hứa của họ để bảo vệ nền dân chủ, và họ đã làm những gì tốt nhất có thể làm được”. Giới truyền thông Mỹ đã biến một chiến thắng tuyệt vời thành một thảm bại to lớn. Nhưng phải thêm 7 năm nữa trôi qua cho đến khi Hoa Kỳ, đến lúc đó đã bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa, và một Quốc Hội, đã cắt đứt hoàn toàn viện trợ quân sự cho người miền Nam, nhìn trực thăng di tản những người phục vụ đầy tin tưởng cuối cùng của Hoa Kỳ khỏi nóc Tòa Ðại sứ cũ tại Sài Gòn. Quân đội miền Nam Việt Nam đã đầu hàng, sau một cuộc Tổng công kích khác, vì họ đã cạn sạch đạn dược. Chúng ta đã nhìn thấy cái bài bản to lớn về “hội chứng Việt Nam” này, qua những năm tháng lẫn lộn. Chúng ta thấy nó ngày hôm nay tại A Phú Hãn và Iraq. Người La mã cũng đã thắng trên tất cả các bãi chiến trường.. The Ottawa Citizen, 03/02/08
40 năm sau Tết Mậu Thân Hồi ký của một cựu quân nhân Mỹ David T. Zabecki - Chính Tâm chuyển dịch Thật khó tin rằng 40 năm đã trôi qua kể từ cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân (TTCTMT). Đối với chúng tôi, những người đã trải qua thời điểm đó, cái cảm giác nhận được lệnh báo động vào lúc nửa đêm về sáng ngày 31-01-1968 dường như mới vừa xảy ra hôm qua thôi. Những diễn biến lớn đang tới. Hầu như tất cả các tướng lãnh và quan chức cấp cao đều cảm nhận được sức nóng. Nhưng đối với những người lính chúng tôi, mọi chuyện chỉ đơn giản là thu xếp quân trang, quân dụng rồi di chuyển. Câu chuyện dài về TMT thực sự bắt đầu từ tháng 7-1967, khi một viên tướng hàng đầu của Quân độ Bắc Việt (QĐBV) qua đời tại một bệnh viện quân y ở Hà Nội. Trong vòng nhiều năm, cái chết của Đại Tướng Nguyễn Chí Thanh luôn được giải thích là do bom B52 dội trúng khu chỉ huy của ông tại Miền Nam Việt Nam (MNVN). Tuy nhiên, những bằng chứng gần đây cho biết nguyên nhân chết của ông không liên quan đến chiến sự. Cho dù là vì nguyên nhân nào đi chăng nữa, cái chết của Tướng Thanh vào thời điểm đó đã có tác động to lớn tới những quyết định của Chính quyền Bắc Việt (CQBV) dẫn tới TTCTMT và sau đó là kết cục bi thảm của cuộc chiến này. Tướng Thanh là Tổng Tư lệnh của QĐBV tại miền Nam. Ông là một trong hai tướng bốn sao duy nhất của QĐBV vào thời điểm đó, cùng với Bộ trưởng Quốc Phòng Võ Nguyên Giáp. Đồng thời, ông nắm một quyền lực chính trị với 17 năm là thành viên trong Bộ Chính Trị (BCT) – cơ quan nắm quyền lãnh đạo của BV. Thêm vào đó, Tướng Thanh luôn là người phản đối chính sách đối đầu trực tiếp với quân Mỹ của Tướng Giáp. Nhưng tiếng nói đối lập đó giờ đã không còn cơ hội cất lên. Ngay lập tức sau lễ Quốc Tang ngày 7-7-1967 dành cho Tướng Thanh, BCT nhóm họp để cân nhắc kế hoạch táo bạo của Tướng Giáp muốn đẩy nhanh cuộc chiến tới thắng lợi cuối cùng. Vào thời điểm này, diễn biến cuộc chiến vẫn đang theo chiều hướng bất lợi cho phía CS. Kể từ sau trận chiến đẫm máu tại thung lũng Ia Drang năm 1965, QĐBV cũng như lực lượng du kích VC (Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam - MTDTGPMNVN) của Tướng Thanh ở miền Nam hứng chịu thất bại trong tất cả các cuộc đương đầu với quân Mỹ. Tướng Thanh luôn cho rằng thật điên rồ khi cố gắng đương đầu trực tiếp với hỏa lực vượt trội và tính cơ động của quân Mỹ. Ông muốn thu nhỏ quy mô các chiến dịch, thay vào đó tiến hành phương thức chiến tranh du kích trường kỳ, từng bước bào mòn ý chí chiến đấu của người Mỹ. Tuy nhiên, Tướng Giáp –người hùng Điện Biên Phủ 13 năm về trước– lại muốn làm nên một kỳ tích nữa bằng việc nhanh chóng đánh quỵ quân lực Mỹ. Sau khi Tướng Thanh chết, đã không còn tiếng nói đối lập nào với Tướng Giáp trong BCT. Chìa khóa dẫn đến kế hoạch của Tướng Giáp là ý tưởng “Tổng Tiến Công” sao chép từ học thuyết của CS Trung Quốc. Một “Cú Đấm kép” được chờ đợi tung ra khi “Tổng Tiến Công” kéo theo “Tổng Nổi Dậy”, người dân MNVN sẽ đồng loạt đứng lên đi theo lý tưởng CS và lật đổ chính quyền Sài Gòn. Ý tưởng “Tổng Nổi Dậy” là một nét riêng biệt của Việt Nam trong học thuyết cách mạng. Kế hoạch của Tướng Giáp được dự đoán sẽ thành công dựa trên ba giả định: thứ nhất, quân đội VNCH sẽ bị bất ngờ, không kịp trở tay và sụp đổ trước “Tổng Tiến Công”; thứ hai, người dân MNVN sẽ đồng khởi đứng lên, đi theo CS và tạo nên cuộc “Tổng Nổi Dậy”; và thứ ba, choáng váng vì những đòn tấn công bất ngờ, quyết tâm bám trụ chiến trường Việt Nam của người Mỹ sẽ bị bẻ gãy. Thời điểm của cuộc TTC được ấn định vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968. Tết luôn là dịp lễ quan trọng nhất trong năm của người Việt Nam mà người phương Tây khó có thể hiểu được tầm quan trọng của nó. Tết giống như dồn tất cả những dịp lễ Giáng Sinh, lễ Tạ Ơn, Ngày Độc Lập 4-7 và ngày sinh nhật của bạn vào làm một. Công việc xây dựng kế hoạch cũng như phương thức tiến hành TTCTMT của Tướng Giáp là một kiệt tác về mưu mẹo đánh lừa trong binh pháp chiến tranh. Những chỉ dẫn của ông được gửi xuống từng đơn vị ngoài mặt trận, nhưng thời điểm chính xác và các mục tiêu cụ thể của mỗi đơn vị được giữ kín đến tận phút chót. Bắt đầu từ mùa thu năm 1967, Tướng Giáp liên tiếp tổ chức những trận đánh đẫm máu nhưng có vẻ vô nghĩa tại các khu vực biên giới và những vùng phía Bắc MNVN giáp Khu Phi Quân Sự (PQS). Ngày 29-10, Trung đoàn 273 của VC (MTDTGPMNVN) tấn công quận lỵ Lộc Ninh, nằm trong khu vực được gọi là “Lưỡi câu” phía Tây Bắc Sài Gòn. Ngày 23-11, Trung đoàn 4 QĐBV mở một cuộc tấn lớn vào Dak To. Đầu tháng 1-1968, nhiều sư đoàn QĐBV tập trung bao vây tiền đồn quân sự đơn độc của TQLC Mỹ tại Khe Sanh, gần Khu PQS. Tất cả những cuộc tấn công này đều nằm trong “chiến dịch ngoại vi” của Tướng Giáp nhằm kéo giãn các đơn vị quân Mỹ ra khỏi các khu vực thành thị và đẩy họ về phía biên giới. Phần lớn các trận đánh do QĐBV tiến hành, trong khi các đơn vị VC của MTDTGPMNVN di chuyển vào các vị trí sẵn sàng cho cuộc TTC, thu mình củng cố kho quân nhu và tập luyện chuẩn bị chiến đấu. Sau cuộc tấn công của Trung đoàn 273 của VC tại Lộc Ninh, những tài liệu thu giữ được từ tù binh CS đã tiết lộ mục đích của trận đánh này nhằm giúp VC tích lũy kinh nghiệm chiến đấu. Giới lãnh đạo CS muốn lợi dụng giai đoạn ngừng bắn trong dịp Giáng Sinh 1967 để trục lợi. Các tướng lãnh cao cấp của họ lợi dụng lệnh ngừng bắn để tiến hành thăm dò những mục tiêu đã được ấn định. Kế hoạch đó được tiến hành nhằm chơi canh bạc lớn của Tướng Giáp vào những ngày đầu năm 1968. *** Cuộc TTCTMT đã đạt được thành công về mặt chiến lược khi gây được bất ngờ, cho dù thất bại ở mức độ chiến thuật khi tình báo Mỹ đã phát hiện ra kế hoạch tấn công trong dịp nghỉ lễ. Trung Tướng Fred Weyland, tư lệnh Quân đoàn II của Mỹ và là cựu sỹ quan tình báo trong Thế Chiến II, đã dự báo những biến động trên quy mô lớn có thể sắp xảy ra. Ông thuyết phục Đại Tướng William Westmoreland cho tái triển khai 13 tiểu đoàn dưới quyền của mình áp sát Sài Gòn vào giữa tháng 1-1968. Kết quả là lực lượng quân Mỹ không hoàn toàn bị bất ngờ khi cuộc tấn công nổ ra. Các trận chiến trên khắp lãnh thổ MNVN đều chấm dứt sau vài ngày; tuy nhiên, tại các địa điểm như Sài Gòn Chợ Lớn, Huế và Khe Sanh, giao tranh kéo dài hàng tuần. Kế hoạch của Tướng Giáp đã thất bại tại hai trong số ba giả định đã nêu phía trước: Người dân MNVN không hề đứng lên đi theo lực lượng CS. Cuộc “Tổng Nổi Dậy” đã không xảy ra, ngay cả ở Huế là nơi quân CS nắm giữ hoàn toàn thành phố trong khoảng thời gian lâu nhất. Quân lực VNCH cũng không hề sụp đổ. Họ bị tấn công dữ dội ở một vài nơi nhưng đã đánh trả rất tốt. Chỉ có một bên chịu thua nặng nhất trong TTCTMT, đó là VC. Các du kích CS ở miền Nam tiến hành những cuộc tấn công chủ yếu, và họ chịu thương vong nhiều nhất. Các cơ sở du kích, được phát triển và hoạt động bí mật trong nhiều năm, giờ đây bị lộ và nhanh chóng bị phá hủy. Kể từ thời điểm này, Chiến Tranh Đông Dương lần thứ hai hoàn toàn chỉ còn do quân MBVN tiến hành. Lực lượng VC (MTDTGPMNVN) không bao giờ còn có thể phát triển trở lại thành một lực lượng mạnh như trước. Khi MNVN sụp đổ vào tháng 04-1975, đó là chiến thắng của các quân đoàn QĐBV. Tuy vậy, kế hoạch của Tướng Giáp đã đúng ở giả định thứ ba khi nhằm vào quyết tâm chiến đấu ở Việt Nam của người Mỹ. Nhân dân khắp thế giới, đặc biệt là người Mỹ, sửng sốt trước sức mạnh tấn công của CS. Những chiến thắng vang dội trên khắp các chiến trường của quân đội Mỹ và quân lực VNCH cũng không thể nào xóa nhòa những hình ảnh chết chóc, thảm khốc khắc sâu trong tâm trí công luận. Vậy là, một mặt người Mỹ buộc Tướng Giáp chấp nhận thất bại đau đớn nhất về mặt chiến thuật, mặt khác lại trao cho ông ta chiến thắng hiển hách nhất về mặt chiến lược. Điều này khiến TTCTMT mãi mãi là một trong mâu thuẫn lớn nhất trong lịch sử những trận chiến mang tính chất quyết định trên thế giới. Quân đội Mỹ bị bất ngờ, nhưng vẫn giành phần thắng. Các tướng lãnh Hoa Kỳ biết rằng quân địch đã bước tới đường cùng, và đây là thời điểm để kết liễu đối phương. TTL Westmoreland và Chỉ huy Bộ Tư lệnh Hỗn hợp Liên quân, Đại Tướng Earle G. Wheeler cùng đưa ra bản yêu cầu tăng viện thêm 206.000 quân nhằm tận dụng sự tan rã hỗn loạn của CS. Kế hoạch này bị nhân viên Nhà Trắng để lộ cho giới báo chí biết và thông tin đến tai công chúng vào ngày 10-3-1968. Công luận Mỹ đồng ý rằng việc tăng quân là cần thiết để phục hồi sau những tổn thất nặng nề, nhưng kèm theo lời buộc tội Chính phủ Mỹ đã lừa dối người dân. Đây là một bước ngoặc về tâm lý chiến. Chưa đầy ba tuần sau, TT Johnson tuyên bố sẽ không tiếp tục ra tranh cử nhiệm kỳ mới. Nhà quân sử học của Mỹ, Thiếu Tướng S.L.A Marshall sau này tổng kết về TTCTMT như sau: “Một chiến thắng huy hoàng bỗng chuyển thành một thất bại đau đớn do những tính toán sai lầm, thiếu can đảm, cố vấn tồi, lụn bại trong lãnh đạo, và làn sóng thất bại trào dâng”. Tuy nhiên, TMT chưa phải là cuộc tấn công gây bất ngờ nhất. Lịch sử quân sự thế giới đầy ắp những cuộc chiến đã đảo ngược từ thua thành thắng nhờ vào canh bạc cuối cùng. Chỉ riêng trong vòng nửa đầu thế kỷ 20 đã có ít nhất ba chiến dịch táo bạo điển hình. Vào tháng 3-1918, quân Đức mở một cuộc tấn công lớn với tên gọi “Chiến Dịch Michael”, còn được biết đến với cái tên khác là “Trận Chiến của Hoàng Đế”. Mục tiêu của chiến dịch là hạ gục và loại bỏ quân Anh khỏi vòng chiến trước khi lực lượng tiếp viện của Mỹ kịp tới nơi và giúp cân bằng thế chiến lược với người Đức. Giống như TMT, thời điểm của cuộc tấn công này không phải là điều quá bất ngờ với Khối Hiệp Ước, nhưng vẫn tạo nên những sóng gió do quy mô và cường độ của trận đánh. Chiến Dịch Michael là một trong những thành công lớn nhất về mặt chiến thuật trong Thế Chiến I, nhưng lại là một thất bại mang tính chiến lược. Người Đức đã thất bại trong mục tiêu phá vỡ ý chí quyết tâm và sự tự tin của Khối Hiệp Ước, và sau cùng cũng chịu thua trong Thế Chiến. Người Đức cố gắng làm điều tương tự vào tháng 12-1944. “Trận chiến Bulge” lần này tưởng chừng hoàn toàn gây bất ngờ, nhưng cuối cùng lại trở thành một thất bại cả về chiến thật và chiến lược, và nước Đức thêm một lần nữa thất bại trong Thế Chiến II. Quân đội Mỹ tiếp tục bị tấn công bất ngờ vào cuối tháng 10-1950. Thời điểm này, sức kháng cự của quân Bắc Hàn giữa vĩ tuyến 38 và sông Yalu tưởng như đã hoàn toàn bị bẻ gãy[1]. Thế nhưng từ ngày 14-10 đến 01-01-1951, Trung Quốc đã đưa được 180.000 quân vượt sông Yalu và hoàn toàn gây bất ngờ khi tấn công Quân đoàn số 8 của Mỹ. Chiến dịch này đem lại thành công trên cả hai phương diện chiến thuật và chiến lược, và kết quả là bán đảo Triều Tiên vẫn còn chia đôi đến tận ngày nay. Bốn chiến dịch đã nêu là bốn ví dụ tiêu biểu cho những cuộc tấn công táo bạo, những canh bạc cuối cùng đem lại thành công hay thất bại về mặt chiến thuật hay chiến lược. Chẳng hạn như Chiến dịch Michael cho thấy thành công về mặt chiến thuật nhất thời không đảm bảo cho thắng lợi chiến lược cuối cùng. Bài học rút ra ở đây là sự đánh giá cuối cùng về một chiến dịch, coi đó là thắng lợi hay thất bại, thường không được quyết định bởi bên bị tấn công. Giống như Napoleon đã từng nói: “Trong chiến tranh, sức mạnh tâm lý gấp ba lần sức mạnh thể chất”[2]. Trong tương lai, chúng ta nên nhớ kỹ bài học này. Bảng so sánh thành công và thất bại của hai phía trong TTCTMT Thành công Thất bại Bắc Việt Thành công mặt chiến lược: 1. Huy động được lực lượng lớn QĐBV và du kích thuộc MT DTGPMNVN đồng loạt “Tổng Tiến Công” khắp các chiến trường miền Nam. Khiến cho những tuyên bố tự tin của TT Mỹ Johnson về 1 chiến trường Việt Nam đã được bình ổn trở thành trò cười. Biến TT John-son trở thành kẻ nói dối trong mắt người dân Mỹ và thế giới, không còn dám ra tái tranh cử. 2. Những hình ảnh ác liệt, thảm khốc của cuộc chiến (du kích VC bị xử tử trên đường phố Sài Gòn, đánh chiếm ĐSQ Mỹ, máu lửa hoang tàn khắp nơi, vụ thảm sát dân làng Mỹ Lai…) khiến nhân dân Mỹ và thế giới phẫn nộ đòi Mỹ rút quân, tác động đến quyết định rút quân sau này của chính quyền Mỹ. 3. Coi cuộc TTCTMT là chiến thắng vang dội, tạo đà tâm lý chiến – sức mạnh tinh thần để tiếp tục chiến đấu đi tới thắng lợi cuối cùng năm 1975. Thất bại mặt chiến thuật: 1. Kế hoạch đã bị lộ. Không thể lấy tấn công bất ngờ để bù đắp sự thua kém về quân lực. 2. Sai lầm khi đánh giá thấp về quân lực VNCH, không thể đánh sụp quân đội VNCH. Ngược lại còn bị tổn thất nặng nề (tử trận 58.000 trên tổng số 84.000 quân tham gia, gấp gần 6 lần so với khoảng 10.000 tử trận của đối phương). 3. Nhận định sai khi tin rằng nhân dân MNVN sẽ đứng lên đi theo CS. Ngược lại, đã không có “Tổng Nổi Dậy” nào xảy ra. 4. Các căn cứ, cơ sở hoạt động bí mật của du kích thuộc MTDT GPMNVN bị lộ và bị triệt tiêu hoàn toàn, phải xây dựng lại từ đầu. Kể từ đây, công việc chiến đấu chỉ còn do QĐBV tiến hành, hầu như không còn sự giúp đỡ của MTDTGPMNVN. VNCH và Mỹ Thành công mặt chiến thuật: 1. Phát hiện được kế hoạch TTC, có phương án chuẩn bị sẵn sàng đối phó. 2. Chuẩn bị sẵn sàng, chiến đấu tốt, cộng thêm hỏa lực mạnh hơn hẳn nên đã nhanh chóng bẻ gãy các đợt tấn công, quét sạch và đẩy lui quân địch ra khỏi các vùng lãnh thổ MN VN. Con số tử trận chỉ bằng khoảng 1/6 số lượng tử thương của đối phương. 3. Phát hiện và triệt tiêu được các cơ sở du kích VC hoạt động bí mật tại MNVN. 4. Người dân MNVN không “Tổng Nổi Dậy” đi theo CS. Thất bại mặt chiến lược: 1. Những tuyên bố tự tin của T.Thống Johnson về một chiến trường Việt Nam đã được bình định trở thành trò cười, bản thân TT và chính quyền Mỹ là những kẻ nói dối không hơn không kém trong con mắt người dân Mỹ và thế giới. Johnson không dám tiếp tục tái tranh cử TT Mỹ. 2. Hình ảnh Tướng Nguyễn Ngọc Loan của VNCH xử tử du kích VC ngay trên đường phố Sài Gòn gây nên cú sốc trên toàn thế giới. Đó là một trong những hình ảnh và đoạn phim chiến tranh khủng khiếp nhất trong lịch sử. Vụ thảm sát Mỹ Lai cũng khiến dư luận căm phẫn. Cùng với những hình ảnh thảm khốc khác trên khắp các chiến trường, uy tín của phe VNCH – Mỹ suy giảm, gây nên làn sóng phản chiến trên toàn thế giới, đồng thời tặng cho đối phương những tài liệu tuyên truyền hữu hiệu. Trước nhiều áp lực, Mỹ dần dần phải rút quân về nước, bỏ mặc VNCH đơn độc chiến đấu và cuối cùng sụp đổ năm 1975.
Bảng so sánh TTCTMT và các chiến dịch bất ngờ khác trong lịch sử chiến tranh thế giới: Chiến thuật Chiến lược Chiến dịch Michael – “Trận chiến của Hoàng Đế” (Quân Đức, 1918, Thế Chiến I) Thành công Thất bại Trận chiến Bulge (Quân Đức, 1944, Thế Chiến II) Thất bại Thất bại Tấn công can thiệp hỗ trợ của Trung Quốc (Trung Quốc & Bắc Hàn, 1950, Chiến tranh Triều Tiên) Thành công Thành công Tổng Tiến Công và Nổi Dậy Tết Mậu Thân (Quân đội Bắc Việt & Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam VN, 1968, Chiến tranh VN) Thất bại Thành công
Kỷ niệm 40 năm sau Mậu Thân Nguyễn Ðạt Thịnh Houston tổ chức thành công buổi lễ kỷ niệm 40 năm sau Mậu Thân; điểm nổi bật nhất của buổi lễ là SỰ THẬT qua phần trình bầy của hai diễn giả uy tín Bùi Diễm và Nhã Ca. Những điều được trình bầy không chỉ vô cùng thật mà còn hết sức mới. Trên 500 người tham dự đều nhìn nhận là cả hai diễn giả đã vẽ lại nhiều sự thật quan trọng, và lột trần những góc cạnh "thật" của những sự kiện tưởng chừng như đã cũ, nhiều người đã biết. Nhà văn Nhã Ca nói về những nạn nhân Mậu Thân tại Huế bị chôn sống 3 lần, lần thứ nhất bị chôn tại Huế, chôn trong đất nhà thờ, đất trường học, đất chùa, và cả đất rừng (như đại tá Việt Cộng Bùi Tín nói); Nhã Ca kể lại chuyện một người bạn của bà bị chôn sống, lúc đào xác lên người nhà nhận ra tóc nạn nhân dài hơn, móng tay dài hơn; lần thứ nhì nạn nhân thảm sát Mậu Thân bị chôn sống là chôn trong một thứ im lặng có dụng ý của truyền thông Hoa Kỳ, dụng ý đồng loã với tội ác và với Việt Cộng thủ phạm để tội diệt chủng gớm ghiếc của chúng được che giấu và chấp nhận trong nền văn hóa nhân bản của Hoa Kỳ, và lần chôn sống thứ ba đang diễn ra qua những cố gắng đánh tráo hồ sơ thảm sát được Việt Cộng thực hiện tại Việt Nam, bằng những cuộc duyệt binh mừng chiến thắng Mậu Thân, bằng những con đường được đặt tên lại là đường 68, đại lộ Mậu Thân, và bằng việc hăm dọa thân nhân của những người bị thảm sát "muốn sống thì kín miệng." Tác phẩm "Giải Khăn Sô Cho Huế" của Nhã Ca đã trở thành quyển sách uy tín nhất viết về cuộc thảm sát bà chứng kiến. Quyển sách được bầy bán trong hội trường buổi lễ kỷ niệm, và toàn bộ tiền bán sách được tác giả tặng cho một tổ chức chưa thành hình nhắm mục đích sưu tầm mọi dữ kiện, hình ảnh, nhân chứng về cuộc thảm sát Mậu Thân. Thuyết trình viên nhân chứng thứ nhì là cựu Ðại Sứ Bùi Diễm, vị nhân sĩ cao niên nhất nhì của người Việt hải ngoại, số tuổi gần 90 chỉ thấp hơn ý chí của ông phục vụ tổ quốc. Ông Bùi Diễm phân tách cuộc tấn công phản phúc của Việt Cộng đi ngược với những cam kết đình chiến, ngược với truyền thống tôn trọng tính chất thiêng liêng của những ngày tết Việt Nam, phân tách trên 3 phương diện quân sự, chính trị và nội chính Hoa Kỳ. Ông nói về những thất bại trên chiến trường của Việt Cộng, mặc dù chúng đạt được một vài thắng lợi nhỏ và ngắn hạn tại một vài thị trấn chúng tấn công bất ngờ. Ông nhắc lại là ngay một vài ngày sau đó quân đội VNCH đã đánh bật chúng ra khỏi toàn bộ những thị trấn chúng đột nhập. Ngay tại cố đô Huế, nơi chúng sử dụng quân đội Bắc Việt để tấn công, chúng cũng chỉ bám vào thị xã được 26 ngày. Trên bình diện chính trị Hà Nội mưu cầu một cuộc tổng nổi dậy, nhưng chúng lại vấp phải một hậu quả ngược, là không những không theo chúng nổi dậy mà nhân dân miền Nam còn chống lại chúng, nô nức tình nguyện đầu quân để võ trang diệt cộng. Phần trình bầy đặc biệt nhất của ông là tình hình Hoa Kỳ bị ảnh hưởng bởi cuộc tổng công kích Mậu Thân. Ông nói dư luận Hoa Kỳ hoang mang vì nửa triệu quân Mỹ và một triệu quân VNCH không đủ sức bảo vệ Việt Nam để hàng trăm thị trấn bị đồng loạt tấn công; dân chúng chứng kiến trên màn ảnh truyền hình những cuộc giao tranh ngay trên đường phố Sài Gòn, chứng kiến cảnh đại sứ Mỹ Elisworth Bunker đi thăm tòa đại sứ giữa xác Việt Cộng nằm chết ngổn ngang trên đường Thống Nhất. Ðại sứ Bùi Diễm nói người Mỹ không còn muốn gì khác hơn là chấm dứt cuộc chiến tranh mà họ cho là chính phủ Mỹ dối gạt họ nói là đang thắng lợi. Chính tổng trưởng ngoại giao Hoa Kỳ nói với ông Diễm là mục tiêu của Hoa Kỳ không còn là chiến thắng quân sự nữa, mà là một cuộc rút quân trong danh dự. Ông Diễm mô tả cuộc gặp gỡ giữa ông và tổng thống Lyndon B. Johnson vô cùng nặng nề và tuyệt vọng. Johnson im lặng ngồi chống tay vào cầm, im lặng nhìn ông, và thỉnh thoảng hỏi ông về tình hình Việt Nam. Ông Diễm trình bày là tình hình sáng sủa, quân đội đang đánh bật Việt Cộng ra khỏi những thị trấn chúng bám vào sau khi bất ngờ đột nhập. Ông cũng trình bầy với tổng thống Johnson tình trạng quân Việt Cộng được võ trang mạnh hơn quân đội VNCH với khẩu AK 47, và xin tổng thống Mỹ trang bị đồng loạt cho quân lực VNCH khẩu M 16, lúc đó chỉ mới được trang bị cho một vài đơn vị. Johnson chấp thuận ngay, nhưng vẫn ngờ vực hỏi ông xem với sự trợ giúp của Hoa Kỳ liệu quân lực VNCH có đủ sức cầm cự không. Ông Bùi Diễm khẳng định là quân đội VNCH có khả năng đó. Johnson bảo ông, "We have to win, somehow; otherwise, I cannot stand forever" (Bằng cách nào đó, chúng ta phải chiến thắng; nếu không, tôi không thể nào chịu đựng lâu dài được). Tổng thống Johnson nói câu này rất chân thật, vì sau đó, áp lực phản chiến mạnh đến mức ông quyết định không ứng cử thêm nhiệm kỳ thứ nhì nữa. Là một phóng viên quân đội, tôi có mặt tại Huế trong trận tái chiếm Cố đô, viết tường thuật những trận giao tranh đẫm máu, và vô cùng hào hùng của quân đội VNCH. Nhiều lần tôi nêu lên câu hỏi "nếu đại tướng William Westmoreland nói lên chữ 'kamikazé' thì tình hình có thay đổi không?" Người Mỹ và chính giới Mỹ xôn xao, xúc động vì họ hiểu lầm về bản chất và tầm vóc của trận tổng công kích Mậu Thân; họ tưởng Việt Cộng mạnh hơn triệu rưỡi quân Việt-Mỹ, và đang làm chủ tình hình trên chiến trường, muốn tấn công đâu cũng được, liên quân Việt-Mỹ không đủ khả năng ngăn chặn chúng. Sự thật trái ngược hẳn, và được ông Bùi Diễm gọi là "điểm trái khoáy" mà ông trình bầy trong buổi lễ tưởng niệm "40 năm sau Mậu Thân". Điểm trái khoáy này là dụng tâm của Việt Cộng khai thác năm bầu cử 1968, dụng tâm lại được một hệ thống truyền thông vô cùng tối tân và dân chủ, nhưng cũng vô cùng vô trách nhiệm của Hoa Kỳ giúp thổi phồng trong chiều hướng không tôn trọng sự thật. Tôi quan niệm chữ “kamikazé” có tác dụng tái lập sự thật, đặt cuộc tổng công kích Mậu Thân vào đúng tầm vóc của nó, tầm vóc của những phi công khu trục cảm tử Nhật lái máy bay đâm đầu xuống chiến hạm Hoa Kỳ. Người Mỹ quen thuộc với hình ảnh anh phi công thần phong Kamikazé chấp nhận những tổn thất giới hạn anh có khả năng gây ra, nhưng không hoảng sợ vì hình thức tấn công cảm tử của anh. Trên chiến trường Iraq, những anh cảm tử lái xe bom cũng đã gây nhiều tổn thất cho quân đội Hoa Kỳ, nhưng họ không gây được không khí tuyệt vọng cho Hoa Kỳ và cho tổng thống Bush, như hình ảnh tuyệt vọng của tổng thống Johnson mà ông Ðại sứ Bùi Diễm vẽ lên rất sống động, sự tuyệt vọng chúng ta thấy hợp lý. Thành công của Việt Cộng lừa được Hoa Kỳ 40 năm trước đưa đến hòa đàm Ba Lê, đến cắt quân viện mà hậu quả đau thương là việc chúng ta mất nước. Trong những diễn biến lịch sử đau buồn đó, ông Bùi Diễm nêu lên một ánh sáng: bằng mồ hôi cay cực và bằng nước mắt vong quốc, chúng ta thành công trong việc tạo dựng một thế hệ Việt Nam thứ nhì xứng đáng và có khả năng xây dựng lại đất nước. Ông Bùi Diễm hãnh diện với thế hệ sau, nhưng tôi thấy hãnh diện với thế hệ này, vì chúng ta còn có những người Việt Nam như ông Bùi Diễm và bà Nhã Ca. Nguyễn Ðạt Thịnh
Xin mời xem tiếp Tập 3
[1] Vĩ tuyến 38 là đường ranh giới phân chia hai miền Nam – Bắc của bán đảo Triều Tiên. Sông Yalu (phiên âm là sông Áp Lục) là biên giới tự nhiên giữa Trung Quốc (phía bắc sông) và Bắc Hàn (phía nam sông). “Giữa vĩ tuyến 38 và sông Yalu” ý muốn nói trên cả lãnh thổ Bắc Hàn từ Bắc chí Nam, quân CS đã hoàn toàn bị đánh bại bởi quân Nam Hàn và quân Mỹ. [2] Ý tác giả muốn nói: Sự nhận định một chiến dịch là thắng hay bại thường thuộc về phe chủ động tấn công chứ không dành cho phe bị tấn công. Trong TTCTMT, bên VNCH và Mỹ coi đó là thất bại của CS. Ngược lại bên Bắc Việt, bên chủ động tấn công coi đó là thắng lợi, do đó được tiếp thêm sức mạnh tinh thần để tiến tới giành chiến thắng chung cuộc năm 1975.
|