(tiếp theo) Tình trạng dằng dai của bộ ba cầm quyền Ðỗ Mười, Lê Ðức Anh và Võ Văn Kiệt sẽ còn kéo dài nếu Lê Ðức Anh không bị xuất huyết mạch máu não vào tháng 11, 1996. Khi Lê Ðức Anh phải vào bệnh viện, Võ Văn Kiệt ở bên ngoài chẳng những đã không nói lời chúc chóng lành bệnh mà còn tuyên bố là nếu Lê Ðức Anh phải nằm bệnh viện lâu, Trung Ương Ðảng sẽ phải bầu một chủ tịch mới vì “một nước không thể nào không có chủ tịch”. Cùng lúc đó, phe Võ Văn Kiệt cũng ngầm tố cáo những hành động sai trái của Lê Ðức Anh khi ở Căm Pu Chia và thái độ hành hạ công nhân khi làm cai đồn điền cao su trong những năm 1940. Vì thế, cho nên dù đã lớn tuổi và sau khi ngã bệnh bị yếu đi nửa người, Lê Ðức Anh cũng không chịu về hưu mà chờ tới tháng 9 năm 1997 mới dàn xếp để cùng với đối thủ là Võ Văn Kiệt từ chức cùng một lúc, nhường chỗ cho Trần Ðức Lương và Phan Văn Khải. Dù được tiếng là người của phe đổi mới, chính Võ Văn Kiệt đã là người ký “Chỉ thị về Quản chế Hành chánh” (sắc luật 31/CP) ngày 14-4-97 để “áp dụng cho những phần tử vi phạm luật lệ, phá hoại an ninh quốc gia, nhưng không trầm trọng lắm để có thể đưa ra tòa xử như một trọng tội”. Chỉ thị này nhằm hợp pháp hóa việc bắt giữ những tiếng nói đối lập, gán cho họ vào thành phần của “những thế lực thù nghịch phát động diễn biến hòa bình”, cho phép những cơ quan hành chánh hay công an địa phương có quyền bắt và giam giữ bất cứ người nào trong vòng từ sáu tháng đến hai năm mà không cần phải đưa ra xét xử, không cho bị cáo một cơ hội biện hộ. Ngoài ra, do đề nghị của Lê Ðức Anh và Ðoàn Khuê, Võ Văn Kiệt đã ký sắc luật 96/CP nâng cục quân báo C2 lên thành cấp tổng cục, khiến cho quyền hành của Tổng Cục 2 này lớn hơn quyền hạn của công an, tăng cường hơn nữa sự kiểm soát nhân dân. Ðiều 1, chương 1 của sắc lệnh này cho phép Tổng Cục 2 có quyền hạn hoạt động trong đủ mọi ngành như chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa học kỹ thuật, kỹ nghệ và môi trường, văn hóa xã hội. Ðiều 11, chương 2 của sắc luật này ghi rõ “Mục tiêu của những lực lượng tình báo quốc phòng là thu thập tin tức và tài liệu liên quan đến Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Phải đặc biệt chú trọng đến những quốc gia, những tổ chức hay cá nhân trong nước cũng như ngoài nước đang âm mưu hay tham gia vào những hoạt động nhằm chống lại đảng Cộng Sản hay nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”. Tổng cục này chỉ chịu trách nhiệm với Bộ Trưởng Quốc Phòng, Bộ Chính Trị và Chủ Tịch Nước. Vì quyền hạn quá rộng lớn, bao gồm đủ mọi phạm vi, lại được quyền cho người đến nằm vùng tại các cơ quan, tổng cục này sau đó đã gây ra rất nhiều lạm dụng. Chủ nhiệm của Tổng Cục 2 lúc đó là Vũ Chính, một người thân cận của Lê Ðức Anh khi còn ở quân khu IX và Căm Pu Chia. Vũ Chính lên thay Như Văn từ năm 1995. Sau khi nhậm chức, Vũ Chính thay hết những cán bộ cũ bằng những người thân tín. Con trai là Ðặng Vũ Dũng đi lao động từ Ðông Ðức về được cho làm giám đốc công ty xây dựng Hồng Bàng của tổng cục, con gái là Ðặng Thị Mai được mang quân hàm đại úy với công tác “cán bộ mật”, vợ là Ðặng Thị Nhẫn bắt ép vợ của Như Văn nhường lại chức giám đốc khách sạn Hoàng Ðế, và vợ của Trần Tiến Cung (tổng cục phó) cũng phải nhường lại chức giám đốc chi nhánh miền Trung của công ty du lịch Deti Tour. Ðược 5 năm, tới năm 2000 thì Vũ Chính về hưu, nhường chức lại cho con rể là Nguyễn Chí Vịnh, con ruột của Nguyễn Chí Thanh, đồng thời, Ðặng Vũ Dũng cũng trở về Tổng Cục 2 và được cử làm cục phó cục 12, hoạt động tình báo ở miền Nam. Ba tháng sau ngày Võ Văn Kiệt và Lê Ðức Anh từ chức, do những thỏa thuận từ trước trong Trung Ương Ðảng, đến lượt Ðỗ Mười phải nhường chức Tổng Bí Thư cho Lê Khả Phiêu, người đang nắm chức chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị của quân đội. Có tin là trong Hội Nghị Trung Ương Ðảng họp vào cuối tháng 12, 1997, Lê Ðức Anh vẫn mưu toan đưa Lê Khả Phiêu lên Chủ Tịch Nhà Nước để tự mình nắm chức Tổng Bí Thư nhưng mưu toan này thất bại vì chính Ðỗ Mười cũng không muốn từ chức. Nhờ được Ðỗ Mười đỡ đầu, Lê Khả Phiêu thắng được một đối thủ mạnh mẽ là Nguyễn Văn An, đang giữ chức trưởng Ban Tổ Chức Ðảng. Thay chỗ cho Lê Khả Phiêu trong chức chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị là Tướng Phạm Thanh Ngân, trước đó là tư lệnh không quân, ít lâu sau cũng được Lê Khả Phiêu đưa vào Bộ Chính Trị. Một năm sau, khi Ðoàn Khuê bị bệnh chết thì Phạm Văn Trà đang là tham mưu trưởng quân đội được cử lên nắm Bộ Quốc Phòng. Tướng Ðào Trọng Lịch, đang là tư lệnh Quân Khu II được cử lên làm tham mưu trưởng quân đội. Riêng về Ban Thường Vụ Bộ Chính Trị, sau khi bộ ba Mười, Anh, Kiệt từ chức, Lê Khả Phiêu với tư cách Tổng Bí Thư, đã áp lực để đẩy Nguyễn Tấn Dũng ra ngoài, thay vào đó là Phạm Thế Duyệt, và Ban Thường Vụ mới này gồm có 5 người: Lê Khả Phiêu, Trần Ðức Lương, Phan Văn Khải, Nông Ðức Mạnh và Phạm Thế Duyệt. Còn ở Bộ Chính Trị, bốn người thay thế Mười, Anh, Kiệt và Nguyễn Ðình Tứ là Phan Diễn, bí thư thành ủy Ðà Nẵng, Nguyễn Phú Trọng, bí thư thành ủy Hà Nội và Nguyễn Minh Triết, bí thư thành ủy thành phố HCM cùng với Phạm Thanh Ngân, một người thân tín của Lê Khả Phiêu vừa được cử làm chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị thay Lê Khả Phiêu. Tuy bộ ba Mười, Anh, Kiệt đã chính thức về hưu, trở nên “cố vấn”, nhưng Ðỗ Mười và Lê Ðức Anh vẫn còn ảnh hưởng mạnh mẽ trong Bộ Chính Trị và ngay cả trong Ban Thường Vụ trong suốt nhiệm kỳ của Ðại Hội VIII và IX. Chỉ có Võ Văn Kiệt sau khi từ chức dần dần bị thất thế. Mấy năm sau, nhân viết một bài nhận xét về cuốn sách của Lý Quí Chung và bị Nguyễn Khoa Ðiềm chỉ trích trên báo chí, Võ Văn Kiệt viết thư trả lời nhưng Nguyễn Khoa Ðiềm không cho báo chí đăng lại, ông ta đã phải viết một thư khác phổ biến ra hải ngoại trong đó có câu”... Ðối với người như tôi mà đồng chí còn không cho in bài thì người dân có quyền gì nói lên sự thật...” Trong thư này, dù là một người tương đối cấp tiến và viết một lá thư chính thức để phổ biến công khai, lời lẽ trong thư đối với những người cam tâm đầu hàng vẫn có vẻ khinh miệt: “...trừ những đoạn mà đám Nhuận, Ðức, Hạnh không chịu vì có liên quan...” (“đám” Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Ðức và Nguyễn Hữu Hạnh đòi Lý Quí Chung bỏ đi những đoạn này có lẽ vì đã kể lại những hành động không đáng hãnh diện của họ) Tân Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu sinh năm 1931 tại Ðông Khê, Thanh Hóa, gia nhập đảng Cộng Sản từ năm 1949. Suốt mấy chục năm trong quân ngũ và trong đảng, Lê Khả Phiêu chỉ giữ những chức chính ủy trong quân đội. Trong Chiến Tranh Ðông Dương I trước 1954, Lê Khả Phiêu là chính ủy đại đội, trong chiến tranh Ðông Dương II, Phiêu là chính ủy trung đoàn 9/ sư đoàn 304. Sau đó lên chính ủy sư đoàn rồi chính ủy quân khu Trị Thiên. Trong chiến tranh Căm Pu Chia, Lê Khả Phiêu làm chính ủy quân đoàn 2 rồi phó chính ủy quân khu 9. Trong thời gian chiếm đóng Căm Pu Chia, Lê Khả Phiêu được thăng thiếu tướng. Sau thời gian này, nhờ được thân cận với Lê Ðức Thọ và Lê Ðức Anh, Lê Khả Phiêu lại được thăng lên trung tướng, làm chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị và sau đó vào Bộ Chính Trị rồi lên Tổng Bí Thư. Vì chỉ giữ những chức vụ thuần túy chính trị trong quân đội, Lê Khả Phiêu không có được hậu thuẫn vững mạnh trong đảng (như Nguyễn Văn Linh, Ðỗ Mười, đã từng làm nhiều chức vụ và công tác ở nhiều nơi), hay trong quân đội (như Lê Ðức Anh, từng có nhiều quan hệ với những tư lệnh quân khu khi làm bộ trưởng Bộ Quốc Phòng). Do đó mà Lê Khả Phiêu thường phải dựa vào phe bảo thủ và sau đó là dựa vào Trung Hoa. Sự đề cử Trần Ðức Lương lên thay Lê Ðức Anh làm chủ tịch nhà nước tương đối là một bất ngờ. Trong Bộ Chính Trị, ông ta chỉ đứng hàng thứ 16. Trần Ðức Lương sinh năm 1937 tại Quảng Ngãi, từng tốt nghiệp đại học về địa chất và được làm giám đốc Nha Ðịa Chất năm 1979. Ông ta gia nhập đảng Cộng Sản năm 1959 và được cử làm ủy viên Trung Ương Ðảng năm 1991 và vào Bộ Chính Trị năm 1996. Từ 1987 đến 1997 từng là phó thủ tướng cho Võ Văn Kiệt. Việc Trần Ðức Lương được lên làm Chủ Tịch Nhà Nước cũng là một thất bại cho Ðoàn Khuê. Ông ta vẫn mong muốn được thay thế Lê Ðức Anh. Ðoàn Khuê, sinh năm 1923, cựu tư lệnh quân khu V, từng làm tham mưu trưởng quân đội năm 1987 và bộ trưởng Quốc Phòng năm 1991, là một người nhiều tham vọng. Trong thời gian trước đại hội VIII, phe bảo thủ, trong đó có quân đội và công an (gồm Ðoàn Khuê, Lê Khả Phiêu, Phạm Văn Trà, Lê Minh Hương) tương đối chiếm ưu thế trong Bộ Chính Trị. Vì Ðào Duy Tùng và Nguyễn Hà Phan không giấu tham vọng tranh chức tổng bí thư và thủ tướng nên Ðoàn Khuê nghĩ rằng ông ta có thể nhờ hậu thuẫn công an và quân đội để kế nhiệm địa vị chủ tịch nhà nước của Lê Ðức Anh, cho nên khi viếng thăm nước Pháp với tư cách Bộ Trưởng Quốc Phòng, và được Tổng Thống Chirac tiếp, Ðoàn Khuê huênh hoang nói với Chirac là sẽ tới thăm nước Pháp lần nữa với một tư cách ngang hàng (chủ tịch nhà nước) với Chirac. Do tác phong quan liêu, Ðoàn Khuê đã không được lòng thuộc cấp. Ngoài ra, tuy cùng ở trong phe quân đội và bảo thủ, Ðoàn Khuê lại rất bất mãn với Lê Khả Phiêu. Lý do là Lê Khả Phiêu từng là thuộc cấp của Ðoàn Khuê khi Ðoàn Khuê là Bộ Trưởng Quốc Phòng. Vì thế, khi Ðoàn Khuê ra tranh chức chủ tịch nhà nước, phe của Phiêu trong quân đội đã nhập vào phe Võ Văn Kiệt mà ủng hộ Trần Ðức Lương. Người thay thế Võ Văn Kiệt là Phan Văn Khải, một người đã được Võ Văn Kiệt nâng đỡ để sửa soạn vào chức thủ tướng. Sự đề cử Phan Văn Khải vào chức thủ tướng đã làm yên lòng các nhà đầu tư ngoại quốc, cho thấy đảng Cộng sản Việt Nam vẫn muốn tiếp tục đường lối kinh tế cởi mở cũ. Phụ tá của Phan Văn Khải có những phó thủ tướng: - Nguyễn Tấn Dũng đặc trách kinh tế và nội an. Sinh ở Cà Mau, xuất thân là lính quân y (trong lý lịch khai là đã được huấn luyện thành bác sĩ giải phẫu). Sau khi làm chính ủy đại đội quân y chuyển sang làm chính ủy tiểu đoàn rồi trung đoàn, từng phục vụ ở Căm Pu Chia. Năm 1994 làm bí thư tỉnh Kiên Giang, năm sau thăng thứ trưởng Bộ Nội Vụ.
- Nguyễn Mạnh Cầm phụ trách đối ngoại
- Nguyễn Công Tấn: quê ở Thái Bình, đặc trách phát triển nông thôn. Nguyễn Công Tấn tốt nghiệp kỹ sư canh nông tại đại học Hoa Nam năm 1958.
- Ngô Xuân Lộc đặc trách kỹ nghệ và phát triển thành thị (sau đó cũng bị mất chức vì bị phe Lê Ðức Anh tố cáo tham nhũng trong việc xây cất công viên tại Hà Nội)
- Phạm Gia Khiêm, đặc trách giáo dục, khoa học. Phạm Gia Khiêm sinh năm 1944 ở Hà Nội, từng du học ở Nga và Tiệp Khắc. Vào đảng năm 1969, từng dạy đại học Bắc Thái, trưởng khoa Giáo Dục Khoa Học trong Ủy Ban Kế Hoạch Nhà Nước, sau đó lên làm phó chủ tịch ủy ban.
Các bộ trưởng chính gồm có:
- Thương mại: Trương Ðình Tuyển, từng là bí thư tỉnh Nghệ An
- Nông Nghiệp: Lê Huy Ngọ
- Giao Thông: Lê Ngọc Hoan
- Xây Dựng: Nguyễn Mạnh Kiểm
- Văn Hóa Thông Tin: Nguyễn Khoa Ðiềm, sinh quán tại Huế, tốt nghiệp Sư Phạm. Sau 1975, là chủ tịch hội Văn Hóa Bình Trị Thiên. Với tư cách này, Nguyễn Khoa Ðiềm đã cùng Trần Hoàn kết án Trịnh Công Sơn về tội đã gọi cuộc chiến Việt Nam là nội chiến và tội làm bài hát thương tiếc cựu đại tá không quân VNCH Lưu Kim Cương rồi đẩy anh đi cải tạo.
- Quốc Phòng: Ðoàn Khuê, sau đó là Phạm Văn Trà (trước đó là tư lệnh quân khu III quanh Hà Nội, thay Ðào Ðình Luyện làm tham mưu trưởng quân đội từ Tháng giêng năm 1996)
- Giáo Dục: Nguyễn Minh Hiền
- Tài Chánh: Nguyễn Sinh Hùng, sinh quán Nghệ An, từng du học ở Bulgary, họ hàng với Hồ chí Minh.
- Nội Vụ: Lê Minh Hương, sinh quán Hà Tĩnh, xuất thân từ ngành tình báo. Theo học trường An Ninh, từng làm cán bộ an ninh ở liên khu tư, rồi làm công tác gián điệp ở các tòa đại sứ Việt Nam tại Ấn Ðộ và Nhật. Sau đó thăng giám đốc Sở Tình Báo rồi thứ trưởng Bộ Nội Vụ.
- Tư Pháp: Nguyễn Ðình Lộc
- Hải Sản: Tạ Quang Ngọc: sinh quán Nghệ An.
- Kế Hoạch Và Ðầu Tư: Trần Xuân Giá, sinh quán ở Huế, từng là phó chủ tịch ủy ban vật giá, phó chủ tịch ủy ban Kế Hoạch Nhà Nước rồi thứ trưởng Bộ Kế Hoạch và Ðầu Tư
- Khoa Học, Kỹ Thuật và Môi Sinh: Chu Tuấn Nhã
- Y Tế: Ðỗ Nguyên Phương
- Lao Ðộng và Thương Binh Xã Hội: Trần Ðình Hoan, sau đó là Nguyễn Thị Hằng
- Văn Phòng Chính Phủ: Lại Văn Cừ, người tỉnh Vĩnh Phú.
- Chủ Tịch Ủy Ban Bảo Vệ và Săn Sóc Trẻ Em: Trần Thị Thanh Thanh
- Chủ Tịch Ủy Ban Kế Hoạch Gia Ðình: Trần Thị Trung Chiến.
- Chủ Tịch Ủy Ban Chống Lụt Lội và Phát Triển Sông Cửu Long: Nguyễn Cảnh Ðinh
- Chủ Tịch Ủy Ban Thể Thao: Hà Quang Dự
- Chủ Tịch Ủy Ban Sắc Tộc: Hoàng Ðức Nghi. Tất cả những bộ trưởng, thứ trưởng hay chủ tịch ủy ban do Phan Văn Khải đề nghị đều được quốc hội chấp thuận, trừ Thống Ðốc Ngân Hàng Cao sĩ Kiêm, bị quốc hội loại vì sau 8 năm làm thống đốc, hệ thống ngân hàng vẫn còn quá yếu kém. Vị trí này bị bỏ trống cho tới 6 tháng sau, Phan Văn Khải mới đề cử Nguyễn Tấn Dũng, phó thủ tướng đặc trách kinh tế kiêm nhiệm chức vụ thống đốc. Nguyễn Tấn Dũng tuy không có kinh nghiệm về ngân hàng, nhưng được đề cử nhằm nâng cao uy thế chính trị của ngành này. Công việc điều hành hàng ngày được giao cho Lê Ðức Thúy, một chuyên viên từng du học ở Harvard trong hai năm 1991 và 1992. Cho tới hơn một năm sau, Lê Ðức Thúy mới được chính thức làm thống đốc. Sau đại hội VIII, năm 1997 là một năm xảy ra nhiều biến cố đối với Việt Nam. Dù cho cơn khủng hoảng kinh tế tại các nước Á Châu như Thái Lan, Singapore, Ðại Hàn, Nhật Bản... phải nửa năm sau mới ảnh hưởng tới Việt Nam, nhưng kinh tế Việt Nam trong năm 1997 cũng đã có những dấu hiệu suy thoái. Ngoài cơn bão Linda gây cảnh bão lụt tại miền Nam và miền Trung khiến mức sản xuất lúa gạo bị giảm sút, một lý do khác là hệ thống ngân hàng của Việt Nam chưa vững mạnh khiến cho những công ty ngoại quốc phải ngần ngại khi đầu tư và cuối cùng, lý do quan trọng nhất là sự lãng phí và kém hiệu quả của những công ty quốc doanh. Từ năm 1997, số tiền ngoại quốc đầu tư tại Việt Nam mỗi ngày một giảm. Một số công ty ngoại quốc đã phải đóng cửa hoặc vì lỗ lã, hoặc do những trở ngại hành chánh hay tham nhũng. Tuy thế, những phần tử bảo thủ vẫn muốn duy trì và phát triển những công ty này vì “định hướng xã hội chủ nghĩa” là niềm hy vọng duy nhất của họ để sẽ có một ngày, tất cả đều sẽ trở lại là kinh tế nhà nước, tất cả sẽ chỉ còn là những công ty quốc doanh. Cơn khủng hoảng kinh tế của các nước Ðông Nam Á như Thái Lan, Ðại Hàn, Nhật Bản... năm 1997 khiến cho họ nghĩ đường lối kinh tế chỉ huy là đúng đắn và càng làm cho họ cứng rắn hơn nữa để kềm hãm đà đổi mới. Những biện pháp đổi mới mấy năm trước đã làm đời sống người dân tương đối thoải mái hơn trước, nhưng so với những nước lân bang, người dân Việt Nam vẫn còn rất nghèo. Theo thống kê của Ngân Hàng Thế Giới, lợi tức bình quân hàng năm mỗi người dân Việt năm 1997 là 350 Mỹ kim, chỉ ngang với Bangladesh. Trong khi đó, lợi tức hàng năm của người dân Phi Luật Tân cao hơn gấp ba lần (1,000 Mỹ kim), Thái Lan cao hơn gấp 7 lần ( hơn 2,000 Mỹ kim). Dù có những biện pháp cới mở về nông nghiệp, lợi tức của nông dân vẫn thua xa người dân thành thị. Thống kê của Bộ Nông Nghiệp cho biết sau khi trừ hết chi phí, lợi tức trung bình của nông dân là dưới 100 Mỹ kim, trong khi lợi tức trung bình dân Hà Nội là 800 Mỹ kim, Sài gòn 1,000 Mỹ kim. Trước hoàn cảnh đời sống khốn khó và bị chèn ép, tháng 5 năm 1997, nông dân tỉnh Thái Bình vùng lên biểu tình phản đối những cán bộ địa phương tham nhũng, đặt ra những thuế khóa vô lý (thuế đất, thuế thầy giáo...), trả tiền lúa gạo mà nông dân bán ra thật rẻ so với giá thị trường, chiếm hữu đất đai cho gia đình, bạn bè, lại ép nông dân phải xung phong lao động xã hội chủ nghĩa không công ít ra là 10 ngày trong năm. Việc đánh thuế vô lý đến nỗi tiền thuế thu được trong 3 năm từ 1994 đến 1997 của tỉnh Thái Bình bội thu hơn con số dự trù của trung ương đến 176 tỷ đồng (khoảng 16 triệu mỹ kim). Khởi xướng và đứng đầu những cuộc biểu tình phản đối ở Thái Bình đều là những cán bộ hoặc bộ đội về hưu, họ đã tổ chức biểu tình qui mô, cho người già và trẻ em đi trước, cựu cán bộ đi sau, sau đó mới là thanh niên. Suốt từ tháng 5 đến tháng 12, ký giả hoặc nhân viên những tổ chức thiện nguyện ngoại quốc đều bị cấm không được đến tỉnh Thái Bình. Mới đầu, những cuộc biểu tình còn ôn hòa, nông dân chỉ mong muốn được giảm thuế, nhưng vì chính quyền địa phương không chịu giải quyết nên đã trở nên bạo động. Một số nông dân và viên chức bị tử thương, nhất là ở huyện Quỳnh Phú. Công an và ủy ban hành chánh nhiều xã đã phải bỏ nhiệm sở chạy trốn. Những cuộc biểu tình này đã diễn ra trong nhiều tháng. Chính quyền trung ương ở Hà Nội phải đem 1,200 công an đặc biệt từ những nơi khác đến để ngăn chận không cho phong trào chống đối lan tràn. Ðồng thời, đảng cử Phạm Thế Duyệt, một ủy viên Bộ Chính Trị người tỉnh Thái Bình đến dàn xếp. Chính quyền đã phải công nhận lầm lỗi, giải nhiệm một số viên chức địa phương, đưa ra một vài biện pháp xoa dịu. Nhưng mặt khác, họ cũng đã bắt một số người biểu tình đưa lên đài truyền hình ép phải thú nhận tội lỗi là đã có hành động “chống đối” lại đảng và nhà nước. Trong một bài báo đăng ở báo đảng, Bí Thư Tỉnh Ủy Thái Bình Nguyễn Xuân Lai tiếp tục coi những người đạo Công Giáo trong tỉnh là những phần tử khả nghi và kêu gọi đảng phải tăng cường cảnh giác. Sau nhân dân tỉnh Thái Bình, đến tháng 11, 1997, đến lượt nhân dân tỉnh Ðồng Nai (Biên Hòa cũ). Tại vùng đất của dân Công Giáo, giáo dân biểu tình phản đối những cán bộ địa phương đã ngang nhiên truất hữu đất đai nhà thờ. Tuy nhân dân tỉnh Ðồng Nai không được xếp hạng là thành phần tốt đối với chính quyền, nhưng họ đã biểu tình ngay trên quốc lộ 1, ngăn chặn con đường lưu thông huyết mạch Bắc Nam và đã chọn thời gian biểu tình vào lúc có một hội nghị quốc tế gồm những nước biết nói tiếng Pháp tổ chức ở Hà Nội để gây tiếng vang. Như thường lệ, chính quyền phong tỏa tỉnh Ðồng Nai, cấm người ngoại quốc lai vãng và trên báo chí quốc nội, không một báo nào được phép đăng tin. Phạm Thế Duyệt lại đóng vai trò dàn xếp và chính quyền lại hứa hẹn sửa sai. Một thời gian sau, bộ trưởng phát triển nông thôn là Nguyễn Công Tấn bị mất chức. Hiển nhiên là những phản kháng của nông dân đã gây chấn động trong hàng ngũ lãnh đạo. Vào tháng 8, Bộ Nông Nghiệp loan báo ban hành “mười chính sách lớn” cho nông thôn, gồm có tu sửa, cải thiện hệ thống đường sá, giảm thế khóa cho nông dân và thiết lập một qui chế sở hữu đất đai rõ ràng, không cho cán bộ lạm dụng. Ngày 21-11-1997, Thủ Tướng Phan Văn Khải trong diễn văn đọc trước quốc hội cũng nhấn mạnh đến chương trình cải tạo nông thôn, còn Tổng Bí Thư Ðỗ Mười trước khi từ chức, cũng kêu gọi phải diệt trừ tham nhũng trong hàng ngũ đảng viên. Tuy nhiên, vấn đề diệt trừ tham nhũng trong nội bộ đảng kể trên chỉ được thi hành theo những ý hướng và mục tiêu chính trị. Dù báo chí đã được Hữu Thọ, trưởng Ban Tư Tưởng Văn Hóa của Ðảng cho là “tiếng nói của đảng, của nhà nước, của những tổ chức xã hội và là diễn đàn của nhân dân” (ngày 25-8-97), nhưng chỉ hai tháng sau, ký giả Nguyễn Hoàng Linh, tổng biên tập báo Doanh Nghiệp bị bắt vì đăng bài phanh phui những gian lận liên quan đến việc mua 4 tàu tuần cho Cục Thuế Quan. Tòa soạn những báo Hà Nội Mới, Tiền Phong, Thương Mại Pháp Luật cũng bị tra xét vì bị nghi ngờ với cùng một tội là “tiết lộ bí mật quốc gia”. Cũng trong tháng đó, một phóng viên hãng Reuter bị hành hung và bị bắt về Bộ Nội Vụ tra hỏi khi anh ta chụp hình một toán phụ nữ biểu tình ở công viên Ba Ðình. Tháng 12, 1997, nhà văn Phạm Văn Viêm bị công an Việt Nam bắt cóc ở Bulgary và mang về Hà Nội sau khi anh dịch cuốn “Chế Ðộ Phát Xít” (The Fascist Regime) của Tổng Thống Zhelev, vị tổng thống Bulgary không Cộng Sản đầu tiên của Bulgary. Anh bị giam và lúc sau này không nghe tin tức. Những học giả, nhà thơ, nhà văn như Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự, Hà Sĩ Phu cũng bị làm khó dễ và theo dõi. Trong thời kỳ tiền hội nghị của những quốc gia nói tiếng Pháp tại Hà Nội tháng 11-1997, khi Liên Ðoàn Phóng Viên và Ký Giả thảo một thông tư trong đó có đoạn lên án sự đàn áp báo chí tại 16 trong 49 quốc gia tham dự. Tuy thông tư này không chỉ đích danh một nước nào, nhưng Phan Bằng, chủ tịch hội Phóng Viên Việt Nam của nhà nước đã cực lực phản đối vì Việt Nam coi đó là chuyện “can thiệp vào nội bộ quốc gia” Cuối năm 1997, do quyết định từ Ðại Hội Ðảng hơn một năm trước, Ðỗ Mười bị bó buộc phải từ chức và Lê Khả Phiêu được đề cử làm Tổng bí thư. Trong tình trạng tranh chấp giữa bộ ba cầm quyền năm trước, Lê Khả Phiêu dần dần đã được lợi thế. Ðối thủ sáng giá duy nhất trong Bộ Chính Trị của Lê Khả Phiêu là Nguyễn Văn An, trưởng Ban Tổ Chức Ðảng, nhưng Lê Khả Phiêu có nhiều điều kiện thuận lợi hơn là được ở trong Ban Thường Vụ Bộ Chính Trị, lại là trưởng Ban Bảo Vệ Chính Trị của Ðảng. Cả đời là chính ủy, không có cơ hôi làm giàu, đời tư Lê Khả Phiêu trong sạch hơn Nguyễn Văn An. Ngoài ra, vụ rối loạn ở Thái Bình khiến Trung Ương Ðảng muốn có một người lãnh đạo cứng rắn. Tuy nhiên, dù được lên làm tổng bí thư, Lê Khả Phiêu đã không có một hậu thuẫn chính trị vững mạnh nên đã phải đu dây giữa hai phe bảo thủ và cấp tiến, tuy ông ta đã dựa vào phe bảo thủ nhiều hơn. Nhưng ngay trong đảng và trong phe bảo thủ, Ðỗ Mười lại có nhiều uy tín và ảnh hưởng hơn Lê Khả Phiêu. Là một trong ba “cố vấn”, dù đã về hưu nhưng Ðỗ Mười vẫn có quyền tham dự những buổi họp của Bộ Chính Trị và Lê Khả Phiêu sở dĩ được lựa chọn cũng nhờ ảnh hưởng của Ðỗ Mười. Vì thế, trong bộ ba cố vấn, Ðỗ Mười xem thường Lê Khả Phiêu nhất. Trong những buổi họp của Bộ Chính Trị, ông ta hay xen vào những cuộc thảo luận, nhiều khi lấn át cả Lê Khả Phiêu khiến mọi người đều nhận thấy Lê Khả Phiêu là một tổng bí thư yếu thế. Quân đội cũng không hết lòng ủng hộ Lê Khả Phiêu. Bản chất là một chính ủy, Lê Khả Phiêu tìm hậu thuẫn với phe bảo thủ bằng cách đề cao khẩu hiệu chống đế quốc và phát huy xã hội chủ nghĩa, thể hiện qua biện pháp lấy lòng Trung Hoa, dù cho phải chịu khuất phục và nhượng bộ đất đai. Sau khi lên nhận chức tổng bí thư, tháng 2 năm 1999, Lê Khả Phiêu sang Trung Hoa và gặp đủ mặt giới lãnh đạo Trung Hoa. Từ đó, mối quan hệ Việt Hoa trở nên ngày càng thân thiết. Trong năm 1999, nhiều phái đoàn của hai nước lần lượt qua lại, kể cả Phạm thế Duyệt, Nguyễn tấn Dũng cho đến những cấp thấp hơn như Hoàng Kỳ, tư lệnh quân khu III... Ngày 26-9-1999, nhân lễ kỷ niệm 50 năm thành lập đảng Cộng Sản Trung Hoa, 2500 cán bộ từng sống hay du học ở Trung Hoa tập họp ở sân vận động để chúc mừng, trong đó có Hoàng Minh Thảo. Ðầu tháng 12 năm 1999, Thủ Tướng Chu Ðông Cơ của Trung Hoa sang thăm Việt Nam, dự định sẽ tham dự buổi lễ ký kết thỏa hiệp về biên giới trên bộ, nhưng dự thảo thỏa ước có một số chi tiết chưa được thỏa thuận nên phải chờ đến cuối tháng, ngày 30-12- 1999, thỏa ước mới được ngoại trưởng hai nước là Nguyễn Mạnh Cầm và Ðường Gia Truyền ký kết. Thỏa ước này được hoàn tất là nhờ những nhượng bộ của Lê Khả Phiêu, từng hứa hẹn với Giang Trạch Dân là sẽ giải quyết vấn đề biên giới trên bộ xong trước năm 2000 và trên biển trước năm 2001.
(Còn tiếp)
|