Home Lịch Sử VN Chiến Tranh VN Sau Bức Màn Đỏ: hậu trường chính trị Việt Nam sau 1975 (21)

Sau Bức Màn Đỏ: hậu trường chính trị Việt Nam sau 1975 (21) PDF Print E-mail
Tác Giả: Hoàng Dung   
Thứ Hai, 15 Tháng 6 Năm 2009 13:45

(Tiếp theo)

Cùng thời gian chuyến viếng thăm của Clinton và Putin là những cuộc viếng thăm của Bộ Trưởng Quốc Phòng Fernandes, Ngoại Trưởng Singh và Thủ Tướng Vajpayee của Ấn Ðộ. Ðối với Việt Nam, Ấn Ðộ là một nước quan trọng vì đông dân, có thể chế tạo võ khí khá tối tân và nhất là thật tâm muốn bang giao chặt chẽ với Việt Nam.

Tuy nhiên, sau chuyến đi của Clinton, càng gần đến ngày Ðại Hội Ðảng lần thứ IX, cuộc đấu tranh nội bộ của Ðảng Cộng Sản Việt Nam càng trở nên gay gắt và tiến trình cải thiện bang giao với Hoa Kỳ bị ngưng trệ. Do áp lực của phe bảo thủ, chuyến viếng thăm của Ðô Ðốc Blair, tư lệnh các lực lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương, dự trù vào ngày 15-1-01 bất thình lình bị Việt Nam hủy bỏ và không cho biết lý do. Phải chờ đến một năm sau (sau khi Việt Nam đã để cho chiến hạm Yulin của Trung Hoa ghé cảng Sàigòn ngày 22-11-2001), ngày 2-2-02, Ðô Ðốc Blair mới chính thức đến thăm Việt Nam, và đã gặp Nguyễn Tấn Dũng, Phạm Văn Trà, Nguyễn Di Niên. Trong những tiếp xúc, Ðô Ðốc Blair ngỏ ý Hoa Kỳ không muốn thuê lại hải cảng này nhưng mong muốn là tàu bè của tất cả các nước có thể ghé lại khi cần thiết, nhưng sợ làm phật lòng Trung Hoa, Việt Nam đã từ chối.

Cũng trong Hội Nghị Trung Ương Ðảng lần thứ 10 (khóa VIII) vào tháng 7 năm 2000, những điểm căn bản cho bản báo cáo chính trị của Ðại Hội Ðảng lần thứ IX sẽ được tổ chức vào Tháng Tư năm 2001 được Nguyễn Phú Trọng đưa ra bàn thảo. Nội dung dự thảo báo cáo nói chung vẫn là kêu gọi “phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Phương châm này chỉ giản dị là sẽ cố gắng để ưu tiên phát triển cho kinh tế quốc doanh vượt trội hơn kinh tế tư nhân. Hội Nghị Trung Ương cũng đánh giá vai trò của Ban Thường Vụ Bộ Chính Trị để tìm cách thay đổi. Tuy công khai tuyên bố theo đuổi đường lối ngoại giao “đa phương”, bản báo cáo chính trị chỉ nhấn mạnh đến sự cải thiện quan hệ với “những nước láng giềng, xã hội chủ nghĩa và bạn bè tuyền thống” là Ai Lao, Căm Pu Chia, Trung Hoa và Liên Xô mà không nhắc nhở gì đến Hoa Kỳ, Tây Âu hay các nước ASEAN. Tuy là một thành viên của những nước ASEAN, Việt Nam đặc biệt quan hệ thân thiết với Ai Lao và Miến Ðiện. Ai Lao là do bản chất thụ động cố hữu vẫn phụ thuộc vào Việt Nam trên nhiều lãnh vực, còn Miến Ðiện, do nền độc tài quân phiệt nên bị cô lập đối với quốc tế nên rất thân cận và được cảm tình với những lãnh tụ Cộng Sản Việt Nam. Riêng đối với Căm Pu Chia, do mối hận thù lịch sử và thái độ của cán bộ Việt Nam trong thời gian chiếm đóng sau 1979, nên dù cho chính quyền Hun Sen đã được Việt Nam thiết lập và hỗ trợ, đã không còn có một quan hệ thực sự thân thiết như trước. Trong lúc đó, Trung Hoa đã tiếp tục phát triển ảnh hưởng ở Căm Pu Chia bằng cách giúp xây một xưởng đóng tàu lớn ở Kompong Xom với phí tổn trên 500 triệu Mỹ kim.

Tuy nhiên, chủ trương nhường nhịn Trung Hoa không phải là có được sự đồng nhất trong đảng. Ðầu năm 2001, địa vị của Lê Khả Phiêu đã có những dấu hiệu lung lay khi Hội Nghị Trung Ương Ðảng thảo luận về vấn đề tuổi tác, đã biểu quyết không để cho những ủy viên trên 65 tuổi được tái cử. Cả hai Lê Khả Phiêu và Phan Văn Khải đều gần 70 nhưng điều này nhắm vào Lê Khả Phiêu nhiều hơn. Hai tuần sau, vào đúng ngày mà Bộ Trưởng Quốc Phòng Trung Hoa Trì Hạo Ðiền sang thăm Hà Nội, tại miền Nam, báo Sài Gòn Giải Phóng đăng bài báo tiết lộ chi tiết về hơn 300 vụ vi phạm của Trung Hoa vào lãnh thổ Việt Nam. Tờ báo cũng đăng thêm về kế hoạch bảo vệ và quản lý hành chánh của Việt Nam trên những hòn đảo. Ðiều này đã gây phản kháng từ phía Bộ Ngoại Giao của Trung Hoa. Có lẽ đó là sự thách thức của phe đổi mới trong miền Nam đối với phe bảo thủ trong đảng ngoài Hà Nội trước khi có Ðại Hội Ðảng. Ngoài ra đó cũng là một cách trả đũa Trung Hoa của phe đổi mới đối với sự việc tháng 12 năm 2000, trong ngày mà Trần Ðức Lương sang Trung Hoa để đúc kết thỏa hiệp lãnh hải và thỏa hiệp đánh cá trong vịnh Bắc Việt, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Trung Hoa đã lên tiếng xác nhận chủ quyền của Trung Hoa trên địa phận tranh chấp Trường Sa. Trước sự phản kháng của Bộ Ngoại Giao Trung Hoa, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Việt Nam trả lời là bài báo trên Sài Gòn Giải Phóng chỉ là ý kiến của một “tờ báo địa phương”. Tuy nhiên, mấy ngày sau, báo Lao Ðộng cũng đăng một bài báo trong đó có ghi lại lời của Hà Văn Tấn, viện trưởng Viện Khảo Cổ nói là đã đào được những di chỉ đồ sứ của Việt Nam từ thế kỷ thứ 13 ở những đảo Nam Yết, Song Tử Tây, Sơn Ca, Sinh Tồn Lớn, Phan Vinh, An Bang... chứng minh chủ quyền lâu đời của Việt Nam trong vùng Trường Sa. Cũng trong tháng 2 năm 2001, báo Tiền Phong đăng tin đã bắt giữ Phạm Văn Dũng, phó chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân phường Hoàng văn Thụ, Hà Nội về tội làm gián điệp (với ám chỉ là cho Trung Hoa).

Vào ngày 6 tháng 2, 2001, tại tỉnh Ðạc Lắc (Ban Mê Thuột) và Gia Lai (Pleiku), một biến động lớn đã xảy ra(13). Khoảng năm ngàn đồng bào thuộc nhiều sắc dân thiểu số Ê Ðê, Gia Rai,... nổi lên biểu tình phản đối chính quyền đã dung dưỡng và hợp tác với người Kinh liên tiếp chiếm đoạt đất đai của họ để lập đồn điền trồng cà phê, đồng thời cũng ngăn cản họ được không cho theo đạo Tin Lành. Họ cũng đòi được tự trị về chính trị. Vì cà phê là một nguồn xuất cảng quan trọng (mấy năm gần đây Việt Nam đã xuất cảng cà phê chỉ thua có Colombia), dân người Kinh và ngay cả những “khu kinh tế quốc doanh” của quân đội cũng đã từ từ lấn chiếm và khai phá đất đai của dân thiểu số địa phương. Theo báo Quân Ðội Nhân Dân ngày 27-2-01, một “khu kinh tế quốc phòng” do binh đoàn 16 phụ trách đã được thành lập tại tỉnh Dak Lak từ năm 1999. Khu kinh tế này chiếm tất cả 584.032 mẫu rừng, được khai hoang để trồng cao su, bông vải, hạt tiêu, cà phê. Do việc khai hoang và định cư dân từ những vùng khác cùng với sự tham nhũng của những viên chức hành chánh bắt ép dân địa phương, những bất mãn đã bùng nổ thành biểu tình bạo động, nhất là khi có tin chính phủ trung ương dự định sẽ xây đập thủy điện ở Sơn La và sẽ phải dời khoảng 100 ngàn người (gốc người Thái) đi nơi khác và nơi khác đó chắc chắn là vùng Tây Nguyên. Ðể đối phó với những cuộc biểu tình, chính quyền địa phương phong tỏa toàn tỉnh, cấm phóng viên ngoại quốc đến lấy tin, kiểm soát đường dây điện thoại, sau đó họ huy động công an, quân đội, xe xịt nước để đàn áp, nhưng các cuộc biểu tình vẫn tiếp tục nhiều ngày tại những địa điểm khác nhau.

Khác với những cuộc biểu tình của nhân dân tỉnh Thái Bình mấy năm trước chỉ phản đối về thuế khóa và những viên chức tham nhũng, cuộc biểu tình này liên quan đến những vấn đề lớn lao hơn như luật lệ về sở hữu đất đai, về tình trạng những sắc dân thiểu số, về tự do tôn giáo và tự trị chính trị. Từ nhiều năm, do văn hóa và nếp sống khác nhau, những sắc dân thiểu số tại vùng Tây Nguyên đã khó hòa đồng vào nếp sống của người Việt. Từ sau 1955, những chính quyền liên tiếp ở Nam Việt Nam đã tương đối để cho họ tự trị và đưa ra nhiều biện pháp nâng đỡ. Tuy thế trong năm 1964, đã có một phong trào nổi lọan của phong trào FULRO (Front Unifié de Lutte des Races Opprimées - Mặt trận Ðoàn Kết Những Chủng tộc bị Áp bức) nổi lên trong vùng Ban Mê Thuột. Cuộc nổi lọan này bị dập tắt nhanh chóng, những người cầm đầu chạy qua Căm Pu Chia. Sau năm 1975, do kinh tế Việt Nam tồi tệ, đời sống của những người dân thiểu số lại càng khốn khó hơn. Ngoài những khó khăn về vật chất, chính quyền còn tìm cách bóp nghẹt quyền tự do tín ngưỡng của họ, nhất là những người theo đạo Công Giáo hay Tin Lành. Vì thế, sau nhiều năm bị chèn ép, họ đã nổi lên biểu tình phản đối.

Trước những cuộc biểu tình của dân chúng Tây Nguyên, Bộ Chính Trị của đảng phải họp phiên họp bất thường vào ngày 10-02-2001 để tìm cách đối phó. Trước hết, chính quyền trung ương ra lệnh bắt một số những viên chức hành chánh tỉnh Ðắc Lắc phải xuống ở luôn trong các buôn ấp sinh hoạt với dân chúng và giải quyết nhanh chóng những tranh chấp khiếu nại. Các phái đoàn của đảng và chính phủ lần lượt đến tận nơi tra xét. Ðầu tiên là Nguyễn Tấn Dũng đến cao nguyên vào tháng 2/2002, sau đó là Phạm Thế Duyệt, Phan Văn Khải trong tháng 3, cuối cùng là Lê Minh Hương (Bộ Trưởng Công An) đến vào tháng 7 và cuối cùng là Nông Ðức Mạnh đến vào tháng 9. Những biện pháp lấy lòng dân được hứa hẹn, chẳng hạn lập nhà máy điện, mở bệnh viện, trường học, lấy đất công cấp phát cho dân nghèo. Công tác tuyên truyền cũng được đẩy mạnh, chương trình phát thanh và truyền hình của các sắc tộc khác nhau (Ê đê, Jarai, Koho, Mnong và Sedang) được tăng thêm thời gian. Học sinh sinh viên sắc tộc được tăng trợ cấp và quần áo. Những sách báo tuyên truyền ca tụng chính sách về sắc tộc của đảng được in và phân phát, hình Hồ Chí Minh được phát không. Sau đó, một số đất đai bị chiếm lãnh được trao trả bớt lại. Tại Dak Lak, trả lại 165 ngàn mẫu, tại Lâm Ðồng 66 ngàn mẫu.

Song song với những biện pháp xoa dịu, chính quyền đổ thừa những vụ biểu tình là nằm trong “âm mưu diễn biến hòa bình của những thế lực thù nghịch” và bắt giữ những người bị nghi là chủ mưu. Chính quyền tuyên bố đã bắt giữ khoảng 20 người và gán những người này là thuộc về lực lượng FULRO từng làm loạn đòi tự trị tại Nam Việt Nam bốn mươi năm trước. Họ tố cáo người cầm đầu là Ksor Kok, hiện định cư tại Hoa Kỳ, mưu định thành lập quốc gia Degar trên vùng Tây Nguyên. Khoảng một ngàn người, phần lớn là đàn bà và trẻ em bỏ trốn sang Căm Pu Chia, nhưng chỉ một số nhỏ được đi định cư tại những quốc gia khác. Số còn lại bị chính phủ Căm Pu Chia đẩy trở về Việt Nam. Tuy đã có những biện pháp xoa dịu và đàn áp, những bất mãn của những sắc dân thiểu số ở Tây Nguyên vẫn còn âm ỉ. Bị áp lực dư luận của Mỹ, đại sứ Peterson đã lên vùng Tây Nguyên quan sát vào tháng 7 năm 2001, nhưng khi trở về, ông đã than phiền là không được trực tiếp tiếp xúc với dân chúng. Chính quyền Hà Nội cũng mời Hội Ðồng Về Tự Do Tôn Giáo của Hoa Kỳ cử một phái đoàn đến Việt Nam quan sát vào tháng 2 năm 2002. Tuy nhiên, phái đoàn đã không được gặp những Thượng Tọa Thích Huyền Quang, Thích Quảng Ðộ, Linh Mục Nguyễn Văn Lý hay ông Lê Quang Liêm của Phật Giáo Hòa Hảo. Hà Nội đã phản ứng dữ dội khi hai tháng sau, Human Rights Watch đưa ra một bản báo cáo dày 200 trang nhan đề “Ðàn Áp Những Người Miền Núi” lên án chính quyền Cộng sản Việt Nam. Trước đó, ngày 6-9-01, Hạ Viện Hoa Kỳ biểu quyết đạo luật HR 2833 xác nhận không có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng đạo luật này đã bị Thượng Nghị Sĩ Kerry kiềm giữ không cho đưa ra Thượng Viện biểu quyết. Ba năm sau, chính quyền Việt Nam vẫn còn loan báo những xáo động lẻ tẻ vào những ngày lễ Easter hay Giáng sinh năm 2004.