Home Tin Tức Bình Luận Nói Với Các Bạn Trẻ Về Sự Thật Ở Việt Nam

Nói Với Các Bạn Trẻ Về Sự Thật Ở Việt Nam PDF Print E-mail
Tác Giả: Nguyễn Hữu Thống   
Thứ Sáu, 24 Tháng 10 Năm 2008 13:15

12.01.2005

 Sự Thật Xã Hội

Cố Trung Tướng Trần Độ nguyên là Trưởng Ban Văn Hóa Văn Nghệ Trung Ương Đảng CS. Ông dành cả cuộc đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và dân chủ hóa đất nước. Vì bất đồng chính kiến, ông bị Đảng khai trừ năm 1999. Tháng 6-2001, ông bị công an tước đoạt cuốn Nhật Ký Rồng Rắn (Cuối năm Thìn 2000, đầu năm Tị 2001). Con chim bay đi tiếng hót thiết tha, con người ra đi nói lời minh triết. Sau đây là trích dẫn những nhận định trong cuốn Nhật Ký của ông về chế độ mệnh danh là Xã Hội Chủ Nghĩa

 Độc Tài Toàn Trị

 Nguyên tắc chuyên chính tàn bạo hơn cả là chuyên chính tư tưởng. Những điều luật quy các tội có hại cho lợi ích cách mạng, nói xấu chế độ, nói xấu lãnh đạo v...v... để đàn áp tàn khốc mọi tiếng nói.

 Nền chuyên chính vô sản làm tê liệt toàn bộ đời sống tinh thần của một dân tộc, nô dịch con người thành những con rối chỉ biết nhai như vẹt các nguyên lý bảo thủ, giáo điều làm cho giáo dục khô cứng, các hoạt động văn học nghệ thuật nghèo nàn.

 Nền chuyên chính tư tưởng là tổng hợp các tội ác ghê tởm của Tần Thủy Hoàng và của các chế độ phát xít, độc tài. Nó tàn phá cả một dân tộc, hủy hoại tinh anh của nhiều thế hệ. Nhân dân Việt Nam sau 70 năm đấu tranh gian khổ và 30 năm chiến tranh ác liệt đã mang lại cho đất nước một chế độ xã hội kiểu gì?

 Câu trả lời ngon lành như sau:

 "Ta đang có một chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa tốt đẹp. Ai nói khác đi là chống lại Chủ Nghĩa Xã Hội, chống lại Đảng Cộng Sản. Nhưng người dân thường, nhất là nhiều bậc lão thành, nhiều nhà trí thức và thanh niên, đều thấy chữ Xã Hội Chủ Nghĩa thật là vô duyên và vô nghĩa".

 Sau năm 1975, hàng trăm ngàn người không công nhận chế độ chính trị đã bỏ đất nước ra đi. Đảng Cộng Sản công khai tuyên bố là Đảng lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối. Đảng quét sạch các Đảng Việt Quốc, Việt Cách, vận động và ép buộc hai đảng đồng minh trong Mặt Trận Tổ Quốcù là đảng Dân Chủ và đảng Xã Hội phải tự giải thể với lý do "đã hoàn thành sứ mệnh".

 Nói Một Đường Làm Một Nẻo Đặc điểm bao trùm của chế độ chính trị xã hội này là nói một đàng làm một nẻo. Nói thì dân chủ vì dân, mà làm thì chuyên chính phát xít, nghĩa là nói dối, nói láo, lừa bịp, "nói vậy mà không phải vậy". Đặc điểm này tạo ra một xã hội dối lừa, lãnh đạo dối lừa, Đảng dối lừa, cán bộ dối lừa, làm ăn giả dối, bằng cấp giả dối, giáo dục dối lừa, đến gia đình cũng lừa dối.

 Điều dã man và tàn bạo nhất là độc tài ý thức hệ. Bất cứ một khác biệt nào đều bị quy là chống đối, là phản động, là tội phạm. Hệ quả của chế độ này là trong xã hội không ai dám nói khác, dám có ý nghĩ khác, dù có nghĩ một đàng cũng phải nói một nẻo. Như vậy xã hội bao trùm sự giả dối, lừa bịp, sợ hãi, tê liệt về tư duy và tình cảm. Đó là một chế độ lưu manh hóa xã hội, bần cùng hóa nhân dân, và nô lệ hóa con người. Vì vậy chế độ không phải là dân chủ Xã Hội Chủ Nghĩa mà là một chế độ xã hội phản dân chủ.

 Điều rõ nhất là Đảng đưa ra Hiến Pháp 1992, nhân dân phải chấp nhận Điều 4 và phải chịu sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng Sản.

 Tự Do Là Chìa Khoá Của Phát Triển Điều quan trọng nhất cho đất nước hiện nay là tìm ra con đường phát triển đất nước cho mau chóng thoát khỏi nghèo khổ, lạc hậu. Năm 1975, ta thu lại một nửa nước no đủ và đầy hàng hóa, thế mà đến những năm đầu của thập kỷ 80, cả nước đói nghèo, ngắc ngoải. Xem quanh ta Đài Loan, Đại Hàn, Singapore, Thái lan và Malaysia, mấy nước này có do chủ nghĩa Mác Lênin hướng dẫn không? có một đảng Cộng Sản theo Chủ Nghĩa Xã Hội không? Thế mà cả 5 nước ấy khi bắt đầu còn nghèo khổ, vậy mà chỉ sau khoảng 20-30 năm đã trở thành những nước phát triển, nhân dân có đời sống khá phong lưu.

 Muốn cho đất nước phát triển nhanh thì cần phải làm sao cho mọi người dân đều được tự do làm ăn, nông dân, thương nhân, nhà doanh nghiệp, công nhân, nhà khoa học, trí thức văn nghệ sĩ, tất cả đều phải được tự do. Vì tự do là chìa khóa của phát triển.

 Bây giờ chỉ còn lại có bốn nước theo chủ nghĩa Mác Lênin và Chủ Nghĩa Xã Hội. Trong đó nước lớn nhất và quan trọng nhất thì miệng nói chủ nghĩa Mác Lênin, nhưng đã đưa đất nước tiến lên theo kiểu "có màu sắc Trung Quốc". Họ phải chơi với Mỹ, xác định vai trò kinh tế tự do và kinh tế tư nhân. Có người nói cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa ở Nga thành công và Liên Xô ra đời là sự kiện quan trọng nhất của thế kỷ 20. Vậy thì sự sụp đổ của cái "quan trọng" ấy lại càng "siêu quan trọng".

 Khi đất nước đã chuyển sang hòa bình xây dựng thì cần có một bộ máy quản lý xã hội phù hợp với cuộc sống đời thường. Cần có 4 thứ như bốn bánh xe của một cỗ xe:

 1) Một xã hội công dân

2) Một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh chứ không định hướng gì lôi thôi

3) Một nhà nước pháp quyền

4) Một nền dân chủ đầy đủ Bộ máy quản lý xã hội ấy là một bộ máy dân chủ. Khi dân có dân chủ thì dân phải "dùng" cái quyền dân chủ đó, dùng không phải là "lợi dụng".

 Đảng Cộng Sản Sẽ Phải Chịu Tội Trước Lịch Sử

 Sự thật của mấy chục năm qua là: Cuôc cách mạng ở Việt Nam đã xây dựng nên một xã hội nhiều bất công, nhiều tệ nạn, một chính quyền phản dân chủ, chuyên chế của một chế độ độc đảng toàn trị. Những mỹ từ được sử dụng chỉ để củng cố sự cầm quyền của đảng Cộng Sản, biến đảng Cộng Sản thành một tầng lớp thống trị gồm một tập đoàn quan chức chỉ muốn bóc lột, hành hạ, sai khiến nhân dân và lừa bịp nhân dân, và lại cứ nhân danh là "đầy tớ của nhân dân".

 Sự nỗ lực của đảng Cộng Sản hiện nay chỉ tập trung vào sự củng cố quyền lực của Đảng. Bộ máy công tác tư tưởng đồ sộ ngày đêm hò hét ca ngợi Đảng, một bộ máy "nói lấy được", lừa bịp, dối trá đến trắng trợn, kiểu lưu manh. Bên cạnh đó, nảy sinh một hệ thống an ninh đầy quyền lực và thủ đoạn, học tập từ các chế độ phong kiến, phát xít và độc tài cộng sản. Tất cả nhằm bảo vệ quyền lực của đảng Cộng Sản. Trong lúc đảng Cộng Sản ngày càng tỏ ra kém sức lực trong việc quản lý xã hội bình thường. Vì đảng Cộng Sản chỉ quản lý được một "xã hội trại lính".

Đảng ra sức củng cố tình trạng độc đảng, chuyên chế về tư tưởng và chính trị, tạo ra một xã hội đầy tham nhũng, dối trá và lừa bịp. Ngoan cố duy trì chế độ độc đảng và toàn trị thì sớm muộn nhân dân sẽ chán ghét và do đó dẫn đến đổ vỡ, tạo ra những tai họa khôn lường cho đất nước và dân tộc, tai họa ấy còn nặng nề gấp nhiều lần tai họa của cải cách ruộng đất. Tai họa ấy sẽ xóa sạch vai trò của Đảng trong lịch sử và Đảng sẽ phải chịu tội trước lịch sử.

 Thực chất là chế độ rất dã man, cho nên phải dùng nhiều thủ đoạn để lừa bịp nhân dân như thần thánh hóa Đảng và các nghị quyết. Điều vô lý là bắt toàn dân phải học nghị quyết của Đảng.

Nổi bật lên là một bộ máy độc đoán, độc tài toàn trị, đàn áp thẳng tay các ý kiến khác. Có một đội ngũ "lưỡi gỗ" rất đông đảo, chuyên ngụy biện, nói lấy được, nói bừa bãi, trắng trợn, bất chấp lẽ phải, đạo lý và luật pháp và có lúc dùng nhiều thủ đoạn lưu manh.

 Nhân dân bị tước hết mọi quyền tự do dân chủ. Đảng tự do yêu cầu dân đóng góp và tự do sử dụng mọi sự đóng góp của dân. Đảng luôn tạo ra một không khí khủng bố đối với bất cứ ai có chính kiến độc lập. Đảng tạo ra một xã hội đầy tham nhũng, phản dân chủ, đầy dối trá lừa bịp, nói một đàng làm một nẻo, đầy thủ đoạn (nịnh nhau, hất nhau và hại nhau). Trong hiến pháp có rất nhiều điều về quyền dân chủ của dân, nhưng trong đó có ba điều dân chủ cơ bản là tự do ngôn luận, tự do bầu cử và tự do lập hội, thì đều bị chôn vùi bởi những đạo luật phản động và những thủ đoạn bỉ ổi.

Như về bầu cử thì có những thủ đoạn "Đảng cử, dân bầu", "hiệp thương", thực chất là không ai được quyền tự ứng cử. Như về báo chí, xuất bản, thì những đạo luật trái ngược với hiến pháp lại bắt buộc mọi người phải tuân theo nghiêm ngặt. Như về tự do lập hội thì trong thực tế không ai có quyền gì hết, vì các thủ tục xin phép đủ làm nản lòng tất cả những ai muốn lập hội .

Trong khi tuyên truyền sống theo pháp luật thì Đảng lại là người sống ngoài pháp luật và sống trên pháp luật trắng trợn nhất. Chế độ độc đảng, độc quyền toàn trị là thủ phạm và nguồn gốc của mọi sự lộn xộn tiêu cực trong xã hội và tình trạng phản dân chủ của đất nước.

Có thật Chủ Nghĩa Xã Hội mang hạnh phúc cho nhân dân không? Tại sao Liên Xô xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội hơn 70 năm rồi mà không tiếp tục đứng vững được? Các nước Đông Âu theo Liên Xô cũng thay đổi cả. Nhân dân ở các nước đó đều thấy bất bình với chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa. Tại sao Việt Nam có hàng triệu người bất kể sống chết, hiểm nguy cứ ra đi tìm đường sống ở các nước khác?

 Không nên nói định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa mà chỉ nói dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Hết sức quan trọng là ở mấy chữ xã hội công bằng, dân chủ. Vì đã dân chủ thì phải đả phá chuyên chính, đả phá toàn trị, đả phá độc quyền. Đường lối thì chưa giải quyết, chỉ mới là một sự lập lại vô duyên các khẩu hiệu quá lỗi thời.

 Đảng chỉ chấp nhận và đoàn kết với những người giống như Đảng và nói theo ý Đảng, coi tất cả mọi người có ý kiến khác đều là chống đối, là phản động. Ngay cả những đảng viên lâu năm mà có ý kiến khác cũng bị khai trừ và đối xử như thù địch. Như vậy là vấn đề đường lối chưa được giải quyết. Đất nước đang bị tụt hậu nghiêm trọng.

 Xã hội này nhiễu nhương quá thể, người dân không được tự do. Nơi nơi tham nhũng, cấp cấp tham nhũng, ngành ngành tham nhũng. Người dân đóng góp nhiều thứ, nhiều lần quá, trong khi lương thực không đủ ăn. Mất dân chủ mọi lúc mọi nơi, mất tự do hơn cả khi còn chế độ thực dân. Đạo đức xuống cấp, tệ nạn xã hội ngày càng tăng, sự quan liêu bất lực của cơ quan nhà nước đến phát sợ. Vậy thì xã hội dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư bản là ở chỗ nào?

Sau những năm 90, mô hình Chủ Nghĩa Xã Hội đã thất bại, Trong khi đó Chủ Nghĩa Tư Bản đang tự điều chỉnh và ngày càng tiến đến hậu tư bản chủ nghĩa. Dân Chủ Hoá Là Vấn Đề Chiến Lược Các vị lãnh đạo nói nhiều điều tốt đẹp, là nói theo dân mà thôi. Dân căm ghét tham nhũng thì lãnh đạo hò hét "kiên quyết chống tham nhũng". Dân yêu cầu dân chủ thì lãnh đạo thêm chữ dân chủ vào khẩu hiệu chiến lược. Nhưng nói thêm chữ thì chưa có ý nghĩa gì. Vì ta vốn nói một đàng, làm một nẻo. Người trí thức và người dân chỉ thấy những lời nói tốt đẹp kia là vô nghĩa.

 Dân chủ hóa phải là vấn đề đường lối, vấn đề chiến lược, vấn đề chính trị xã hội. Yếu tố thiết yếu là một nền dân chủ thật sự bảo đảm tất cả mọi quyền công dân đã ghi trong hiến pháp và các công ước quốc tế. Chủ yếu nhất là thực hiện ngay (thực hiện chứ không phải chỉ ban bố) quyền tự do ngôn luận, tự do ứng cử, tự do bầu cử, và tự do lập hội.

 Phải từ bỏ độc tôn lãnh đạo, xóa bỏ chế độ độc đảng, thực hiện đa nguyên, đa đảng.

Phải truất bỏ ngay những thủ đoạn của các cơ quan công an như quản chế Hà Sỹ Phu, Mai Thái Lĩnh; bắt giam vô tội vạ Nguyễn Thanh Giang, Vũ Cao Quận; khám nhà lấy tài liệu của Vũ Cao Quận, Lê Hồng Hà; xâm phạm quyền thông tin và thư tín của Hoàng Minh Chính, Trần Độ v...v... Những hành vi đó không chỉ mất dân chủ, phi luật pháp, xâm phạm quyền tự do công dân, mà còn là những hành vi man rợ, vô văn hóa, bất lịch sự, rất đáng lên án và phỉ nhổ. Trích Nhật Ký Trần Độ (Tháng 5, 2001)

 Gia Tăng Đàn Áp

 Tháng 6/2001 tập Nhật Ký Trần Độ đã bị công an cưỡng đoạt. Hành động thô bạo này khiến ông uất ức, cơn bạo bệnh bộc phát. Ông mất hồi tháng 8/2002. Bất chấp lời cảnh giác của Trần Độ, sau vụ Đại Khủng Bố ngày 11 tháng 9-2001, Đảng Cộng Sản lợi dụng thời cơ leo thang khủng bố. Một tháng sau, tháng 10/2001, họ kết án Linh Mục Nguyễn Văn Lý 15 năm tù về 2 tội phá hoại chính sách đoàn kết quốc gia và vi phạm quyết định quản chế hành chánh. Năm 2001 khi hay biết có sự nhượng đất, nhượng biển cho Trung Cộng, các nhà trí thức trẻ trong Nhóm Dân Chủ như Lê Chí Quang, Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Bình cũng như các vị lão thành cách mạng như Phạm Quế Dương, Trần Khuê đã đồng thanh tố cáo Đảng Cộng Sản nhượng đất, bán nước cho ngoại bang.

 Để trả đũa Đảng Cộng Sản đã thẳng tay đàn áp:

Tháng2/2002, họ bắt giữ và truy tố Lê Chí Quang về tội tuyên truyền chống nhà nước sau khi viết bài "Hãy Cảnh Giác Bắc Triều!" Trong năm 2002 họ còn bắt giữ và truy tố thêm 8 người về tội gián điệp: Nguyễn Khắc Toàn (tháng 1), chỉ vì đã tổ chức những vụ khiếu nại khiếu kiện, mít tinh biểu tình tại Hà Nội để đòi lại ruộng đất cho nông dân hai miền Nam Bắc; Phạm Hồng Sơn (tháng 3), chỉ vì đã dịch cuốn "Thế Nào Là Dân Chủ?" từ mạng lưới thông tin của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ; Nguyễn Vũ Bình (tháng 7), chỉ vì đã gởi bản điều trần đến Quốc Hội Hoa Kỳ tố cáo những vi phạm nhân quyền ở Việt Nam cùng đòi thực thi chế độ đa đảng, và đệ đơn thành lập Đảng Tự Do Dân Chủ đối lập với đảng cầm quyền; Nguyễn Vũ Việt, Nguyễn Trực Cường và Nguyễn Thị Hoa là 3 người cháu của Linh Mục Nguyễn Văn Lý (tháng 10), chỉ vì đã tàng trữ các tài liệu nhân quyền và cung cấp cho người Việt hải ngoại những tin tức về vụ các Phật tử chuẩn bị đón Hòa Thượng Thích Huyền Quang từ Quảng Ngãi vào Saigon; Phạm Quế Dương và Trần Khuê (tháng 12) là hai phát ngôn viên của Hội Nhân Dân Chống Tham Nhũng và Nhóm Dân Chủ; Tháng 11/2002 họ kết án Lê Chí Quang 4 năm tù về tội tuyên truyền chống nhà nước; Và tháng 12/2002 họ kết án Nguyễn Khắc Toàn 12 năm tù về tội gián điệp. Trong năm 2003 họ còn bắt giữ và truy tố thêm 2 người về tội gián điệp: Trần Dũng Tiến (tháng 1) là người đã đích danh tố cáo Đỗ Mười và Lê Đức Anh bao che tham nhũng; Nguyễn Đan Quế (tháng 3), vì đã tố cáo Đảng CS giữ độc quyền thông tin; Trong tháng 3 và tháng 6/2003, họ đã bắt giữ và truy tố Mục Sư Nguyễn Hồng Quang và 5 Truyền Đạo Tin Lành về tội bịa đặt ngăn cản nhân viên công lực hành sự;

Cũng trong tháng 6/2003 họ đã kết án Phạm Hồng Sơn 13 năm tù về tội gián điệp (sau giảm án còn 5 năm). Tháng 12/2003, họ đã kết án về tội lợi dụng quyền tự do dân chủ (thay vì tội gián điệp) và đã tuyên phạt: Nguyễn Vũ Việt và Nguyễn Trực Cường 32 tháng tù; Nguyễn Thi Hoa 4 tháng 8 ngày tù; Trần Dũng Tiến 10 tháng tù; Và tháng 12/2003 họ đã kết án Nguyễn Vũ Bình 7 năm tù về tội gián điệp. Qua tháng 7 năm 2004 họ đã kết án về tội lợi dụng quyền tự do dân chủ (thay vì tội gián điệp), và đã tuyên phạt: Phạm Quế Dương và Trần Khuê 19 tháng tù; Nguyễn Đan Quế 30 tháng tù. Và tháng 12/2004 họ đã kết án Mục Sư Nguyễn Hồng Quang 3 năm tù về tội thường phạm bịa đặt "ngăn cản nhân viên công lực hành sự" thay vì tội lợi dụng quyền tự do tôn giáo hay tội gián điệp. Trước đó 2 tháng, ngày 15/9/2004, Chính Phủ Hoa Kỳ đã liệt kê Việt Nam vào danh sách các quốc gia cần phải đặc biệt lưu tâm, vì đã thường xuyên và thô bạo vi phạm quyền tự do tôn giáo. Muốn tránh tiếng đàn áp tôn giáo, Viện Kiểm Sát đã viện dẫn tội thường phạm chống lại nhân viên công lực.

 Như vậy từ tháng 12/2002 đến tháng 12/2004, Đảng CS Việt Nam đã truy tố và kết án 12 tù nhân chính trị và tù nhân tôn giáo bằng những tội danh bịa đặt, giả tạo và lố bịch.

 Sự Thật Lịch Sử

 Như Trần Độ đã viết, người Cộng Sản nói một đàng làm một nẻo. Họ đưa ra những mục tiêu lý tưởng để giành chính nghĩa và cướp chính quyền. Từ thập niên 1940 những khẩu hiệụ tuyên truyền được phổ biến là: đoàn kết quốc gia, độc lập thống nhất, tự do hạnh phúc, công bằng xã hội, người cày có ruộng, hòa hợp dân tộc, bảo vệ tổ quốc v...v... Tuy nhiên thay vì thực thi nguyện vọng của người dân, Đảng CS đã hành động trái ngược. Sự thật lịch sử đã chứng minh điều đó.

 Đoàn Kết Quốc Gia

 Sau Thế Chiến II, Thế Giới Dân Chủ không chịu trao Đông Dương cho Đảng Cộng Sản Đông Dương, vì họ không muốn Stalin mở rộng Bức Màn Sắt từ Đông Âu qua Đông Á. Ngày 11-11-1945 Hồ Chí Minh giả bộ giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương. Để có chính nghiã đoàn kết quốc gia, Hồ Chí Minh mời Nguyễn Hải Thần thuộc Cách Mạng Đồng Minh Hội và Vũ Hồng Khanh thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng cùng ký Tuyên Cáo Đoàn Kết ngày 24-12-1945. Ngày 6-3-1946, Hồ Chí Minh ký Hiệp Ước Sainteny cho 15 ngàn quân Pháp trở lại đồn trú tại Bắc Việt trong thời hạn 5 năm.

Tháng 5, 1946, sau khi quân đội Trung Hoa triệt thoái, Đảng CS thẳng tay thủ tiêu các cán binh Quốc Dân Đảng và Đồng Minh Hội là những đối thủ nguy hiểm của Cộng Sản trên đường cướp chính quyền.

Từ năm 1936, dưới thời Mặt Trận Bình Dân, Đảng CS hợp tác với nhóm Tân Tả Phái của Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch trong Mặt Trận Dân Chủ. Sau khi cướp được chính quyền năm 1945, Đảng CS phản bội giao ước đoàn kết, và đã thủ tiêu Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch trong nhóm Tân Tả Phái, Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu, Dương Văn Giáo, Nguyễn Văn Sâm, Hồ Văn Ngà trong các nhóm Lập Hiến, Trương Tử Anh (Đại Việt), Lý Đông A (Duy Dân), Khái Hưng, Nhượng Tống (Quốc Dân Đảng), Đức Huỳnh Phú Sổ (Hòa Hảo) v...v..

.Độc Lập Thống Nhất

 4 năm sau Thế Chiến Thứ Hai, năm 1949, 12 nước Á Châu đã giành được độc lập bằng đấu tranh chính trị và ngoại giao, không bạo động và không liên kết với Quốc Tế CS. Trong thời gian 3 năm, từ 1946 đến 1949, tất cả các đế quốc Tây Phương như Mỹ, Anh, Pháp, Hòa Lan đã lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho các thuộc địa Á Châu:

 Năm 1946 Hoa Kỳ trả độc lập cho Phi Luật Tân vào ngày Quốc Khánh 4 tháng 7 (Phi Luật Tân được tự trị từ 1935).

 Trong những năm 1947-1948, Chính Phủ Lao Động Anh Clement Attlee trả độc lập cho 5 thuộc địa và giám hộ: Ấn Độ, Đại Hồi, Miến Điện, Tích Lan và Palestine. Năm 1949 Hòa Lan trả độc lập cho Nam Dương Năm 1946 Pháp trả độc lập cho Syria và Lebanon. Và năm 1949 tại Điện Élysée Paris, Tổng Thống Pháp Vincent Aureol ký 3 hiệp định với các Quốc Vương Việt Nam, Ai Lao và Cao Miên để trả độc lập cho Việt Nam (8 tháng 3-1949), cho Ai Lao (20 tháng 7-1949), và cho Cao Miên (8 tháng 11-1949). Ngay từ 1947, Tổng thống Pháp đã yêu cầu Liên Hiệp Quốc đăng ký 3 nước Việt Miên Lào là những quốc gia độc lập. (Coi Everyone's United Nations năm 1986, trang 332).

 Tại Saigon, ngày 23-4-1949, Quốc Hội Nam Kỳ biểu quyết giải tán chế độ Nam Kỳ Tự Trị để sát nhập lãnh thổ Nam Phần vào Quốc Gia Việt Nam độc lập và thống nhất. (Coi Nguyễn Khắc Ngữ: Bảo Đại, Các Đảng Phái Quốc Gia và sự thành lập chính quyền quốc gia. Có thể tham khảo thêm tại các thư viện và văn khố tại Paris).

 Mặc dầu vậy, Đảng CS đã phủ nhận Hiệp Định Élysée vì Hiệp Định này không cho Đảng CS độc quyền lãnh đạo quốc gia. Và Đảng CS đã vận dụng sự yểm trợ của Liên Xô và Trung Quốc để tiếp tục chiến đấu võ trang trong suốt 30 năm. Từ 1949 chiến tranh Việt Nam không còn là chiến tranh giải phóng dân tộc, mà là chiến tranh ý thức hệ giữa Quốc Tế Cộng Sản và Thế Giới Dân Chủ như Chiến Tranh Triều Tiên (1950-1953). Trên bình diện dân tộc đây là cuộc chiến tranh vô ích, vô lý và vô nghĩa khiến cho 3 triệu thanh niên nam nữ đã phải hy sinh thân sống.

Tự Do Hạnh Phúc
Ngoài ra Đảng CS còn phản bội đồng bào trong các mực tiêu tự do hạnh phúc. Sau 60 năm cai trị, Đảng CS đã biến Việt Nam thành một trong số 10 quốc gia phản dân chủ nhất thế giới kém cả Cao Miên. Vì tại Cao Miên không thấy có đàn áp tôn giáo, có các báo chí độc lập và đối lập, có 3 chính đảng của Hun Sen, Ranariddh và Rainsy, và tương đối có tự do tuyển cử. Trong khi đó tại Việt Nam, Đảng Cộng Sản đã tước đoạt của người dân tất cả những quyền tự do tinh thần và tự do chính trị như tự do tôn giáo, tự do ngôn luận và báo chí, tự do hội họp, lập hội và lập đảng và tự do tuyển cử.

 Về mặt kinh tế xã hội, từ một quốc gia giàu thịnh nhất Đông Nam Á trước Thế Chiến II, Việt Nam đã trở thành một trong những nước nghèo đói nhất thế giới, lợi tức bình quân mỗi đầu người tại Việt Nam chỉ bằng 1/3 tại Phi Luật Tân, 1/6 tại Thái Lan, 1/10 tại Mã Lai, ½5 tại Đại Hàn, ¼0 tại Đài Loan, 1/85 tại Tân Gia Ba. Và đặc biệt chỉ bằng Ỏ½ tại Congo (Coi Encyclopedia Brittannica 2001: Việt Nam 350 mỹ kim so với Congo 680 mỹ kim).

Thêm vào đó, những bất công và bất bình đẳng xã hội trầm trọng đã gây nên sự chênh lệch giàu nghèo quá đáng, và lợi tức thực sự của người dân Việt Nam trung bình tại nông thôn chỉ được chừng ½ mỹ kim một ngày.

 Công Bằng Xã Hội Người Cầy Có Ruộng

 Trong thập niên 1950, khi chiến tranh còn đang tiếp diễn, thay vì vận dụng toàn dân đoàn kết, Đảng CS đã phát động đấu tranh giai cấp trong 5 đợt đấu tố cải cách ruộng đất, nói là để thực hiện mục tiêu người cày có ruộng. Trên thực tế Đảng CS đã không chia ruộng đất cho bần cố nông. Năm 1958 họ áp dụng chính sách tập sản hóa để tập trung tất cả ruộng đất trong các hợp tác xã thuộc quyền quản trị của Đảng và Nhà Nước. Và người nông dân vô sản vẫn hoàn là vô sản, không có một tấc đất cho bản thân và gia đình. Kết quả hơn 200 ngàn trung tiểu nông (có từ 1 hecta đến 3 hecta ruộng), bị đôn lên hàng địa chủ, đã bị sát hại, tù tội và tước đoạt tất cả ruộng đất, nhà cửa, tài sản. Người cày có ruộng là một khẩu hiệu tuyên truyền dối trá, trắng trợn nhất của Đảng CS.

Hoà Hợp Dân Tộc

 Năm 1975, sau khi thôn tính Miền Nam, Đảng CS đề ra chính sách hòa hợp dân tộc, hứa hẹn hòa giải với những người quốc gia phục vụ chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Trên thực tế, hàng trăm ngàn trí thức văn nghệ sĩ, quân nhân, công chức, cán bộ đã bị lao động khổ sai trong các trại tập trung (hay trại cải tạo), người thì 5, 7 năm, người thì 15, 17 năm. Mục đích để đọa đày thân xác và hủy diệt ý chí của tù cải tạo.

 Cũng trong năm 1975, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, sau khi hoàn thành sứ mệnh, đã bị giải thể để sát nhập vào Mặt Trận Tổ Quốc.

 Bảo Vệ Tổ Quốc

 Năm 1958 Đảng CS công bố mục tiêu thôn tính Miền Nam bằng võ lực. Để chống lại Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ và Đồng Minh, Hà Nội cần sự cưu mang tận tình của người thầy phương Bắc. Muốn được cưu mang phải có lời cam kết ĩđền ơn trả nghĩa. Ngày 14 Tháng 9, 1958, qua văn thư của Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Đảng, Chủ Tịch Nước, cam kết nhượng cho Trung Quốc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

 Có 3 lý do được viện dẫn trong lời cam kết này:

 1) Vì Hoàng Sa, Trường Sa tọa lạc tại các vĩ tuyến 17-7 (Quảng Trị- Nam Cà Mâu) nên thuộc hải phận Việt Nam Cộng Hòa. Đối với Hà Nội nhượng Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Quốc trong thời điểm này chỉ là bán da gấu.

2) Sau này, nếu do những tình cờ lịch sử, Bắc Việt thôn tính được Miền Nam thì mấy hòn đảo san hô tại Biển Đông đâu có ăn nhằm gì so với toàn thể lãnh thổ Việt Nam?

3) Giả sử cuộc thôn tính Miền Nam không thành, thì việc Trung Cộng chiếm đóng Hoàng Sa Trường Sa thuộc lãnh hải Việt Nam Cộng Hòa cũng sẽ có tác dụng làm suy yếu phe quốc gia về chiến lược, kinh tế và chính trị.

 Trong những năm 1999 và 2000, giữa lúc trời quang biển lặng, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã ký 3 hiệp ước để nhượng đất, bán nước và dâng biển cho Trung Quốc. Đó là Hiệp Ước Biên Giới Việt Trung, Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt và Hiệp Ước Hợp Tác Đánh Cá. Đây là những hiệp ước bất công và không cần thiết. Vì vấn đề phân ranh lãnh thổ và lãnh hải Bắc Việt đã được giải quyết từ thế kỷ 19. Năm 1885 Việt Nam và Trung Hoa ký Hiệp Ước Thiên Tân để phân định chủ quyền lãnh thổ, và 2 năm sau, năm 1887, lại ký Hiệp Ước Bắc Kinh để phân ranh hải phận Bắc Việt. Hai hiệp ước quốc tế này đã đem lại an ninh lãnh thổ cho hai quốc gia từ trên một thế kỷ. Vậy mà ngày nay, mặc dầu không có chiến tranh võ trang, không có xung đột biên giới, không có tranh chấp hải phận, bỗng dưng vô cớ, phe lãnh đạo Cộng Sản mật đàm, mật ước và lén lút thông qua 3 hiệp ước nói trên để nhượng 800 km2 lãnh thổ biên giới, 12.000 km2 hải phận Bắc Việt và hiến dââng tôm cá, dầu khí cho Trung Quốc.

 Thay vì bảo vệ Tổ Quốc, Đảng CS đã phản bội Tổ Quốc, phản bội bằng cách vi phạm chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải quốc gia và xâm phạm quyền của người dân được hưởng dụng đầy đủ các tài nguyên và nguồn lợi thiên nhiên của đất nước.

Như vậy các mục tiêu chiến lược như độc lập thống nhất, tự do hạnh phúc, công bằng xã hội, người cày có ruộng, đoàn kết quốc gia, hòa hợp dân tộc, bảo vệ tổ quốc v...v... chỉ là những khẩu hiệu tuyên truyền dối trá.

 Tuyên truyền dối trá là vũ khí chiến lược số 1 của CS để cướp chính quyền và củng cố chính quyền.

 Ngày nay trong giai đoạn thoái trào, để làm lạc hướng dư luận và che dấu tình trạng khủng hoảng toàn diện về chính trị và xã hội, Đảng CS đề ra chính sách kiều vận trong Nghị Quyết 36 do Bộ Chính Trị Đảng CS ban hành tháng 3/2004. Nghị Quyết 36 nhắc lại 4 khẩu hiệu cũ và một khẩu hiệu thời sự:

 1) Xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, đề cao sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước (trước kia là độc lập quốc gia, thống nhất đất nước).

2) Đại đoàn kết toàn dân tộc (trước kia là đoàn kết quốc gia, hòa hợp dân tộc).

3) Phát triển kinh tế cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng (trước kia là ấm no hạnh phúc, công bằng xã hội, người cày có ruộng).

4) Xây dựng dân chủ để hội nhập vào cộng đồng nhân loại văn minh (trước kia là xây dựng chế độ dân chủ gấp triệu lần chế độ dân chủ tư sản tây phương).

5) Khẩu hiệu thời sự nói là đểụ ổn định cuộc sống, bảo hộ công dân, bảo hộ quyền lợi chính đáng của Người Việt Hải Ngoại, tạo điều kiện cho Người Việt Hải Ngoại hội nhập vào cộng đồng các quốc gia sở tại.

 Tháng 6-2004, Chính Phủ Hà Nội công bố Chương Trình Hành Động "nhằm tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị Quyết nêu trên của Bộ Chính Trị, góp phần phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ổn định cuộc sống và phát triển, giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam, hướng về Tổ Quốc góp phần xây dựng, bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".

 Theo Trần Độ, Đảng CS nói dân chủ, mà làm chuyên chính, người dân mất tự do hơn cả khi còn chế độ thực dân. Nói dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, nhưng chỉ xây dựng một xã hội đầy bất công, tệ nạn, tham nhũng, độc tài và lạc hậu. Ngày nay Đảng Cộng Sản dùng tuyên truyền để củng cố quyền lực. Bộ máy công tác tư tưởng ngày đêm hò hét ca ngợi Đảng, một bộ máy "nói lấy được", lừa bịp, dối trá.

 Phe lãnh đạo Cộng Sản nói nhiều điều tốt đẹp, là nói theo dân mà thôi. Dân căm ghét tham nhũng thì lãnh đạo hò hét chống tham nhũng. Dân yêu cầu dân chủ thì lãnh đạo thêm chữ dân chủ vào khẩu hiệu tuyên truyền. Nhưng nói thêm chữ thì chưa có ý nghĩa gì. Vì Cộng Sản nói một đàng, làm một nẻo. Trong Nghị Quyết 36, Đảng Cộng Sản nói đổi mới nhưng lại sợ thay đổi, sợ tiến hóa, sợ diễn biến hòa bình; nói dân chủ nhưng là dân chủ tập trung, độc tài độc đảng; nói bình đẳng dân tộc nhưng lại kỳ thị giai cấp, kỳ thị tôn giáo, kỳ thị sắc tộc, kỳ thị người quốc gia theo chủ nghĩa dân tộc; nói giao lưu văn hóa nhưng là giao lưu văn hóa một chiều; nói yêu nước bảo vệ tổ quốc nhưng lại phản bội tổ quốc, không bảo vệ chủ quyền lãnh thổ lãnh hải quốc gia và quyền của người dân được hưởng dụng đầy đủ các tài nguyên và nguồn lợi thiên nhiên của đất nước.

 Chính Phủ Hà Nội hứa hẹn sẽ trích ra 700 triệu mỹ kim trong ngân sách quốc gia để đài thọ cán bộ trong các cơ quan, tổ chức ngoại vi và đảng đoàn phụ trách, như Mặt Trận Tổ Quốc, Ủy Ban Về Người Việt Nam ở nước ngoài, Ban Tư Tưởng Văn Hóa, Ban Dân Vận, Ban Cán Sự Đảng ngoài nước, Hội Liên Hiệp Thanh Niên, Hội Sinh Viên Việt Nam, Đoàn Thanh Niên CS Hồ Chí Minh v...v... Đây là cơ hội để dĩ công vi tư, biển thủ công quỹ.

 ChươngTrình Hành Động của Chính Phủ Hà Nội gồm 9 mục tiêu công tác trong 3 kế hoạch:

 1) Kế hoạch tuyên truyền với 2 công tác:

a) Công tác thông tin tuyên truyền đưa ra 5 mục tiêu chiến lược hay 5 khẩu hiệu tuyên truyền

b) Công tác thông tin văn hóa vận động báo chí, truyền thông để quảng bá chính sách đổi mới, dân chủ chính trị, phát triển kinh tế, đối xử bình đẳng, phát huy chủ nghĩa dân tộc, đề cao tự hào dân tộc, bản sắc dân tộc,đạo lý, truyền thống, văn hóa dân tộc, tinh thần yêu nước, gắn bó với quê hương v...v...

 2) Kế hoạch kinh tài gồm 3 công tác:

a) Kêu gọi người Việt hải ngoại về thăm quê hương để tài trợ thân nhân, mua nhà sang đất, kết hôn, hồi tịch v...v...

b) Kêu gọi trí thức, chuyên gia về nước hợp tác, quản lý các cơ sở và cơ quan quốc nội và quốc tế.

c) Kêu gọi các nhà tư sản về nước đầu tư kinh doanh, hùn hợp, buôn bán v...v...

 3) Kế hoạch xâm nhập gồm 4 công tác:

a) Ổn định cuộc sống và hội nhập vào xã hội sở tại. Bảo hộ công dân, tạo cơ hội can thiệp, lũng đoạn, xâm nhập để tiếp xúc, mua chuộc cảm tình và chiêu dụ giới trẻ.

b) Giao lưu sinh hoạt về văn hóa, giáo dục, thể dục, thể thao, du lịch về nguồn, hội thảo, trại hè, trình diễn văn nghệ dân tộc v...v...

c) Truyền bá quốc ngữ cho giới trẻ, qua sách báo, truyền thanh, truyền hình, internet, lớp học v...v...

d) Thi đua, tuyên dương, khen thưởng để gây cảm tình viên và kết nạp trong các tổ chức ái hữu thân nhà nước.