Home Tin Tức Bình Luận Giáo Dục Việt Nam, Đã Đến Lúc Rồi Đó!

Giáo Dục Việt Nam, Đã Đến Lúc Rồi Đó! PDF Print E-mail
Tác Giả: GS Tương Lai   
Chúa Nhật, 23 Tháng 11 Năm 2008 22:28

20-11-2008
Nguồn: Tuần Việt-Nam


LGT: "Đã đến lúc đó rồi!" - "Phải đặt 22 triệu những người đang và sẽ là chủ thể của xã hội mới vào trong bối cảnh của nền văn minh trí tuệ và kinh tế tri thức đang giữ nhịp cho đời sống hiện đại của thế kỷ XXI." - Giáo sư Tương Lai có bài viết suy ngẫm về sự thay đổi tư duy trong giáo dục Việt Nam nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11.

Cần một sự "nổi loạn" trong tư duy

"Nói "không" với cái xấu, cái ác là cần thiết nhưng quan trọng không phải là những cái "không" mà làm ra một cái "có"; trên cơ sở cái "có", hãy tập trung vào xây dựng một chiến lược phát triển giáo dục cho thế kỉ 21. Đừng chần chừ! Mất thời gian là mất tuyệt đối".

Vẫn cung cách ấy, quyết liệt rạch ròi, giáo sư Hồ Ngọc Đại khẳng định: "Những đứa trẻ của thế kỉ 21 không phải là những đứa trẻ của thế kỉ 20. Chúng đi xe hiện đại, sử dụng điện thoại di động hiện đại, dùng máy tính hiện đại và truy cập intenet siêu tốc. Ngay cả đồ chơi và trò chơi chúng cũng không còn chơi những thứ của các thế kỉ trước. Do đó, chúng rất cần được hưởng nền giáo dục hiện đại, nội dung hiện đại, phương pháp hiện đại. Nhưng ngược lại, chúng đang bị "nhốt" trong cái lồng quá cũ và được "nhồi nhét" kiến thức theo phương cách cũ. Tóm lại, trẻ em hôm nay cần một nền giáo dục khác".

Rồi vẫn sự quyết liệt có phần bỗ bã ấy, bạn tôi ưu tư: "Loạn trường đại học, loạn giáo sư, loạn tiến sỹ… Cái cần "nổi loạn" nhất là sự nổi loạn của tư duy thì lại trì trệ, lại không dám, chỉ biết cam chịu".

Câu chuyện thứ nhất: Thầy giáo bạc đầu giữa đám trò nhỏ ở trung du

Chính vì chuyện "nổi loạn" này mà tôi nhớ đến kỷ niệm về một chiều trung du ấy. Một lần, tôi rủ Đại, về thăm một bạn học cũ từ những năm 1951- 1954, giờ đã về hưu ngồi viết sớ ở đền Hùng, nhân thể lang thang thăm vùng Đoan Hùng, Vũ Ẻn.

Xe bon giữa những rừng cọ đồi chè tuyệt đẹp, im lặng đắm mình trong cảnh sắc trung du, chợt bừng tỉnh bởi ríu rít tiếng cười, lao xao của đám trò nhỏ tan trường chạy ùa từ ngõ ra đường cái. Hồ Ngọc Đại yêu cầu cho xe dừng giữa đám chim sẻ rừng ấy.

Nhìn Hồ Ngọc Đại mái đầu đã bạc đứng giữa tụi nhỏ ríu ra, ríu rít vì nhận ra "thầy giáo sư có đeo kính gì to lắm", từng dự giờ dạy của lớp thực nghiệm công nghệ giáo dục, hết giờ còn ở lại đá cầu với chúng ở sân trường tiểu học heo hút này, tôi bất giác rút khăn tay lau mắt. Đại cười sung sướng, kính cận cũng nhoè ướt.

Trong thâm tâm, tôi vẫn tự thấy mình không đủ tài, không đủ bản lĩnh như Đại để ký cược toàn bộ cuộc đời cho sự nghiệp vì những thiên thần trẻ thơ này, đeo đuổi công cuộc nghiên cứu thực nghiệm công nghệ giáo dục theo triết lý "vì hạnh phúc ngay hôm nay của con em chúng ta, mỗi ngày đến trường thực sự là một ngày vui". Vì thế, tôi hay nghĩ đến Đại như nghĩ đến một công việc mình ấp ủ mà không có điều kiện đeo đuổi và hồi hộp dõi theo hành trình của bạn.

Cho nên, cứ gặp các trò nhỏ là tôi lại nghĩ đến Đại...

Câu chuyện thứ hai: Gặp các em nhỏ bên ngọn lửa ở Mèo Vạc

Ví như lần tôi bất chợt gặp các cháu nhỏ ngồi sưởi bên ngọn lửa được nhóm lên cuối chân đèo khi xe tôi vượt qua cổng trời từ Mèo Vạc về Đồng Văn. Đó là một buổi chiều mù sương, ánh nắng chỉ còn vẽ nên một đường viền mờ nhạt bên sườn núi, phía trước có con sông Nho Quế huyền ảo uốn lượn bên dưới.

Toàn các cháu học trò lớp ba, lớp bốn, buổi sáng đi học, buổi chiều đi chăn bò. "Nó học giỏi nhất ở đây đấy, mình nó lớp bốn thôi", chỉ vào một bé gái trùm chiếc khăn xanh đã bạc mầu, một bé trai đội chiếc mũ nồi đen có mấy lỗ thủng vừa cười vừa nói.

"Thế chừng nào mới lùa bò về, nhà cháu ở tận đâu?" tôi hỏi. "Đấy, kia kìa", bé gái trả lời. Theo hướng tay và ánh mắt của cháu, tôi nhìn xuống những mái nhà lờ mờ trong sương chiều dưới thung lũng thấp thoáng ánh đèn khi mờ khi tỏ. Con sông Nho Quế thơ mộng chỉ còn là một vệt uốn lượn thấp thoáng mà ráng chiều chẳng rọi tới được.

Không nói nổi lời từ biệt các cháu, tôi rút vội chiếc bút máy cài trên túi áo rồi đặt nhẹ vào tay bé gái rồi bước vội về phía tiếng còi xe đang giục vì đoạn đường về huyện Đồng Văn còn xa. "Không lấy đâu, không lấy đâu", tôi chỉ kịp nghe tiếng vọng của bé gái. Xe chạy, ngoái nhìn lại, các cháu đã đứng chụm lại cả giữa đường nhìn theo trong mù sương của núi rừng Hà Giang.

Ngọn lửa sưởi của các cháu nhóm giữa đường đèo sao mà xao xuyến

Câu chuyện thứ ba: Chú bé lặn sông bắt cá "lén biếu" thầy

Một buổi trưa tháng tư nắng gắt ở tận cùng xóm Đất Mũi , đang loay hoay bên tấm panô lớn ghi dòng chữ "Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Mũi Cà Mâu" để tìm một thế đứng chụp bức hình kỷ niệm, tôi bắt gặp một chú bé Đất Mũi.

Đây rồi, nơi "ngón chân cái của tổ quốc chưa khô bùn vạn dặm", biểu tượng tuyệt vời trong ngữ ảnh của văn Nguyên Tuân từng ghi đậm trong tôi từ mấy chục năm trước khi đất nước còn bị chia cắt, tôi bắt gặp đúng "nhân vật" mong ước. Như từ một vũng bùn chui lên, chú bé lấm lem từ đầu đến chân với một xâu cá cầm tay, chỉ có đôi mắt xếch là ngời sáng. "Bác chụp hình cháu đấy à, có cho cháu hình không?".

"Chắc chắn phải gửi hình cho cháu", tôi đáp, "nhưng cháu phải cho địa chỉ, nhà cháu ở đâu". Chú bé ngước mắt "kia kìa". Theo ánh mắt cháu, khuất sau những lùm cây xa tít, có những nóc nhà nhô lên.

"Nhưng cứ gửi về trường cháu, có mình thầy giáo ở đấy, bưu điện vẫn mang thư và báo về cho thầy. Chiều nào cháu chẳng ở đấy để nghe thầy kể chuyện và đọc báo". Qua câu chuyện của cậu bé lớp ba này, tôi hiểu ông thầy ấy đã ghi dấu ấn đậm như thế nào trong tâm hồn cháu.

Với giọng trìu mến chân thành, cháu nói về thầy giáo của mình ở tận đẩu tận đâu xa lắm về đây dạy học, thầy ở một gian nhà nhỏ áp lưng với phòng hiệu trưởng, thầy yêu chúng nó lắm. Xem ra bọn trẻ quấn quýt thầy giáo của mình suốt ngày, không chỉ ở buổi lên lớp.

Ghé vào tai tôi, cháu nói khẽ "chỗ cá này, lát nữa cháu sẽ lén để vào cái rổ, lấy chậu úp lên, cạnh bể nước, chứ đưa cho thầy, thầy mắng cho đấy". Một cảm xúc dâng trào thít chặt trái tim tôi. Chao ôi, có món quà 20 tháng 11 nào đẹp bằng xâu cá của cậu bé Đất Mũi này vừa ngụp lặn dưới bùn để có nó đem biếu thầy, mà "biếu lén".

Đột nhiên, tôi nhớ đến đốm lửa bên chân đèo Cổng Trời - Mèo Vạc, nhớ đến ánh mắt đen láy của cô bé lớp bốn vùng cao, cố hình dung xem cô giáo của cháu ra sao và chắc cô cũng được các trò nhỏ quây quần thương quý như cậu trò nhỏ Đất Mũi và các bạn của cháu đối với thầy giáo quý yêu của chúng đây kia.

Ngọn lửa trí tuệ sẽ được thắp lên cho ai và như thế nào?

Biết nâng niu, khơi động và bồi đắp những tình cảm trong sáng, kết tụ trong ánh lửa ấm sáng của trí tuệ và tình người ấy đã hun đúc nên cái đạo làm người vốn là nét rất đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc, khiến cho người thầy và nghề thầy giữ một vị trí đặc biệt trong đời sống tinh thần của nhân dân ta.

Đó chính là điểm tựa để phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Và rồi tôi nhớ đến bạn tôi, Hồ Ngọc Đại, một trái tim dành trọn cho sự nghiệp giáo dục và một cái đầu không hề nhỏ đầy ắp những ý tưởng táo bạo để vượt lên trước cái hiện thực mênh mông của thực trạng giáo dục với la liệt những bằng khen, giấy khen, huân chương, học hàm học vị và những lời xưng tụng.

Rất ngẫu nhiên mà có sự kết hợp hình ảnh các cháu bé ở hai đầu đầt nước, từ Lũng Cú Hà Giang đến Đất Mũi Cà Mâu trong câu chuyện tình cờ. Nhưng cái tình cờ ngẫu nhiên ấy lại nói về "nền giáo dục cho 100% dân cư", một khái niệm Hồ Ngọc Đại đưa ra nhằm khẳng định một nguyên lý giáo dục mới, thay cho nền giáo dục chỉ dành cho 5% dân cư. Thế là từ câu chuyện các cháu bé với thầy cô của chúng lại dẫn đến câu chuyện rất lớn về nguyên lý giáo dục.

Hình ảnh các cháu bé vừa phải đi chăn bò vừa đi học, và "cô giáo dưới xuôi" lên dạy các cháu, cứ như lời thách thức thầm lặng và sống động của sự chuyển đổi nguyên lý giáo dục, từ nền học vấn dành cho số ít người trở thành nền học vấn cho 100% trẻ em đến tuổi học trong thời đại của cách mạng thông tin và kinh tế tri thức.

Dũng cảm để phi cấu trúc hoá cơ chế cứng nhắc hiện tại dù biết nó từng vận hành tốt trong quá khứ

Sự khủng hoảng về nguyên lý và phương pháp của hệ thống giáo dục và đào tạo đang là vấn đề của hầu hết các quốc gia. Thì chỉ cần đọc khuyến cáo của Tổng thống Pháp trong thư gửi các thày giáo nhân ngày khai giảng năm ngoái là có thể bắt gặp điều đó: "Điều chúng ta cần làm, ấy là đặt nền tảng cho những nguyên lý của nền giáo dục thế kỷ thứ 21, những nguyên lý không còn có thể dừng lại ở trình độ những nguyên lý của hôm qua, lại càng không sao thoả mãn được với những nguyên lý có từ hôm kia".

Chắc rồi phải thay chiếc bút tặng cháu bé chăn bò ở cuối chân đèo từ Mèo Vạc về Đồng Văn vào buổi chiều mù sương dạo ấy bằng chiếc máy tính xách tay thôi! Tuy cháu bé của tôi còn mặc áo vá, vừa buổi học buổi chăn bò bên sườn đèo mù sương lạnh buốt, nhưng chính cháu đang sống trong thời đại của internet nối mạng toàn cầu.

Và đúng như ai đó đã cảnh báo: "Liệu chúng ta có đủ dũng cảm để phi cấu trúc hoá cơ chế cứng nhắc hiện tại dù biết nó từng vận hành tốt trong quá khứ. Chúng ta thường chấp nhận phán quyết từ quá khứ và sa vào tình trạng chây ì, cho rằng đã cố gắng hết sức cho tới khi yêu cầu thay đổi lớn đến mức buộc chúng ta phải bước qua những ranh giới quen thuộc lâu nay. Đã đến lúc đó rồi."(Trích tạp chí Harvard Business Online).

Đã đến lúc rồi đó!

Cái "cơ chế cứng nhắc đó" là gì nhỉ khi vào năm học này cả nước có gần 22 triệu học sinh, sinh viên, chiếm hơn ¼ dân số (mầm non gần 3,4 triệu, tiểu học có 6,75 triệu, trung học có 9,3 triệu, trung cấp chuyên nghiệp khoản 710 nghìn, cao đẳng và đại học khoảng 1,65 triệu).


"Đã đến lúc đó rồi", phải đặt 22 triệu những người sẽ là và đang là chủ thể của xã hội mới vào trong bối cảnh của nền văn minh trí tuệ và kinh tế tri thức đang giữ nhịp cho đời sống hiện đại của thế kỷ XXI.

Hồ Ngọc Đại có lý khi nói một cách "cực đoan" rằng: "Phải coi thế kỉ 20 ra đi như một kẻ đột tử mà không thể "ăn bám" vào nó thêm nữa. Do đó, thế kỉ 21 phải tự lo liệu thân mình. Đây là hai thế kỉ hoàn toàn khác nhau về bản chất".

Các cô giáo, thầy giáo là người đang đứng ở trung tâm của những biến đổi lớn lao nhất của thế kỷ XXI, vì rằng sự thay đổi lớn nhất của thế kỷ này sẽ là sự thay đổi về tri thức, về hình thức và nội dung, về ý nghĩa của tri thức, về trách nhiệm của tri thức, đặc biệt là về những đặc điểm của con người có giáo dục.

Không có những con người có giáo dục đó, sẽ không thể nào có một xã hội dân chủ, công bằng văn minh mà chúng ta hướng tới. Vậy thì ai quyết định đặc điểm ấy nếu không phải là các cô giáo, thầy giáo đáng kính của chúng ta!

Bậc tiểu học: Nơi cuối cùng để duy trì bản sắc dân tộc - Bậc đại học: Nơi đầu tiên để hội nhập quốc tế

Chính vào lúc này, tôi lại nhớ đến Đại, nhớ đến công việc mà Đại đã làm và đang làm, nhớ đến sự nghiệp giáo dục mà chúng tôi đã gắn bó, nhớ đến những niềm vui và nỗi buồn của người làm nghề dạy học trong nỗi suy tư nghề nghiệp.
Quả là Đại đúng: các cô giáo thầy giáo chỉ có thể thực hiện được sứ mệnh cao quý của mình khi vượt ra khỏi cái thực trạng "làm giáo dục bằng kinh nghiệm, bằng thói quen, bằng mò mẫm, thậm chí không loại trừ bằng lợi ích của một nhóm người mà không xây dựng cho mình một nền tảng lý luận để phát triển giáo dục.

Vì không có lý thuyết nên không có cách làm thực tiễn phù hợp với lý thuyết đó. Và do đó, không biết phải bắt đầu từ đâu, thực hiện điều đó như thế nào".
Sòng phẳng và rành rẽ, Đại giải thích: "Nếu bậc học tiểu học là cơ hội cuối cùng để duy trì, gìn giữ bản sắc dân tộc thì ở bậc đại học lại là cơ hội đầu tiên để hòa nhập, hội nhập quốc tế.

Một chương trình tiểu học không cần phải giống nước nào và cũng không cần nơi nào công nhận thì ngược lại, chương trình đại học phải là chương trình quốc tế và bằng cấp phải được thế giới thừa nhận. Một bằng tốt nghiệp đại học chỉ dùng ở "tiêu thụ nội địa" là một bằng đại học "trâu ta ăn cỏ đồng ta", chỉ có sức để kéo cày chìa vôi thôi".

Ấy vậy mà, có một sự thật đắng cay: cái cày chìa vôi có từ thời nhà Lý cách đây gấn một nghìn năm vẫn còn hữu dụng trên các cánh đồng của thời nông thôn, nông nghiệp Việt Nam đang trên con đường công nghiệp hóa và hiện đại hóa, đặc biệt là trên các thửa ruộng bậc thang nhất là các vùng núi đá ở Hà Giang và nhiều tỉnh miền núi phía Bắc!

"Không thể đem cái chìa vôi vào tư duy giáo dục thời đại mới"

Khi mà con người bắt đầu thổi hồn vào những vật vô tri vô giác gồm những thanh nhỏ của trí tuệ, liên kết chúng lại thành một sân chơi toàn cầu và nối kết trí tuệ của họ thành một hệ thống, thì cái gì sẽ xảy ra? Đây là sự kiện lớn nhất, phức tạp nhất và kỳ lạ nhất trên trái đất.

Với việc đan dệt những sợi dây trí tuệ từ kính và sóng radio, loài người bắt đầu nối kết tất cả các khu vực, tất cả các quá trình, tất cả các khái niệm thành một hệ thống khổng lồ. Từ nền tảng mạng lưới trí tuệ phôi thai đó ra đời một nền tảng hợp tác mới cho nền văn minh mới đòi hỏi một nguyên lý giáo dục mới.
Điều quan trọng nhất cần suy nghĩ là sự quá độ sang nền văn minh trí tuệ trên cơ sở công nghệ thông tin có một ý nghĩa sâu sắc về mối quan hệ biện chứng giữa xã hội loài người và giới tự nhiên cũng như mối quan hệ giữa con người với con người, tức là mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.

Và chỉ có thể hiểu được ý nghĩa sâu sắc về quan hệ biện chứng đó khi khẳng định vai trò của con người, nhân tố quyết định của mọi thành tựu. Chính ở đây cần làm nổi rõ lên vai trò quyết định của giáo dục đào tạo và sứ mệnh cao cả của người thầy giáo.

Xã hội công bằng dân chủ và văn minh mà chúng ta đang hướng tới, sự công bằng trước hết và là quan trọng nhất là công bằng về cơ hội để chiếm lĩnh được tri thức. Hiện nay, khoảng cách giàu nghèo đang ngày càng dãn ra, sự phân tầng xã hội ngày càng rõ, là một khía cạnh của động lực thúc đẩy kinh tế theo quy luật nghiệt ngã của phát triển.

Nhưng điều ấy lại đang là một thực tế bức xúc. Phải vượt qua thực tế nghiệt ngã này bằng sự tỉnh táo và nghiêm cẩn. Những nóng vội, duy ý chí muốn đốt cháy giai đoạn để rồi phải trả giá qúa đắt, vẫn còn là bài học nóng hổi: chủ nghĩa bình quân chỉ có thể chia đều sự nghèo khổ chứ không thể chia đều cho người nghèo sự giàu sang.

Chiến đấu với sự bất bình đẳng về cơ hội thăng tiến

Nhưng cùng với sự xác lập quan điểm đó, lại phải thấy rằng, một trong những bất bình đẳng xã hội sâu xa nhất, tệ hại nhất phải kiên quyết phấn đấu để giảm thiểu, tiến tới xóa bỏ dần, đó là sự bất bình đẳng về cơ hội thăng tiến của bất cứ ai trong xã hội mong muốn, và có ý chí vươn lên. Đất nước ta vẫn đang là một nước nghèo, mức sống của đại bộ phận cư dân vẫn còn quá vất vả. Tước bỏ của con em nhà nghèo việc học, chính là xóa bỏ hoặc làm thui chột khát vọng và ý chí vươn lên đó, cũng tức là tước bỏ cơ hội thăng tiến xã hội của đông đảo con em dân nghèo trong xã hội. Đó chính là sự bất bình đẳng xã hội nặng nê nhất, là sự bất công xã hội sâu sắc nhất.

Khi tước mất cơ hội ngồi vào ghế đại học của các thanh niên nông dân đã vượt qua được ngưỡng phổ thông thì điều đó sẽ là gì nếu không phải là làm thui chột và triệt tiêu sức bật vốn tiềm ẩn ở chính cái nôi của văn hoá dân tộc?

Mà xem ra, tiềm năng và khát vọng chiếm lĩnh tri thức từ học vấn được hấp thu trong bậc học phổ thông được nuôi dưỡng trong những mái tranh nghèo của làng quê lam lũ dường như mãnh liệt hơn hoặc ít ra cũng không kém trong những căn biệt thự tiện nghi, và dứt khoát là hơn hẳn những chàng trai, cô gái trong trang phục sành điệu đang ăn sống nuốt tươi những cặn bã của văn minh chưa kịp tiêu hoá.

Chúng ta đang chứng kiến sự bất công xã hội nặng nề trong lĩnh vực này mặc dầu những cố gắng của ngành giáo dục và đào tạo, của nhà nước và xã hội là rất đáng trân trọng song e vẫn còn cách khá xa những đòi hỏi của phát triển.
Tuy nhiên, thành bại của sự nghiệp giáo dục và đào tạo không chỉ do nó mà còn do hệ thống lớn hơn mà giáo dục và đào tạo chỉ là một hệ thống nhỏ nằm trong đó. Chẳng hạn như, tạo ra sự bình đẳng về cơ hội thăng tiến để cho những ai có ý chí vươn lên đều có thể thực hiện thì không thể chỉ là công việc của hệ thống giáo dục và đào tạo mà là tùy thuộc vào trình độ kinh tế và cách phân phối lợi ích trong xã hội nhằm đảm bảo sự công bằng trong cống hiến và hưởng thụ, trong đó hàm chứa cả sự ưu tiên dồn góp cho những tài năng nổi trội có điều kiện phát triển.

Quyết liệt đấu tranh với cái suy tàn đang được tập quán thần thánh hoá

Một tiền đề không thể thiếu là những thể chế đảm bảo được quyền tự do dân chủ cơ bản cho mọi công dân và mỗi cá nhân, tạo được môi trường cởi mở cho sự trao đổi, tuyển lựa; một không gian đủ rộng cho hoạt động của mỗi cá nhân, trước hết là hoạt động của tư duy. Đó chính là cái điều mà bạn tôi bỗ bã đòi hỏi :"Cái cần "nổi loạn" nhất là sự nổi loạn của tư duy thì lại trì trệ, lại không dám, chỉ biết cam chịu".

Xin ai đó an tâm về thuật ngữ "nổi loạn" của Hồ Ngọc Đại. Đó là một thuật ngữ mà nhà triết học Hêghen dùng để nói về biện chứng của sự phát triển mà Ph.Ăngghen mượn để khẳng định rằng "mỗi bước tiến mới sẽ tất yếu biểu hiện ra như là một sự xúc phạm tới cái thiêng liêng, là một sự nổi loạn chống lại trạng thái cũ, đang suy đồi nhưng được tập quán thần thánh hoá".

Nếu bạn tôi có "xúc phạm" thì chính là "xúc phạm"cái "đang suy đồi nhưng được tập quán thần thánh hoá". Kín cạnh hơn thì nói rằng phải quyết liệt đấu tranh với cái cũ đã suy tàn nhưng đang được tấp quán thần thánh hóa để đổi mới tư duy về giáo dục và đào tạo nói riêng, nhưng cái riêng đó chỉ có được khi có sự đổi mới nói chung của cái toàn thể mà trong đó giáo dục chỉ là một bộ phận.

Rút cục thì đó là sự đổi mới tư duy!

Rút cục thì đó là đổi mới tư duy của mỗi con người trong thời đại mà mỗi cá nhân đối diện với thách đố của thời đại, và thời đại đứng trước những thách đố của mỗi cá nhân. Những cá nhân đó bao gồm các cháu bé của tôi bên ánh lửa đốt lên để xua tan buốt giá của sương muối bên đèo đoạn dốc Mèo Vạc–Đồng Văn, hay chú bé vùng Đất Mũi, nơi "ngón chân cái của tổ quốc chưa khô bùn vạn dặm" kia, rồi những cô giáo và thầy giáo kính yêu của các cháu.

Tư duy họ đổi mới nhờ được khởi động bằng đầu óc và bản lĩnh của những người dám suy nghĩ và dám hành động như những Hồ Ngọc Đại và những đồng nghiệp, chiến hữu của anh đang dấn thân trong ngành giáo dục và đào tạo.
Trong họ đang nhen nhúm, ấp ủ để rồi thổi bùng lên ngọn lửa trí tuệ của thời đại. Không xa xôi gì lắm đâu, đó là ánh lửa các cháu bé đốt lên để sưởi ấm bên dưới Cổng Trời ở Hà Giang mà tôi từng ngồi sát vào để được xua bớt đi cùng các cháu cái giá lạnh của sương muối vào buổi hoàng hôn buốt giá.

Đó là ánh lửa của ngọn đèn le lói dưới thung lũng mờ sương có dòng sông Nho Quế uốn lượn, ánh đèn của cô giáo dưới xuôi lên dạy các cháu. Đó là ánh lửa trong tim những Hồ Ngọc Đại và đồng nghiệp của anh đang giục giã những đổi mới trong sự nghiệp giáo dục đào tạo nhằm đáp ứng những đòi hỏi phát triển của đất nước. Ánh lửa trí tuệ.

Ngọn lửa mà người bạn đáng kính đã quá cố, giáo sư Cao Xuân Hạo, đòi hỏi khi anh cố đính chính lại cách dịch mấy câu thơ của Nadim Hítmét :

Nếu tôi không cháy lên
Nếu anh không cháy lên
Thì làm sao
Bóng tối
Có thể trở thành
Ánh sáng?

http://www.tuanvietnam.net/vn/tulieusuyngam/5373/index.aspx.