Home Tin Tức Bình Luận Giải Oan Lời Thề

Giải Oan Lời Thề PDF Print E-mail
Tác Giả: Vietsciences - Trần Thị Vĩnh-Tường   
Thứ Bảy, 21 Tháng 2 Năm 2009 12:53

Hà Nội đang chuẩn bị văn hoá Tràng An, kỷ niệm Một Ngàn Năm Chiếu Dời Đô 1010-2010. Nhân dịp hoa đào, hoa Tết ở Hà Nôi bị bẻ vặt, câu “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài. Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An,” lại đuợc xem xét có phải dành cho người Thăng Long - Hà Nội không. Theo gợi ý của tác giả Hồng Thái (1), đây là chống chế của người Tràng An- Hoa Lư khi bị người Đại La dị nghị về sự kém thanh lịch.

Ngày xuân ôn sử

Theo wikipedia (2) tại đền Vua Đinh (tỉnh Ninh Bình) “trên bức đại tự có ghi hàng chữ: "Chính thống thủy" với ý nghĩa ca ngợi Đinh Bộ Lĩnh là người mở nền chính thống. Hai bên cột giữa có treo câu đối: "Cồ Việt Quốc đương Tống khai bảo – Hoa Lư đô thị Hán Tràng An" (Nghĩa là: Nước Đại Cồ Việt sánh ngang niên hiệu khai bảo đời nhà Tống - Kinh đô Hoa Lư như kinh đô Tràng An của nhà Hán).

Theo bản tin của tỉnh Ninh Bình (3) “Đền tọa lạc ở làng Trường Yên Thượng, xã Trường Yên - Hoa Lư. Khuôn viên đền rộng 5 ha. Đền được xây dựng dưới đời vua Lê Đại Hành, do lâu ngày đền cũ đổ nát. Cuối đời Lê - Mạc, một vị tướng nhà Lê là Bùi Văn Khuê đứng ra trùng tu, sửa chữa vào năm 1598. Kiến trúc đền hiện nay chủ yếu là công trình tu tạo năm 1698”.

Từ Hoa Lư, hai vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành khai mở bình minh cho  nước Việt. Cũng từ Hoa Lư, Lý Công Uẩn dựng nghiệp. Hoa Lư, nơi khởi nghiệp của những anh hùng, so hay không với Tràng An thì cũng thế.
Văn hoá bẻ hoa?

Tháng tư, Mậu Tý, năm 2008, lễ hội hoa Anh Đào tổ chức lần đầu tiên ở Hà Nội. Ba trăm nhánh hoa anh đào từ Nhật sang, trong chốc lát tan tành dưới bàn tay “các bạn trẻ”.  Người Nhật có ngày hội hoa anh đào Hanami.  Đến mùa, Kyoto đông nghẹt khách đổ về khung trời ửng hồng, nhưng không  một cánh hoa nào rơi rụng. Nhiều xứ chọn hoa làm biểu tuợng, Chăm có hoa Chămpaka, Lào có hoa sứ, Pháp có hoa huệ, Ấn Độ có hoa sen, Iran có hoa tulip, Nam Hàn có hoa dâm bụt…

Những người thưỏng hoa hôm ấy, phải chăng chưa từng có thói quen yêu hoa, ngắm hoa, nên nỗi thèm khát biến thành bạo lực?

Mùa xuân, Tân Sửu, năm 2009, chợ hoa xuân đầu tiên Hà Nội, cũng tiêu điều trong ngày đầu tiên. Theo tin trên dulich.tuoitre, cỏ nhung bị xéo nát, cành lau bị nhổ mang đi hoặc bị vặt đứt, hoa cúc Đà Lạt và các chậu hoa hải đường cũng chung số phận. Ngay đến đôi rồng chầu tượng vua Lý Thái Tổ, vảy kết bằng hồng môn Đà Lạt cũng bị vặt khá nhiều.

Giải thích từ trong nước, một trong các quan điểm phổ biến cho đó là dân “nhập cư ngoại tỉnh,” người Hà Nội không như thế. 

Cư dân Hà Nội thoát thai từ cư dân đồng bằng sông Hồng, không tự nhiên trên trời rớt xuống. Trước khi khắt khe xem lại có phải “lỗi của dân nhập cư không”, hãy rà lại đôi điều về đất và người Hà Nội, thế nào là dân “nhập cư.”
Đất Hà Nội cổ

Lịch sử Hà Nội gắn bó với lịch sử đồng bằng sông Hồng. Địa phận Hà Nội dời đổi, không phải chỉ trong vòng “Năm Cửa Ô”. Ngay cả dưới thời vua Gia Long, Bắc Ninh là trấn Kinh Bắc, gồm cả Bắc Giang, một phần các tỉnh Hưng Yên, Lạng Sơn và thành phố Hà Nội.

Thời An Dương Vương, Tây Vu chính là đất Hà Nội cổ, núi, gò cao và nước nhiều hơn đất. Nước mặn ăn đến tận Đầm Dạ Trạch,  Hưng Yên.             

“Người Hà Nội” đầu tiên

Cư dân ở vùng đất đó là ai? Khoa học đặt tên những sắc dân này là Négrito, Mon-Khmer và Mélanesian. Cư trú khắp châu Á, châu Úc, họ có thể là hậu duệ của những đợt di tản ra khỏi châu Phi khoảng 30.000-60.000 ngàn năm truớc. Chuyện kể lại trong gia đình, năm 1950 ở Hoà Bình, nông nô của những gia đình Mường quí tộc có da đen, tóc quăn, trán nhô, mũi rộng, người thấp, có thể là người Mélanesian. Chính sử tả Mai Hắc Đế - ông vua  họ Mai người đen – da đen, tóc quăn,  người huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh.
“Người Hà Nội” trước An Dương Vương

An Dương Vưong- thay thế Hùng Vương năm 257 Truớc Tây Lịch-  gom Mê Linh, Chu Diên, Tây Vu thành một nuớc với tên mới là Âu Lạc.

Tự tên Âu Lạc đã thấy hai thành phần: chi Âu và chi Lạc. Cả hai thuộc chủng Bai Yue/BáchViệt -gọi là Việt-cổ để phân biệt với Việt Nam bây giờ. Mỗi chi lại có hàng ngàn tiểu chi. Chi Lạc, dân miền biển, vùng chạy dài từ đông bắc Hoàng Hà đến bờ biển đồng bằng sông Hồng. Chi Âu, dân miền núi, vùng chạy dài từ miền Nam sông Dương Tử đến đồng bằng sông Hồng. Âu-Lạc là một kết hợp ngoạn mục của một số tiểu chi Bai Yue tại đồng bằng sông Hồng, mảnh đất cực Nam của chủng Bách Việt. 

Khi bên Tàu có loạn

Tạm dùng chữ Trung Hoa, thật sự lúc đó chưa có “nước” Trung Hoa, hay nôm na, “nước” Tàu, chỉ có những triều đại.

Đại lục Trung Hoa mênh mông, sông Hoàng Hà là một đường biên giới thiên nhiên. Chủng Hoa Hạ phía Bắc Hoàng Hà, chủng Bách Việt ở phía Nam Hoàng Hà và ở ven biển Đông Bắc như đã nói ở trên.

Mỗi khi bên Tàu có loạn, dân chạy tan tác. Trong vòng gần 1000 năm, kể từ thời Xuân Thu (722 TCN), Chiến Quốc, Tần Thuỷ Hoàng cho đến thời Đông Hán rồi Tam quốc, Trung Hoa là một vùng nát bét. Các “nước” lớn uýnh nhau túi bụi xưng vương xưng đế chiếm đất hoặc tranh dành người đẹp.

Hai ví dụ sau cho thấy, mạng dân còn thua con kiến. Kiểm kê dân số sau thời Vương Mãng (8-23 STL)- triều đại kéo dài 17 năm chen  giữa hai nhà Tây Hán và Đông Hán- xáo trộn kinh hoàng tới nỗi dân Hoa Bắc giảm 50%. Họ chạy xuống Trung Nguyên (giữa Hoàng Hà và Dương Tử) khiến dân nơi đây tăng 102% (4). Năm 756, quân An Lộc Sơn tiến về kinh đô Trường An, giết tới 36 triệu người chỉ vì nàng Dương Quí Phi. 

Những đợt di tản từ vùng này qua vùng khác bằng đường bộ và đường thuỷ, cách nhau cả trăm năm. Hình ảnh nên thơ vùng Lĩnh Nam, quảng cáo du lịch Trung Quốc ngày nay - một cái bè kết bằng vài cây nứa lớn lênh đênh trên sông nuớc - có thể phản ảnh phương tiện hàng ngàn năm trước.  Một bộ phận dân cư ngựòi Hoa vùng Lĩnh Nam còn ghi nhớ phố Châu Cơ Hương, phía bắc thành phố Nam Hùng, trên con đường huyết mạch từ Giang Tây vào Quảng Đông (qua ải Mai Quan trên dãy Đại Dữu). Tuy chỉ dài 1500 mét, rộng khoảng 4 mét, con đừơng này là nơi đám tản cư sử dụng suốt từ đời Tần, Hán đến đời Tống, đời Minh. Từ đó, huyết thống và ngôn ngữ của người Hoa (Hoa Bắc + Hoa Nam) len lỏi theo hệ thống sông Bắc Giang xuống Châu Giang và Tây Giang, toả ra khắp vùng Quảng Đông, Quảng Tây (6).

Các vùng mé biển Trung Hoa như Ngô - U Việt - Mân Việt (Giang Tô, Triết Giang, Phúc Kiến) dân 100% thuộc chủng Lạc, luôn hứng những khối di dân rất lớn. Đến khi chính những nuớc này lại bị lôi vào vòng chinh chiến, quí tộc và gia đình, cũng như dân chúng lại tìm đường mà tẩu, theo đường bộ hay đường biển xuống Giao Chỉ, hẻo lánh và xa vòng chém giết.
Ai đồng hoá ai ?

Một vài văn/thi/nhạc sĩ thường hay khóc lóc kêu ầm làng nước, hết thở than “Một ngàn năm đô hộ giặc Tầu”, “da vàng mũi tẹt, thân phận nhược tiểu”, lại khóc mếu bị Hán hoá, bị lai Tầu, mà không tính tới việc nguồn gốc của bất cứ dân tộc nào cũng bắt đầu từ nhiều sắc tộc, sinh tụ tại một điểm và từ đó nảy sinh ra một dân tộc mới. Từ Do Thái là một dân tộc cổ đến Hoa Kỳ là một dân tộc non trẻ, đều là những pha trộn hết sức phức tạp.

Có lẽ đã đến lúc nín khóc, bình tĩnh nhìn lại quá khứ:

    * thứ nhất, 2000 năm trước chưa có biên giới, chưa có các “nước”, không sổ thông hành, không chiếu khán, chỉ có vùng đất và cư dân sống trên mảnh đất đó.
    * thứ hai, từ thời Xuân Thu “bên Tàu" cho đến thời Lý Công Uẩn Đại Việt, trong gần hai nghìn năm, các tiểu chi Âu Lạc tản cư nhiều đợt vào đồng bằng sông Hồng, “mỗi khi pên Tàu có loạn”.
    * thứ ba, chỉ đám quan lại Trung Hoa mới áp đặt chính trị, quân sự và tổ chức hành chánh của phương Bắc lên cư dân sông Hồng, kỳ dư cũng chỉ là dân chạy loạn, mà đa số là dân chủng Bai Yue/Việt cổ.
    * thứ tư, không tài liệu nào cho biết bao nhiêu người Hoa Bắc, bao nhiêu ngừơi Hoa Nam. Có điều chắc chắn có rất ít người Hán Hoa Bắc sang Giao Chỉ ở lâu dài nổi, vì không chịu nổi khí hậu. Nếu gốc gác họ ở miệt Hoa Nam, thì 100% họ là Yue/Việt cổ
    * thứ năm,  Hoa Bắc hay Hoa Nam, cũng chỉ vài đời là tan biến vào cư dân sông Hồng và cùng chịu chung một định mệnh trên vùng đất mới.
    * thứ sáu, chính sự truởng thành trong học tập và chiến đấu gian khổ đã tạo nên nòi giống Việt. Hậu duệ của giòng nhập cư từ phương Bắc biến bức tranh di tản thành một kịch bản hết sức oái oăm cho “thiên triều” :  Lý Bí và Lý Công Uẩn xưng vương, mở đầu một trang sử độc lập cho dân Âu Lạc. Năm 1075, Lý Thường Kiệt mang 100.000 binh sang đánh quân Tống ở Ung Châu (Nam Ninh bây giờ), trong khi dân số Đại Việt chỉ 2.200.000 người, đủ hiểu triều Lý rất tự tin về gốc gác thần dân trong nước, không ngại đám dân dù có gốc từ phương Bắc, vì biết họ đồng chủng Việt.
    * thứ bảy, những  Mai, Đinh, Lí, Lý, Lê… trong Mai Hắc Đế, Đinh Bộ Lĩnh, Lí Bí, Lý Công Uẩn, Lê Lợi… không chắc có phảỉ là “họ” không, hay chỉ là tên của bộ tộc nhỏ? Nếu điểm này được sử gia giải thích, có thể mang lại khám phá bất ngờ về thành phần những bộ tộc nào đã làm nên dân tộc Việt, hơn là diễn tả dân Việt gọn gàng là “dân ta”, không rõ “ta” là ai.

Vạn Xuân : Mong ước “Giang san  còn hoài đến hàng vạn mùa xuân”

Một trong những hậu duệ ngoạn mục của người nhập cư từ “bên Tàu” là Lý Bí (hay Lí Bí?). Theo Sử, Lý Bí (503-548) là người Thái Bình, phủ Long Hưng (Sơn Tây). Tổ tiên Lý Bí là người Trung Quốc, cuối thời Tây Hán khổ về việc đánh dẹp, mới tránh sang ở đất phương Nam, được 7 đời thì thành người Nam ”.  Chính sử Trung Hoa coi Lý Bí là “Giao Châu thổ nhân". Còn sử Việt Nam, kể cả các sử gia tân thời và sử gia tài tử, hễ cứ ai ở “bên Tàu” là coi như người Trung Quốc hết mà không bao giờ soi sáng lại nguồn gốc. Tổ tiên của Lý Bí tản cư sang Giao Chỉ trước thời Hai Bà. Có sách nói 500 năm, có sách nói 11 đời. Con số 500 năm đúng hơn.

Lý Bí đã từng làm quan cho nhà Lương ở Giao Chỉ, nhưng ông bỏ về. Năm 544, tháng giêng, ông tự xưng là Nam Việt Đế - hoàng đế phương Nam - đặt niên hiệu là Thiên Đức, đặt tên nước là Vạn Xuân. Nếu nhớ ơn Hai Bà là bậc nữ anh hùng đầu tiên trong lịch sử, cũng phải nhớ ơn Lý Nam Đế là người mang nước Việt ra khỏi hình thức bộ lạc. Thông suốt chính trị Bắc triều, Vua tự tin dựng điện Vạn Thọ, (Hà Nội), dựng chùa Khai Quốc, cho đúc tiền đồng. Từng ấy việc trong thời gian ngắn 4 năm, Lý Bí không ngờ ông đã đặt  tiền đề: từ đây nước Việt thoát khỏi thời  kỳ u tối 1000 năm Bắc thuộc.

Lần đầu tiên sau thất bại của An Dương Vương, một “nước” đuợc thành lập ở đồng bằng sông Hồng, gồm hợp chủng Negrito + Mon-Khmer + Mélanesian  + Âu-Lạc trước An Dương Vương + Âu-Lạc nhập cư từ “bên Tàu”. Đó cũng chính là cư dân của Hà Nội thuở bình minh. người Việt hiện giờ là hậu duệ của từng ấy sắc tộc.
Khách nhập cư Hà Nội ngàn năm truớc:  vua Lý Thái Tổ

 
Tượng tạc một vị vua triều Lý

ĐVSKTT, kỷ nhà Lý, chép “Mùa thu, tháng 7, vua rời Kinh đô từ Hoa Lư sang kinh đô lớn là Đại La của Kinh Phủ. Thuyền tạm đỗ ở duới thành, có rồng vàng hiện ra ở thuyền ngự, vì thế gọi là thành Thăng Long. Đổi châu Cổ  Pháp làm phủ Thiên Đức, thành Hoa Lư làm phủ Trường Yên, sông Bắc Giang làm sông Thiên Đức. Xuống chiếu phát tiền kho 2  vạn quan thuê thợ làm chùa ở phủ Thiên Đức 8 sở, đề dựng bia ghi công”. Nhà vua cho xây dựng ở Thăng Long chùa Một Cột, cầu Đồng, cầu Dền, như đã có ở Hoa Lư. Triều Lý hướng tới tương lai, nhưng không quên quá khứ ngàn năm truớc: ĐVSKTT ghi,  Kỷ Lý Anh Tôn, “Canh Thìn, năm thứ 21 (1160) Tống Thiệu Hưng năm thứ 30). Mùa xuân, tháng giêng, làm đền Hai Bà và đền Xuy Vưu ở phường Bố Cái”.

Thời đó, vùng Hà Nội vẫn lõng bõng nước. Sứ giả nhà Tống là Tống Cảo viếng Hoa Lư, Lê Hoàn (941 - 1005) thết tiệc một con trăn dài “vài mươi người khiêng mới xuể”, sứ giả khiếp vía không dám xơi. Rồng vàng có thể là cá sấu hay trăn nước, tô vẽ cho thêm phần “phụng mệnh trời”. Trên một số đồ gốm hoặc trống đồng Đông Sơn, hoa văn là loài bò sát . Sông Thiên Đức, là sông Đuống. Dưói thời  Đinh Tiên Hoàng, Hoa Lư chỉ đuợc ví như kinh đô Tràng An. Nhưng Lý Thái Tổ đã chính thức đổi tên Hoa Lư thành Tràng Yên, như lòng nhớ ơn nơi dựng lên nghiệp lớn. “Yên” hay “an” cũng là một. Một số phương ngữ của người Hẹ (Hakka) phát âm “yên” là “an”. Nói hoặc viết Trường An, bình an, an tâm/Trường Yên, bình yên, yên tâm, đều đúng.

Khách nhập cư “Người Miền Dưới”

Khách nhập cư huy hoàng khác từ phương Bắc là triều đại nhà Trần. Nhà Trần, tự nhận “nhà ta, người miền dưới”, tức là dân đánh cá miệt biển.  Khoảng năm 1110, tổ tiên nhà Trần di cư từ đất Mân Việt, thuộc Phúc Kiến bây giờ, ban đầu đến tỉnh Quảng Ninh, trú tại xã An Sinh, huyện Đông Triều. Chỉ trong một thế kỷ, họ Trần trở thành giàu có ở  huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, đến nỗi Thái Tử Sảm cuả  nhà Lý phải chạy tới náu thân. Kết quả, năm 1226, nhà Trần thay thế nhà Lý, bằng hôn nhân ép buộc giữa công chúa Lý Chiêu Hoàng 8 tuổi với Trần Cảnh 7 tuổi. Cũng chỉ trong vòng hơn 100 năm, người nhập cư phương Bắc đã tan biến vào giòng Việt. Triều Trần là triều chống cự “thiên triều” dữ dội nhất. Năm 1257, vua Trần Thái Tông  đích thân ra trận đánh nhau với quân Mông Cổ. Năm 1285, quân Trần đại thắng quân Nguyên ở trận Hàm Tử. Năm 1288, Hưng Đạo Đại Vương chiến thắng trận Bạch Đằng.
Từ núi rừng Thanh hoá

Nhà Minh quyết tâm  xóa bỏ nền văn minh Đại Việt bằng đủ cách: san phẳng đình chùa miếu mạo ở Thăng Long, chở về Yên Kinh tất cả các loại sách, văn bia của người Việt đến một chữ cũng không cho lọt, thiến hoạn đàn ông, hãm hiếp đàn bà, cắt tai xỏ thành sâu. Sau 10 năm kháng chiến gian khổ đánh bại quân Minh, Lê Lợi từ núi rừng Thanh Hoá  rời về Thăng Long và đổi tên Đông Kinh, tuy vẫn xây dựng cung điện tại Lam Kinh (Thanh Hóa). Từ Đông  Kinh, triều đại Lê đã tiếp nối tinh thần Đại Việt trong 360 năm,  mà bề dài của triều đại khiến triều đình Bắc phương biết miền đất Đại Việt ấy đã vĩnh viễn ra khỏi tầm thôn tính.
Khách nhập cư phương Tây : “Con của Phật, đừng lo”

Thời Sĩ Nhiếp (137-226), Phật giáo Ấn độ đã đến đất Âu Lạc.  Phật hoá thân thành thiền sư Khâu Đà La buớc qua mình Man nương đang ngủ say khiến cô “cảm động” thụ thai. Ngòi bút vắn tắt Nho gia chỉ ban một câu ngắn gọn, khiến học trò đời sau nát óc!

Câu chuyện có tính ẩn dụ cao độ: Phật giáo uyển chuyển đến với nhân gian bằng cách nhập vào chính giòng văn hoá ấy, không truyền giáo bằng cách giả ngây núp sau súng đạn. Vào miền đất mới, Phật giáo tạm quên mười ngàn pho kinh cao ngất, mà chấp nhận nền văn hóa bản địa: thân phận cao trọng cuả ngừơi nữ. Man Nương chỉ có nghĩa “cô gái đất Man”, đại diện cho nền văn hoá phồn thực Đông Nam Á: con gái 12 tuổi nhắm mắt cũng biết việc sinh tồn.

 
Rồng trong Đĩa gốm men Lam thế kỷ 15
Đạo Phật nâng con người lên, cho nhân vật nữ sắm vai mẹ của con Phật. Ngòi bút Nho gia ghi khi bố mẹ Man Nương bối rối vì việc thai nghén của cô con gái 12 tuổi, thiền sư Khâu Đà La dung dị vỗ về “con của Phật, đừng lo”. Phật lại truyền cho hai mẹ con cây gậy thần, múa đến đâu nước lai láng đến đấy cứu ruộng đồng khô cháy. Hòn đá cầu mưa, tạc theo hình bộ phận sinh dục nam, nữ trang quí giá nhất của đàn bà con gái, bảo vật trấn áp quỉ thần, có mỹ danh Đức Thạch Quang được thờ ở chùa Dâu. Không khí ly kỳ, Bụt tính đan lẫn dâm tính đã là một huyền bí của miền tiền Thăng Long.

Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu
.

Chùa Dâu dựng năm 226 ở Bắc Ninh. Chùa được xây dựng lại năm 1313 và trùng tu nhiều lần. Đời Trần, quan trạng Mạc Đĩnh Chi vâng mệnh vua Trần Anh Tông dựng chùa Dâu thành chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp.
Khách nhập cư  phương Nam : Chămpa quyến rũ

Một trong những điểm cách tân của nhà Lý khiến Đại Việt trở thành “vùng bản lề” của hai nền văn minh lớn của nhân loại: văn minh Ấn Độ và văn minh Trung Hoa, là chấp nhận huyết thống và văn minh Chămpa. Khi Việt bị Bắc thuộc, Chàm đã là một nước độc lập có văn minh mà di sản còn để lại đến giờ. Trong khi Nho giáo ảnh hưởng trên toàn bộ giới bút nghiên Đại Việt thì kiến trúc, âm nhạc, thần thánh, ngôn ngữ văn hoá Chăm nẩy nở dễ dàng nơi người bình dân, vì căn bản cả hai đều thuộc văn minh Đông Nam Á.  Nếu Chămpa là đường cong pho tượng thiếu nữ, vú đầy lưng nhỏ mông tròn, chân tay lẳn phô bày nét quyến rũ, nụ cười hơi mỉm hứa hẹn biết bao điều thần bí, thì Nho giáo sắc như nét bút lông, thầy đồ Nho muốn mọi việc đều hoàn hảo nên mặt mũi lúc nào cũng đớn đau “lo truớc cái lo của thiên hạ”. Càng về cuối thời Hậu Lê,  vua quan càng khép lại nền văn minh tươi cưòi ấy, chấp nhận hoàn toàn văn minh Trung Hoa khắc khổ.
Màu sắc lễ tết dân gian: có cần giữ gìn phẩm hạnh?

Nhất là từ nhà Nguyễn Gia Long 1802, văn hoá Nho giáo tràn ngập cung đình. Đình chùa toàn long-ly-qui- phượng, chưa ai khắt khe xem lại có phải là hoa văn thuần Việt hay không. Màu sắc, kiến trúc đời Nguyễn, không khác gì một Trung Hoa thu nhỏ. Hiện nay, màu đỏ màu vàng sặc sỡ nhức nhối trong những ngày “lễ tết cổ truyền” cả trong nuớc lẫn ngoài nước, trông gần với sân khấu bát nháo hơn với lịch sử. Cũng chưa chắc màu sắc của triều đình, đừng nói đến màu của dân gian.

Dễ tính lắm, cũng khó thể cho là “đậm đà bản sắc dân tộc” theo khẩu hiệu trong nước hoặc “phát huy truyền thống văn hoá dân tộc” theo khẩu hiệu ngoài nuớc nghe hoài phát ớn. Mầu sắc thiếu thuần nhã làm đứt đoạn với quá khứ chân phương, đó là chưa kể lẫn lộn triều đại này vào triều đại nọ. Mũ mão, màu sắc, cờ quạt, chiêng trống, võng lọng… giống nhau, giống cả nét lúc diêm dúa quá, lúc  nhếch nhác quá. Tốn kém rất vĩ đại, rỗng tuếch cũng vĩ đại không kém. Hình như không còn ai nghĩ tớí một trong nét thanh lịch của người Hà Nội, là dùng màu sắc để tỏ ý chí, mà cái được đề cao nhất nơi người Hà Nội xưa, theo tác gỉa Hoàng Đạo Thuý, là giữ gìn phẩm hạnh (6).

Theo Nguyễn Thị Chân Quỳnh (7)“Phẩm phục đời Lý, Trần, Lê, phần nhiều theo nhà Tống, mầu tía quý nhất (cho các quan)… Từ Lý Cao Tổ trở đi mới cấm dân không được mặc sắc vàng là mầu dành riêng cho thiên tử dùng. Ðời Thái Tông, cung nữ dệt được gấm vóc, bèn đem hết gấm của nhà Tống trong Nội phủ bán cho quần thần may áo, quan từ ngũ phẩm trở lên được mặc áo gấm, từ cửu phẩm trở lên được mặc áo vóc, để tỏ vua không dùng riêng.”

Cấm dân mặc màu vàng, vậy mầu của dân gian là mầu gì? Ra ngoài đường màu thường thấy là màu trắng, màu đen, màu cánh kiến, màu tiết dê, màu tam giang. Màu đỏ chỉ các quan to may áo vóc hay gấm, gọi là áo đại  hồng. Yếm, các cô mặc màu thiên thanh, màu hồ thuỷ, bà lão mặc màu hoa hiên, nửa đỏ nửa cam. Màu hoa đào là mầu lẳng lơ, chỉ đám con hát mặc (6).
Dẫu không thanh lịch cũng người Thượng Kinh”

“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/Nếu không thanh lịch cũng người Tràng An” nếu được viết đúng vào năm dời đô 1010 có thể là một đầu mối nghiên cứu dân tộc học: 1000 năm trước, tiếng Việt bình dân đầy chất thơ, ít từ “Hán Việt”, diễn tả sắc sảo, chống chế một cách nhẹ nhàng, kiêu hãnh một cách thơ mộng, ứng xử nhún nhường nhưng không tự hạ.  Chỉ 14 chữ trong hai câu sáu/tám đã khiến “đối phưong’, người Thăng Long, không những quên bắt bẻ, lại còn vơ vào nhận của mình.

Tuy nhiên, còn có một câu tương tự “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/Dẫu không thanh lịch cũng người Thượng Kinh”. Thượng Kinh ám chỉ Tràng An hay Hoa Lư?  Học trò lượm lặt xin ghi chép luôn cho đủ, những mong “giải oan” cho người Hà Nội, nếu có làm điều gì kém thanh lịch. “Giải oan” luôn cho người Hoa Lư, xá gì hai chữ thanh lịch khi được làm thần dân của một vì vua độc lập.  Chiếu Dời Đô, đức Thái Tổ tự tay ghi rõ “Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời”. Ngài dự liệu cho cả bốn phương trời mười phương bụt, không hề ngăn cấm ai. Tranh cãi ai thanh lịch hơn ai, chỉ làm đức Lý Thái Tổ đau buồn, vì ngài thuộc về cả hai.Vấn đề là làm thế nào để cùng nhau thanh lịch.

Sự “thanh lịch” của Thăng Long, do hàng ngàn năm đãi lọc. Nơi đây nhiều sắc tộc cộng cư, cũng là thị tứ buôn bán, quan văn/quân lính, thư sinh/du đãng, thưong buôn/nông dân. Người Thăng Long luôn luôn đối diện với những điều bất ngờ nên quen với phế/lập, trung thành/phản trắc, kênh kiệu/khiêm nhường, chân thành/khách sáo, quí phái/bình dân, dịu dàng/thô lỗ, phù thịnh/phù suy, nhân hậu/tai ngược… Từng đó vai, vai nào cũng rành, thành thói quen “liệu lời mà nói” lúc chua lúc ngọt, rất đúng với câu ca dao Hà Nội “Chẳng chua cũng thể là chanh/Chẳng ngọt cũng thể cam sành chín cây”.

Khuê các Hà Nội chửi chua chửi ngọt hay hơn đám “ngoại nhập”. Một đoạn ngắn chửi mất gà, cho thấy người ngoại nhập còn lâu lắm mới đạt đuợc cái trơn tru và óc tưởng tuợng của người Hà Nội “Cha con mẹ đẻ đứa mớm cơm mớm cháo mặc áo sỏ tay cho chúng mày không biết dạy chúng mày để chúng mày ăn con gà của bà cha con đẻ mẹ đứa họ sống họ chết họ hết họ còn dương gian âm phủ họ năm tháng ba ngày họ một tháng hai mươi ngày của chúng mày bà sẽ giồng cây chuối ngược rủa cho chúng mày chết lúc chết láy chết không còn tử còn tôn còn con còn cháu lục sáu tam ba bà chửi cho mà nát gia nhà quốc nước …” Không cách nào bỏ dấu chấm dấu phẩy, vì khuê các chua ngọt một hơi không nghỉ.
Thành Thăng Long từ Lý

Vua Lý Thái Tổ đặt tên cung điện đặt  theo ảnh hưởng Trung Hoa - điện Càn Nguyên,  Cấm Thành, cung Nghinh Xuân, cửa Đan Phượng. Năm 1029  loạn TamVưong tàn phà Long Phuợng thành. Nhà Trần lên, phá bỏ một số đền đài cung điện nhà Lý.

Khi giặc Minh sang, tất cả san bằng. Năm 1430, Vua Lê Lợi xây dựng lại hoàng thành mới. Năm 1512, vua Lê Tương Dực cho dựng hơn 100 nóc cung điện nguy nga.  Năm 1514, mở rộng Hoàng Thành thêm mấy nghìn trượng (một trượng bằng 3m60).

Từ 1516 đến 1527, nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê. Thăng Long lại quay cuồng trong khói lửa. Cung điện kho tàng đền chùa cũng như phố phường bị thiêu đốt tàn phá nhiều lần. Năm 1585 Mạc Mậu Hợp xây dựng lại Thăng Long. Đó cũng là lần cuối cùng, Thăng Long đuợc tái xây dựng.

 

Năm 1599  nhà Mạc thua chạy lên Cao Bằng. Hoàng thành Thăng Long phía Đông và phía Nam hồ Gươm đựoc tu sửa để đón vua Lê trở lại.  Khi chúa Trịnh tiếm quyền, Hoàng thành điêu tàn dần. Riêng Phủ Chúa xây cung điện lâu đài ở phía Tây hồ Gươm nguy nga gấp bội cung vua, lại còn cấm dân lai vãng.

Năm 1788, vua Lê Chiêu Thống chạy sang cầu viện nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị đuợc thế mang 29 vạn người sang chiếm Thăng Long. Phe phù Lê được dip trả thù, tất cả lâu đài đình tạ của chúa Trịnh bị tàn phá suốt tận nền, cháy một tuần mới hết. Dân chúng quanh thành bấy lâu bị chúa Trịnh ngăn cấm, cũng uất ức tràn vào san phẳng hết. Năm 1789, khi Nguyễn Huệ ra Bắc đánh tan quân Thanh ở 12 gò Đống Đa, kinh thành lại thêm một phen tan nát. Tiếng than dài “Lối xưa xe ngựa, nền cũ lâu đài”của bà Huyện Thanh Quan, chính là thương tiếc cho Thăng Long vào thời điểm hưng phế này.

Vua Minh Mạng đổi tên hoàng thành Thăng Long là tỉnh Hà Nội - có nghĩa thành ở trong sông - và nhường cho Pháp. Gạch ngói của Thăng Long bị rỡ mang về xây kinh đô Huế. Người Pháp đổi Hà Nội ra thành phố, dùng thành Hà Nội làm …trại lính.

Suốt những trang sử mờ mịt khói và đầm đìa máu ấy, nhô lên những bóng nâu quờ quạng co quắp, tay không nhẫn nại bới Thăng Long từ đống tro tàn. Vì vậy, đừng lạ, khi văn chương, ký ức và cả tâm lý, tiếng nói và thể chất của người Hà Nội khác với miền khác. Khác, không có nghĩa là hay hơn, dở hơn, hay sang trọng hơn như một đống ông nghè một bè tiến sĩ một bị cử nhân một thuyền bảng nhãn một nạm thám hoa một toa MC-văn-thi-nhạc sĩ thường khuếch đại tô màu, tạo nên một dư luận khá nhơ nhuốc, là coi việc tâng bốc người Hà Nội và rẻ rúng người “nhà quê” hay người miền khác là chuyện…bình thường. Không nghĩ, chính những “miền khác” ấy đã sản sinh ra những vị anh hùng nhưng phải ra Thăng Long mới làm nên nghiệp lớn.
Vài nét về người Hà Nội truớc 1954

Khác với Thăng Long thời cổ rộng lớn, Hà Nội trước 1954 chỉ thu hẹp có 152 km với 53.000 cư dân ở nội thành, tức là kẻ Chợ. Ngoài thành là kẻ Mơ, kẻ Lủ, kẻ Mọc, kẻ Noi. Văn thơ yêu “Hà Nội Ba Mươi Sáu phố phường/Lòng chàng có để lại muôn phương”, mường tuợng Hà Nội êm như nhung, bóng như ngọc.

Vậy mà không phảỉ vậy. Tôi đã hỏi khoảng năm mươi người Hà Nội "gia đình danh giá/giàu có như thế, vậy đồ cổ ngoạn của Việt trưng bày trong nhà là gì?" Qua câu trả lời của một đại tiểu thư rời Hà Nội năm 16 tuổi, mới hay không phải Hà Nội toàn khuê các: "Trong nhà, có hơn 15 người làm. Gọi một tiếng, “dạ” ầm ĩ cả lên. Nào là  chị vú, con sen, thằng ở, u già, anh xe, chú tài, ông bõ, chú làm vườn, anh bồi, chị bếp, chị may, chị đan...Mỗi cô tiểu thư có một chị vú,  một con sen riêng. Nhưng toàn là người nhà ở quê xin ra Hà Nội giúp việc nhà. Họ chỉ cần ăn, không xin lương.  Đồ cổ ngoạn “truyền thống” Việt Nam? Có gì đâu. Nhớ mãi, chỉ có mỗi ống điếu hút thuốc phiện bịt bạc của ông nội thôi."

Cư dân nội thành ở một số phố khang trang, gồm công chức, các thầy thông, thầy ký, giáo chức, thương buôn, đào kép, khu người Tây, khu người Tàu.. Xa xa chút nữa là đám thợ, thợ may, thợ cạo, thợ mộc, thợ chạm…. Đông đảo nhất là đám hàng rong, cháo, kẹo mạch nha, kẹo kéo, kẹo vừng, bành dầy bánh giò, bánh đúc, nước chè, ... người Hoa buôn bán sầm uất ở phố Phúc Kiến, hàng Buồm, hàng Ngang, nhưng cũng có những người Hoa cơ cực làm công cho các hiệu lớn, làm phu khuân vác ở bến tầu và bán hàng rong. Hai món quà Hà Nội, “hàn sôi phá xa” và phở là của người Hoa. Hàn sôi phá xa, đã đi vào bài hát “Ôi lạc rang, mới ra thơm dòn, lạc của tôi rất thơm và ngon vì có húng lìu”. Món phở, tức “ngưu nhục phấn”, Tản Đà, Tô Hoài đều nhắc đến. Nguyễn Dư viết một bài về xuất xứ phở, bản vẽ ghi chú rõ ràng một gánh phở rong của người Hoa (8) không phải từ món pot-au-feu cuả anh bếp Tây.

Người Hà Nội ở… California

Người ra Hà Nội làm việc là người tứ xứ. Dù làm quan, đi học, buôn bán, đi lính, cả chục đời vẫn là “Hoa chanh nở ở vườn chanh/Thầy u mình vói chúng mình chân quê”. Quê muôn đời là làng, là đình, là ruộng lúa, là giếng nước, là nương dâu. Cho nên, dù có sinh đẻ ở Hà Nội, dường như không ai nhận có “quê ở Hà Nội”. Quê nội, quê ngoại, tận Phủ Lý, sông Cầu, Yên Bái, Phú Thọ, Lạng Sơn...  Bằng cớ, ở quận Cam, California, các hội đoàn, hội ái hữu, các trường trung học, đại học mỗi năm đều tổ chức tất niên/tân niên gặp gỡ, hội Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cần Thơ, Vũng Tàu, Bình Định, Ninh Thuận, Thái Bình, Hưng Yên, Bắc Ninh, Xóm Mới Gò Vấp bé tẹo cũng có ngày Tết hội ngộ. Tuyệt không có “Hội Hà Nội”. Chỉ có mỗi một “Ngày Hà Nội’ đơn sơ ở Mile Square Park cách đây chừng 15 năm, và một buổi “Họp mặt Hà Nội” cách đây khoảng 5 năm do sự cố gắng của cố nhạc sĩ Nguyễn Hiền.

Từ xa, người ta vẫn đắm đuối yêu Hà Nội. Yêu những con đường yêu đi  - “Hà Nội, chao ơi Hà Nội, những con đường đọng tím, những con đường câm nín, những con đường chết lịm ở trong tôi…” - yêu những cánh hoa yêu lại “Từng cánh hoa đời khép lại/Thương về năm cửa Ô xưa!”. Thi sĩ Tạ Tỵ yêu một Hà Nội hấp hối, mong manh như thể chạm mạnh vào thì vỡ cả mảnh linh hồn. Người Hà Nội chúng tôi cũng cứ thế mà tin mà yêu một Hà Nội, “Dáng huyền tha thướt đê mê, tóc thề thả gió lê thê biết đâu ngày ấy em về”, tựa một cô gái liêu trai xanh xao gầy guộc tóc dài thắt cổ lè luỡi hớp hồn mấy anh thư sinh chết nhát, mà quên mất cái uy dõng của tổ tiên thuở dời đô.
Các “bạn trẻ” Hà Nội

Trách tuổi trẻ Hà Nội không có văn hoá ngắm hoa, là oan lắm. Làm sao bắt họ có một điều mà họ chưa từng nắm trong tay! Đời nhà Lý thanh bình, có người yêu hoa mới sinh ra làng Nghi Tàm ở bắc Hồ Tây và làng Võng Thị ở nam  Hồ Tây quanh năm trồng hoa cung cấp cho nội thành.  Thú chơi hoa lan, hoa thuỷ tiên, hoa trà… chỉ riêng người phong lưu. Tết nhất mới cố sắm cành đào, chậu quất.  Trong gia đình còn nhắc, người Hà Nội truớc 1954 không có lệ cắm hoa. Mỗi sáng, cô hàng hoa lướt qua để lại một chùm hoa ngâu hoa phuợng hoa ngọc lan lên cái đĩa sành con trên bàn thờ ngoài sân. Có khi dăm ngày cô mới ghé lại lấy tiền, buớc chân qua nguỡng cửa rón rén, thưa gửi nhẹ nhàng, “Bà ơi, con ghé ăn mày lộc bà đây, cả thẩy 6 xu rưõi bà ạ. Con còn ba chùm kim liên mấy lại hai bó bạch sen, bà đi đền Mẫu, bà tạ gíúp cho con với”. Lúc đó làng Bát Tràng làm nhiều ông bình vôi, không làm bình cắm hoa cho nội thành Hà Nội. Không có ngoại thành, người Hà Nội không có cả… cháo mà ăn sáng. Vào trong Nam, người Hà Nội cũng chỉ ngày Tết mới cắm hoa glaïeul, hoa huệ, bắt chước …Tây.

Nhưng các “bạn trẻ” dầy đạp lên hoa hay phũ phàng bẻ ngắt, có bị mắng, thì không oan tí tẹo nào, dù rằng nguồn cơn không từ họ.

Thanh niên Hà Nội sinh sau 1975, không còn phải chạy trốn bom đạn. Nhưng thế hệ này vẫn đối diện với một cuôc chiến mới hừng hực lưả. Tuổi thơ nhìn bố mẹ quăn queo, luồn lọt chạy vạy mới có miếng ăn, nên đoản văn đầy tình quê hương làng mạc của Thạch Lam có thể là một xa xỉ phẩm “Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gíó lạnh, mẹ tôi âu yếm dẫn tôi đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã đi lại lắm lần, nhưng lần này bỗng dưng tôi thấy lạ: hôm nay tôi đi học….” Đám trẻ tiểu học, không có những trang cổ tích ông Đồ Bể, lương thiện đến quỉ thần phải kinh sợ.

Thanh thiếu niên lớn lên, thiếu không gian văn học. Không chắc có đọc Gánh Hàng Hoa của Nhất Linh-Khái Hưng để yêu mối tình thơm như hoa. Giờ này không còn ai hứa hẹn “Sông Thương nước chảy đôi ba giòng/Anh về Hà Nội một lòng thương em”. Ngâm ư ử ca dao Hà Nội “Hỡi người xách nước tưới hoa/Có cho anh được vào ra chốn này”, nghe ra hơi hâm hấp. Rón rén nhìn cô hàng xóm qua dậu mồng tơi có khi bị cô quát “soi cái gì”, chạy không kịp.

Nhà cửa rác rưởi lấp cả cửa động trúc đào loang loáng vàng rơi ánh nguyệt trong Bích Câu Kỳ Ngộ. Tuổi thanh niên ấy, chắc cũng không nấp vội trong cánh cửa thuộc thơ Hoàng Cầm viết trong khói lửa vẫn đẫm mùi hy vọng

Em mặc yếm trắng
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh nắng muôn lòng xuân sang
Trở lại chợ hoa

Ở Saigon truớc 1975, chợ nào cũng có bán hoa ngày Tết. Sau 75, các  thành phố như Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt, Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên, nơi nào cũng có chợ hoa.  Ban tổ chức soạn sẵn chỗ cho khách thuởng hoa chụp hình, nên không bao giờ xẩy ra việc dày xéo lên hoa.  Ngay cả ở Hải Phòng năm nay, hai mươi cây đào do Liên minh Nghị sĩ hữu nghị Nhật - Việt và Hội đồng tỉnh Kagawa (Nhật Bản) trao tặng, hoa xinh vẫn ửng hồng trên cây.

Hái lộc đầu xuân là một nét văn hoá đẹp từ xưa. Nhưng khi người đông hơn hoa, lộc trong thiên nhiên không đủ, khiến người ta thản nhiên bẻ hoa đang trưng bày, thì nét đẹp không còn.

Nói đi phải nói lại, vô tư bẻ hoa của người khác, không phải độc quyền của bạn trẻ Hà Nội. Đó là “Việt tính”, duy mức độ khác nhau.

Tết Đinh Hợi 2007, ở Saigon có vụ cướp heo đất, hay “vô tư” bẻ hoa tặng nhau -báo chí trong nước cho đó chỉ vài cô em “nũng nịu” với bạn trai.

Ở California, quận Cam, nơi các nhà bình luận tự xưng là “thủ đô văn hoá của người Việt tỵ nạn”, không có xuân thì nũng nịu đòi bạn hái hoa, nhưng cũng có “văn hoá bẻ hoa”.  Mấy năm truớc, tờ báo Người Việt hớn hở khoe năm nay cành đào trước cửa không bị chặt trụi như năm truớc. Bài báo cũng lo lắng cho những cây đào của thành phố Westminster mới trồng dọc đường Bolsa, nếu bị chặt, sẽ rất xấu hổ với người Mỹ. Trong Tết, đài phát thanh VNCR  năn nỉ xin bà con đừng chặt mấy cành đào trồng truớc cửa, đài lo đến nỗi để camera canh chừng. Năm nào các chùa cũng ra thông báo mời đồng hương và Phật tử đi chùa cúng giao thừa. Các thầy cũng năn nỉ đừng vặt tơi tả cây cỏ của nhà chùa như mấy năm truớc, các thầy đã cẩn thận gói sẵn lộc đầu năm. Không biết các chùa nơi khác có gặp cảnh tương tự?
Có thật người Việt Nam tàn phế cả tâm linh?

Không! Chỉ mới trước 1954, ở miền Bắc tiêu thổ kháng chiến, nhà nhà đục tường thông suốt nhau, chớ hề mất mát vật gì. Người thành phố chạy tản cư, đi đến đâu, cũng được “dân quê” đón vào nhà, chắt bót cưu mang mấy tháng trời cho đến khi người thành trở lại “vùng tề”.  Sau 1975, nhà nước “phát động” vụ đi tù cải tạo, dọc đường xe lửa xuyên Việt chở “lính ngụy” từ Nam ra Bắc, không thiếu những gói cơm, gói quà, đàn bà con trẻ  cố ném theo. Vẫn có bà mẹ từ Saigon ra thăm Hà Nội, kín đáo trả tiền vé cho anh bộ đội nhớ mẹ đánh liều chuồn lên xe lửa.

Trong phim Mùa Len Trâu, bà mẹ miền Nam lấy cối xay gạo duy nhất để tống táng một người chết không quen biết. Miền quê Cửu Long, có nơi các ngoại vẫn theo tục xưa, để một lu nước với cái gáo dừa “đặng ông đi wa bà đi lợi lỡ độ đường hổng chết khát”.  Báo chí trong nước, hễ đăng lên một chuyện thương tâm, lập tức trong nuớc ngoài nuớc gửi tiền nhờ nhà báo chuyển. Có những người nghiến răng “không cho một cắc”, vẫn có những người dành dụm tiền đào giếng cho làng Tây Nguyên tuốt trong xa.

Riêng Hà Nội, người ta yêu hay ghét Hà Nội qua nhiều lăng kính. Người xa Hà Nội năm 1954, cố hình dung một Hà Nội tiểu thư thẫn thờ bên hồ “khăn san lả lơi trên vai ai”,  ngập ngừng “nàng đi gót hài xanh”. Người ở lại Hà Nội sau 1954, lột sạch sành sanh khăn san trên vai và hài xanh dưói gót, trao cho cô tiểu thư Hà Nội một mớ khẩu hiệu bừng khí thế đấu tranh.

Người ta trách người Hà Nội làm mất thanh mất lịch, hay văng đủ thứ trong người. Nhưng quên vẫn có Hà Nội dịu dàng “Rước bác vào chơi”, “Cháu mời cô xơi cơm ạ”. Than Hà Nội lọc lừa, vì không biết chuyện chú tài xế taxi tìm khách trả lại túi xách bỏ quên, trong có máy quay phim và mấy ngàn đô la. Vẫn có đám cựu bộ đội lam lũ, đêm xuân thết lữ khách Saigon bữa tiệc lề đường tuý luý, để trả  món nợ canh cánh với một người Saigon không quen biết, đã chở anh ta đi tìm thân nhân hồi anh vào “tiếp thu Saigon” sau 1975. Hà Nội, đêm thâu tràn trề rượu quí; nhưng đâu đó Hà Nội đêm tối nhọc nhằn, việc làm không ai biết đến. Hà Nội ồn ào với những con số doanh nghiệp ngộp thở, nhưng Hà Nội cũng âm thầm từng bước cho đất nuớc tiến gập ghềnh. Hà Nội, xe Lamborghini vờn quanh đường phố mấp mô, nơi bố gầy guộc vấp ngã, mẹ cong lưng che mưa cho gánh hàng rong. Hà Nội, chục cô em ăn mặc bạt mạng, nhưng trăm cô em chắp tay tưởng niệm trận Đống Đa.

Ngay cả sau vụ hội hoa anh đào, báo chí cho hay “nhiều bạn trẻ đã tỏ thái độ phản đối và bất bình với những kẻ cố tình xâm hại hoa cây cảnh, nhờ vậy đêm mồng một và ngày mồng hai 1/2009 tình hình đã đỡ lộn xộn hơn”.
“Năm trăm anh đốt cho nàng. Còn năm trăm nữa giải oan lời thề”

Bẻ hoa, hay hay dở? Bài học nào cũng thiêng liêng. Là dịp cho chính người Hà Nội xét lại hướng tư duy, để sửa soạn cho một thử thách mà chính người Hà Nội chọn lựa: năm 2010 “kỷ niệm 1000 năm Chiếu Dời Đô”. Từ đây cho đến hôm ấy, thái độ của người Hà Nội -“trái tim của cả nước”- sẽ định hình cho cả một thế hệ; chịu trách nhiệm với tổ tiên; và cả với thế hệ tương lai.

Vấn đề e rằng không phải chối phăng phăng, đổ lỗi hay trách mắng các “bạn trẻ”. Chi bằng tìm đúng những người bạn trẻ ấy, giao cho họ trách nhiệm lo về hoa lá ngày hội 2010. Chỉ riêng khoản hoa lá, không thiếu gì việc. Đặt mua hoa, tỉa hoa, vẽ kiểu, trộn màu, tưới tắm, tạo không gian chụp ảnh như các thành phố “đàn em”. Giao cho các bạn trẻ một công việc lịch sử, còn hơn hồi hộp không biết lễ mừng Một Ngàn Năm Thăng Long, rồng hoa có bị vặt trụi cả râu lẫn vảy.
Làm sao hương hoa còn mãi?

Không phải chụp vài cái ảnh bên hoa là giữ mãi được mùi hương. Các bạn Hà Nội trẻ may mắn đuợc tiếp cận địa bàn, ngàn năm mới có một lần này, đừng ngại nguợc giòng lịch sử làm chuyện chắp vá: vịn vào những chi tiết nhỏ lượm lặt trong dân gian, tựa vào hàng ngàn trang sử thi sử ký, kèm theo điền dã thực tế, vẽ lại triều Đinh triều Lý ngàn năm truớc, trước khi thời gian đổ ập thêm lớp bụi dầy. Học trò yêu sử ở xa như tôi thiết tha muốn biết

    * Tổ tiên trục tiếp của hai vì vua Lí Bí-Lý Công Uẩn là ai?
    * Có bao nhiêu đền chùa đình tạ đời Lý, bao nhiêu chùa Việt, bao nhiêu chùa gốc Chàm? Di tích còn không?
    * Có phải trong mỗi chùa Phật, đều có một bàn thờ Mẫu?
    * Tại sao năm 1160, vua Lý Anh Tôn làm đền thờ Xuy Vưu một lượt với đền thờ Hai Bà như ghi trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư?
    * Bà Chúa Kho là ai?
    * Văn hoá phồn thực truớc và sau đời Lý?
    * “Ðời Thái Tông, cung nữ dệt được gấm vóc”, có phải do công của Bà Chúa Dệt Lĩnh, bà là ai?
    * Gấm nhà Tống màu gì? Vóc là gì, sản phẩm của Tống hay của Việt? Nên chọn màu gì cho ngày kỷ niệm Dời Đô?
    * Tộc nào thuộc chi Âu, tộc nào thuộc chi Lạc?  Thế nào là văn hoá bản địa, làm sao gìn giữ đuợc nét văn hoá nơi dân tộc ấy?

Hai đường rầy song song: Tìm về bản sắc và hội nhập toàn cầu

Giấc mơ thế kỷ 21 không khác lắm với giấc mơ Lý Bí - Lý Công Uẩn ngàn năm truớc: tự tin giữ lại văn hoá Đông Nam Á và đứng vững bên bờ Thái Bình Dương, vùng đất giao thoa của hai nền văn minh rực rỡ Trung Hoa và Ấn Độ.

Tin  mồng bốn Tết, mừng cho cả trong lẫn ngoài nuớc: Chợ hoa tuần rồi ở trong nuớc, các bông hoa vẫn bình yên. Hai cây đào ở truớc đài phát thanh VNCR ở Califorrnia cũng bình yên.

Chuẩn bị cho năm 2010,  kỷ niệm một ngàn năm Chiếu Dời Đô,  ngàn cây xanh đang được trồng trên đường Lê Văn Lương, đang đặt tên mới cho những con đường. Có con đưòng nào tên “đường Giải Oan”, như đã có Chùa Giải Oan, Suối Giải Oan, Giếng Giải Oan? Cuộc chíến anh em Nam/Bắc hơn nửa thế kỷ qua, là điều oan uổng lớn nhất. Cuộc chiến đã oan, sản phẩm của cuộc chiến ấy, làm sao không oan cho được!

“Giải oan lời thề”, và quên đi vài bông hoa cướp vội!

Năm mới tháng Giêng mồng bốn Tết, Xuân Kỷ Sửu 2009
California
Trần Thị Vĩnh Tường