Home Tin Tức Bình Luận Hiểm Họa Trước Mắt

Hiểm Họa Trước Mắt PDF Print E-mail
Tác Giả: SaigonEcho sưu tầm   
Chúa Nhật, 15 Tháng 3 Năm 2009 10:42

Thật ra con người rất khó bị lừa nếu bản thân họ không tự lừa dối chính họ (ngoaị trừ một số người qúa đần độn) bởi tât cả các phương tiện truyền thông đương đại cho phép con người tiếp cận được với toàn bộ thông tin trên thế giới chỉ trong vòng vài giờ tra cứu.  
Xu thế xích lại gần nhau của Hoa Kỳ và Việt Nam từ trước và sau chuyến đến Hoa Kỳ của Tríêt đã qúa rõ ràng. Vừa qua nội dung bản tin trên đaì VOA hôm 3-7-2007 cho biết như sau: 
  [ Ðại sứ Mỹ tại Việt Nam, ông Michael Marine đã gởi báo chí Việt Nam một bài viết đánh dấu quốc khánh 4 tháng 7 của Mỹ mà trong đó ông đã nhấn mạnh tới tầm quan trọng của các quan hệ đang ngày càng phát triển trong bang giao giữa Việt Nam và Mỹ. Ông Marine đã nêu các chuyến thăm viếng qua lại giữa Tổng thống George W. Bush tại Việt Nam và của Chủ tịch nhà nước CSVN Nguyễn Minh Triết tại Mỹ để minh chứng cho những quan hệ tốt đẹp được ông cho là “rất sâu sắc” đó. Một chi tiết khác cũng đã được Ðại sứ Mỹ nêu ra trong bài viết là các nỗ lực phát triển doanh thương ở Việt Nam kể từ sau khi Việt Nam gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới. Xin trích dịch một đoạn như sau: 
  “Tầm nhìn của các nhà lãnh đạo của chúng ta thể hiện trong các chuyến thăm này và trong những năm qua đã tạo ra nền móng cho những thành tựu hiện nay của chúng ta. Theo đề nghị của Việt Nam, Hoa Kỳ đã rất nỗ lực trong một thời gian dài để giúp Việt Nam thực hiện Hiệp định Thương mại Song phương 2001, và sau đó chuẩn bị cho việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới. 
 Những thay đổi đối với nền kinh tế Việt Nam đã dẫn đến sự bùng nổ trong thương mại 2 chiều, nay đạt mức hơn 10 tỷ đôla mỗi năm. Hoa Kỳ hiện nay là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, và khi người dân Việt Nam trở nên thịnh vượng hơn, họ sẽ mua ngày càng nhiều hàng hoá và dịch vụ Mỹ. Trao đổi thương mại của chúng ta đang tạo ra thêm nhiều việc làm cũng như nâng cao mức sống cho cả người Việt Nam lẫn người Mỹ.” 
 Một số các hoạt động liên hệ tới hai nước cũng đã được ông Marine đề cập – nhứt là trong lãnh vực xã hội – mà theo ông thì đã giúp cho nhân dân 2 nước trở nên gần gũi hơn. Căn bản là nhờ những dòng người qua lại thăm viếng nhau giữa Việt Nam và Mỹ. 
 Công tác phối hợp chống khủng bố và bài trừ ma túy giữa hai nước cũng đã được ông Marine dùng để chứng tỏ những quan hệ khắn khít hơn bên cạnh sự kiện đang có nhiều sinh viên Việt Nam du học tại Mỹ, được coi là đã gia tăng những sinh hoạt có tính cách giao lưu rất tốt giữa đôi bên. 
Ðại sứ Michael Marine kết luận bài viết của ông với lời tiên liệu cho rằng các quan hệ trên cấp quốc gia giữa Việt Nam và Mỹ sẽ càng bền chặt hơn trong tương lai.] 
(hết trích.) 
Khi những xung động đấu tranh đã lắng xuống, NVQGTNCS phải thấy đây chẳng phải là một lời tiên liệu mà chính là khẳng định tương lai của mối “Quan Hệ Mỹ - Việt Cộng.” 
  Chúng ta phải đủ can đảm để nhìn nhận SỰ THẬT CAY ÐẮNG này, CHÚNG TA phải nhìn thấy hơn ba mươi hai năm qua thành qủa đấu tranh của NVQGTNCS qúa sức nhỏ nhoi. Và với hơn 32 năm sinh sống tại Hoa Kỳ, NVQGTNCS vẫn còn ở trong thời kỳ phôi thai của một cộng đồng thiểu số tân lập. Tiềm năng của chúng ta khá lớn nhưng tiếng nói của chúng ta quá nhỏ và thực lực của chúng ta lại qúa yếu. 
 Vì thế không lấy gì làm ngạc nhiên khi những yêu cầu của chúng ta chỉ được đáp lại bằng những hành động “mỵ dân chuyên nghiệp” của chính giới Hoa Kỳ mà đám hoạt đầu “chính trị mộng du” lấy đó làm đắc ý, hí hửng nghĩ rằng “cờ đã đến tay”. 
  Tât nhiên những NVQGTNCS chân chính không ai ngạc nhiên vì bài viết phũ phàng của ngài đại sứ Michael Marine (đại sứ chứ không phải thái thú). 
 Bởi lẽ NVQGTNCS thừa trí tuệ để hiểu rằng mối quan hệ giữa Mỹ - Việt Cộng đã được xếp vào tầm chiến lược vì ngọn đông phong đang thổi càng lúc càng mạnh về Ðông Nam Á. Một số học giả ở Mỹ đã kêu gọi chính phủ Bush lưu ý đến mối rủi ro là Hà Nội sẽ xích lại gần hơn với Trung Quốc nếu Hoa Kỳ gây áp lực quá độ lên Hà Nội về vấn đề nhân quyền.. 
  Trong bài viết đăng tải trên tạp chí National Interest của Trung tâm Nghiên cứu Nixon, giáo sư Phạm Hoàng An (J Peter Pham), Giám đốc Viện Nghiên cứu Quốc tế và Công cộng Sự vụ của Ðại học James Madison, nói rằng “đối với Hoa Kỳ, đây là một cơ hội độc đáo để chẳng những có thể thăng tiến cho các giá trị của mình về con người và thị trường tự do, mà còn để thăng tiến quyền lợi quốc gia trong một khu vực cực kỳ quan trọng về địa chiến lược.” 
 Giáo sư Brantly Womack, một chuyên gia về quan hệ Việt-Trung của Ðại học Virginia, tán đồng ý kiến của giáo sư Phạm Hoàng An. Nhưng ông nói thêm rằng Hoa Kỳ cần phải giao tiếp với Việt Nam bằng một thái độ nghiêm túc, phải đặt quan hệ với Việt Nam lên một ưu tiên cao hơn sau khi quá trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước giờ đây đã hoàn tất: 
 Ông Womack nói: “Tiến trình bình thường hóa quan hệ đã diễn ra quá chậm chạp. Giờ đây, quá trình đã hoàn tất, Hoa Kỳ cần phải suy tính đến vấn đề là mối quan hệ tổng thể với Việt Nam nên như thế nào khi mà quan hệ đã hoàn toàn bình thường và Việt Nam đã trở thành hội viên của Tổ chức Thương mại Thế giới. Nhưng lý do cơ bản khiến Hoa Kỳ phải lưu tâm nhiều hơn tới Việt Nam là những lý do có liên hệ với chính bản thân Việt Nam, chứ không phải vì mối quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc. Việt Nam có dân số đông hơn Ai cập hoặc Ðức. Việt Nam có tiềm năng rất lớn cho công cuộc thương mại và đầu tư của Hoa Kỳ.” 
 Giáo sư Womack nói thêm rằng Việt Nam cần tăng cường quan hệ với Hoa Kỳ để cân bằng với Trung Quốc, nhưng đây không phải là vấn đề nên nghiêng Hoa Kỳ để chống lại Trung Quốc hay không, mà chỉ là để tránh xảy ra tình trạng lệ thuộc quá độ vào bất kỳ một cường quốc nào. Về phần Hoa Kỳ, ông cho rằng Washington nên theo đuổi một sách lược khôn khéo hơn; đó là giao hảo với mọi nước chứ không nên chú tâm nhiều quá vào mối quan hệ có nhiều căng thẳng với Trung Quốc và chỉ lưu tâm với những nước nhỏ hơn khi nào xảy ra tình trạng khủng hoảng, như vụ khủng hoảng ở Bắc Triều Tiên. 
 Cũng theo lời giáo sư Womack, vấn đề dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam nên do người Việt giải quyết. 
 “Rốt cuộc thì vấn đề dân chủ và nhân quyền nên do chính người dân của nước đó giải quyết. Dĩ nhiên không phải là Hoa Kỳ nên làm ngơ, nhưng Washington cần có một thái độ tôn trọng và không nên một mực cho rằng mình là đúng và nước khác là sai. Chúng ta cần phải cẩn thận để khỏi bị rơi vào một tình trạng khó xử cho cả đôi bên, đó là theo đuổi “sứ mạng giải phóng nhân loại” của thời kỳ đã qua.” 
Giáo sư Womack nhận xét rằng: trong năm 2006 Việt Nam đã đạt được tiến bộ chưa từng có về mặt cởi mở chính trị, xã hội - và theo ông, sự trấn áp hồi gần đây có thể chỉ là một sự điều chỉnh sau khi phe dân chủ ở Việt Nam đã có hành động mà ông gọi là “mạo hiểm” trong lúc giới lãnh đạo Hà Nội bị hạn chế bởi những nỗ lực gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới và tổ chức hội nghị thượng đỉnh APEC. 
Giáo sư Womack nói: “Những gì xảy ra trong 6 tháng qua rất có thể chỉ là một sự điều chỉnh có tính chất tạm thời từ những tiến bộ đạt được trong năm ngoái, chứ không phải là những dấu hiệu của một xu thế đen tối.” 
  Giáo sư Womack thật khéo nói để giúp Bush rút lại những lời hứa của chú ễnh ương về Tự do, Dân chủ, Nhân quyền cho những ai dám đứng dậy đấu tranh. 
Vậy thì những ai sống trong những chế độ áp bức dám đứng dậy đấu tranh tất cũng có khả năng đạt được Tự do, Dân chủ, Nhân quyền nhưng là bằng trí tuệ, xương máu của chính dân tộc họ đổ ra giành lấy chứ không phải do Hoa Kỳ ban phát. 
Không phải chính Hoa Kỳ đã nói “Freedom isn’t free” hay sao. 
 NVQGTNCS hãy nhớ lấy những bài học lịch sử về những mối quan hệ của Hoa Kỳ  với các đồng minh tiểu quốc để đừng đặt niềm tin không đúng chỗ. 
  Vấn đề của NVQGTNCS hiện nay cần phải làm là thoát ra khỏi “đường xưa lối cũ” và tư tưởng “mỏi mắt trông chờ ngoại bang chiếu cố gia ơn, xin hộ Việt Cộng cho vài cái ghế bàn chông để làm đối trọng ”. 
Hãy nhìn vào tấm gương Cambodia để thấy Sam Raisin, Ranarith - những lá bài của Tây Phương làm được gì - hay chẳng qua chỉ hợp thức hóa cho bọn Cộng Sản Cambodia có quyền ăn nói với thế giới. Hunsen là ai nếu không phải là con đẻ của Cộng Sản Việt Nam. 
Vấn đề của NVQGTNCS cần làm là hãy xóa đi căn tính nô lệ thể hiện qua "ảo tưởng vọng ngoại" để làm công việc thực tế hơn là xây dựng và củng cố các tổ chức cộng đồng hầu kiên vững đối phó với những đòn tấn công của Cộng Sản Vịêt Nam nhằm phân hóa và đè bẹp tinh thần chống cộng của chúng ta nay mai. 
Vừa qua ngay tại Washington D.C. một số bọn nằm vùng xâm nhập vào các hội đồng hương .... được chủ một cơ sở Travel  M. L. đã lộ diện tổ chức đưa nhiều nhóm văn hóa vận của cộng sản đến diễn dưới sự bảo trợ của toà đại sứ Việt Cộng. 
 Trước hành động ra mặt thách thức này, các tổ chức cộng đồng điạ phương vẫn im hơi lặng tiếng do không có thực lực để đối phó. Tình trạng này sẽ lan rộng theo chiến thuật "Vết dầu loang". 
  Thời gian sắp tới sẽ còn nguy hiểm hơn khi số lao nô Viêt Cộng vào Hoa Kỳ với số lượng đông đảo bội phần. Chắc chắn chúng sẽ trở thành đối thủ của chúng ta trong những cuộc đấu tranh. 
Vừa qua tại Cali tỷ lệ của chúng so với ta đã là (Việt gian trở cờ +Việt Cộng được 5%). Con số đó sẽ được nhân lên bội phần trong thời gian vài năm tới. Mối hiểm họa này đã qúa rõ ràng. 
Người Vịêt Quốc Gia Tỵ Nạn Cộng Sản đã đến lúc phải khẩn thiết lưu tâm đến việc củng cố và táí phối trí lại các tổ chức của chúng ta trước khi qúa muộn ./.