Home Tin Tức Bình Luận Những Tồn Tích Của Cộng Sản Trong Giáo Hội Công Giáo

Những Tồn Tích Của Cộng Sản Trong Giáo Hội Công Giáo PDF Print E-mail
Tác Giả: Bác sĩ Nguyễn Tiến cảnh, M.D.   
Chúa Nhật, 12 Tháng 4 Năm 2009 12:15

Vatican hiện rất quan tâm đến tình trạng của các nước hậu cộng sản và đang tìm cách xây dựng lại một Giáo Hội đích thực của mình. Những tồn dư của chế độ cộng sản còn đọng lại với những ảnh hưởng trầm trọng của nó về mọi mặt cả vật chất lẫn tinh thần, từ văn hóa, giáo dục, tôn giáo, xã hội đến kinh tế, chính trị… đang là những ưu tư không nhỏ của những vị lãnh đạo Giáo Hội tại những nước hậu cộng sản. Ở đây xin chỉ bàn vấn đề tinh thần một cách tổng quát dựa vào những nhận xét của các giám mục Đông Âu được trình bày tại hội nghị ở thủ đô Croatia mới đây, rồi từ đó rút ra một vài nhận xét / bài học cho Giáo Hội Việt Nam[1].

HÔI NGHỊ ZAGREB: Những di sản của Cộng Sản

“Những vết thương và đổ vỡ do chủ nghĩa cộng sản gây ra hiện vẫn còn tồn tại và đang đầu độc đời sống con người và xã hội nơi những quốc gia đã một thời phải sống sau bức màn sắt”.

Đó là thông điệp của các giám mục Đông Âu đã đưa ra tại cuộc hội thảo chuyên đề ngày 11-2-2009 tại Zagreb, thủ đô Croatia: “Sứ mạng của Giáo Hội ở những nước Trung-Đông-Âu 20 năm sau khi chế độ cộng sản xụp đổ: 1989-2009″.

Đây là hội nghị chuyên đề thứ ba tiếp theo hai hội nghị trước ở Budapest năm 2004 và ở Prague năm 2007 về cùng một chủ đề như vậy kể từ khi bức tường bá linh xụp đổ vào năm 1989.

Đức Hồng y TGM Zagreb Josip Bozanic, phó CT/HĐGM Âu Châu là chủ tịch hội nghị đã mời 13 giám mục đại diện HĐGM Âu Châu tham dự / chia sẻ ý kiến tại hội nghị.

Ngày khai mạc Hội Nghị cũng là ngày kỷ niệm Đức HY Alojzije Stepinac được phong Á Thánh. Các đề tài thảo luận cũng đặc biệt chú trọng vào những tàn tích tinh thần do cộng sản để lại và những di sản của các vị tử vì đạo dưới trào cộng sản.

Trong bài kết thúc hội nghị, Đức HY Bozinac đã ví “niềm tin của Đức HY Stepinac và của các vị tử vì đạo khác như là kết quả của những khổ đau, nhục nhằn, nhưng can trường, cương quyết không lùi bước trước những cực hình, áp đặt và dụ dỗ ngọt bùi đầy mưu mô thâm độc của kẻ dữ”.

Ngài bình luận:

- “Bức màn sắt là hình ảnh của hận thù, chia rẽ, đổ vỡ, ngăn cách và vị kỷ. Nó được dựng nên bởi con người với chủ trương ngăn cản con người đến với con người. Chủ trương đó còn thâm độc hơn nhiều nữa là ngăn cản con người hướng về Thiên Chúa và nhận biết tình thương yêu của Ngài”.

- “Khi mà con người –ĐHY nói tiếp- dựng nên bức tường ngăn cách đó thì Thiên Chúa lại gieo hạt giống như những tặng phẩm của đời sống và cho phép nó chết đi….. Và rõ ràng là khi người ta cố tình cấm cản sự sống, biến đất lành thành sỏi đá thì chính đất đó lại phát sinh ra hoa trái”.

…. CHO ĐẾN BÂY GIỜ

Đức Hồng Y báo động: “Mặc dù chúng ta có cảm tưởng là hệ thống cai trị của chủ nghĩa cộng sản đã tan vỡ, ngừng không còn hoạt động với những hình thức như trước kia nữa, nhưng nó đã biến hình đổi dạng thay cách, trong khi môi trường, đất sống là nơi con cháu chúng ta / thế hệ trẻ phải sinh ra và hít thở để sống đã bị chúng làm nhiễm độc vấy bẩn rồi”.

Thực vậy, một trong những thắc mắc mà đa số các hội thảo viên lưu ý các giám mục là cho dù chủ nghĩa cộng sản đã xụp đổ, nhưng “cấu trúc của nó vẫn còn tồn tại cả về lập pháp lẫn tư pháp, cả về kinh tế, giáo dục lẫn văn hóa” và đặc biệt “ cung cách suy tư của con người, tâm tình đối xữ với nhau, những biến cố, hiện tượng ở quá khứ vẫn âm thầm ẩn náu dưới bức màn che thầm kín gọi là ‘yên lặng’ “.

Đức hồng y đặt câu hỏi và lưu ý mọi người, nhất là những vị có trách nhiệm trong Giáo hội để tìm hiểu lý do hầu có phương cách sửa chữa.

- “Vậy thì làm sao có thể cắt nghĩa được hiện tượng là đã 20 năm sau khi chế độ cộng sản xụp đổ mà người ta vẫn không dám nhìn nhận sự thật, chẳng hạn như ở Croatia người ta vẫn né tránh không dám nói đến ĐHY Stepinac?”[2]

Ngài tiếp tục bình luận:

- “Những con cái của dối trá đã thu nhặt từng mảnh vụn, yếu tố nhỏ của “Bức Màn”, lợi dụng đó để ẩn náu và làm thành một lớp sương mù bao phủ sự thật về cả cá nhân lẫn cơ quan tổ chức. Nhờ bức màn còn sót lại đó người ta lại reo mầm mống chia rẽ và nghi ngờ.”

Đức Hồng Y Bozinac nói tiếp:

- “Sự thật là bức màn sắt đó đã hạ xuống rồi, hệ thống cộng sản đã tan vỡ, nhưng những mảnh nhỏ cấu kết nên nó vẫn còn tồn tại lại rất ngoan cố, luôn luôn cổ võ cũng cùng môt loại dối trá, sai lac, bịa đặt không chỉ về mặt chính trị cùng những tương quan liên hệ với quá khứ, mà cả về giáo dục, khoa học và giảng huấn”.

Ngài cũng báo động “Hãy coi chừng những loại tuyên truyền quảng bá rùm beng tiền hậu bất nhất về lịch sử, khảo cổ về loài người, nhất là vấn đề đời sống con người và gia đình xã hội.”

Ngài nhắn nhủ:

- “Chúng ta sẽ không bao giờ đồng ý hay cho phép tạo bất cứ một ảnh hưởng chính trị nào liên quan đến những vấn nạn trên, bởi vì đó không phải là vấn đề để con người đồng ý hay không mà đó chính là trung tâm điểm của sự thật mà chúng ta là nguồn gốc”.

Một vấn nạn nữa mà Đức Hồng Y nhắc tới là vấn đề hiệp thông giữa các Giáo hội, một sự hiệp thông mà những tay gọi là “siêu lý tưởng cố gắng phá vỡ, ngăn cách” những tín hữu ở phương Đông với những tín hữu phương Tây. Ngài kêu gọi những người hiện diện “đừng quên rằng các Giáo Hội trong thế giới tự do luôn luôn yểm trợ chúng ta rất mạnh mẽ và đắc lực, bởi vì nhờ sự hiệp thông, thống nhất và đoàn kết đó mà Giáo hội đã tiến những bước tiến tử đạo vĩ đại”.

Trong một lúc khác Đức Hồng y Bozanic đã lưu ý mọi người: Đây là lúc “phải rao truyền Tin Mừng một cách mới mẻ và can đảm hầu khôi phục lại căn gốc Kitô giáo thực sự của chúng ta, là lúc chúng ta phải trả lời / đáp lại những thách đố và khiêu khích của những người chủ trương thuyết loại suy và nhất là tính độc đoán của những người chủ trương thuyết tương đối”.

Các Giám Mục cũng đã nhắc mọi người nên để ý đến những thách đố và đòi hỏi của việc toàn cầu hóa, đạo đức sinh học, khoa thần kinh học, vấn đề di dân và việc thiết lập một trật tự mới thế giới không kém gì việc bảo vệ tự do lương tâm và những lý tưởng mới, nhất là những lý tưởng liên quan đến đời sống con người và gia đình.

KHÔI PHỤC LẠI QUÁ KHỨ

Văn phòng thư ký của Đức Hồng y chủ tịch hội nghị đã đưa ra một lời kêu gọi: “ Chế độ cộng sản đã qua đi, nhưng tàn dư của nó vẫn tồn tại cùng với những vết thương vẫn ảnh hưởng sâu đậm trên con người và xã hội. Vì vậy cần phải có sự phù trợ giúp đỡ của Thiên Chúa và Giáo Hội để những vết thương đổ vỡ ấy mau được hàn gắn lại”.

Tất cả các nhóm thảo luận đều đặc biệt chú ý đến sự cần thiết phải có Giáo hội giúp đỡ hầu khơi động lại “Ký Ức Lịch Sử” về những năm tháng dưới chế độ cộng sản để chiến đấu chống lại phong cách và khuynh hướng “cố quên lịch sử”, “NÍN LẶNG DĨ VÃNG”, không muốn nói đến, nhắc lại những sự việc, những biến cố đã thực sự xẩy ra, nhất là về những vị tử vì đạo đã hy sinh mạng sống trong ngục tù hay dưới bất cứ hình thức nào khác vì con người, vì Chúa và Giáo Hội.

Một đặc biệt nữa là nhu cầu giới trẻ, cần phải được giúp đỡ, hướng dẫn để chúng “nhận biết ra lịch sử đích thực” và “luôn luôn ghi nhớ trong tâm khảm mình những vị đã ‘vì Niềm Tin, vì Chúa, vì Con Người’ mà hy sinh mạng sống”.

Sau cùng các Giám mục đã quyết định tổ chức một Hội Nghị về Lịch Sử để thảo luận về đời sống của Giáo Hội và những việc làm của giáo dân trong thời kỳ cộng sản.

MỘT VÀI NHẬN XÉT GÓP Ý

Qua nội dung của Hội Nghị, chúng ta thấy những nhận xét của Đức Hồng y Bozanic và giáo dân đã một thời sống dưới chế độ cộng sản cũng không khác những gì mà chúng ta thấy ở Việt Nam chúng ta bây giờ. Điều đó cũng dễ hiểu, bởi vì cộng sản thì dù ở Đông hay Tây hay Á cũng cùng theo một đường lối như nhau. Đó là dối trá, hận thù, chia rẽ và vị kỷ. Và, tôn giáo là thuốc phiện mê hoặc con người, cần phải tiêu diệt.

Cộng sản dạy con người gian dối. Gian dối với chính mình và với người. Đối với cộng sản, không ai có quyền nghĩ và hành động khác với đường lối, lập trường của bác và đảng. Nghĩ khác, làm khác với đảng và nhà nước là phải bị tiêu diệt. Do đó muốn sống thì phải nói dối, làm gian theo đúng lời bác, đảng và nhà nước cho dù có trái với lương tâm, ý nghĩ của mình.

Cộng sản không nhân nhượng với kẻ thù. Họ quan niệm “giết lầm còn hơn tha lầm”. Ai cũng biết câu nói ghê rợn của người cộng sản trong đấu tố cải cách ruộng đất: “Đào tận gốc Tróc tận rễ…”, nghĩa là không để sót một tên cường hào ác bá ác ôn nào. Hãy nhìn những gì xẩy ra ở miến nam Việt Nam sau 30-4-75 thì rõ. Những người lính VNCH đã chết, có muốn mồ yên mả đẹp cũng không xong. Một cái bia kỷ niệm của những người vượt biên chết trên đường tỵ nạn ở những nơi xa xôi mãi tận Nam Dương cũng không được phép tồn tại….[3]

Từ dối trá, hận thù đi đến vị kỷ quả không xa. Con người sống trong xã hội cộng sản chỉ biết có mình, chỉ lo cho mình để sống còn, bởi lẽ người cộng sản buộc mọi người phải tự kiểm thảo, tố cáo nhau để trở thành người gọi là “công dân tốt”. Con người không còn tình người nữa, hết cả luân thường đạo lý, lễ phép ở đời. Một ông bạn về Việt Nam thăm gia đình, ông đã cố gắng hòa đồng để không ai nhận ra ông là “việt kiều”, nhưng vẫn bị lộ tẩy ngay ở Saigon. Tại sao?

- Bà bán cho tôi ly café.
Bà chủ quán đem ly café ra cho ông bạn.
- Cám ơn bà chủ.
- Ông là việt kiều phải không? Bà chủ hỏi.
- Sao mà bà biết?
- Bởi vì ông biết “cám ơn”. Ở đây có ai cám ơn ai bao giờ đâu!

Một câu chuyện xẩy ra ở Hà nội:

Lần đầu tiên mới tới Hà nội, tôi không khỏi bỡ ngỡ khi tìm nhà của một người quen làm trưởng một khu phố văn hóa. Thấy có mấy đứa trẻ đang nô đùa ngoài ngõ, tôi hỏi:
- Này, các cháu có biết nhà ông xã trưởng khu phố văn hóa ở đâu không?
Một đứa trẻ trai, trạc trên dưới 10 tuổi, ngước nhìn tôi bằng đôi mắt xấc láo, ranh mãnh, đáp gọn lỏn:
- Biết, nhưng đéo chỉ!
Tôi lắc đầu đi sâu vào ngõ văn hóa, gặp một thanh niên hỏi.
- Anh ơi, anh có biết nhà ông trưởng khu phố văn hóa này ở chỗ nào không anh?
Gã trẻ tuổi này chẳng thèm dòm ngó gì đến tôi, trả lời cộc lốc:
- “Đéo biết”.
Khi gặp ông trưởng khu phố văn hóa, tôi đem chuyện này kể cho ông ta nghe với lời than thở:
- “Anh ạ, các bậc phụ huynh ở đây đã không dạy dỗ con em hay sao mà để chúng nó ăn nói với người khách lạ thô bỉ đến thế anh?”!
Chẳng cần suy nghĩ gì, ông trưởng khu phố văn hóa đã thuận miệng trả lời ngay:
- “Có dạy đấy chứ, nhưng chúng nó đéo nghe!”
Lúc ấy có cô con gái của ông bạn tôi là cô giáo dạy môn văn vừa đi dạy về và tôi đem chuyện ra kể lại. Thay vì trả lời trực tiếp cho tôi, cô giáo xin phép thuật lại một chuyện như sau:

Hôm ấy cháu giảng bài văn, có đoạn kể thành tích anh hùng và dũng cảm của nhân dân ta đánh gục Tây, đánh nhào Mỹ, v.v…. Cuối cùng cháu kêu một em học trò trai lớn nhất lớp, bảo nó cắt nghĩa hai chữ “dũng cảm” là gì. Nó đứng lên suy nghĩ một lúc rồi đáp gọn lỏn:
- Nghĩa là…, là… đéo sợ.
Sau đó cháu lại có cuộc tiếp xúc với ông bộ trưởng giáo dục và đào tạo, liền đem chuyện thằng bé học trò cắt nghĩa hai chữ «dũng cảm» là «đéo sợ» cho ông nghe. Nghe xong, ông bộ trưởng tỏ vẻ đăm chiêu, ra điều suy nghĩ mung lung lắm. Cuối cùng ông nghiêm nghị nhìn cháu rồi gật gù như một triết gia uyên bác vừa khám phá ra một chân lý, chậm rãi đáp:
- Ừ, mà nó cắt nghĩa như thế cũng đéo sai!….

Đấy, bây giờ luân lý đạo đức của con người dưới chế độ này là như thế đấy. Rồi đây các thế hệ trẻ miền Nam cũng vậy thôi. Làm sao tránh được [4].

Đó, phải chăng con người đã sinh ra nơi đất cằn sỏi đá đã phải hít thở cái không khí đã bị nhiễm độc.

Một câu chuyện khác do chính người viết chứng kiến khi còn trong trại tù cải tạo. Một hôm mấy anh em tù ngồi nói truyện với anh quản giáo. Anh quản giáo khoe:
- Tôi sắp được đi nghỉ phép về Bắc một tháng. Đã gần 30 năm xa nhà vào Nam chưa bao giờ được đi phép, nay hòa bình rồi mới được đi đấy.
- Chà! –mấy anh em tù đều lên tiếng- lâu ngày như vậy, chắc khi gặp lại chị hẳn phải vui lắm phải không anh?
- Ấy chết! đâu có được. Mấy ngày đầu, tôi còn phải nghe ngóng xem vợ tôi nó thế nào chứ đâu có bỗng chốc tự nhiên nhảy vào giường với nó ngay được!!!

Con người trong xã hội cộng sản có ai tin ai đâu. Chỉ có nghi ngờ, vị kỷ. Vì thế đâu còn tình yêu thương nhau.

Một ông bạn về Việt Nam chơi, vì sợ thất lạc giấy thông hành Visa / Passport nên gửi bà chị và ông anh rể giữ hộ. Sau hơn một tuần đi chơi khắp Trung Nam Bắc, trước khi trở lại Hoa Kỳ, anh bạn xin bà chị cho lại cái Visa, nhưng ông anh rể và bà chị nhất định đòi chuộc lại với giá 5,000 dollars. Cũng may ông bạn đó còn đủ tiền nên cắn răng nộp cho bà chị để lấy lại tờ thông hành.

Biết bao nhiêu điều chướng tai gai mắt xẩy ra hàng ngày từ trong gia đình đến xã hội, cửa quyền, học đường, cho chí cả tôn giáo, tất cả đều đổ vỡ, luân thường đạo lý đảo lộn không nhiều thì ít. Người ta chỉ biết có tiền. Riết rồi người ta coi những cái bất thường ấy như là bình thường, chẳng có gì phải thắc mắc.

Một xã hội tha hóa, trong đó nạn xì ke ma túy, rượu chè, trộm cắp tràn ngập; chính quyền thì tham nhũng hối lộ, cửa quyền, tha hồ bóc lột ức hiếp người dân. Học đường mất căn bản giáo dục, bằng cấp giả, có tiền thì có bằng không cần một ngày đến trường v.v… Đó là chưa nói đến giảng huấn, người ta có dạy cho học sinh / sinh viên sự thật không hay chỉ toàn là dối trá sai lạc để tạo một ảnh hưởng chủ đích riêng của họ. Nói một đàng làm một nẻo. Không dám nhìn nhận sự thật, nhắc tới sự thật. Để quên đi sự thật.

Đó là chủ đích / thái độ ngăn cản con người đến với con người, con người đến với Thiên Chúa. Tôi đã từng nghe câu chuyện bác Hồ và kinh Lạy Cha của Công Giáo. Người ta biểu trẻ em công giáo đọc kinh « Lạy Cha » xem Chúa có cho cơm ăn như trong kinh nói không thì không thấy Chúa cho cơm ăn… Nhưng khi đám trẻ xin bác Hồ bánh thì có bánh liền. Nội dung câu chuyện như vậy cũng thường xẩy ra ở những nước cộng sản khác như Cuba và Liên Sô mà những người bạn Cuba và Nga Sô của tôi đã kể cho nghe giống y chang vậy. Cộng sản đã duy vật hóa, phàm tục hóa tôn giáo để gây ác cảm với tôn giáo, cũng chỉ với mục đích không muốn con người đến với tôn giáo và tin vào Thiên Chúa. Muốn thăng tiến nghề nghiệp, có việc làm tốt, lương cao thì phải giã từ tôn giáo. Có biết bao bác sĩ trẻ tuổi mới ra trường không kiếm ra job, phải bỏ đạo để có việc làm và thăng quan tiến chức. Cộng sản coi tôn giáo là thuốc phiện mê hoặc con người, là kẻ thù nhất là công giáo, không thể đội trời chung, cần phải hủy giệt. Nếu không giệt được thì bằng mọi cách phải phàm tục hóa, làm mất uy tín, cô lâp để cho bị tê liệt luôn.

LÀM SAO ĐỂ SỐNG CHUNG VỚI NHÀ NƯỚC CỘNG SẢN ĐỂ HÀNH ĐẠO

Đức HY Phạm minh Mẫn yêu cầu trí thức công giáo / câu lạc bộ Nguyễn văn Bình dựa vào kinh nghiệm sống của Giáo Hội miền Bắc trước 1975 và Giáo Hội miền Nam sau 1975 để nghiên cứu tìm phương cách làm sao để giữ đạo, sống đạo và hành đạo. Nghe đầu đề đó thì đã hiểu ra là «làm sao để hòa hợp hòa giải với Cộng sản» để Giáo Hội được thoải mái và hành đạo, bởi lẽ Giáo Hội miền Bắc từ 1945 đến 1975 đã tuyệt đối không hợp tác với cộng sản và Giáo Hội đã bị trù dập, đàn áp và cô lập về mọi mặt trong khi đó Giáo Hội miền Nam đã phần nào hòa đồng hợp tác với cộng sản nên Giáo Hội xem có vẻ được thong thả hơn so với Giáo hội miền Bắc.

Nhìn bề ngoài thì vậy nhưng không phải vậy đâu. Hoàn cảnh không gian và thời gian ở hai miền Nam Bắc hoàn toàn khác nhau. Nếu cứ so sánh cách đối xử của Giáo Hội miền Bắc và Giáo Hội miền Nam đối với cộng sản và nhìn vào cái mặt nổi bề ngoài của Giáo Hội hai miền ở mỗi thời rồi rút ra bài học thực hành thì e rằng không được chỉnh và nguy hiểm. Chúng ta cần phải phân tích từng hoàn cảnh với những chi tiết chính trị văn hóa xã hội tôn giáo của từng miền và từng trường hợp hầu tìm hiểu cho ra lý do tại sao.

Dĩ nhiên Giáo Hội rất ưu tư về tình trạng sa sút luân lý đạo đức của xã hội / đất nước Việt Nam nói chung và của Giáo Hội công giáo nói riêng và mong ước có cơ hội, hoàn cảnh được tự do để chăm lo, cải tổ giáo hội và xã hội.

Điều đó cần phải có sự trợ giúp hay ít ra là được sự đồng ý của chính quyền để cho mình tự do làm công tác bác ái, xã hội, y tế và văn hóa, giáo duc….

Chúng tôi không dám đưa ra một kết luận khẳng quyết là Giáo hội phải sống với chính quyền thế nào, bởi lẽ nếu đề nghị nên hòa hợp hòa giải với chính quyền bằng mọi giá thì sợ rằng có những khâu nó trái với giáo huấn của Giáo hội, với Tin Mừng hay quyền hạn tự do tôn giáo bị xâm phạm thì e rằng đề nghị đó trái với lương tâm và lòng yêu nước chân chính của mình đồng thời lại mang tiếng là hèn nhát. Ngược lại nếu đề nghị Giáo Hội phải đi theo đường lối cương quyết chống lại tội ác và cái xã hội tha hóa vô luân thì sẽ bị kết tội là cực đoan, «chỉ nói cái lỗ miệng, nói thì dễ làm mới khó, về Việt Nam mà nói. Hãy nhìn Giáo Hội miền Bắc từ 1945-1975 xem nó thê thảm thế nào».

Thực vậy, lý luận nào cũng có lý của nó, nhưng nên để ý xem nó có hợp với lương tâm chính trực của người công giáo hay không, có trong sáng hay không, có bị miệng tiếng đời dị nghị hay không, và nhất là kết quả / hậu quả của việc mình làm có tính vĩnh cửu hay không. Phát triển nhà thờ, nhà xứ hoành tráng để khoe trương nơi thị thành không phải là việc làm cần thiết và đủ. Tôi còn nhớ khi phong trào trong nước ồn ào ra hải ngoại quyên tiền để trùng tu, xây nhà thờ, chúng tôi có đề nghị quyên góp để sửa sang lại nhà thờ lớn Hà nội thì Đức HY Tụng đã khuyên không nên làm nhà thờ cho to lớn, cho đẹp bề ngoài, chỉ cần tu bổ những nơi bị tàn phá không thể xử dụng được nữa và nhất là phải tu bổ tâm hồn mới là quan trọng. Bằng cớ là nhà thờ lớn Hà nội cho đến nay vẫn còn nguyên dạng từ xưa, mặc dù xuống cấp rất nhiều, rất cần phải tu sửa lại. Uống một viên thuốc để cho qua cơn đau tạm bợ nhất thời, nhưng không chữa được căn nguyên của bệnh thì cách trị liệu đó không đúng. Thầy thuốc giỏi là thầy thuốc chữa được tuyệt nọc căn gốc của bệnh.

Giáo Hội miền Bắc cương quyết không hợp tác với nhà nước cũng có lý do của họ. Giáo Hội bị trù dập, tàn phá nhưng đức tin đạo lý của họ không mất, trái lại hoa trái tốt vẫn nảy nở sinh ra nơi miền đất hiu quạnh đó. Biết bao anh hùng thánh đã thể hiện nơi Giáo Hội miền Bắc, đúng như Đức HY Bozanic đã nói: «Khi mà con người dựng nên bức màn sắt ngăn cách thì Thiên Chúa lại gieo hạt giống như những tặng phẩm của đời sống và cho phép nó chết đi… Và rõ ràng là khi người ta cố tình cấm cản sự sống, biến đất lành thành sỏi đá thì chính ở đó lại phát sinh ra hoa trái… » Một HY Trinh như Khuê, HY Trịnh văn Căn, HY Phạm đình Tụng, một cha Chính Nguyễn văn Vinh, một thày giảng Đỗ bá Lung ở xứ Ngọc Đồng, Hưng Yên và biết bao ông trùm ông chương đã phải chết rục tù vì quyết giữ niềm tin vào Chúa v.v…. đã không mang tiếng là hèn nhát mà còn để danh thơm lưu truyền đến muôn đời trong lịch sử Giáo hội. Các ngài đâu cần những lời ca ngợi của chính quyền trần thế… để lúc chết có vòng hoa phúng điếu lộng lẫy, có lời chia buồn thương tiếc của chủ tịch nước, tổng bí thư đảng, thủ tướng, để nhà nước lấy tên đặt tên đường phố hay cơ sở…… Đức HY Tụng lúc nằm xuống chỉ cần tiếng Chúa kêu gọi: «Con đã can trường chịu đựng gian khổ vì ta, hãy về với ta trên thiên đàng» chứ đâu có cần những lời chúc tụng của thế quyền mà đôi khi còn làm phật lòng, cau mày những người từng cảm phục kính trọng ngài. Và đúng vậy Chúa đã chiều lòng ngài không để cho chủ tịch, tổng bí thư, thủ tướng…. phân ưu, mang vòng hoa phúng điếu, trái lại họ còn làm khó dễ…. Tại sao vậy? Các ngài đã là những mục tử, kẻ sĩ chính danh «Tôi trung chỉ thờ có một Chúa» [5] .

THỜI THẾ CỦA GIÁO HỘI MIỀN BẮC: KHÔNG CÒN CHỌN LỰA NÀO KHÁC

Giáo Hội miền Bắc nhất định không hợp tác vói chính quyền cộng sản vì các ngài đã hiểu và biết rõ chủ đích cùng dã tâm của họ: «Tôn giáo (công giáo) là kẻ thù cần phải diệt trừ», và châm ngôn hành động của họ là: «cứu cách biện minh cho phương tiện». Vì vậy dù có hợp tác hay không thì tôn giáo / Giáo Hội vẫn bị họ trù dập và truy nã bằng cách này hay cách khác tùy thời tùy thế.

Giáo Hội miền Bắc kể từ sông bến Hải trở ra gồm có địa phận Vinh, địa phận Thanh Hóa, địa phận Bùi Chu, địa phận Phát Diệm, địa phận Thái Bình, địa phận Hưng Hóa, địa phận Lạng Sơn, địa phận Hải Phòng và địa phận Hà nội. Để cho đơn giản, xin lấy địa phận Hà nội là giáo phận thủ đô làm chuẩn để nhận xét và phân tích tình hình.

Giáo Hội miền Bắc bất hạnh vì bị rơi vào thời mà chủ nghĩa cộng sản còn đang thịnh hành. Họ thẳng tay thi hành chính sách của họ. Bức màn sắt kiên cố đã ngăn cách người dân với thế giới bên ngoài. Họ không cho thế giới bên ngoài biết việc họ làm và họ cũng chẳng cần sự giúp đỡ của bên ngoài, trái lại với Giáo Hội miền Nam sau 1975 và nhất là sau 1989 khi chế độ cộng sản Nga và Đông Âu hoàn toàn xụp đổ, bức màn sắt đã hạ xuống, hơn 2 triệu người dân miền Nam liều chết vượt biển tìm tự do đã làm cho cộng sản luýnh quýnh, cộng thêm kinh tế xuống cấp thê thảm buộc họ phải thay đổi đường lối hành động. Họ đã trở thành con cắc kè mới. Có người quá đơn sơ và ấu trĩ đến độ giản dị cho rằng vì Giáo Hội miền Bắc không chịu hợp tác với chính quyền nên Giáo Hội bị bách hại. Ở thời kỳ này, dù có hợp tác hay không thì Giáo Hội vẫn bị truy nã và trù dập như thường, vì vậy các ngài thà rằng bất hợp tác, chấp nhận đau khổ, chấp nhận một giáo hội hầm trú còn hơn là xum xoe với nhà nước. Cùng lắm là họ chỉ bố thí cho Giáo Hội những cái mà đáng lẽ mình đương nhiên phải có, những cái chẳng thiết yếu gì mà chỉ để khoe trương, lòe bịp dư luận hầu xoa dịu chống đối như cũng thấy hiện diện rõ nét ở miền Nam sau này. Họ không bao giờ buông thả những điều cốt lõi của đạo, của Giáo Hội và của con người. Giáo Hội miền Bắc đã có lúc phải thà tự đóng cửa tiểu chủng viện và đại chủng viện, sơ tán chủng sinh về với gia đình hơn là để cho chính quyền CS điều khiển, định đoạt chương trình giáo dục cho các chủng sinh, quyền tuyển chọn chủng sinh, cho người nhà nước vào dạy những môn chính trị và học thuyết mà Giáo Hội không cần. Khôi hài hơn nữa là Giáo Hội lại phải trả tiền cho giáo viên khi mà mình không yêu cầu họ vào dạy. Dĩ nhiên một Giáo Hội chân chính không thể coi việc nhà nước cho phép mở cửa tiểu chủng viện / đại chủng viện loại như vậy là một đặc ân mà phải rùm beng khoe là thành tích vì biết hòa đồng với nhà nước.

Xin kể một câu chuyện đã xẩy ra ở nhà thờ lớn Hà nội khi cha Nguyễn văn Vinh là tổng đại diện kiêm chính xứ. Trước ngày lễ Giáng Sinh 1958, nhà nước tự động cho người đến trang hoàng treo đèn kết hoa, cờ xí ngập trời trước nhà thờ gọi là để mừng Chúa Giáng sinh. Có người báo tin cho cha Tổng đại diện Vinh, ngài chạy ra phản đối, yêu cầu họ ngừng thì kết quả là cha Trịnh văn Căn là phó xứ (sau này lên giám mục rồi hồng y) 12 tháng tù treo, 3 giáo dân Đáng, Chính, Nhiễu bị phạt cảnh cáo, riêng cha chính Vinh bị 18 tháng tù ngồi vì tội phá rối trị an, vu khống xuyên tạc chế độ và gây chia rẽ nhân dân để rồi bị giam ở Hỏa Lò rồi lên Yên Báy kiên giam, biệt giam ở trại Cổng Trời, trại tù khét tiếng nhất, ác nghiệt nhất ở mãi tận Hà giang, Tuyên Quang, ai đến đó thì chỉ có chết. Vào năm 1975 khi đã chiếm được miền Nam, Đức Cha Khuê hỏi chính phủ «Cha Vinh của tôi đâu rồi?» thì được trả lời là tuần sau thì cha Vinh về. Nhưng cha Vinh đã không bao giờ trở về. Sau 12 năm bị ngục tù cực khổ hành hạ thân xác lẫn tinh thần cha Vinh đã kết thúc cuộc đời về với Chúa tại trại cổng trời trong khi án tòa chỉ có 18 tháng tù.

Nhìn bề ngoài thì ai dám nói là nhà nước cộng sản chống phá tôn giáo. Họ giúp đỡ, khuyến khích, tạo cơ hội để Giáo Hội tổ chức lễ hội đấy chứ, như mới đây họ cũng lại đã từng tuyên bố tại Hội Đồng Nhân dân thành phố Hà nội trong buổi trao đổi ý kiến với Đức Tổng Giám Mục Ngô quang Kiệt và các cha dòng Chúa Cứu Thế về vụ Tòa Khâm sứ và Thái Hà rằng nhà nước đã giúp đỡ, tạo cơ hội dễ dàng cho sinh hoạt tôn giáo nhưng đã bị TGM Ngô quang Kiệt phản bác lại. Người ta làm vậy, nói vậy mà không phải vậy đâu.

Sau vụ Noel 1958 xẩy ra ở nhà thờ lớn với cha chính Vinh, cha Căn và ba giáo dân bị mang ra tòa rồi tù tội, ra điều để cho vui vẻ giữa hai bên nhà nước và công giáo, chính phủ đề nghị với Tòa Giám Mục thành lập một Ủy Ban liên lạc giữa nhà nước và Giáo hội, mọi việc liên quan giữa hai bên phải đi qua ủy ban này, nhưng các thành viên thì Tòa Giám mục không được có ý kiến, nghĩa là không có quyền chọn lựa mà do nhà nước sắp đặt [6]. Tòa Giám mục không đồng ý với cái tổ chức đó vì biết rằng đây chỉ là một tổ chức tiền Giáo Hội ly khai giống như ở bên Tàu.

Thế là Tòa Tổng Giám Mục và các linh mục trí thức nòng cốt của địa phận có vấn đề và bắt đầu bị làm khó dễ. Cha Tổng đại diện Nguyễn văn Vinh, du hoc Pháp, ngừơi rất tài giỏi và cương quyết đã từng chống đối cả tướng De Lattre de Tassigny bị đem ra làm vật tế thần đầu tiên để dằn mặt như đã nói trên, tiếp đến Đức Giám Mục Trịnh như Khuê [7] bị cấm không cho ra khỏi Tòa giám mục, coi như bị giam lỏng, rồi cha Phạm hân Quynh, từng du học Pháp, thư ký TGM bị cô lập, quản thúc tại một giáo xứ ở nhà quê 28 năm (1960-1988), cha Nguyễn trọng Oánh, du hoc Hoa Kỳ về Hà nội năm 1955, đúng vào lúc đất nước chia đôi, bị quản thúc biệt giam tại giáo xư làng quê Truôn Thượng từ 1961 đến 1985 mới được tạm tự do đi lại về giáo xứ Hà Thao thì chết ở đó. Cha Nguyễn văn Thông, du học Bỉ và Pháp về Hà nội năm 1955 cùng với cha Oánh cũng bị bắt đem ra tòa kết án 13 năm tù và 3 năm quản chế vì tội tàng trữ sách khiêu dâm, sách báo ngoại quốc và làm gián diệp CIA. Bị giam lúc đầu ở Hỏa Lò 4 năm rồi trại Cổng trời, về Lào Cay rồi lại Cổng trời, rồi lại Hỏa Lò. Cộng chung tất cả là 23 năm tù trong khi án kêu chỉ có 13 năm, rồi vẫn chưa tha lại còn bị quản thúc, cô lập, ngăn cách với mọi người nơi đồng không mông quạnh 10 năm trời nữa (1976-1987). Khi được thả ra thì đã thân già sức kiệt, cha Thông qua đời năm 1991 [8].

Như vậy là tất cả các linh mục ưu tú nòng cốt của địa phận Hanội đều bị cô lập, tù đầy cho đến chết, không có được cơ hội phục vụ Giáo Hội, giúp Đức Giám Mục theo như ý nguyện. Đúng là chủ đích của cộng sản muốn giết rắn thì phải chặt đầu. Các ngài bị trù dập, đàn áp, tù đầy cho đến chết, nhưng Giáo Hội đã không chết. Chính các ngài, từ mục tử đến giáo dân, ông trùm, ông trương như những hạt giống được Chúa gieo vào lòng đất cho chết và thối đi để sau này sinh ra hoa trái. Phải chăng tinh thần biểu dương sức mạnh niềm tin qua vụ Thái Hà và Tòa Khâm sứ mấy tháng trước đây chính là những hoa trái ấy đang làm cho Giáo Hội sống lại và can trường hơn, cho một ngày mai tươi sáng huy hoàng hơn. Trái lại cái Ủy Ban gọi là Ủy Ban liện lạc những người công giáo yêu nước yêu hòa bình do nhà nước lập ra để thao túng Giáo Hội bị tê liệt không thể hoạt động được vì chẳng có giáo dân giáo sĩ nào tin theo.

Giáo Hội miền Bắc bị trù dập nhưng không bị tha hóa, bề ngoài thì điêu tàn nhưng sức mạnh bện trong rất can trường uy dũng từ giáo dân đến giáo sĩ, một cha chính Vinh, cha Oánh, cha Thông, một thày giảng Đỗ bá Long, một giáo dân Lâm đình Túy…. đã là những gương anh hùng phi thường. So sánh với cảnh tù đày gọi là «cải tạo» của những giáo sĩ, giáo dân ở miền Nam sau 1975 thì cái tù của những người miền Nam, mặc dù đã là tàn ác không kể xiết nhưng cũng chẳng thấm vào đâu so với cảnh tù đầy, trù dập, khủng bố những vị ở miền Bắc.

HOÀN CẢNH GIÁO HỘI MIỀN NAM SAU 1975

Nếu biểu rằng vì Giáo Hội miền Bắc không chịu hợp tác với nhà nước nên mới bị đàn áp thì e rằng không đúng cho lắm. Nhìn vào cái tội danh mà người cộng sản áp đặt lên các cha Vinh, cha Thông, giáo sĩ, giáo dân v.v…. để bắt bớ giam cầm thì đủ biết đó chỉ là cái cớ để họ trù dập và tiêu giệt tôn giáo. Một cựu đại úy quân đội quốc gia, ông Kiều duy Vĩnh, sau hiệp định Geneve 1954 chia đôi đất nước đã ở lại miền Bắc và bị tù đày triền miên cho tới năm 1975 đã kể lại cho biết là «nếu ông có đạo công giáo, biết làm dấu thánh giá thì ông không thể sống sót cho đến ngày nay» [9]. Giáo Hội miền Bắc, nói thực ra, có muốn hợp tác với chính quyền để xây dựng đất nước một cách chính trực cũng không được. Ở miền Nam sau 1975, khi CS chưa mở cửa, thì tình trạng xẩy ra cũng giống y chang ở miền Bắc sau năm 1954 mà thôi. Ai có thể nói là vì Giáo Hội miền Nam chịu hợp tác với nhà nước nên họ để cho yên lành và tự do hành đạo?

Chúng ta có thể chia Giáo Hội miền Nam làm hai thời kỳ: Thời kỳ chưa cởi trói và thời kỳ bắt đầu mở cửa, cởi trói.

Thời kỳ quá độ / chưa cởi trói (1975-1989)

Khi cộng sản tiến chiếm Sài gòn ngày 30-4-75, Giáo Hội miền Nam -không kể những giáo sĩ và giáo dân vượt biên chạy trốn đi tỵ nạn ở nước ngoài- giáo dân cũng như giáo sĩ còn lại ai cũng muốn hòa nhịp với làn sóng «cánh mạng», vì nghĩ rằng đất nước đã hòa bình thì phải hợp tác với chính quyền mới để xây dựng đất nước. Đa số người dân chưa hiểu cộng sản là gì đều nghĩ rằng họ cũng là những người yêu nước chân chính? Tất cả mọi giáo phận miền Nam đều trao nộp cho chính phủ các cơ quan, cơ sở từ thiện, giáo dục, nhà thương, trường hoc và đặt mình dưới sự điều khiển của nhà nước «cách mạng».

Cứ nhìn vào Đức Cha Nguyễn kim Điền, ngay từ những ngày đầu ngài đã tuyên bố «sẵn sàng hợp tác để xây dựng đất nước, kiến tạo xã hội sau những năm tháng dài chiến tranh đổ nát», nhưng cuối cùng cũng chẳng xong. Người cộng sản quyết tâm đàn áp tiêu diệt công giáo nên ngài không còn chọn lựa nào khác bắt buộc phải ở tư thế tự vệ nên cũng bị trù dập, cấm đoán, đàn áp, đe dọa, khủng bố, hàng ngày phải đến trình diện Ủy Ban Nhân dân thành phố để ‘làm việc’ để rồi cuối cùng Ngài phải chết một cách mờ ám tại bệnh viện Chợ Rẫy. Nhiều giám mục ở những thành phố / tỉnh nhỏ xa Sài gòn cũng bị làm khó dễ, cấm không cho di chuyển khỏi Tòa Giám Mục, không được xuất ngoại đi Roma họp định kỳ viếng mộ hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolồ theo luật định như Giám Mục Ban-mê-Thuột, Đức Cha Nguyễn Huy Mai v.v… Tôi vẫn còn nhớ như in hình ảnh Đức Cha Nguyễn văn Bình, TGM Sài gòn cầm quốc xẻng đi thủy lợi mở màn cho chiến dịch hợp tác với chính quyền để xây dựng đất nước của người công giáo nhưng đâu có được yên ổn. Cộng sản đã lập sẵn một Ủy ban Công Giáo và Dân Tộc gọi là để làm trung gian liên lạc với chính quyền, giúp Giám Mục hòa đồng sống với nhà nước, sống đạo giữa đời, sống phúc âm giữa lòng dân tộc, nhưng thực sự chỉ là một mưu gian xảo kế như Ủy Ban những người công giáo yêu nước yêu hòa bình ở miền Bắc sau 1954 với mục đích kiểm soát Giáo Hội và chủ trương ly khai. Chính những người này gồm những linh mục quốc doanh cộng sản, giáo dân cộng sản đã trục xuất khỏi Sài gòn đức Khâm sứ Tòa thánh Le Maitre, đã bắt Đức Giám Mục phó với quyền kế vị Nguyễn văn Thuận đi tù cải tạo. Thế là tòa giám mục Saigòn chỉ còn một mình Đức Giám Mục Nguyễn văn Bình tuổi đã cao lại hiền lành đạo đức đơn sơ, chúng sẽ dễ dàng khống chế và lừa phỉnh. Bao vây quanh ngài lúc bấy giờ là đủ thứ loại người từ linh mục đến giáo dân gọi là cấp tiến yêu nước v.v… Thành lập ủy ban này, đoàn cố vấn nọ để giúp ngài điều hành Giáo hội gọi là để qua cơn sóng gió, nhưng thực tình là âm mưu khống chế, trù dập, làm nội tuyến hầu dễ bề tiêu diệt Giáo Hội một cách tinh vi. Linh mục Huỳnh công Minh là một đảng viên CS lại được đặt làm Tổng đại Diện giáo phận, chỉ sau có Đức Cha Bình hẳn là tha hồ dòm ngó vào mọi ngóc ngách của Giáo Hội và địa phận để kiểm soát, đe dọa, đến nỗi sau này khi Đức cha Bình sắp chết, báo chí ngoại quốc phỏng vấn hỏi ngài cảm nghĩ về cộng sản thì ngài chỉ nói gọn «Đến bây giờ tôi vẫn sợ… ». Xem vậy đủ biết cái vòng bao vây kiểm soát, kìm kẹp, khủng bố tinh thần nó ghê gớm thế nào ! Cho đến nay đã 35 năm trời mà Huỳnh công Minh vẫn chễm chệ ngồi ở ghế Tổng Đại diện giáo phận, chánh xứ nhà thờ Đức Bà kiêm luôn Phó Giám đốc Đại chủng viện, nơi đào tạo các linh mục tương lai thì thử hỏi CS đã cho người của chúng nắm giữ những chức vụ nòng cốt trong địa phận để kiểm soát Giáo Hội chặt chẽ thế nào. Khi Đức Cha Nguyễn văn Bình đã già yếu không thể coi sóc giáo phận được nữa, Tòa Thánh đặt Giám Mục Huỳnh văn Nghi lên thay thế thì nhà nước bằng mọi cách ngăn cản không cho ngài về Sài gòn nhận chức chỉ vì ngài không đồng ý Huỳnh công Minh ở vị trí Tổng Đại diện v.v… Ai biểu Đức Cha Bình chống đối nhà nước như các giám mục miền Bắc? Vậy mà ngài cũng vẫn còn sợ như vậy? Giáo Hội cũng vẫn bị điêu linh, bị chết một cái chết không như giáo hội miền Bắc, nhưng nó chết, tê liệt và tha hóa như sau này…. mà chúng ta đã nhìn thấy. Cái Ủy Ban đoàn kết / Công Giáo và Dân tộc đứng đầu là Huỳnh công Minh, Trương bá Cần, Phan khắc Từ, Thiện Cẩm… là một ổ nội tuyến, nắm vai trò chính ủy để thao túng giáo hội.

Sau khi đã chặt được chân tay Đức cha Nguyễn văn Bình, CS quay ra trừ khử vòng ngoài giáo hội. Các nhà dòng, tu viện nam nữ như dòng Chúa Cứu Thế, dòng Đồng Công, dòng khổ tu Châu Sơn, nhà thờ này, cha xứ nọ có máu mặt từ ngoài Trung vào đến Saigòn rồi Cần Thơ nơi đồng bằng Cửu Long đều bị gán ghép những tội mà chẳng bao giờ họ làm để lấy cớ bắt bớ bỏ tù và tịch thu tài sản hay cơ sở như dòng Châu Sơn, dòng Đồng Công ở Thủ Đức, một dòng chuyên tu đức cũng bị tố cáo có tàng trữ vũ khí và lương thực để chống phá cách mạng. Thế là nhà dòng bị tịch thu, cha bề trên và các thày bị bắt vào tù cải tạo. Cha xứ nhà thờ Vinh Sơn ở đường Trần quốc Toản cũng bị tố cáo có súng, có quần lót, nịt vú đàn bà trong nhà để rồi bị bắt đi tù và chết không một lần ra tòa xét xử. Cha Thi chánh xứ nhà thờ Bắc Hà bị đập bể đầu chết trong đêm tối. Về cha Hoàng Quỳnh thì tên Thúy, tay cận thần của ngài mấy chục năm trời, sau 1975 mới lộ ra hắn là CS nằm vùng mang cấp bậc đại tá nói là chẳng cần giết ngài làm chi, cứ nhốt ngài ít tháng rồi ngài sẽ chết thôi. Quả vậy chúng nhốt ngài ở building Ngã Ba Ông Tạ thì hơn tháng sau ngài qua đời tại đó.

Thời gian này mọi linh mục, giáo sĩ, nữ tu, tất cả đều sợ hãi, có người không dám nhận mình là linh mục. Người ta không thấy một linh mục hay nữ tu nào mặc áo dòng hay áo chùng thâm đi ngoài đường. Không ai bảo ai không một ông cha hay bà sœur nào mặc áo dòng xuất hiện trước công chúng như trước kia, ai cũng mặc áo quần như người dân thường. Các linh mục ở mỗi địa phận hoặc miền không được phép họp mặt định kỳ để cùng nhau cấm phòng, suy niệm. Mất liên lạc, xa cách với giám mục bản quyền thì vấn đề thiêng liêng đạo đức cá nhân và sinh hoạt xứ đạo sẽ bị sao lãng và rồi nhiều điều bê bối sẽ xẩy ra mà thôi.

Đối với giáo dân, các đoàn thể, hội cầu nguyện… cũng hết hoạt động. Việc tụ họp một, hai, ba gia đình lại với nhau để đọc kinh cũng bị ngăn cấm. Ở nhà thờ trong giờ kinh lễ, ông cha cũng phải giữ mồm giữ miệng nơi tòa giảng kẻo bị gán cho cái tội chống phá cách mạng. Giáo dân thì coi chừng bị theo dõi… Vùng kinh tế mới thì hoàn toàn không có nhà thờ, không linh mục. Khi các sĩ quan QLVNCH bị tập trung tù cải tạo thì tất cả các linh mục tuyên úy cũng đều bị chung một số phận tù không biết ngày về. Trong khi tù cải tạo cũng không được phép làm lễ dù là làm riêng tư. Khi được thả về thì không một ai được thi hành thiên chức linh mục, không được làm mục vụ, không được về sống ở nhà xứ, không được coi xứ đạo mà phải về sống với gia đình tản mát trong dân chúng, phải trình diện công an khóm phường mỗi tuần mỗi tháng.

Ngăn cách giám mục với linh mục, linh mục với giáo dân và giáo dân cách giáo dân vẫn là chủ đích của cộng sản để làm tê liệt hầu dễ bề triệt tiêu tôn giáo.

Sau các vụ thanh toán công giáo, từ Đức Khâm Sứ tòa thánh đến Đức Cha Nguyễn văn Thuận, Giám mục Nguyễn kim Điền, các linh mục có máu mặt, các dòng tu nam nữ trên toàn miền Nam, người cộng sản quay ra thao túng nội bộ một cách quyết liệt bởi Ủy Ban Công Giáo yêu nước, các tu sĩ và giáo dân gọi là cấp tiến, trong đó có cả linh mục Thanh Lãng gọi là để giúp Đức Cha Nguyễn văn Bình điều hành giáo phận. Người cộng sản rất tinh khôn xảo quyệt, họ nói toàn những điều «nhân nghĩa, đạo đức». Họ vuốt ve các giáo sĩ giáo dân phải hành động làm sao để «Tốt Đời Đẹp Đạo». Nhưng câu nói đó chỉ là ngụy biện, là cái bẫy rất nguy hiểm, mục đính chỉ là phủ dụ và tuyên truyền. Người nhẹ dạ, nông cạn tưởng thế là đúng nên bị xập bẫy một cách dễ dàng. Đâu có biết rằng có những điều Tốt Đời theo cộng sản xă hội chủ nghĩa chưa chắc đã Đep Đạo, hoặc ngược lại Đẹp Đạo chưa chắc đã làm vừa lòng đảng và theo định hướng XHCN, có khi còn bị kết án là phá hoại tình đoàn kết, là gián điệp. Linh mục Thanh Lãng, một giáo sư đại học, vì hăng say muốn cải đổi giáo hội và đất nước đã ùa theo đà cấp tiến làm những điều quá lố để rồi trước khi chết đã hối hận viết thư tỏ ý ăn năn, đặc biệt xin lỗi Đức Khâm xứ Tòa thánh. Linh mục Chân Tín, cựu linh mục Nguyễn ngọc Lan… một thời đi với cộng sản theo đà cấp tiến mà dân Sài gòn hồi VNCH đã gọi là những ông cha cộng sản, thì bây giờ vỡ mộng. Bài giảng sám hối của linh mục Chân Tín được giảng tại nhà thờ DCCT ở đường Kỳ Đồng là phát súng lệnh và cũng là cái cớ để cha Chân Tín và Nguyễn ngọc Lan bị lưu đầy và theo dõi.

Song song với thời gian đánh phá tôn giáo là thời gian đánh tư sản mại bản, lùa người dân thành phố đi kinh tế mới, đổi tiền, bần cùng hóa nhân dân, biến dân thành phố thành nghèo đói phải bán đồ đạc trong nhà từ cái chổi, cái bát, đôi đũa đến cái giường… để sống qua ngày. Thanh niên trai tráng thì phải đi thanh niên xung phong, nghĩa vụ quân sự đi chiến trường Cao Mên. Thế là miền Nam trở thành tiêu điều xơ xác, bị quốc tế phản đối, Hoa Kỳ cấm vận vì tội xâm lăng Cao Mên bằng quân sự. Đây quả là thời gian đen tối nhất, không một gia đình nào ở miền Nam mà không có mối lo, chồng đi tù học tập cải tạo không biết ở đâu, ngày về thì mờ mịt vô định. Ở nhà thì vợ con vừa đói khổ, vừa bị khủng bố tinh thần, bị công an phường khóm ngày đêm theo dõi. Tình cảm thật hoang mang bất ổn, phập phòng, lo âu sợ hãi như vậy thì còn sức đâu mà chống đối. Dân chúng miền Nam, cả hàng triệu người, lũ lượt tìm đường vượt biển, bất chấp hiểm nguy miễn sao trốn thoát được ách độc tài cộng sản. Chưa có một cuộc vượt biển di cư tỵ nạn chính trị nào vĩ đại với trăm phần hiểm nguy như cuộc vượt biển trốn cộng sản của dân miền Nam Việt Nam đã làm rúng động thế giới, đã cải hóa biến đổi tư duy của những kẻ đã một thời tung hô chủ nghĩa cộng sản, ủng hộ cộng sản Bắc Việt, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam hết mình như Bertrand Russell, Jean Paul Sartre và Raymond Aron… Thế giới sáng mắt. Những tên phản chiến sáng mắt. Nhưng cộng sản Việt Nam vẫn nhất định không chịu mở mắt, phải đợi đến khi chủ nghĩa cộng sản hoàn toàn xụp đổ ở Liên Sô và Đông Âu, bức tường Đông Đức bị xập vào năm 1989, lại thêm kinh tế kiệt quệ thì họ mới chịu hé mở bức màn sắt để nhìn ra thế giới tự do bên ngoài

Thời kỳ hé mở bức màn tre và cởi trói

Dân chúng miền Nam Việt Nam thở phào nhẹ nhõm, ước mong cộng sản Việt Nam rồi cũng sẽ xụp đổ như ở Đông Âu. Người người hồ hỡi, hy vọng, đặt ra giả thuyết này, phỏng đoán nọ, ước chừng kia….. Cộng Sản sẽ xụp đổ nay mai. Nhưng cho đến giờ… cộng sản vẫn còn đó. Tuy nhiên cộng sản không thế bơi ngược giòng bánh xe lịch sử như họ vẫn thường rêu rao bài bác tư bản, ca tụng chủ nghĩa cộng sản. Thế chẳng đặng đừng, cộng sản Việt Nam phải cởi trói, cho dù chỉ được một phần nào thôi.

Việt Nam chỉ cởi trói bề ngoài phần nào nhưng nòng cốt vẫn còn là cộng sản. Bây giờ ngồi tính lại, đảng cộng sản Việt Nam, sau bao nhiêu lần họp đại hội, tuyên bố cải đổi, cho tự do này nọ, nhưng nhìn kỹ việc làm của đảng cộng sản, người ta vẫn chỉ thấy cảnh «bình mới rượu cũ» mà dân miền Nam Việt Nam đã khôi hài gọi trại đi là hiện tượng «Vũ như Cẩn». Đó chẳng qua là người cộng sản đã áp dụng châm ngôn làm việc của họ: «Cứu cánh biện minh cho phương tiện». Mục đích của họ là ngăn cản, chèn ép tôn giáo để cho nó chết, nếu không được thì phải làm cho mất uy tín, bị tê liệt. Họ đã dùng tôn giáo phá tôn giáo, nghĩa là mượn tay giáo sĩ, linh mục, giám mục, giáo dân… để làm suy yếu giáo hội. Dùng bàn tay nhung đối với những ai chịu nghe theo chúng, bàn tay sắt đối với những ai cứng đầu không nghe. Chiến thuật củ cà rốt và cái gậy đã được áp dụng triệt để. Ai chấp nhận củ cà rốt thì được dễ dãi, ưu đãi. Ai cương quyết theo đường lối của Chúa chấp nhận cái gậy thì bị làm khó dễ, bị hành hạ, truy nã gian khổ. Chiến thuật này ai cũng thấy có thời đã thành công bởi lẽ con người «tinh thần thì nhẹ nhõm mà thân xác thì nặng nề» [10]. Chả vậy mà đã có một thời cả Giám mục, linh mục, dì phước lũ lượt xuất ngoại quyên tiền để làm nhà thờ, tu bổ nhà xứ, trung tâm, phát triển đạo…, đến độ sau này có người đã la lên là họ «Xây thì ít mà Cất thì nhiều… !». Quyên góp tiền để đào giếng cho giáo dân có nước trong lành sạch sẽ uống thì chẳng thấy giếng đâu, chỉ thấy tòa Giám Mục thì nguy nga hoành tráng, xe giám mục đi thì lộng lẫy ngon lành hơn cả xe của tỉnh ủy…. [11]. Và, biết bao nhiêu chuyện hỉ nộ ái ố đã xẩy ra dòng dã bao nhiêu năm trời. Quyên tiền về giúp đỡ các cha già hưu dưỡng thì các cha hưu chưa hề nhìn thấy măt đồng dollar thế nào thì đùng một cái được tin tiền đó đem kinh doanh để sinh lời đã bị thua lỗ mất hết cả rồi!!! Các cha già đang hưu ở một trung tâm kia thì bị đuổi đi để lấy trung tâm làm cư xá cho nữ sinh viên. Nếu các cha già không quyết liệt phản đối thì nhà hưu dưỡng đã bị chiếm để biến thành nơi thương mại mất rồi.

Cộng sản rất tâm lý, họ hiểu biết nhu cầu của Giáo hội là cần linh mục, cần nhà thờ, cơ sở truyền đạo, tài liệu truyền giáo … nên việc đầu tiên là họ triệt hạ, ngăn cấm những thứ đó khiến cho nhu cầu càng trở nên cấp bách. Chúng ta thấy bước đầu tiên là họ đóng cửa các chủng viện, dòng tu, giới hạn chủng sinh, tu sinh bằng những điều kiện khó khăn, có khi ngược lại với qui luật của Giáo Hội…. Theo luật cung cầu, khi nhu cầu càng cao thì giá cả lại càng đắt, dĩ nhiên họ sẽ bắt bí. Để cho có vẻ là dễ dãi, chứng tỏ cởi mở, chính quyền lập ra những cơ quan làm trung gian. Muốn xin điều gì thì phải qua trung gian là Ủy ban công giáo yêu nước sau này biến thành Công Giáo và Dân tộc, Ủy ban tôn giáo, chính quyền địa phương. Cơ chế Xin-Cho bắt đầu xuất hiện.

Ai dám nói là nhà nước không cho tự do tôn giáo? Có tự do đấy chứ, nhưng phải xin thì sẽ cứu xét để cho và phải có điều kiện. Có khi đơn xin cả mười năm trời không có hồi âm, hoặc có trả lời thì lại bị giới hạn. Chẳng hạn HĐGMVN xin phép ra một tập san thuần túy tôn giáo từ năm 1992 mãi đến năm 2001, bộ văn hóa thông tin mới cho HĐGM tạm thời xuất bản một bản tin phải «phù hợp với lợi ích của đất nước và Giáo Hội». Cũng lại một điệp khúc kiểu Tốt Đời Đẹp Đạo. Làm sao lợi ích của giáo dân có thể phù hợp với lợi ích của đất nước khi mà đất nước gắn liền / đồng hóa với đảng CS? Ngoài ra bản tin lại chỉ được ra hai tháng một lấn và mối lần chỉ có 100 tập để phân phát cho 25 giáo phận với hơn 7 triệu giáo dân. Ai đọc ai đừng? Cơ cấu Xin-Cho quả là một con sông cách trở có giòng nước xoáy.

Còn biết bao nhiêu hệ thống xin cho khác nhau nữa, riết rồi nó biến thành tụ điểm chạy chọt, tha hóa. Cái Ủy ban công giáo yêu nước, sau này trở thành Công Giáo & Dân Tộc gồm Huỳnh công Minh, Trương bá Cần, Phan khắc Từ, Thiện Cẩm…. thì vẫn một mặt trung thành với bác và đảng, một mặt đóng vai linh mục làm trung gian giữa Giáo Hội và nhà nước theo đúng đường lối của đảng, nó đã không thành công ở miền Bắc, nhưng nó đã phần nào thành công theo ý họ ở miền Nam. Chính cái Ủy ban này đã lũng đoạn Giáo Hội. Giám mục, linh mục, cha xứ nào muốn gì phải qua nó, có khi năn nỉ, có khi phải hối lộ… Tôi nhớ có thời linh mục nhạc sĩ Hoài Đức muốn xuất bản sách nhạc của nhạc đoàn Lê bảo Tịnh. Một số anh em thắc mắc làm sao có giấy phép mà in thì ngài nói là sẽ nhờ Phan khắc Từ, nhưng rồi cũng chẳng thấy sách nhạc đâu mà tiền mất tật vẫn mang. Đảng và nhà nước muốn Giáo Hội phải đi qua cái ủy ban môi giới giáo gian đó, một ổ chuột linh mục có vợ có con… mà cả HY, GM không ai dám đụng đến thì hỏi còn đâu là Giáo Hội tinh tuyền. Cộng sản đã phá nát Giáo Hội mà có người vẫn dửng dưng coi như không biết, viện đủ mọi lý cớ để tự an ủi cho một lương tâm co dãn, cho một thỏa hiệp khả nghi, một quỵ lụy đắng cay hay một hèn nhát bỉ ổi… Cộng sản đã tạo ra một xã hội cửa quyền, biến Giáo Hội phải phụ thuộc vào nó, lớn thì có lớn, vừa thì ở giữa, dưới thì có dưới, nghĩa là một mạng lưới chằng chịt nhưng ăn khớp với nhau và đồng nhất theo đúng đường lối của đảng. Những cái gì đụng tới đảng thì tuyệt đối không thể chấp nhận được. Đảng và nhà nước cứ việc uyển chuyển xoay vần bóp nắn miễn đừng được đụng đến huyết mạch của Bác và đảng. Tha hóa là thế đó. Một Huỳnh công Minh, tổng đại diện của giáo phận Saigon kiêm Phó giám đốc Đại chủng viện, kiêm chánh xứ nhà thờ Đức Bà thì thử hỏi còn cái gì có thể thoát khỏi con mắt cú vọ của ông. Tuyển sinh linh mục thì đã phải sàng lọc từ địa phương, khi đến đại chủng viện thì đã có Huỳnh công Minh, nắm tất cả chương trinh và kiểm soát huấn luyện, rồi trước khi được phong chức linh mục lại phải qua một thời kỳ cam go nữa. Được làm linh mục hay không là ở lúc này. Chuyện chạy vàng, chạy tiền đã xẩy ra, ai cũng biết cả. Không có tiền không có vàng vẫn được đỗ cụ thì ai cũng thấy. Giáo Hội miền Bắc trứơc 1975 đã chọn «quí hồ tinh bất quí hồ đa», linh mục chui, chấp nhận đóng cửa cả tiểu chủng viện lẫn đại chủng viện chứ nhất định không để đảng CS kiểm soát hoạch định chương trình huấn luyện linh mục. Từ khi nhà nước cho phép mở đại chủng viện và kiểm soát chủng sinh từ lúc vào chủng viện, trong khi huấn luyện, đến lúc tốt nghiệp để được phong chức linh mục, ai có thể bảo đảm đảng CS không gài người của họ vào hàng ngũ linh mục rồi giám mục…? Các tôn giáo khác đã có thì làm sao công giáo lại thoát khỏi được? Đây là một tồn tích rất nguy hiểm mà cộng sản đã để lại trong Giáo Hội. Làm sao mà tẩy rửa cho sạch?

Người cộng sản có đủ mọi mánh khóe để gài người. Trước tiên còn vì công việc mục vụ, nhu cầu đạo nên cần phải giao thiệp ngoại giao, liên lạc, phải quà cáp biếu xén làm thân với chính quyền, dần dà rồi có đi có lại nhậu nhẹt với nhau. Tôi đã thấy một linh mục trước kia rất hiền lành đạo đức vậy mà sau này nhậu nhẹt bê bết đến độ có lúc say sưa làm mất cả thể diện và nhân phẩm. Hỏi ra tai sao lại như vậy thì ngài trả lời vì phải ngoại giao với chính quyền nên chén anh chén tôi mới ra nông nỗi này. Rượu vào rồi thì cái gì xẩy ra ai mà làm chủ được mình. Tình và Tiền là hai thứ đã từng làm nhiều người điêu đứng. Một là phải qui hàng phuc vụ cho chủ, hai là phải câm nín không nói không trả lời. Nạn nhân một khi đã bị thuần hóa thì còn đâu là lý trí, đâu là lý tưởng. Tại sao một địa phận trống ngôi giám mục cả mấy chục năm mà Giáo Hội không làm sao giải quyết được? Bởi vì nhà nước không đồng ý vị giám mục do Giáo Hội đề nghị. Chỉ khi nào Giáo Hội đề nghị người mà họ ưng ý hay Giáo Hội chấp nhận người họ đề cử thì tòa đó mới được giải quyết. Lúc đó có thể vị giám mục đó có vấn đề đấy? Cái di sản đó không biết bao giờ mới phai nhạt đi được nơi Giáo hội. Nó đã có, đang có và vẫn còn. Tai nạn này không chỉ xẩy ra ở Việt Nam mà ở tất cả những nước cộng sản. Một Ba Lan với tổng giám mục Stalislaw Wielgus đã phải từ chức ngay hôm nhận chức TGM Vaxava ngày 8-1-2007 là một điển hình.

Đó phải chăng là tự do tôn giáo mà đảng ban cho? Khi nói là cởi trói hay cởi mở thì ta thường nghĩ là người dân được tự do suy nghĩ và hành động về mọi chuyện. Nhưng thực ra lúc đó nó chỉ có nghĩa về mặt kinh tế mà thôi. Kinh tế Việt Nam suy xụp quá mức nên phải chuyển đổi từ kinh tế chỉ huy qua kinh tế tự do / thị trường, nhưng họ chưa chiu lột bỏ hoàn toàn cái ruột CS, họ còn thêm vào sau danh từ Kinh tế thị trường 4 tiếng tréo cẳng ngỗng và ngược đời là «theo định hướng xã hội chủ nghĩa». Tất cả các loại tự do khác như dân chủ, nhân quyền, báo chí / ngôn luận v.v… thì chỉ là trò tuyên truyền bịp bợm mà thôi. Riêng về tôn giáo thì họ vẫn rêu rao quảng bá là cho tự do tin ngưỡng đấy, nhưng thực tế họ có đũ thứ nghị định, pháp lệnh về tôn giáo để trói buộc tôn giáo làm cho tôn giáo hết chỗ cựa, hay đúng ra họ cho tôn giáo tự do khi việc làm của tôn giáo có lợi cho đảng hoặc nằm dưới sự kiểm soát của đảng. Đi ra ngoài việc kiểm soát của đảng hay có đôi chút đụng vào huyết mạch của đảng thì tuyệt nhiên không được. Vì vậy khi nói truyện với người cộng sản thì điều gì cũng được cả, nhưng thực tế nó không xẩy ra như lời họ nói. Cứ nhìn những việc trước mắt và gần đây nhất thì đủ biết: Vụ Tòa Khâm xứ, vụ Thái Hà và những vụ dân oan khiếu kiện bị mất đất mất nhà thì đủ biết. Người cộng sản có bao giờ nhân nhượng ai một ly ông cụ nào đâu.

Sống với một người không biết điều đã là khó, nói chi phải đối thoại với một chính quyền toàn trị chỉ chấp nhận những điều do họ đưa ra mà thôi.

ĐÔI LỜI KẾT

Người viết vẫn còn nhớ khi còn ở trong tù học tập cải tạo. Mỗi khi tù cải tạo phát biểu ý kiến đều phải xác nhận lập trường của mình trước: «Tôi xin đứng về phía nhân dân và nhà nước… ». Điều đó có nghĩa là anh muốn nói gì thì nói, đả kích hay ca tụng, nhưng luôn luôn phải đứng trên lập trường của nhân dân. Mà nhân dân tức là Đảng và Nhà Nước. Đi ngược lại cái cốt lõi, huyết mạch đó là không được. Mác đã nói: «Tôn giáo là thuốc phiện mê hoặc con người», là «kẻ thù của nhân dân» thì phải hiểu là tôn giáo không có chỗ đứng nơi đảng cộng sản. Cứ nhìn việc làm của họ thì hiểu ý họ. Đừng nghe những gì cộng sản nói. Đừng hy vọng đối thoại với cộng sản để có thể cải hóa họ. Chính tổng thống Nga Sô Yetsin, một đảng viện cộng sản nòng cốt kỳ cựu đã tuyên bố: «Cộng sản không thể thay đổi được, chỉ có phế bỏ nó đi mà thôi».

Vậy thì muốn sống với cộng sản, hòa giải với cộng sản để giữ đạo và hành đạo, người Kitô hữu chỉ có thể dùng trí thông minh, sự khôn ngoan và niềm tin cương quyết của mình mà quyết định, như Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã nói: «Hợp tác nhưng đề kháng».

Đồng thời chúng ta cũng phải cầu nguyện như một giám mục Việt Nam đã nói: Đứng trên quan điểm loài người mà xét thì thật đáng thất vọng. Chúng ta hãy cầu nguyện và ước gì lời nguyện cầu của chúng ta được thể hiện bằng những hành động cụ thể [12].

Bổn phận của Giáo Hội, của mục tử và giáo dân là rao truyền Tin Mừng, cải tạo xã hội để giúp con người biết thương yêu nhau như Chúa đã dạy. Muốn vậy thì công bằng và công lý phải được thực hiện. Để xã hội có công bằng và công lý thì chính quyền cần phải có luật pháp phân minh và luật pháp phải được thi hành một cách công bằng.

Xã hội nào vẫn còn cảnh người bóc lột người, kẻ có quyền hà hiếp người yếu thế thì ở đó vẫn còn cảnh bất công, chưa có công lý.

Tôn giáo cần phải phối hợp với chính quyền, giúp chính quyền, thúc đẩy chính quyền bằng mọi cách để thực thi công bằng và công lý để biến cải xã hội ngày càng tốt đẹp hơn, nghĩa là khi chính quyền đi ngược lại lòng dân, làm điều thất đức, gây cảnh bất công trong xã hội thì tôn giáo / người Kitô hữu có bổn phận lương tâm phải lên tiếng yểm trợ những kẻ cô thế bị hà hiếp [13], bởi lẽ loan báo Tin Mừng không phải là chỉ phục vụ phần hồn mà bỏ quên phần xác, cũng không phải chỉ quan tâm đến ơn cứu độ cá nhân mà lãng quên những thực tại xã hội trước mắt [14].

Đó phải chăng chính là sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc một cách thực tế và cần thiết, không viển vông lý thuyết.

Đạo và Đời không thể tách lìa nhau ở điểm này.

Fleming Island, Florida 22-3-2009

____________ _________ _________ _

[1] Việt Nam, tuy đã mở cửa phần nào về kinh tế và tôn giáo, bức màn sắt không còn hiện diện, nhưng cốt lõi vẫn còn cộng sản. Tuyên bố cho Tự Do Dân Chủ nhưng vẫn áp dụng độc tài toàn trị. Do đó ta có thể coi VN vừa là nước cộng sản vừa là nước hậu cộng sản. Vì vậy việc tìm kiếm phương cách xây dựng một Giáo Hội đích thực quả là khó khăn, đòi hỏi những nhận xét thật sâu sắc, khôn ngoan và hành động thật cương quyết.
[2] Đức HY Stepinac là một TGM có tinh thần quốc gia mãnh liệt, chống cả Phát Xít và CS một cách quyết liệt, không nhân nhượng. Ngài bị CS Hung bắt tù khổ sai 15 năm. CS từ xưa và cả ngay bây giờ vẫn cố né tránh không nói đến tên ngài. Chẳng lạ gì ở Việt Nam, người ta cũng rất sợ, cố gắng né tránh khỏi phải nhắc tới một Đức Cha Nguyễn kim Điền, một HY Trịnh như Khuê, một cha chính Nguyễn văn Vinh của Hà nội, một thày giảng Quế ở xứ Đoài, thày giảng Lung ở Ngọc Đồng, Hưng Yên v.v….
[3] Người Việt Nam tỵ nạn chính trị CS ở hải ngoại có dựng một bia đá để ghi nhớ những thuyền nhân đã chết trên đường vượt biên ở Nam Dương, nhưng đã bị nhà cầm quyền CSVN dùng ngoại giao áp lực chính phủ Nam Dương phải phá bỏ đài tưởng niệm đó trong khi họ vẫn kêu gọi xóa bỏ hận thù để hòa giải dân tộc xây dựng đất nước.
[4] Người Saigon, Internet
[5] Phúc âm Matthew 4: 10
[6] Đức Cha Trịnh như Khuê và cha Quynh, thư ký, đã gặp Thủ Tướng Phạm văn Đồng và Thủ Tướng đề nghị lập Ủy Ban Liên Lạc giữa nhà nước và Giáo Hội và Thủ Tướng đã chỉ định ông Luật sư Nguyễn thành Vinh, một người Nam tập kết làm đại diện cho chính quyền. Đức Cha Khuê không đồng ý, muốn một người đại diện không phải là người công giáo. Cuối cùng, nhà nước tổ chức một mình thành lập Ủy ban liên lạc những người công giáo yêu tổ quốc yêu hòa bình, gồm các linh mục Vũ xuân Kỷ, Nguyễn tất Tiến và hai linh mục tập kết ra Bắc là Hồ thành Biên và Võ thành Trinh. (Tài liệu Nguyễn văn Lục)
[7] Đức GM Trịnh như Khuê bị giam lỏng, cô lập trong tòa giám mục hơn 20 năm. Hàng ngày ngài đi bách bộ đọc kinh trên sân thượng, vết chân ngài đi nhiều đến nỗi đã tạo thành một đường mòn in hằn trên gạch như linh mục Nguyễn hữu Lễ đã diễn tả trong bút ký TÔI PHẢI SỐNG nơi trang 19. Sau 1975 ĐC Khuê được đi Roma và Pháp. Lần thứ hai đi Roma lãnh chức Hồng Y, khi trở về nước qua ngả Moscov về tới Hà nội thì ngã bệnh và chết một cách mờ ám, mặc dù trước đó ngài rất khỏe mạnh, không bệnh hoạn.
[8] Tài liệu Nguyễn văn Lục
[9] Đại Úy Kiều duy Vĩnh kể lại là ông bị giam tại trại Cổng trời 15 năm. Trong số hơn 60 người theo đạo Thiên Chúa Giáo bị bắt giam tại đây, từ linh mục đến giáo dân đều bỏ mạng tại đây. Không có ai trở về. Đặc biệt có cha Nguyễn văn Vinh, người nổi tiếng vì chống đối Đại tướng De Lattre De Tassigny trong việc xếp chỗ ngồi tại nhà thờ lớn Hà nội. Tất cả những người công giáo trên đều bị kỷ luật đưa vào giam ở hang đá, trong đó rất lạnh, không ai có thể sống sót sau một tuần lễ (Ký Ức của Kiều duy Vĩnh)
[10] Phúc Âm Matthew 26: 41.
[11] Lời một HY
[12] ĐMT. Chính sách đàn áp Kitô giáo hiện nay tại Việt Nam
[13] Phúc âm Luca 10: 29-37
[14] Học Thuyết Xã Hội Công Giáo số 62.

Các bài Hoang Hieu đã đưa lên

Có 1 đọc giả góp ý »

Tran văn Kiệm | 07:29 | 3-28-2009
Cám ơn Bs Nguyễn Tiến cảnh. Đọc bài Bài Bs viết mà nước mắt tôi chảy xuòng dòng dòng. Tôi cảm phục giáo dân Hà Nội vì được tô luyện trong khổ cực mà họ mới anh dũng như ngày nay. Cs di chuyển tòa án xử dân Công giáo tới địa điểm mới hầu giảm thiễu dũng khí của các bị cáo, ngờ đâu lại l2m cho từng ngàn người xuống đường yểm trợ các bị cáo, gây nên một tiếng vang rền ra khắp thế giới. Chúng ta cứ đợi mà xem: con cái các thánh biết bỏ mạng vì đạo sẽ lhông chùn bước. Đức Hồng Y Tụng qua đời đã để lại một câu trăng trối: Tôi không cấn vòng hoa chỉ cần Thiên Chúa mở vòng tay đón tôi là mừng rồi. Không vòng hoa dễ tàn mà mong được lăn vào vòng tay của Thiên Chúa thương yêu. Ôi! tốt đẹp biết bao gương các vị (được Bs Tiến cảnh đê cao, tôi xin trích )”Một HY Trịnh Như Khuê, Hy Trịnh Văn Căn, Hy Phạm đình Tụng, một cha Chính Nguyễn Văn Vinh, một thầy giảng Đỗ Bá Lunh ở xứ Ngọc Đồng, Hưng yên và biết bao ông trùm ông chương đã phải chết rục tù vì quyết giữ niềm tin” (Ngưng trích để rồi tái trích) “Họ chết mà không để cho chủ tịch, tổng bí thư, thử tướng …phân ưu”