Home Tin Tức Bình Luận Bát Nhã Và Tam Tòa

Bát Nhã Và Tam Tòa PDF Print E-mail
Tác Giả: Ngô Nhân Dụng   
Thứ Năm, 06 Tháng 8 Năm 2009 14:00

Hai biến cố liên can đến tôn giáo gần đây ở Việt Nam, vụ Tu viện Bát Nhã và vụ Nhà thờ Tam Toà, cả hai cùng do một nguyên nhân tạo ra, là chế độ độc tài toàn trị. Người dân Việt Nam không có những quyền tự do căn bản, và Đảng Cộng sản vốn có thái độc thù ghét các tôn giáo, hai yếu tố đó gây ra những vụ Tam Toà và Bát Nhã và làm cho các biến cố đó thành trầm trọng.

Ở hai nơi Tu viện Bát Nhã và Nhà thờ Tam Toà, những người dân thực hành tín ngưỡng của họ và bị ngăn cản và đàn áp. Trong cả hai vụ, đảng Cộng Sản đều trốn trách nhiệm không dám chính thức ra mặt mà thả cho đám tay sai cấp dưới làm bậy. Trong cả hai trường hợp, công an cộng sản đều mặc thường phục hoặc thuê tay sai làm những hành động côn đồ. Cả hai vụ đang gây tiếng vang trong dư luận quốc tế và đồng bào trong nước đang chú ý theo dõi, cuối cùng đảng Cộng Sản không thể trốn trách nhiễm được nữa. Nhưng cả hai biến cố này cho thấy sức mạnh của tín ngưỡng tâm linh được biểu hiện, khiến mọi người Việt Nam phải xúc động. Họ sẽ nhìn thấy một chế độ trống rỗng trong tư tưởng và lúng túng trong việc làm, đang tiến gần đến ngày tàn tạ.

Ngoài những điểm tương đồng trên, những sự kiện xẩy ra ở Bát Nhã và Tam Toà có những điểm khác nhau. Bát Nhã là một vụ lật lọng, lường đảo; còn Tam Toà là một vụ cướp đoạt quyền sở hữu.

Tu viện Bát Nhã trước sau vẫn thuộc Thượng toạ Đức Nghi, một vị trụ trì thuộc Giáo hội Phật giáo được nhà nước cộng sản kiểm soát. Ngay cả những khu đất mới mua và các cơ sở mới xây cất tại đó, do các Phật tử Làng Mai ở khắp thế giới cúng trị giá một triệu mỹ kim, cũng vẫn thuộc quyền sở hữu của vị sư này.Ông sư Đức Nghi đã sang Làng Mai bên Pháp xin theo học pháp môn mới nhiều lần, và đã xin hiến cúng Bát Nhã, một trong nhiều ngôi chùa của ông; nhưng Hoà thượng Thích Nhất Hạnh đã không nhận mà chỉ hứa gửi các tăng ni về giúp hướng dẫn việc tu tập theo quy củ Làng Mai giúp cho tu viện thêm sinh khí mới.

Sau khi các tăng, ni Làng Mai về Bát Nhã được bốn năm, họ đã quy tụ được gần 400 tăng ni trẻ mới; ngoài ra còn thu hút hàng ngàn Phật tử từ nhiều nơi trong nước về tu tập những cuối tuần. Phương pháp tu học mới thu hút giới trẻ ở Việt Nam và khắp thế giới vì cho họ thấy có cách thực hành đạo Phật vào cuộc sống của chính họ trong thời đại này. Sự có mặt của các giáo thọ Làng Mai giúp các tăng ni mới xuất gia thấy lối sống theo thanh quy trong tự viện, và cho các và Phật tử tại gia tập cách thực hành đạo Phật trong đời sống, mang lại an lạc và hạnh phúc thực sự. Nhiều khoá tu cuối tuần được hàng ngàn Phật tử khắp nơi về tham dự. Hiện nay người ta không được phép đến Bát Nhã tu tập nữa nhưng trong Tháng Bẩy 2009, tại chùa Hoằng Pháp ở Hóc Môn, hơn 6,000 Phật tử trẻ tuổi đã tụ họp tĩnh tu, một hoạt động theo phương pháp của Làng Mai. Hoà thựong Nhất Hạnh đã thuyết giảng ở chùa này trong hai lần về nước.

Pháp môn mới từ Tu Viện Bát Nhã lan ra có thể gây ảnh hưởng rộng lớn, và có thể bành trướng rộng hơn; đó là một lý do khiến chính quyền cộng sản lo sợ họ mất khả năng kiểm soát; không khác gì Cộng sản Trung Hoa đã ngăn cấm Pháp Luân Công. Chính áp lực của Cộng sản Trung Quốc là nguyên nhân quan trọng gây ra vụ Bát Nhã. Bắc Kinh rất bất bình vào năm ngoái khi Hoà thượng Nhất Hạnh tuyên bố tại Roma ông ủng hộ nhân dân Tây Tạng. Ông lại đề nghị Cộng sản Việt Nam mời Đức Đạt Lai Lạt Ma tới Việt Nam dự lễ Phật Đản năm ngoái trong một chương trình được Liên Hiệp Quốc bảo trợ. Vì thế Cộng sản Trung Quốc đã yêu cầu Hà Nội cấm Hoà thượng Nhất Hạnh về nước dự lễ, nhưng chính quyền Hà Nội không thể làm theo vì uy tín quốc tế của nhà sư 82 tuổi này quá lớn; trong phái đoàn của ông đã có 400 người ngoại quốc thuộc nhiều quốc tịch đã được cấp visa.

Sau Lễ Vesak năm ngoái, các tăng ni giáo thọ của Làng Mai bắt đầu bị quấy nhiễu, các hoạt động bị ngăn cản, và sau cùng tất cả đã phải ra khỏi Việt Nam. Đối với 379 tu sĩ còn lại, Cộng sản ra lệnh cho Thượng toạ Đức Nghi đuổi họ ra khỏi chùa Bát Nhã, bằng cách ngưng cấp hộ khẩu cho những tu sĩ trẻ này tiếp tục ở đó tu học. Trong chế độ cộng sản mọi người chỉ được phép cư trú khi chính quyền địa phương cấp “hộ khẩu.” Mỗi khi có người tới nhà ở lại thì phải báo cho công an địa phương và người công an có quyền bác bỏ.

Điều đảng Cộng sản Việt Nam không ngờ được là hạt giống đạo được gieo vào tâm thức của 400 tăng ni mới ở Bát Nhã đã biến họ thành những con người không sợ hãi; và họ cũng không phản ứng bạo động trước những hành động tàn ác. Nhiều người bị cha mẹ gọi về vì áp lực của công an cũng đã quay trở lại Bát Nhã để sống chết với đồng đạo. Những người trẻ tuổi này, từng sống dưới chế độ cộng sản từ bé đến lớn, sau mấy năm tu tập theo đạo Phật đã tự chuyển hoá để tạo được tâm an nhiên tự tại trước mọi khiêu khích, lăng mạ, đe doạ, và đánh đập. Đảng Cộng sản Việt Nam không thể trục xuất những tăng ni trẻ này vì họ là công dân Việt Nam, mà cũng thể đánh đập mãi những người xuất gia ngồi lặng lẽ niệm Phật trong khi bị cắt điện, cắt nước, bị phong toả cả thức ăn. Đồng bào trong vùng, cả các tín hữu Công giáo láng giềng, đã bầy tỏ tình đoàn kết với các tăng ni bị quấy phá và đàn áp, hậu quả của vụ Bát Nhã có thể lan rộng mặc dù báo chí trong nước bị cấm loan tin. Người dân Việt Nam sẽ tự hỏi một chế độ, một đảng chính trị và một chính quyền thế nào mà lại có những hành động kém văn minh đối với những người chỉ chú tâm hành đạo như vậy?

Đó cũng là câu hỏi đặt ra khi chúng ta theo dõi vụ Tam Toà.

Ngôi nhà thờ ở Tam Toà đã dựng lên từ năm 1887, là nhà thờ chính của cả Giáo phận Vinh. Từ khi ngôi nhà thờ cổ bị máy bay Mỹ phá năm 1968, giáo phận vẫn chưa có một giáo đường chính, mặc dù hiện nay lên tới nửa triệu tín đồ. Lịch sử giáo phận này đã bắt đầu từ năm 1631 khi những giáo dân đầu tiên đã tụ thành một xóm đạo. Từ khi chiến tranh chấm dứt năm 1975, các giáo dân đã đòi được xây dựng nhà thờ chính toà tại địa điểm cũ nhưng bị chính quyền cộng sản từ chối, lấy cớ muốn giữ ngôi tháp chuông bị phá làm “chứng tích tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ.” Không thấy chính quyền cộng sản trưng ra một bằng cớ nào cho thấy khu đất nhà thờ đã bị trưng dụng làm của công. Lối cai trị của đảng Cộng sản vẫn như vậy, lời nói và mệnh lệnh của cán bộ có thể thay cho pháp luật. Cho nên suốt 40 năm qua các giáo dân Vinh đã không có một nhà thờ xứng đáng với lịch sử sự phát triển của cộng đồng tín hữu. Suốt 34 năm qua kể từ khi hoà bình, giáo dân Vinh đã phải nhịn nhục chịu cảnh đó, vì “trước kia lơ mơ là bị dẹp liền,” đúng như lời của linh mục Huỳnh Công Minh, một người đã từng được gọi là “linh mục quốc doanh” ở Sài Gòn.

Con sâu séo lắm cũng quằn, giữa Tháng Bẩy người dân Công giáo ở Vinh đã tự động kéo đến nền đất nhà thờ cũ dựng lên một ngôi nhà tạm dùng làm nơi thờ phượng. Trên nguyên tắc, khu đất đó vẫn thuộc chủ quyền của giáo phận Vinh, mới được tái lập từ năm 2006 sau khi tách ra khỏi giáo phận Thừa Thiên. Các giáo dân dựng thánh giá và ngôi nhà trên khu đất của giáo phận. Nhưng chính quyền cộng sản đã ra tay đàn áp để cấm họ.

Người Việt Nam nào cũng phải so sánh. Khi quân Trung Quốc cướp chiếm những hoàn đảo thuộc hải phận nước Việt Nam thì Đảng Cộng sản không dám dám phản đối bằng hành động nào mà luôn một mực nhún nhường chỉ xin được thảo luận; dù họ biết cứ nói hão như thế thì chăng bao giờ đi đến đâu. Ngược lại, khi người dân dựng lại nhà thờ trên khu đất thuộc quyền sở hữu của giáo phận thì cũng chính quyền cộng sản đó lại thẳng tay đánh đập để ngăn cản!

Và tại Nhà thờ Tam Toà họ cũng dùng một thủ đoạn giống như ở Tu viện Bát Nhã: kéo một đám côn đồ tới chửi bới và hành hung những tín đồ một tôn giáo đang làm bổn phận với tín ngưỡng của họ! Thủ đoạn ném đá giấu tay đó còn được công an cộng sản bồi thêm bằng việc bắt giữ giáo dân, đánh các linh mục, ném người qua cửa sổ nhà thương.

Đối với những người có tín ngưỡng tâm linh thâm sâu bền chặt, các thủ đoạn đó càng không công hiệu và tạo phản ứng ngựợc lại, người ta càng vững tin hơn. Chỉ nhìn vào cách đảng cộng sản sử dụng những phương pháp đê hèn và vô hiệu đó cũng thấy họ đang lâm vào tình trạng bối rối và bế tắc. Đây là nhóm người lãnh đạo một đảng đang trống rỗng về tư tưởng, các đảng viên mất niềm tin chỉ chờ ngày tan rã, mạnh ai nấy chỉ lo vơ vét cho đầy túi tham.

Một dấu hiệu của sự trống rỗng trong đầu óc đảng Cộng sản là những lời phê bình của một cán bộ đứng đầu Viện Nghiên cứu Tôn giáo của đảng. Ông này lý luận rằng các giáo dân gốc ở Tam Toà đã di cư vào Nam hết cả, khu đất nhà thờ không thuộc quyền sử dụng của những giáo dân mới, cho nên họ không được dùng nữa. Nói như vậy là không hiểu một giáo hội, một giáo phận là một thực thể pháp lý khác với các thành viên trong đó. Đời sống một giáo phận không tuỳ thuộc vào các cá nhân trong đó còn sống hay đã chết, còn ở tại chỗ hoặc đã đi xa. Một cán bộ cao cấp về tôn giáo mà trình độ ấu trĩ, không biết một điều như vậy, thật đáng xấu hổ. Ông này còn nói giáo dân Tam Toà đã “từ bé xé ra to” khi chuyển một “vấn đề dân sự thành vấn đề tôn giáo.” Chính nhận xét này vô tình cho thấy tất cả tội lỗi gây ra vụ Tam Toà, và vụ Bát Nhã, là do chủ trương, đường lối của đảng Cộng sản gây ra.

Vì chúng ta phải đặt câu hỏi: Nguyên nhân vì sao mà “một vấn đề dân sự biến thành vấn đề tôn giáo?”

Chính chủ nghĩa cộng sản chống tôn giáo và đảng cộng sản không cho dân được sống tự do đã tạo ra tình trạng đó. Đảng Cộng sản, từ thời Lê nin, sau khi cướp chính quyền đều thi hành chính sách toàn trị, tức là kiểm soát tất cả đời sống của dân chúng dưới quyền cai trị của họ, kiểm soát từ miếng cơm manh áo tới đời sống tinh thần. Trong đó có cả tín ngưỡng tâm linh. Do đó, họ coi các tôn giáo là thù nghịch, các tu sĩ, giáo hội là những mục tiêu phải tiêu diệt. Đảng Cộng sản không thể chấp nhận cho người dân hướng về bất cứ một đạo lý, một đức tin nào khác, ngoài chủ nghĩa cộng sản. Họ dối trá, bịa đặt khi thần thánh hoá các lãnh tụ như Stalin, Nicolae Ceausescu, Kim Nhật Thành, Hồ Chí Minh và Pol Pot, đem lên bàn thờ cho dân chúng lễ, thay thế các tôn giáo.

Đảng Cộng sản đã “chính trị hoá” các tôn giáo bằng cách sử dụng các tu sĩ theo họ chống lại những người khác.

Trong truyền thống Phật Giáo, bất cứ ai phát nguyện xuất gia cũng có thể trở thành tu sĩ, ở trong nhà mình, hay dựng lên một thảo am trên núi, trong rừng. Họ không cần “đăng ký hộ khẩu” và cũng không cần gia nhập một tổ chức Phật giáo có sẵn nào. Các phương pháp tu học mới trong Phật giáo đã tự do xuất hiện, có thể trở thành một tông phái lớn mà không cần ai cho phép hoặc công nhạn. Ngày nay, đảng Cộng sản đã thành lập một “giáo hội” chính thức để buộc các chùa phải nằm trong đó, và ai muốn tu ở chùa nào cũng phải có hộ khẩu. Do đó, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã bị phong toả, cấm đoán từ mấy chục năm nay. Cũng vậy, họ tìm được mấy linh mục đồng ý với họ thì dùng báo chí, truyền thông đề cao những người đó như là “Công giáo Yêu nước” để ngầm chỉ trích những người không theo họ tức là không yêu nước; hoặc lập ra Uỷ ban Đoàn Kết Công Giáo để chia rẽ với những người Công giáo khác.

Chính vì chủ trương độc tài toàn trị nên Cộng sản đã biến bao nhiêu vấn đề không có tính cách tôn giáo trở thành vấn đề tôn giáo. Không phải các tăng ni ở Tu viện Bát Nhã hay các giáo dân Tam Toà đã chính trị hoá những vụ đàn áp của chính quyền cộng sản. Đảng Cộng sản đã chính trị hoá tất cả đời sống của người dân Việt vì chủ trương độc tài toàn trị của họ.

Trong vụ Bát Nhã, nguyên do vì đảng Cộng sản muốn chiếm độc quyền kiểm soát các Phật tử trong một giáo hội Phật giáo của họ. Trên căn bản, đây là vấn đề xâm phạm quyền tự do lập hội. Các tu sĩ bị đuổi đi lấy cớ thiếu hộ khẩu vì họ không có quyền tự do cư trú. Nếu được tự do, 400 tu sĩ này dư sức xây dựng tu viện của họ, với sự hỗ trợ của Phật tử khắp nơi. Trong vụ Tam Toà, căn bản là việc sử dụng đất đai bị nhà nước chiếm độc quyền, thích ai thì cho, không thì cấm. Sự thậ là tất cả mọi người Việt Nam đều bị mất những quyền tự do như vậy, không riêng gì các tăng ni Bát Nhã hoặc giáo dân Tam Toà. Nhưng vì những người khác không có danh nghĩa chung, không phải một đám đông, cho phải chịu đựng từ bao nhiêu năm nay không nói lên được.

Tất cả mọi người dân Việt Nam mất tự do cư trú, mất quyền sở hữu đất đai đều là nạn nhân của Đảng Cộng sản. Nhưng khi tín đồ các tôn giáo bị mất tự do nên không hành đạo được, thì vấn đề tự biến thành xúc phạm quyền tự do tín ngưỡng.

Các tôn giáo chỉ được tự do khi nào tất cả mọi người dân Việt Nam được tự do lập hội, tự do cư trú và tự do sử dụng đất đai hợp pháp do tổ tiên mình để lại.

Các tăng ni Bát Nhã và đồng bào Công giáo Tam Toà đang đòi được hưởng những quyền tự do căn bản. Họ có thể mở đầu một phong trào đòi tự do dân chủ cho mọi người Việt Nam.

Hai vụ Bát Nhã và Tam Toà xẩy ra trong lúc bao nhiêu người Việt khác đang phẫn nộ vì những vụ Hoàng Sa, Bô xít, và tầu đánh cá Việt Nam bị đâm chìm ở Biển Đông. Mọi người dân Việt Nam sẽ hiểu rằng đây không phải là những vấn đề thuần tuý tôn giáo, Bát Nhã và Tam Toà là dấu hiệu của cảnh lúng túng bất lực của một chế độ sắp tan rã. Bà con sẽ thấy rõ người dân sống trong nước ta đã bị tước đoạt những quyền tự do dân chủ căn bản. Khi mọi người hiểu như vậy và hành động thì chế độ cộng sản sẽ phải cáo chung.