Lại nói về câu đố dân gian |
Tác Giả: Trần Bình Minh |
Thứ Ba, 18 Tháng 11 Năm 2008 07:05 |
Nếu ở các thể loại hát ví, trống quân thường diễn ra ở đình làng, sân bãi mang tính hội hè, tập thể thì với thể loại đố này chỉ diễn ra trong nhà, ngoài ngõ, mang tính chất gia đình, bạn bè, làng xóm, tuy nhiên nó cũng kích thích trí tưởng tượng phong phú của người nghe, người đố, gây nên những trận cười sảng khoái trong những lúc an nhàn, thư giãn, sau khi phải "than dữ" vì công việc, nhà cửa, ruộng đồng bộn bề, cấp bách. Trò chơi chữ nghiã này thực sự là một nghệ thuật ngôn từ, bắt nguồn từ đời sống dân dã nên đối tượng đố ở đây cũng bao gồm tất cả loài vật, sự việc liên quan đến công việc của nhà nông, ánh lên nét cười dí dỏm, hồn hậu mà không thể bỏ qua cái nhìn phồn thực của ông cha, cụ thể động tác bắt cua ở ngoài đồng. Bốn bề cỏ mọc lao xao Quỳ gối đâm vào, kêu ối mẹ ơi Thích quá là thích quá thôi Nhìn chán rồi quẳng vào nồi nấu canh Ngoài câu chính thống hay được truyền tụng có cả dị bản khác: Đầy đồng cỏ mọc xanh rì Muốn đi tới đó phải quỳ một chân Thò vào chuyển động xa gần Rút ra chửi : bố tiên nhân nhà mày Từ xưa người dân đã quen ăn trầu, phổ biến nhất trong giới chị em, dù là đầu hay cuối câu chuyện thì cách thức cũng giống nhau, mỗi người một miếng, gồm một miếng cau tươi hoặc khô, một phần lá trầu không có quệt vôi kèm theo miếng vỏ. Nhiều trường hợp còn dắt thêm cả vài sợi thuốc lào, vì thế mà có câu đố sau: Trầu này ăn với cà kheo Lấy tay chọc... lỗ rồi đèo nắm lông Trầu này tồng ngổng, tồng ngồng Ăn vào trai gái phải lòng, tương tư Mục đích của sự đố chữ này (đố tục giảng thanh hay đố thanh giảng tục) đơn giản chỉ nhằm gây sự ngạc nhiên cho đối phương, từ đó mà bật thành tiếng cười sảng khoái: Sàn sạt nhờ lá chuối khô Hai bên nước chảy như hồ Long Vân Từ quan cho chí đến dân Ai cũng phải uống... Long Vân chi hồ (Đôi bầu sữa mẹ) Hai phương pháp này từ lâu đã trở thành vũ khí chuyên dùng của người dân, đôi khi sa vào sự tục tằn, dân dã nhưng vui vẻ, trẻ trung, ai nghe cũng bị ám ảnh, giật mình. Ông Long đầu đội mũ huyền Chăn dê mà lại... bỏ quên dê rồi Xin đừng bắt chước, trời ơi Chăn tôi mà lại... bỏ tôi sao đành? (Chữ lồng bỏ g phía sau) Súng máy ra đời sau các sản phẩm của nhà nông như cày cuốc, liềm, mai, nhưng do đất nước trải qua binh đao, khói lửa, triền miên trong chiến tranh chống giặc ngoại xâm nên cũng được đưa vào thành đối tượng đố vui của người dân: Lòng đen miệng bạc Thương vác lên vai Đến nơi để xuống Choạc rộng đôi chân Tay anh bóp đại Miệng em la làng Lược thưa và lược bí vốn hiền lành khiêm nhường, thường được dùng để chải đầu mỗi khi có chấy, dưới con mắt của người đố cũng trở nên táo tợn ầm ĩ như một đám cướp: Hai người cùng họ, khác tên Mua về mới kết nhân duyên vợ chồng Cưới xong được ở trong phòng Mỗi khi giặc đến đồng lòng xông pha Chồng đi trước phá cửa nhà Vợ kia bắt sạch đàn bà trẻ con Tên gọi của mỗi người qua từng giai đoạn ấu thơ, trưởng thành cũng hiện ra thật bất ngờ, ngộ nghĩnh, rất dễ bị liên tưởng thành một sự tục tằn khác: Đàn ông ai cũng có Dài ngắn có khác nhau Lớn lên đi tìm vợ Lại hóa thành của chung(!) Từ lời ăn tiếng nói hàng ngày trở thành câu đố, bao gồm cả đố chữ, đố ý đố hình, đố vật... quả là một nghệ thuật, con đường đi của câu đố tính ra đến nay đã trải qua hàng nghìn năm, cổ xưa nhất như ngọn đèn dầu leo lét trong đêm, trước thời buổi con người làm ra ánh sáng: Vừa bằng giọt máu Suốt sáu gian nhà Thách cả đêm đen Trừng trừng mắt mở Nguồn nước ngọt không bao giờ khô cạn của tình yêu tính dục cũng luôn được đưa vào trong câu đố cổ như một lễ vật tán tụng dồi dào của cuộc sống: Năm cô đứng bên này sông Năm anh xổ lồng vào rốn năm cô Suốt đời để ngỏ tô hô Khi mở khi thắt, khi vồ lấy nhau (Khuy và khuyết áo) Cuộc sống thiếu tình yêu sẽ trôi đi một cách nặng nề, như cỏ cây thiếu ánh nắng mặt trời, chính vì vậy đề tài tình yêu đôi lứa - vốn luôn được coi là đề tài vĩnh hằng của văn học nghệ thuật cũng thường xuyên xuất hiện trong câu đố cổ: Cho hay duyên nợ bởi trời Vợ chồng âu yếm chẳng rời nhau ra Tên vào tận khúc dân ca Tuy hai mà cũng chỉ là một thôi (Đôi Sam) Nguồn sức sống trào dâng không ngừng của loài người thông qua bản năng tính dục thể hiện rõ nét trong câu đố xưa: Chồng một bên, Vợ một bên Đến đêm mới khít Rin rít kêu rên (Hai cánh cửa, hoặc cổng) Sản phẩm của nền văn minh nhân loại khi con người biết sử dụng đồng hồ để tận dụng thời gian trong cuộc sống hàng ngày cũng được đưa vào thành đối tượng để đố, ví dụ: Trăm năm tạc một chữ đồng Ngày mười hai khắc trong lòng nào quên Không sông, không bến, không miền Đâu vùng nước biếc, gọi tên thành... hồ ? Một loạt các câu đố về các đồ vật cây quả cũng như hiện tượng thiên nhiên càng chứng tỏ nghệ thuật chơi chữ đắc địa của người xưa: Không trồng mà mọc (cỏ) Không học mà hay (chim hót) Không vê mà tròn (quả bưởi) Không bào mà nhẵn (cây chuối) Không uốn mà ngay (cây cau) Không vay mà trả (nộp thuế) Không vả mà sưng (bầu vú phụ nữ) Không bưng mà kín (quả trứng) Không đắp mà cao (Núi) Không đào mà sâu (biển) Không chọc mà đui (đêm) Không sơn mà đỏ (mặt trời) Không gõ mà kêu (sấm) Không kều mà rụng (mưa) Một vài ý nghĩ, suy tưởng không thể nào nói hết cái hay, cái đẹp, sự độc đáo, trí tuệ sắc sảo đã được người xưa đúc kết lại. Rất mong còn có dịp đề cập thêm. Đầu to Hà Lội 5-11-2008 |