Home Văn Học Khảo Luận Xuân tha hương trong thơ chữ Hán của thi hào Nguyễn Du

Xuân tha hương trong thơ chữ Hán của thi hào Nguyễn Du PDF Print E-mail
Tác Giả: Nguyễn Phúc Vĩnh Ba   
Thứ Hai, 26 Tháng 1 Năm 2009 06:53

Vietsciences- 26/01/2009

Truyện Kiều mở đầu với một mùa xuân đằm thắm, trữ tình làm bối cảnh cho mối tình thơ ngây lãng mạn của Kim Trọng và Thúy Kiều:

Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa...

Tuy nhiên, những từ “xuân” về sau trong truyện Kiều đã giã từ ý nghĩa nguyên bản của nó để ngụ ý khác, châm biếm hơn để nói lên những u uất, bất hạnh trong cuộc đời của người con gái mà “tài tình chi lắm cho trời đất ghen”:

Đêm xuân một giấc mơ màng
Đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ...

Hay:

  Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung ..

Điều trùng hợp thay là trong cuộc đời thực đầy ốm đau, trắc trở và không đắc ý của cụ Nguyễn Tiên Điền, mùa xuân cũng không đem lại cho cụ những thi hứng vui tươi và lạc quan. Trong 249 bài thơ chữ Hán qua ba tập thơ Thanh Hiên tiền hậu tập, Nam Trung tạp ngâm và Bắc Hành tạp lục, cụ đã dùng tới 40 từ  “xuân” lân cận với các từ hàn, bệnh, vũ ,... gợi nên một trường cảm xúc khá bi đát. Riêng trong 4 bài thơ được đặt nhan đề có từ XUÂN (Xuân nhật ngẫu hứng, Xuân dạ, Xuân tiêu lữ thứ, Mộ xuân mạn hứng) cụ đều bày tỏ một nỗi buồn sâu lắng, âm ỉ khi thân phiêu lạc ở đất khách quê người.

Với “Xuân nhật ngẫu hứng” ta thấy một Nguyễn Du bất cần đời, chán chường trước “tài mệnh tương đố” khi sinh nhằm thời binh lửa và dù đã đỗ tam trường vẫn đành lênh đênh hải giác thiên nhai. Bài thơ được sáng tác trong thời kì cụ phải ăn nhờ ở đậu ở quê vợ, có lẽ vào khoảng đầu triều Tây Sơn khi mà đất nước vẫn còn chưa hẳn ổn định vì ở miền Nam, thế lực của Nguyễn Ánh vẫn lăm le khôi phục lại cơ đồ:

春  日  偶  興
   Xuân nhật ngẫu hứng
患  氣  經  時  戶  不  開
Hoạn khí kinh thời hộ bất khai
逡  巡  寒  暑  故  相  催
Thuân tuần hàn thử cố tương thôi
他  鄉  人  與  去  年  別
Tha hương nhân dữ khứ niên biệt
瓊  海  春  從  何  處  來
Quỳnh Hải* xuân tòng hà xứ lai
南  浦  傷  心  看  綠  草
Nam phố thương tâm khan lục thảo
東  皇  生  意  漏  寒  梅
Đông hoàng sinh ý lậu hàn mai
鄰  翁  奔  走  村  前  廟
Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu
斗  酒  雙  柑  醉  不  回
Đẩu tửu song cam túy bất hồi.

Lược dịch:   

Ngày xuân ngẫu hứng làm thơ
Trời xấu qua rồi cửa vẫn gài
Êm êm rét nóng rủ nhau trôi
Xa quê lại một năm li biệt
Đất khách thêm mùa xuân của ai
Cỏ biếc lòng đau trời Nam phố
Mai vàng chi nữa chúa Xuân ơi!
Lão già trước miếu say mềm rượu
Quanh quẩn hồi lâu chẳng muốn rời.

* Quỳnh Hải: huyện Quỳnh Côi, quê vợ của cụ Nguyễn Du

  Với “Xuân dạ” ta lại thấy cụ Nguyễn Du đã thấm thía nỗi đau đời dành cho một con người tài hoa: bệnh tật, xa nhà, không danh phận. Đêm dù của mùa xuân nhưng lại nhuộm một màu u ám và đau thương; nó chẳng giống chút nào so với mùa xuân tươi tắn và êm đềm nào đó của thi sĩ Trung Hoa Mạnh Hạo Nhiên “Xuân miên bất tri hiểu/ Xứ xứ văn đề điểu/ Dạ lai phong vũ thanh/ Hoa lạc tri đa thiểu”

  春  夜
Xuân dạ
 黑  夜  韶  光  何  處  尋
Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm?
小  窗  開  處  柳  陰  陰
Tiểu song khai xứ liễu âm âm
江  湖  病  到  經  時  久
Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu
風  雨  春  隨  一  夜  深
Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm
羇  旅  多  年  燈  下  淚
Ky lữ đa niên đăng hạ lệ
家  鄉  千  里  月  中  心
Gia hương thiên lý nguyệt trung tâm
南  臺  村  外  龍  江  水
Nam Đài thôn ngoại Long Giang* thủy
一  片  寒  聲  送  古  今
Nhất phiến hàn thanh tống cổ câm (kim).

* Long Giang hay Thanh Long giang: Sông Lam

Đêm xuân

Đêm mãi đen hoài nắng đẹp đâu?
Ngoài hiên bóng liễu phủ lên nhau
Giang hồ thân bệnh hoài vương vấn
Mưa nắng đêm xuân cứ dãi dầu
Lưu lạc bao năm đèn soi lệ
Quê nhà ngàn dặm ánh trăng thâu
Nam Đài ơi với sông Lam đó!
Sóng lạnh muôn đời tiếng lắng sâu.

Năm 1789 Tây Sơn chiếm Bắc Hà, cụ vừa 23 tuổi. Để tránh nạn binh lửa cụ đã về ẩn tại quê vợ, huyện Quỳnh Côi (Thái Bình) Bài thơ này nằm trong Thanh Hiên tiền hậu tập, có lẽ đã được cụ Nguyễn Du làm trong thời gian này. Lúc này ta có thể đoán cụ khoảng dưới 30 tuổi. Qua đấy ta có thể thấy thể chất của cụ không mấy khỏe mạnh do cuộc sống nghèo túng và bản thân cụ cũng hay đau ốm. Chính nơi đây đã chôn vùi quãng đời thanh xuân của cụ. Mãi hơn 10 năm sau, lúc đã 36 tuổi (1802) cụ mới ra làm quan với triều Nguyễn với chức vụ Tri huyện Phù Dung (Thái Bình) rồi sau đó thăng Tri phủ Thường Tín (Hà Đông)

Những mùa xuân tha hương tại Quỳnh Côi vẫn là đề tài cho cụ viết các bài thơ khác, cũng chất ngất lòng nhớ quê hương, xót thân mình đau yếu và cảnh sống nhờ ở tạm trong nghèo túng thiếu thốn:

漫   興
Mạn hứng
百  年  身  世  委  風  塵
Bách niên thân thế ủy phong trần
旅  食  江  津  又  海  津
Lữ thực giang tân hựu hải tân
高  興  久  無  黃  閣  夢
Cao hứng cửu vô hoàng các mộng
虛  名  未  放  白  頭  人
Hư danh vị phóng bạch đầu nhân
三  春  積  病  貧  無  藥
Tam xuân tích bệnh bần vô dược
卅  載  浮  生  患  有  身
Táp tải phù sinh hoạn hữu thân
遙  憶  家  鄉  千  里  外
Dao ức gia hương thiên lý ngoại
澤  車  段  馬  愧  東  鄰
Trạch xa đoạn mã quý đông lân.

Lược dịch: Mạn hứng
 Trăm năm thân thế mặc phong trần
Bãi biển bờ sông kiếm miếng ăn
Cao hứng cũng không mơ gác tía
Bạc đầu nào thoát nổi danh nhăng
Bệnh đau không thuốc, ba xuân lẻ
Thân có đành lo, mấy chục năm
Nhớ chốn quê nhà ngoài vạn dặm
Xấu chi phận rể ngựa xe không.

Nguyễn Du thường gọi mình là “tha hương nhân” (Xuân nhật ngẫu hứng) hay “bạch đầu nhân” (Mạn hứng, Tạp thi I....) luôn mang cái “Nhất phiến hương tâm thiềm ảnh hạ” (Sơn cư mạn hứng: Một mảnh lòng quê soi bóng nguyệt.) mà cuộc sống thì “Nhất thất xuân hàn cựu bệnh đa.” (U cư II: Đầy nhà xuân lạnh thêm nhiều bệnh.) Theo Đào duy Anh, trong Thanh Hiên tiền hậu tập, Nguyễn Du có 17 bài nói về bạch phát hay bạch đầu. Nguyễn Du đã phác họa cuộc đời trẻ trung của mình như sau:

雜   詩
Tạp thi I
壯  士  白  頭  悲  向  天
 Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên
 雄  心  生  計  兩  茫  然
 Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên
春  蘭  秋  菊  成  虛  事
Xuân lan thu cúc thành hư sự
夏  暑  冬  寒  奪  少  年
Hạ thử đông hàn đoạt thiếu niên
黃  犬  追  歡  鴻  嶺  下
Hoàng khuyển truy hoan Hồng Lĩnh hạ
白  雲  臥  病  桂  江  邊
Bạch vân ngọa bệnh Quế Giang biên
村  居  不  厭  頻  沽  酒
Thôn cư bất yếm tần cô tửu
尚  有  囊  中  三  十  錢
Thượng hữu nang trung tam thập tiền.

Lược dịch: Bài thơ vơ vẩn
Bạc đầu tráng sĩ nhìn trời
Miếng ăn, chí lớn tơi bời lòng son
Xuân thu muôn sự héo mòn
Hè đông đoạt sạch trẻ non sức người
Chó vàng Hồng Lĩnh rong chơi
Mây nằm nghỉ bệnh trắng trời Quế Giang
Cứ mua cho hết rượu làng
Tiền thì ba chục sẵn sàng túi đây.

Có lẽ không gì làm cho ta chạnh lòng hơn những câu thơ như thế, nhất là đối với một con người tài hoa như cụ Nguyễn Du. Một cõi lòng tan nát, không dám mơ một ngày được trọng dụng và liệu khi ấy thì có còn “hùng tâm” để dâng hiến hay không. Vả lại, triều Lê mà Nguyễn Du muốn phù trợ cũng chỉ là một triều đại ươn hèn, mục nát, tham tàn và về cuối lại rước voi về giày mồ, gây nên lắm điều sỉ nhục.

Với “Mộ xuân mạn hứng” Nguyễn Du lại bày tỏ một nhân sinh quan đậm màu sắc Lão Trang, xem kiếp sống như một trò mộng huyễn và công danh lại càng phù ảo như ánh nắng cuối xuân.
 暮  春  漫  興
Mộ xuân mạn hứng
一  年  春  色  九  十  日
Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật
拋  擲  春  光  殊  可  憐
Phao trịch xuân quang thù khả liên
浮  世  功  名  看  鳥  過
Phù thế công danh khan điểu quá
閒  庭  節  字  帶  鶯  遷
Nhàn đình tiết tự đái oanh thiên
側  身  不  出  有  形  外
Trắc thân bất xuất hữu hình ngoại
千  歲  長  憂  未  死  前
Thiên tuế trường ưu vị tử tiền
浮  利  榮  名  終  一  散
Phù lợi vinh danh chung nhất tán
何  如  及 早  學  神  仙
Hà như cập tảo học thần tiên.

Lược dịch:  Làm thơ vào cuối xuân

Một năm xuân đẹp chín mươi ngày
Vùn vụt thiều quang ngẫm xót thay
Cõi thế công danh chim cánh lướt
Sân nhàn thời tiết bóng oanh bay
Xét thân không thoát vòng sinh hoại
Lo mãi làm chi cuộc sống này
Rốt cuộc lợi danh đều tan tác
Phải chi sớm học phép tiên hay.

Sau khi ra làm quan với triều Nguyễn, cụ lại tiếp tục xa nhà. Cuối năm 1803, với tư cách là Đông các điện đại học sĩ, cụ Nguyễn Du đi đón sứ thần Thanh triều ở Lạng Sơn. Ở địa vị này, cụ vẫn mang tinh thần chán danh lợi trần thế và nỗi niềm bất đắc chí khi cộng tác với triều Nguyễn. Phải chăng cụ Nguyễn Du còn mang tâm trạng của một di thần triều Lê với quan điểm Nho giáo cứng nhắc “Trung thần bất sự nhị quân”? Ta nên nhớ rằng quãng đời làm quan của cụ rất hanh thông. Qua  “Xuân tiêu lữ thứ”, được làm ra trong thời điểm này, tâm sự của cụ được bộc bạch rất bi thương:
春 宵 旅 次
Xuân tiêu lữ thứ
蕭  蕭  蓬  鬢  老  風  塵
Tiêu tiêu bồng mấn lão phong trần
 暗  裏  偏  驚  物  候  新
 Ám lý thiên kinh vật hậu tân
池  草  未  闌  千  里  夢
Trì thảo vị lan thiên lý mộng
庭  梅  已  換  一  年  春
 Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân
英  雄  心  事  荒  馳  騁
Anh hùng tâm sự hoang trì sính
名  利  營  場  累  笑  顰
Danh lợi doanh trường lụy tiếu tân
人  自  蕭  條  春  自  好
Nhân tự tiêu điều, xuân tự hảo
團  成  成  下  淚  沾  巾
 Đoàn thành thành hạ lệ triêm cân.

Lược dịch:  Đêm xuân xa nhà

 Tóc mai phơ phất giữa phong trần
Mê muội lòng lo việc mới dần
Giấc mộng văn chương chưa dứt bóng
Mai vàng sân trước đã mời xuân
Anh hùng chí lớn thôi rong ruổi
Danh lợi quan trường chỉ lụy thân
Người dẫu xác xơ, xuân vẫn đẹp
Chân thành* riêng lão lệ đầm khăn.

* Đoàn thành là thành Lạng Sơn.

Sau một thời gian ở Phú Xuân khi đi tiếp sứ trở về, đến năm 1809, Nguyễn Du đựơc cử làm Cai bạ Quảng Bình. Năm 1913 cụ đi sứ hơn một năm tròn ở Trung Quốc. Về nước cụ được thăng làm Tham Tri Bộ Lễ và làm việc tại kinh đô Huế. Trong quãng thời gian làm quan này, cụ Nguyễn Du vẫn thường ốm đau bệnh tật và cuộc sống có nhiều khó khăn. Vì thế, Huế cũng chỉ là một đất khách, nơi khiến cụ thấm thía hơn nỗi đời luân lạc. Huế trong mắt cụ cũng buồn bã vì lòng thương nhớ quê nhà bao la trong tim cụ:
香  江  一  片  月
Hương giang nhất phiến nguyệt
今 古 許 多 愁
Kim cổ hứa đa sầu
往事 悲 青 塚
Vãng sự bi thanh trủng
新秋 到 白 頭
Tân thu đáo bạch đầu
有形 徒 役 役
Hữu hình đồ dịch dịch
無病 故 拘 拘
Vô bệnh cố câu câu
回首 藍 江 浦
Hồi thủ Lam giang phố
閒心 謝 白 鷗
Nhàn tâm tạ bạch âu

Lược dịch:  Thu đến

Sông Hương một mảnh trăng soi
Dáng sầu vời vợi bao đời đến nay
Chuyện xưa buồn chết dạ này
Thu về mái tóc bạc bay đón trời
Có thân, đành luỵ hình hài
Không đau, khòm chiếc lưng dài việc quan
Quay đầu nhìn bến sông Lam
Chim âu trắng xoải cánh nhàn đợi ta.

Đúng ra, ta có thể nói cụ Nguyễn Du một đời luân lạc tha phương, nếm đủ mọi cay đắng phong trần không thua gì cô Kiều trong tác phẩm của cụ. Điều đáng chú ý là chính nhờ trải qua cuộc phong trần mà cụ Nguyễn Du hiểu được nỗi đau khổ của nhân dân sống dưới các triều đại phong kiến ngày xưa.

Đọc suốt truyện Kiều, có lẽ không ai kìm được xúc cảm trước mười lăm năm luân lạc của Kiều mà nước mắt chan đều trong mỗi tháng ngày đau thương bi đát của Kiều. Nếu cụ Nguyễn Du bản thân không trải những xót xa phong trần thì hẳn chúng ta cũng không có cái may mắn được thưởng thức những vần thơ trác tuyệt như thế. Viết truyện Kiều hay là viết cuộc đời trôi nổi của mình, khóc Tiểu Thanh hay khóc Tố Như cũng thế mà thôi. Đọc những bài thơ chữ Hán trên, ta thấy rõ hơn cuộc đời của tác giả để đối chiếu với nhân vật mà tác giả xây dựng nên. Âu cũng là số phận của “con tằm đến thác vẫn còn vương tơ”.

Ngày xuân, đọc lại những bài thơ xuân chữ Hán của cụ gọi là nén nhang, bát nước dâng cho một con người tài hoa mà mệnh bạc.
Ghi chú: Các bản dịch thơ trong bài là của tác giả bài viết này