Những truyền thống thuở sơ khai |
Tác Giả: Keith Weller Taylor | ||||
Thứ Hai, 06 Tháng 4 Năm 2009 21:47 | ||||
Khi dân chúng kêu gọi Lạc Long Quân đến giải thoát cho họ khỏi tay kẻ thống trị xa lạ kia, Lạc Long Quân lại từ ngoài biển xuất hiện. Ông bắt được vợ kẻ thống trị là Âu Cơ và đem bà lên núi Tản Viên, một ngọn núi cao nhìn xuống sông Hồng, nơi sông này chảy vào vùng đồng bằng. Không giải cứu được vợ nên vị vua kia bỏ đi. Bà Âu Cơ về sau sinh được người con là vị vua đầu tiên trong số các vị vua Hùng; Lạc Long Quân lại trở về biển sau khi hứa rằng ông sẽ quay trở lại nếu cần. Lạc Long Quân là thần của biển khơi và Âu Cơ là công chúa của miền núi, đều được người Việt Nam coi như là tổ tiên của giòng giống họ. Những câu chuyện huyền thoại quanh sự tích Lạc Long Quân và nguồn gốc của những vua Hùng biểu lộ sự kết hợp giữa nền văn hoá hướng biển và môi trường lục địa. Nền văn minh đã đến với một anh hùng từ biển đánh bại được một kẻ có quyền lực ở đất liền và bắt được vợ của y, rồi lại khiến bà trở thành mẹ của các con mình. Tiền đề về một vị anh hùng của văn hoá địa phương có khả năng vô hiệu hoá một đe dọa từ phương Bắc bằng cách chiếm đoạt “chính thể” của thế lực này là dấu hiệu báo trước mọi quan hệ lịch sử giữa người Việt Nam và người Trung Quốc. Nguồn gốc huyền thoại của các vua Hùng đã phản ảnh rõ chuyện văn hoá miền biển sẽ hoà hợp với những ảnh hưởng chính trị từ lục địa. Điều này về sau đã được giới trí thức văn học của Việt Nam thêu dệt thành giòng dõi Lạc Long Quân và Âu Cơ với một ngành là thủy hệ của miền Nam và một ngành là lục địa của miền Bắc, kết tinh thành một hoàng tộc mà người sáng lập giòng họ là một nhân vật được coi là xuất hiện trước thời điểm của hoàng đế đầu tiên trong huyền thoại Trung Quốc.
Theo một cuộc nghiên cứu mới đây của Việt Nam, tên Hùng có nguồn gốc từ một tước hiệu của cấp tù trưởng ở Nam Á vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay trong ngôn ngữ của những dân tộc nói tiếng Mon-Khmer sinh sống ở miền rừng núi Đông Nam Á Châu cũng như trong ngôn ngữ của người Mường sống ở miền cao nguyên Việt Nam. Tước hiệu này cũng được thấy trong ngôn ngữ của dân tộc Munda ở Đông Bắc Ấn Độ, dân tộc này nói một ngôn ngữ cận “hướng Tây nhất” trong số những ngôn ngữ còn tồn tại ở miền Nam Á. Một nhà ngôn ngữ học Việt Nam hiện đại đã liên kết hai từ Văn Lang, danh hiệu truyền thuyết của nước vua Hùng, với những từ có cách phát âm tương tự của ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở khắp vùng đất được bao quanh bởi sông Dương Tử và sông Mê Kông; nó có nghĩa là dân tộc, và hiểu rộng ra là “quốc gia.” Theo khẩu truyền, vật tổ (totem) của các vua Hùng là một loài chim thần thoại rất lớn mà tên của nó được cho là đã trở thành nguồn gốc của tên mà người Trung Quốc đặt cho vùng đất thuộc nơi các vua Hùng cai trị–đó là Mê Linh. Birth of VN Map1Mê Linh ở vào góc Tây Bắc của vùng đồng bằng, nơi sông Hồng chảy ra khỏi những dãy núi cao, hợp lưu với 2 nhánh lớn: sông Đà và sông Chảy. Nơi hợp lưu của 3 con sông này ở vào cao độ ước khoảng 30-35 bộ (mỗi bộ là 30cm) trên mặt biển, và ước chừng 100 dặm cách bờ biển. Mê Linh có núi Tản Viên nằm về phía Tây Nam và núi Tam Đảo ở phía Đông Bắc. Ba con sông gặp nhau ở dưới chân ngọn núi Hùng, nơi mà ngày nay vẫn còn đền thờ vua Hùng. Dữ kiện sớm nhất được ghi lại như lịch sử trong tài liệu Việt Nam xuất hiện trong Việt Sử Lược, có niên đại phù hợp với triều đại của một vị vua Trung Quốc–vua Trang của nhà Chu– trị vì ở thời điểm 696-682 Trước Công Nguyên. Mười tám thế hệ lần lượt diễn tiến từ khởi thủy triều đại của vị vua Trang của nhà Chu cho đến cuối triều đại ấy. Những sử gia Việt Nam dường như cũng đã theo đó mà tính ra 18 đời vua Hùng, cũng chấm dứt đồng thời với nhà Chu. Việc các sử gia Việt đánh dấu niên đại vua Hùng đầu tiên với thời vua Trang của nhà Chu được coi là một cách dựa vào truyền thuyết Trung Hoa để tái tạo huyền thoại lập quốc của Việt Nam. Theo Việt Sử Lược, lịch sử Việt Nam bắt đầu khi có một “dị nhân” ở Mê Linh dùng pháp thuật để liên kết tất cả những bộ lạc dưới quyền mình, rồi dị nhân xưng hiệu là Hùng Vương và đặt tên nước là Văn Lang. Nguồn gốc của huyền tích này còn mơ hồ, và sự xác thực của nó chưa được khảo cứu tường tận. Tuy nhiên, niên đại được gán cho lúc xưng vương của các vua Hùng lại phù hợp với chứng tích khảo cổ học cho thấy rằng vào khoảng thế kỷ 7 trước Công Nguyên (TCN), những nền văn hoá khác nhau ở Bắc Việt được thống nhất lại dưới ảnh hưởng của văn hoá Đông Sơn bắt nguồn từ vùng Mê Linh. Điều đó đánh dấu thời kỳ bắt đầu của nền văn hóa được gọi tổng quan là nền văn hóa Đông Sơn. Tiến trình khảo cổ đào dựng lại văn hóa Đông Sơn bắt đầu từ gần cuối thiên niên kỷ thứ 3 TCN, với sự xuất hiện của văn hoá hậu kỳ đá mới (neolithio) và đầu thời kỳ kim khí trong các thung lũng sông Hồng và sông Mã. Hai trung tâm văn hoá này tiếp tục phát triển song song tuy vẫn riêng rẽ cho tới khi được kết hợp lại thành văn hoá Đông Sơn vào khoảng thế kỷ 7 TCN. Văn hoá Đông Sơn được biết đến qua những trống đồng được tìm thấy ở nhiều nơi khắp Đông Nam Á và ở phía nam Trung Quốc. Những hình vẽ trang trí trên trống phản ảnh một văn hoá hướng về biển. Các học giả Việt Nam liên kết triều các vua Hùng vào thời kỳ văn hóa Đông Sơn. Họ cho đây là thời kỳ hình thành ý thức quốc gia và như vậy họ có thể coi thời kỳ Trung Quốc thống trị sau đó là một sự xâm nhập tạm thời vào đời sống một quốc gia đã được thành lập hẳn hoi. Quan điểm này giải thích việc Việt Nam dành lại được độc lập vào thế kỷ 10 sau CN như sự tái xuất hiện của một truyền thống đã có sẵn từ trước. Nó phủ nhận quan điểm cũ của các học giả Trung Quốc và Pháp cho rằng di sản của Việt Nam bắt nguồn khi còn là một tỉnh lỵ của Trung Quốc. Quan điểm này ngày càng khó đứng vững được với sự tiến triển của các công cuộc khảo cổ, ngôn ngữ và lịch sử gần đây. Từ trung tâm điểm ở Mê Linh, các vua Hùng phát huy ảnh hưởng của mình về hướng Đông để bao gồm vùng Tây Vu. Danh hiệu Tây Vu xuất hiện vào các thế kỷ sau và có nguồn gốc từ sự tiếp xúc với các dân tộc theo Trung Quốc xa hơn về phía Bắc. Tây Vu nằm ở giữa sông Cầu và sông Hồng, tại chân núi Tam Đảo. Đó là một vùng đất phì nhiêu, có nhiều sông, hồ, đồi và đồng bằng, giáp ranh một bên là vùng đất núi, một bên là đất đồng bằng có đầm lầy. Vùng này đông dân cư từ thuở ban đầu xa lắc. Vùng đất cao ở bắc Tây Vu có sông ngòi chảy qua và có những thung lũng ăn thông sang cả miền Nam Trung Quốc, qua những ngọn đèo thấp. Do đó, Tây Vu dễ bị tấn công từ phía Bắc và những huyền tích từ thuở ban sơ ở Tây Vu đều toàn nói đến chuyện bảo vệ lãnh thổ để chống lại những kẻ xâm lăng từ phương Bắc. Huyền tích hiển nhiên nhất là chuyện Đức Thánh Gióng, một đứa bé lên ba tuổi, lớn lên một cách kỳ diệu thành một ông khổng lồ sau khi ăn một lượng cơm vĩ đại; rồi sau khi quét lũ xâm lăng ra khỏi vùng, đã biến về trời. Ông được coi như hiện thân của Lạc Long Quân trở về để cứu viện thần dân của mình, và cũng giống các anh hùng “khỏe vì cơm” trong truyền thuyết của Nam Dương và các xứ sở vùng Đông Nam Á. Một trong những nhân vật có uy lực nhất trong huyền thoại Việt Nam là Thần núi Tản Viên hay gọi giản dị là Sơn Tinh. Sơn Tinh là con trai Lạc Long Quân và Âu Cơ, đã theo cha xuống biển, nhưng sau lại quay trở về ở trên núi Tản Viên, đuợc coi như đỉnh Olympia của Việt Nam. Một huyền tích về Sơn Tinh lại giống y hệt với sự tích dân gian của miền Bắc đảo Borneo. Huyền tích Việt Nam kể về sự xung đột giữa Sơn Tinh và một thần Cây ở trên núi. Một cây cổ thụ được phục hồi sống lại một cách kỳ lạ sau mấy lần bị Sơn Tinh chặt xuống. Sau ba lần như thế, Sơn Tinh bèn nấp ở một nơi và thấy chính Thái Bạch Tinh Quân đã làm sống lại cây ấy vào trước lúc bình minh. Sơn Tinh bèn rình bắt được Thái Bạch. Và hai bên đã đạt được một thoả thuận là đôi bên được quyền xử dụng đất và những cây trên đất ấy. (Xem Gustave Dumoutier, trong quyển Nghiên Cứu Lịch Sử và Khảo Cổ thành Cổ Loa, Kinh Đô cũ của Âu Lạc (Étude historique et archeologique sur Co-loa, capital de l’ancien royaume de Au Lac), trang 261-262). Còn theo huyền tích của đảo Borneo, có một cái cây cũng được làm sống lại như thế sau khi bị chặt xuống, và vị thần làm sống lại cây ấy đã bị bắt; rồi để đổi lại việc sử dụng các cây và đất đai, thần ấy đã yêu cầu mình được thờ cúng. (Xem Henry Ling Roth, Người Dân Bản Xứ của vùng Surawak và Bắc Borneo (The Natives of Surawak and British North Borneo, trang 177-178). Huyền tích lý thú nhất của Sơn Tinh là trận đánh nhau với Thủy Tinh mà về sau được diễn giải qua nhiều hình thức: như tượng trưng của mùa lũ, sự dâng cao đột nhiên của thủy triều, hay quân xâm lăng từ biển cả. Trong khi có thể đưa ra từng trường hợp hợp lý cho những lời giải thích trên, những giải thích lại không nói đến tất cả những yếu tố của sự tích như đã được nói đến trong Việt Điện U Linh Tập, là sách mà chúng tôi truy cứu nguồn gốc. Thủy Tinh không phải là một kẻ xâm lăng ngoại lai, mà lại chính là bạn thân của Sơn Tinh và cả hai bên đều cùng sống ẩn tích tại Mê Linh. Lý do của sự hai bên thù ghét nhau chính là cuộc hôn nhân với nàng Công Chúa con vua Hùng. Hùng Vương và các cố vấn của ông đều cho rằng cả hai thần đều rất xứng đáng là phò mã và đã mời hai thần dự một cuộc thi mà kẻ thắng sẽ đuọc lấy công chúa. Sơn Tinh đã thắng và rước công chúa về núi Tản Viên. Thủy Tinh không chịu nhận là mình thua và ầm ầm tấn công Sơn Tinh như vũ bão, nhưng không thắng. Huyền tích này ngụ ý giải thích cái thế ưu việt của Sơn Tinh ở vùng đất thấp quanh núi, do kết quả việc Sơn Tinh thắng cuộc, lấy được công chúa. Huyền tích còn được hậu thuẫn thêm bằng những truyền thuyết dân gian mà theo đó tầm quan trọng chính trị của núi Tản thời cổ thành một đề tài được lập lại nhiều lần. Sự tích Đầm Nhất Dạ phát xuất từ phía Nam đồng bằng sông Hồng, một vùng đầm lầy thấp ở gần biển, kể rằng có một nàng công chúa con vua Hùng là Tiên Dung, khi đang đi chơi trên các nhánh song trong vùng đồng bằng sông Hồng bỗng gặp một thanh niên nghèo không quần áo che thân, là Chử Đồng Tử. Nàng bèn kết duyên với Chử Đồng Tử và hai ông bà ở lại sinh sống trong vùng gần bờ biển, trong một tòa lâu đài được trang biện đầy những đồ sang trọng hiếm có của những thương nhân đi biển dâng tặng. Được tin ấy, vua Hùng sai một đạo quân đến bắt hai người, nhưng khi đi đến nơi, chỉ trong một đêm lâu đài biến mất. Chẳng còn gì ở nơi đầm lầy Nhất Dạ ấy nữa. Huyền tích này cũng chứa đựng những chi tiết giống như huyền thoại về sự khai sinh ra xứ Phù Nam ở vùng hạ lưu sông Mê-kông. Những sự tích Lạc Long Quân, Đức Thánh Gióng, Thần Tản Viên và Đầm Nhất Dạ đều có ghi trong cuốn sử của Ngô Sĩ Liên ở thế kỷ 15. Tất cả những sự tích này đều được pha biến với những tình tiết công phu góp nhặt từ các nguồn văn hoá của những thế kỷ về sau. Chúng được mọi người Việt Nam nhớ mãi vì chúng tượng trưng cho bản sắc dân tộc ban sơ của họ. Những huyền tích này cũng biểu lộ sự thực tâm lý cơ bản của xã hội Việt Nam thời cổ: quyền tối cao của xứ sở đến từ biển khơi. Lạc Long Quân là vị thần biển. Chúng ta đã thấy có một số chi tiết trong những huyền tích Việt Nam cũng giống như những huyền tích của những xứ sở ở ven biển Đông Nam Á. Khái niệm về một vị thần biển như biểu tượng của quyền lực chính trị và sự chính thống, đi cùng với sự hình thành của dân tộc Việt Nam thời tiền sử, chính là dấu hiệu sớm nhất đã cho ta thấy rằng người Việt Nam là một dân tộc tự giác và đặc thù. Chính khái niệm này đã được biểu hiện qua nghệ thuật trống đồng Đông Sơn với những con chim biển và những động vật khác vây quanh những chiếc thuyền chở các chiến sĩ. XÃ HỘI LẠC Các nhà khảo cổ Việt Nam ghi thời kỳ khai sinh nền văn minh của họ là thời kỳ văn hoá Phùng Nguyên ở cuối thiên niên kỷ thứ 3 truớc CN. Văn hoá ấy nẩy nở ở trong vùng về sau được gọi là Mê Linh. Họ coi Phùng Nguyên là thời kỳ Văn hoá Đá mới tiến sang Sơ kỳ Kim khí. Địa điểm Phùng Nguyên rộng hàng chục ngàn mét vuông và có hàng ngàn dân cư ngụ. Đây chính là chứng cứ của sinh họat cộng đồng được xây dựng từ những kết hợp của những giòng họ và bộ lạc. Khi việc sử dụng đồ đồng phát triển trong suốt hai thiên niên kỷ liền nhau, lối sống cộng đồng sơ khai này đã chuyển hoá thành một xã hội có hệ thống hơn căn cứ trên những nhóm gia đình hay làng xã tương đối nhỏ. Xu hướng này đạt tới đỉnh cao là văn hoá Đông Sơn mà các nhà khảo cổ Việt Nam ghi là từ thế kỷ 7 TCN đến thế kỷ 1 SCN. Những nấm mộ của các giai cấp cầm quyền thời kỳ Đông Sơn đều có nhiều đồ đồng được chôn cất theo. Những đồ vật ấy chứng tỏ nhóm người lãnh đạo đã thiết lập một khoảng cách rõ rệt giữa họ với dân chúng mà họ cai trị. Những học giả Việt Nam nhận định rằng thời này là thời có huyền thoại của vua Hùng và nước Văn Lang.
Trong quá trình nghiên cứu những từ ngữ trong truyền thuyết thời các vua Hùng, một nhà ngôn ngữ học Việt Nam đã nhận thấy rằng những từ như “phụ đạo,” “mị nương,” hay “quan lang” đều giống một số từ trong ngôn ngữ Nam Á và Nam Đảo ở Đông Nam Á. Ông lập luận rằng những từ đó đã du nhập vào tiếng Trung Quốc từ những ngôn ngữ về phía Nam. Một từ có nghĩa là “hầu gái” hay “nô lệ” lại cùng nghĩa với tiếng Thái; một từ có nghĩa là “nhân dân” hay “thần dân” lại giống với tiếng Thái và tiếng Chàm; lại một từ nữa có nghĩa là “phụ tá” (bồ chính) lại giống tiếng Java; một ngôn ngữ Nam Đảo thấy ở trong vùng núi ở Trung phần Việt Nam. Nguồn gốc chính xác của những từ trên chưa được biết rõ. Nhưng những nơi có tiếng đó cho thấy Việt Nam cổ đại là nơi giao lưu của những văn hoá ngôn ngữ khác nhau. Một từ cổ VN, nghĩa là “làng” (kẻ) dường như có gốc ở đồng bằng sông Hồng, và chu vi địa lý dung dưỡng sự tồn tại của từ này qua tên các làng xã đương đại cho thấy nó có nguồn gốc từ xã hội trồng lúa vào thời kỳ đá mới và thời kỳ kim khí. Chữ “sông” cũng tương quan với nhiều ngôn ngữ láng giềng và phát xuất từ chữ “giang” của Trung Quốc, và từ này gần đây được chứng minh là có nguồn gốc ở Nam Á. Đồng thời, cũng như đã được ghi từ trước, là chúng ta có lý do để tin rằng từ “Hùng” bắt nguồn từ một chức vị “tù trưởng”, thủ lãnh, ở miền Nam Á. Các học giả ngày nay có chiều hướng coi Nam Á và Nam Đảo là những chi nhánh của đất liền cùng cửa biển của một vùng Nam Á cổ hơn. Ảnh hưởng của từ ngữ Nam Đảo đã rời lục địa để đến các đảo ở Đông Nam Á trong khi những từ ngữ Nam Á lại tới đất liền từ Đông Nam Á. Nhóm ngôn ngữ Mon-Khmer là một nhóm lớn nằm trong nhóm Nam Á. Tiếng Việt, theo một nhà tra cứu gần đây, rõ ràng là ngôn ngữ Mon-Khmer có những chữ được vay mượn rõ ràng từ ngôn ngữ Nam Đảo. Sự đối chọi giữa biển và núi trong huyền thoại Việt Nam như vậy có một căn bản ngôn ngữ. Ở miền Bắc Việt Nam trong thời tiền sử, chúng ta có thể cho rằng tiếng Mon Khmer, hay giang sơn ngôn ngữ Nam Á đã được giàu mạnh nhờ giải đất giáp với dân tộc Nam Đảo vùng biển mà về sau cũng hội nhập họ. Tiếng Việt cũng phát triển theo đó, từ tiếng Mon-Khmer trong một thế giới văn hoá có tiếp súc sâu xa với các tộc dân ở Nam Đảo. Sự tiếp xúc với các tộc dân Thái và trong thời kỳ lịch sử, với tiếng Trung Quốc cũng để lại những dấu vết hiển nhiên và rõ rệt. Nghệ thuật Đông Sơn đã cho thấy giai cấp cầm quyền được ảnh hưởng sâu đậm bởi văn hoá Nam Đảo. Chiếc rìu bằng đá hình chữ nhật thường vẫn được cho là có liên quan đến văn hoá Nam Đảo thời đồ đá, đã được tìm thấy rất nhiều ở Bắc Việt Nam trong khi loại rìu đá có vai mà vẫn được cho là đặc biệt của văn hoá Nam Á, lại tương đối hiếm. Một vũ khí đặc biệt của thời kỳ Đông Sơn là chiếc rìu lưỡi chéo bằng đồng được cho là chiếc rìu biến hình từ cái chữ nhật bằng đá. Chiếc rìu chéo, hơn tất cả mọi loại khác vì nó có thể được dùng, vừa chặt, vừa đâm; cán nó lại có thể tháo ra dễ dàng, thành ra có thể dùng cầm đánh được gặp lúc cần. Thứ vũ khí này được miêu tả ở trong tay các chiến sĩ chạm vẽ trên các trống đồng Đông Sơn. Nó làm chứng tích cho một vị thế chiến lược khó khăn của đồng bằng sông Hồng, nơi phải chịu một áp lực dân số thời cổ đại. Đồng bằng này cưỡi lên vùng đất trũng duy nhất giữa cao nguyên Tây Tạng và biển cả; vì lý do nó là con đường mòn của những tộc dân thường di chuyển, đi lại giữa miền Đông và miền Đông Nam Á. Những ai muốn lấy nơi này làm quê hương của mình thường phải đối đầu với những thử thách từ khắp nơi đổ đến. Cho nên vì sự sống còn họ phải tự trang bị bằng những vũ khí đủ sức để đương đầu. Những thứ vũ khí bằng kim khí khác được phát hiện ở Đông Sơn gồm có những lưỡi dao găm, kích, gươm và những ngọn lao, mác, những mũi tên và lẫy nỏ. Ngày nay chúng ta có thể thấy loại rìu lưỡi chéo được vẽ theo một tư duy nghệ thuật bởi những dân tộc Nam Đảo. Theo lịch sử Việt Nam thời cổ, rìu này được sử dụng nhân danh một dòng giõi vua chúa mang một danh xưng Nam Á. Văn minh Đông Sơn là một tổng hợp văn hoá được thành tựu bởi những nhóm dân cùng trong một môi trường địa-chính trị duy nhất. Những nhóm dân này đến tự miền núi lẫn miền biển. Xã hội mà họ chung sống về sau đã san bằng hết mọi khác biệt giữa họ. Chúng ta có thể đoán được rằng dân tộc Việt Nam bắt nguồn từ một sự phối hợp hài hòa của một số dân trong một khung cảnh địa lý đặc biệt, tức là trong vùng đồng bằng Bắc Việt Nam. Nguồn gốc và ý nghĩa của các trống đồng Đông Sơn đã được nhiều học giả bàn cãi, nhưng vẫn chưa đi đến một sự đồng ý nào cả. Theo truyền thống, người ta vẫn cho rằng việc đúc đồng là từ Trung Quốc truyền vào Đông Nam Á, nhưng cuộc khảo cứu gần đây lại cho biết một điều ngược lại. Theo nhiều thư tịch cổ của Trung Quốc, trống đồng đã được những nhóm dân miền Nam sử dụng như là biểu tượng của thịnh vượng và quyền lực. Điều giải thích đáng tin nhất về nguồn gốc những trống đó là chúng đã tiến hoá từ khi còn là cái cối giã gạo, bởi vì “âm nhạc chơi bằng dụng cụ chày giã” đã được các tác giả Trung Quốc ngày xưa thuật lại như là phần quan trọng trong đời sống xã hội của các nhóm đến ở miền Nam. Đồng thời những nhà nhân chủng học Việt Nam ngày nay đã khám phá một sự tương đồng đặc biệt giữa hình dáng của những đồ dùng thường như bình, chén, lọ, thúng đều có hình cái trống để giã được thấy trong nghệ thuật Đông Sơn, với những cảnh giã gạo của người nông dân Việt Nam và những dân thiểu số ở vùng cao nguyên Việt Nam. Theo những lời mô tả cũ nhất về xã hội và kinh tế của người Việt cổ mà nay còn thấy trong những đoạn văn trích từ những nguồn gốc Trung Quốc có từ thế kỷ 3 đến thế kỷ 5 sau CN, nền kinh tế ở đồng bằng sông Hồng trước khi có người Trung Quốc đến cai trị gồm những ruộng lúa được dẫn thủy bằng cách lợi dụng mực nuớc cao ở những con sông khi có triều cường. Những ruộng ấy được gọi là những Lạc điền. Chúng ta đã thấy rằng Lạc cũng là tên của vị anh hùng văn hoá mà người Việt cổ bảo là đã dạy họ nghề nông. Các học giả Nhật Bản gợI ý rằng Lạc là ở từ Việt “lạch” hay “rạch,” có nghiã là “đê,” “kinh rạch,” “thủy đạo.” Việc đào muơng dẫn nước nhất định là bước đầu tiên làm cho những vùng đầm lầy ở miền Bắc Việt Nam thành cầy cấy được. Những mương rạch có cửa chắn nước chắc phải là thiết yếu để điều chỉnh việc dẫn nước. Những Lạc điền, như nói trong thư tịch, chắc chắn là phải nhờ vào một thứ hệ thống điều chỉnh nào đó. Nhưng chúng ta cũng nên nhớ rằng những thư tịch Trung Quốc kể lại việc dẫn thủy theo triều cường bằng cách giải thích chữ Lạc, và rằng xã hội Lạc rất có thể đã căn cứ trên các phương pháp canh nông khác nhau, mà phương pháp dẫn thủy bằng triều cường là một. Birth of VN Map2(Bản đồ 2: ảnh hưởng thủy triều ở đồng bằng sông Hồng trong thời hiện đại. (Theo P. Gourou, Những Người Dân Quê ở Đồng Bằng Việt Nam, tr. 78). Lạc là một danh hiệu xưa nhất đuợc ghi lại về dân tộc Việt Nam. Chúng ta có thể nói một cách thích đáng rằng xã hội vào thời kỳ văn hoá Đông Sơn là xã hội Lạc, bởi vì yếu tố duy nhất để liên hệ những huyền thoại về các vua Hùng và thời kỳ lịch sử sơ khai vào với thời kỳ nhà Đông Hán, chính là địa vị ưu thế của các Lạc hầu trong tư cách là những người cai trị ở địa phương. Việc dẫn thủy theo triều cường được mô tả trong những văn bản nói về Lạc điền đã vạch rõ một kỹ năng canh nông tương đối tiến bộ. Bức Bản đồ số 2 cho thấy ảnh hưởng của nước triều ở đồng bằng sông Hồng trong những năm 1930. Hơn 2000 năm trước, chúng ta có thể cho rằng triều cường còn đi sâu vào nội địa hơn thế nữa bởi vì lớp phù sa đã bồi đắp vùng đồng bằng cho lan xa ra biển đến 10 dặm trong suốt thời kỳ lịch sử. Ảnh hưởng nước triều mạnh nhất là ở vùng Tây Vu, nằm ở ngoài luồng nước chảy của sông Hồng. Một cuộc nghiên cứu gần đây về địa dư cổ của vùng này cho biết chính đó là cơ sở của xã hội Lạc điền. Những hạt lúa giống thời sơ khai được thấy ở Á Châu với cái tên là Oryza Fatua đã được đào thấy ở nơi có các nền văn hoá đá mới ở khắp trong nước Việt Nam hiện đại. Khảo cổ học cho biết là người Việt cổ cầy đất bằng cuốc làm bằng đá mài nhẵn, sớm là vào thời kỳ Gò Mun ở hậu bán thiên niên kỷ thứ 2 trước CN, bằng những lưỡi liềm và những nông cụ gặt hái có lưởi bằng đồng, và vào thời kỳ Đông Sơn, những cuốc, cày và hái bằng đồng cả. Tài năng của những nông dân đủ để hậu thuẫn cho lớp người cầm quyền được ấn định rõ ràng. Văn bản xưa nhất của Trung Quốc từ thế kỷ thứ 5 sau CN còn sót lại đến nay nói về các vua Hùng đã giải thích danh hiệu Hùng theo nghĩa của từ Trung Quốc là “mạnh,” “cang cường” và văn bản đã triển khai ý nghĩa này qua lời mô tả một khí hậu nhiệt đới kinh khủng và đất đai phì nhiêu. Chúng ta có thể ức đoán rằng lời giải thích của Trung Quốc được gợi ra bằng sự thâm nhập vào văn chương Trung Quốc những câu chuyện truyền khẩu từ Việt Nam về sự tích các vua Hùng. Theo truyền thuyết, các vua Hùng cai trị trực tiếp từ Mê Linh. Bên ngoài Mê Linh các vua phải tùy thuộc, tới một mức nào đó, vào sự cộng tác của các Lạc hầu. Các vua Hùng bảo vệ các Lạc hầu chống lại những cuộc đột kích và xâm nhập đến từ miền núi, trong khi các Lạc hầu ủng hộ các vua bằng nhân lực và sự trù phú của mình. Nhà sử học Pháp Henri Maspero, dựa vào cơ cấu xã hội của vùng cao nguyên Bắc Việt trong thời của ông, đã miêu tả xã hội xưa như là có hệ thống đẳng cấp căn cứ trên những đặc ân của gia đình, trên nghĩa vụ hỗ tương và sự trung thành của cá nhân. Dân sống trong các làng xã hay những cộng đồng gia tộc nhỏ dưới quyền cai trị của các Lạc hầu. Các Lạc hầu lại được hưởng những mức độ ân huệ và quyền hành khác nhau, từ những người giữ chức xã trưởng cho đến cấp lãnh đạo các vùng làm cố vấn thân cận cho vua Hùng. Vua duy trì uy tín của mình bằng một đời sống sung túc ở triều đình, làm dễ dàng việc quan hệ hoà bình với các nhóm dân tộc láng giềng ở miền núi. Những huyền tích và những ngôi mộ Đông Sơn đào được hầu như đều xác nhận hình ảnh này của xã hội Lạc. Phụ nữ được hưởng một vị thế tương đối cao trong xã hội Lạc. Như chúng ta sẽ thấy sau đây là khi các Lạc hầu nổi lên chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc, chính họ lại được các phụ nữ lãnh đạo. Theo truyền thuyết, các con của Lạc Long Quân và Âu Cơ chia ra làm hai nhóm, một nửa theo cha xuống biển và một nửa theo mẹ lên núi. Việc chia đôi này dường như phản ảnh một hệ thống gia đình song phương mà từ đó quyền thừa kế được lưu truyền qua cả hai giòng nội, ngoại. Xã hội Lạc tương đối tiến bộ và tự kiềm chế. Nó đã phát triển ở một nơi xa những trung tâm xã hội chính trị đang bành trướng ở Bắc Trung Quốc và Bắc Ấn Độ và ngang bằng với bất kỳ đe dọa nào mọc lên ở những vùng đất xung quanh. Nhưng tình trạng đó chấm dứt khi quyền lực Trung Quốc mở đường xuống Nam Hải. MỞ ĐẦU MỘT KỶ NGUYÊN MỚI Vào hậu bán thế kỷ thứ 3 trước CN, người Việt cổ bước vào một kỷ nguyên mới. Lần đầu tiên nhà vua đang trị vì của họ đã mất ngôi vì một kẻ xâm lăng là An Dương Vương, tức là một nhân vật lịch sử xác thực ở Việt Nam. Việc này liên quan đến những biến cố đang xảy ra ở miền Bắc Trung Quốc, trong thời gian nhà Tần loại trừ những địch thủ của mình và đi vào con đường đế quốc, phân tán đám vương hầu bị tước quyền nhưng đang có tham vọng lên ngôi. Để hiểu rõ tình trạng này, tốt hơn chúng ta hãy xét lại những việc đã xảy ra từ trước. Như được biết rõ, trung tâm của văn minh Trung Quốc nằm trong thung lũng sông Hoàng Hà, nơi mà bây giờ gọi là miền Hoa Bắc. Lưu vực sông Dương Tử miền Hoa Trung có 3 quyền lực lớn xuất hiện trong số các dân tộc phi Hoa và những thủ lãnh của 3 nhóm ấy đang học áp dụng văn hoá Trung Quốc. Đó là nhà Thục nằm ở khu vực Tứ Xuyên, một thung lũng phì nhiêu bao bọc bởi núi cao và có sông Dương Tử bắt nguồn từ trong đó chảy ra. Nhà Chu đóng dọc theo sông Dương Tử và đây là vùng đất ao hồ, đồng bằng lẫn lộn. Rồi đến xứ Việt (Yueh) chiếm cứ miền duyên hải, nơi sông Dương Tử đổ vào đại dương. Đất Thục bị ngăn cách với miền Nam bởi vùng đất hiểm trở của Quế Châu, mặc dầu sông Dương Tử chảy qua cao nguyên Vân Nam và có những con đường từ đó toả ra khắp các ngả. Đất của nhà Chu rộng lớn hơn nhiều và quan trọng hơn đối với 2 vùng đất phi Hoa kia. Nó bị ngăn cách với vùng thung lũng sông Tích (Hsi) ở Hoa Nam bằng một dãy núi cao nhưng có 5 ngọn đèo danh tiếng để vượt qua. Đất của Việt, trên một vài phương diện, nằm dưới ảnh hưởng của nhà Chu. Nhưng vẫn được hưởng nhiều điều lợi từ những cuộc tiếp xúc với bên ngoài nhờ ở vị trí gần biển. Miền Nam của đất Việt này nằm trong vùng lòng chảo gần bờ biển Ung Châu ở phía Nam Chiết Giang và Bồ Kiên, và những vùng này lại bị ngăn cách với sông Dương Tử và sông Tích bởi nhiều núi cao. Người ta được biết rất ít về miền Hoa Nam vào thời gian trước thế kỷ 3 TCN. Thung lũng sông Tích có những quan hệ thương mại quan trọng với nhà Chu ở phía Bắc và các dân tộc từ miền biển tới. Thương mại được thiết lập tốt giữa miền bờ biển Nam Hải và miền Hoa Bắc ngay từ đầu thiên niên kỷ 2 trước CN. Những quan hệ thương mại ấy ngày càng tăng thành một phần quan trọng của kinh tế Trung Quốc duới thời nhà Châu (Chou; 1122-255 TCN). Có những chứng cứ cho thấy là những dân tộc Mãlai-Pôlinêdi đem quế bằng đường biển từ Hoa Nam đến Đông Phi Châu rồi từ đó mở đường đi tới Địa Trung Hải vào trước thiên niên kỷ 2 TCN. Khi nhà Tần về sau kéo đến Hoa Nam, một trong 3 quận được lập ra ở đó mang tên Quế Lâm (rừng quế) bây giờ là Quảng Tây. Tình hình chính trị chắc chắn đã chuyển động quanh vùng của sông Tích mà ở đó, cả Quảng Châu, Hongkong lẫn Macao ngày nay tiếp tục phản ánh một môi sinh gồm 2 ảnh hưởng gồm lục địa và biển khơi. Năm trăm (500) dặm về phía Tây Nam, đồng bằng sông Hồng bị ngăn cách với thế giới Trung Hoa đang bành trướng bằng một khoảng đất rất xa. Vào cuối nửa thế kỷ 4 TCN, tình hình ấy bắt đầu thay đổi với sự hủy diệt của hai trong ba xứ ở lưu vực sông Dương Tử nói trên. Năm 333 TCN, nhà Chu chinh phục đất Việt (Yueh); 18 năm sau nữa, nhà Tấn ở trên miền Bắc lại chinh phục được nhà Thục. Trong khi một phần những nhà lãnh đạo của nhà Thục chạy tỵ nạn sang với nhà Chu, lớp lãnh tụ Việt (Yueh) chạy tản mác về phía Nam dọc theo bờ biển và ở đó, họ thành lập nhiều tiểu quốc và lãnh địa được người Trung Quốc gọi là Bách Việt. Bốn trong số những tiểu quốc này đã đi vào lịch sử. Người Trung Quốc gọi xứ lớn nhất là Nam Việt (Nan Yueh), nằm ở quanh vùng sông Tích gần Quảng Châu bây giờ. Lớn thứ nhì là Mân Việt ở Bồ Kiên. Thứ ba là Đông Âu (Ou) hay còn gọi là Việt Đông, nằm ở Nam Chiết Giang thuộc Ung Châu bây giờ. Thứ tư là Tây Âu, ở thượng lưu sông Tích thuộc Quảng Tây ngày nay. Thế là sau 333 năm trước CN, những dân sinh sống ở vùng Đông Nam Trung Quốc bị rơi vào vòng thống trị của một dân tộc mang tên và hưởng di sản của nước Việt (Yueh) cũ. Nam Việt ở vào trung tâm của trật tự mới này. Mân Việt đứng hàng quan trọng thứ nhì, và ở 2 bên sườn, có 2 xứ Đông Âu và Tây Âu. Hai xứ Âu này mang một ý nghĩa đặc biệt bởi vì ở vùng đồng bằng sông Hồng, nước Văn Lang đã bị thay thế bởi nước Âu Lạc, và danh hiệu Âu chỉ là một cách phát âm tiếng Việt Nam của từ “Ou” mà thôi. Quan hệ giữa Đông Âu và Tây Âu không dược phát hiện trong sử liệu nhưng những danh hiệu ấy đã thiết lập một khuôn khổ tham khảo cho sử gia. Rõ ràng đó là thế giới của Bách Việt, với Nam Việt là trọng tâm; ít nhất đó là quan điểm của các sử gia Trung Quốc về sau. Tuy nhiên điều này cũng không giải thích được từ “Âu” trong phạm vi nước Việt (Yueh). Từ ấy dường như bắt nguồn ở miền Nam Chiết Giang, nơi Đông Âu dựng kinh đô ở trên bờ một con sông tên là Âu cho tới thời cận đại. Vùng này trước tiên là trung tâm của văn hoá Việt đã đóng góp cho tình trạng chính trị của Việt và đã có những giây liên hệ cũ và bền chặt với những truyền thống của chính nước đã bị khai tử hơn là với những xứ Mân Việt và Nam Việt rộng lớn hơn ở quá về phía Nam. Nhiều xứ nhỏ hơn đã mọc lên ngoài tầm kiểm soát của 2 xứ lớn này và rõ ràng có ý muốn liên kết với 2 xứ đó ngõ hầu tăng thêm được uy tín của mình. Danh hiệu Âu cũng có liên quan đến các tộc dân ở trên đảo Hải Nam và có thể còn nhiều điều khác nữa nhưng đã không được ghi lại. Nếu danh xưng Âu bành trướng như thế trong số các nước nhỏ hơn và bị cô lập hơn của Bách Việt, ta có thể tin rằng Âu có nghĩa là một kiểu lãnh đạo chính trị đặc biệt đã tiến hoá dọc theo biên giới của xứ Việt (Yueh). Chúng ta đoán được rằng Âu mang ý nghĩa là “đất ngoại biên” và thủ lãnh của Tây Âu đã từng chống lại cuộc xâm lược của nhà Tần năm 219 TCN ở vùng mà nay là Quảng Tây chính là 1 thứ lãnh đạo kiểu du mục đã liên kết với Nam Yueh. Ý nghĩ cho rằng nguồn gốc của người Việt Nam là ở trong số những người Việt (Yueh) di cư đến trong thế kỷ thứ 3 trước CN đã không được các nguồn tài liệu trên cho là đúng. Trong suốt thế kỷ 3 TCN, những dân tộc ở nơi mà ngày nay là Đông Nam Trung Quốc được biết đến như là những dân “Yueh”(Việt). Nhưng như thế không có nghĩa là những dân tộc địa phương bị xáo trộn bởi 1 cuộc di dân từ nước Việt cũ. Những chướng ngại địa-chính trị đã khiến cho công cuộc này xảy ra được. Có những dãy núi và những sông ngòi kinh khủng khó vượt qua. Và đó cũng không phải là 1 con đường di dân tự nhiên như những thảo nguyên ở nơi lục địa châu Á. Những dân bản xứ ở vùng đất thấp không phải là những dân du mục được tổ chức thành những bộ lạc di cư có khả năng điều động được những ngưới mới tới trong các vùng đồng bằng và những dân đã định cư rồi tất phải bắt buộc những người ngoài đến lo liệu sắp xếp lý lịch của họ. Từ những điều đã được biết về những cuộc di dân có thể so sánh được qua các thời đại lịch sử, chúng ta có thể cho rằng khi đất Việt (Yueh) bị nhà Tần chinh phục năm 333 TCN, phần lớn dân chúng đã ở lại nơi cũ mà chỉ có lớp cầm quyền cùng với những hậu cần và tùy tùng chạy trốn về phiá Nam, có thể thành từng băng nhóm tị nạn có võ trang thay vì thành 1 đạo quân đi chinh phục. Những băng nhóm nhỏ mang tính cách 1 băng cướp bóc như thế có thể đã áp đặt quyền hành và danh xưng của họ lên các dân tộc ở miền Nam vì họ đã quen chinh chiến và cai trị người khác nhờ kinh nghiệm khi còn ở Hoa Bắc. Việc xảy ra như thế đã dược thấy trong những tài liệu về thế kỷ 7 SCN ở vùng bán đảo Balkan. Balkan là 1 vùng có núi non và thung lũng có thể so sánh được với miền Đông Nam Trung Quốc và khi mà những người Serbie-Ba Tư với những hoàng thân Croatie kéo đến với những quân sĩ tùy tùng của mình, đòi quyền cai trị dân Slavie, và viện dẫn đến uy tín của Bysantium để hợp thức quyền ấy. Quan niệm về di dân ở thời cổ đã được xem xét lại trong mấy năm gần đây và ngày càng rõ là nhiều khi tuy gọi là di dân mà lại chỉ có 1 nhóm tương dối ít người cầm quyền, nhưng có hiểu biết về chính trị và quân sự. Bằng chứng ý nghĩa nhất là những cuộc khảo cứu về ngôn ngữ đã được tiến hành, cho biết rằng sự phân phối hiện nay của các ngôn ngữ hay ngữ hệ tại lục địa Đông Nam Á không phải là kết quả của những cuộc di dân rầm rộ mà là những dân tộc bản xứ đã bị các thủ đoạn chính trị chi phối và đã phản ứng lại yếu ớt những người di dân đến, tuy ít nhưng lại có ảnh hưởng và quyền hành. Một nhà nghiên cứu gần đây đã cho sự bành trướng của người Thái vào Đông Nam Á là kết quả của một “cuộc di dân vào Bắc Thái Lan của 1 triều đình nhỏ với một đoàn quân ít ỏi.” Điều này làm ta nhớ lại việc An Dương Vương đã cùng với đội quân của ông khoảng 30.000 người kéo đến đánh đổ triều đại của các vua Hùng hồi cuối thế kỷ 3 TCN. Chúng ta sẽ thấy đây là lợi thế mở đường cho ảnh hưởng của nguời Việt (Yueh) tràn vào đồng bằng sông Hồng. Nhưng không có bằng chứng nào nói rằng việc An Dương Vương lên ngôi đã để lại dấu tích trong ngôn ngữ Việt Nam, và rõ ràng là đã không có sự thay đổi lớn lao nào về dân số. Những nghiên cứu mới đây về nhân chủng học đã tiết lộ một sự liên tục đáng chú ý trong quá trình tiến hóa của giống dân ở Bắc Việt Nam từ thời tiền sử cho đến ngày nay. Một sự liên tục rõ rệt về giòng giống từ kỷ nguyên này sang kỷ nguyên khác như thế đã loại bỏ lập luận về bất cứ một cuộc di dân đại qui mô, đột xuất nào đã dùng từ trước để giải thích nguồn gốc của một dân tộc. * Việt nam khai quốc: các lạc hầu (chương 1, phần 1) - 04.04.2009 |