Mảnh Đời PDF Print E-mail
Tác Giả: Nguyễn Hữu Hải   
Thứ Bảy, 07 Tháng 2 Năm 2009 01:13

Lời giới thiệu: Tác giả là cựu SQ Cảnh Sát và hiện đang làm việc cho hãng AT-TECH.COM, chức vụ SR.Recruiter tại San Jose, CA.
 
1.) Vào Chuyện 
        Mẹ sinh tôi ra vào năm Giáp Thân, 1944, nhưng sau này làm lại giấy Thế Vì Khai Sinh thì rút xuống hai năm cho đủ tuổi để xin đuợc vào học truờng Chasseloup Laubat (và đã trở thành truờng Lê Qúy Đôn sau này). Sau khi đỗ Tú Tài hai ban B, tôi nhẩy vào làm cho “sở Mỹ“ nhờ biết tí tiếng Pháp và tiếng Anh kha khá. Đồng thời tôi cũng theo học tại Đại Học Sài Gòn, Văn Khoa, Ban Anh Văn. Cơ quan “Sở Mỹ“ tôi làm trực thuộc Tòa Đại Sứ (TĐS) Hoa Kỳ tại Sài Gòn, thuộc chương trình Phụng Hoàng.  
        Tôi xin nói sơ qua về chương trình hay kế hoạch Phụng Hoàng để qúy bạn hiểu thêm:       
        Phụng Hoàng là một loài chim qúy chỉ có trong huyền thoại đuợc dùng để đặt tên cho một chương trình đã đuợc CIA hay Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ đề ra, tổ chức, huấn luyện, cố vấn, và tài trợ với một ngân khoản khổng lồ. Nhiệm vụ của chương trình Phụng Hoàng là “lấy nhân tâm để chống cuờng bạo”, nhưng chính là để mong phá vỡ những ổ nằm vùng, qua những chương trình như chiêu hồi, tuyên truyền, phục kích, bắt cóc, khai thác tình báo, có cả thâm nhập vào mật khu Việt Cộng và ám sát những cán bộ Cộng Sản cao cấp nữa!
       Đến năm 1969, tôi tình nguyện theo học khóa 20 SVSQ/HQ. Chúng tôi lên Quang Trung tập bắn, tập đi một hai ba bô…ố…ốn, tập leo, tập trèo, tập chà láng, tập đi bãi, tập chạy “huỵch huỵch”, và vừa thở hồng hộc vừa hò những bản nhạc hùng như “Đuờng truờng xa, con chó nó tha con mèo…”. Sau thời gian Quang Trung là NhaTrang.


 
        Đang bị “Huấn nhục” 
Ra Nha Trang, trong thời gian bị huấn nhục, tuy mệt mỏi vì những buổi phạt hành xác, nhưng nhiều khi thấy cũng vui vui vì những trò đùa như con nít. Để tránh bị “quay” tôi cứ theo anh em lẩn vào trong đám đông, “ai sao mình vậy” và đừng có “ý kiến ý cò gì” là thoát đuợc cái nạn bị “quay như dế“ .Thế rồi thời gian huấn nhục cũng qua đi, sau lễ gắn Alpha, và chúng ta đuợc “đi bờ”.
Tôi nhận đuợc một mảnh giấy nhắn tin là có nguời quen trong Tòa Lãnh Sự Mỹ thuộc Vùng II, ở số 66 đuờng Duy Tân muốn gặp. Tôi ghé Tòa Lãnh Sự Mỹ và nguời quen muốn gặp tôi chính là ông “Boss” cũ làm trong “Sở Mỹ“ của tôi, Philips,“ Đừng có hỏi là tại sao tôi đã tìm ra đuợc Hải; tôi muốn bạn đi với tôi về Sài Gòn ngay ngày hôm nay, mọi trở ngại và giấy tờ của Hải tôi sẽ lo liệu hết, đừng có lo chi cả!” Thế là ngay buổi trưa hôm ấy, chúng tôi theo Air America về thẳng Sài Gòn. Tôi bỏ lại trong quân truờng mọi thứ và chẳng kịp báo tin cho ai hết!
 Sáng thứ Hai, sau những thủ tục giấy tờ, tôi đã đuợc Philip chở đến một căn nhà nằm trên đuờng Chi Lăng, Phú Nhuận. Nơi đây tôi đã đuợc huấn luyện trong hơn hai tuần về “ tình báo, điệp viên.” Huấn luyện viên đa số là nguời Việt mình, nhưng chỉ huy bởi những nhân viên “cố vấn” của TĐS Mỹ. Trong số những cố vấn này, có nguời đã từng xâm nhập và hoạt động tại Đông Đức đến hơn 20 năm. 
        
(Hình trên – Một cuộc hành quân thảm sát, tiêu và diệt địch. Phù hiệu của PRU.   
 
 Học Viện CSQG.  
        Sau hai năm làm việc thì tôi bị “laid off”. Dùng giấy tờ hợp lệ tình trạng quân dịch, tôi nạp đơn thi vào Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia, và tốt nghiệp Khóa 6 CSQG.  
  “Chiều nay sau khi đi làm xong, nhớ ghé nhà Trung tá Lạng, có chuyện rất cần!”. Sau khi đuợc nguời nhà Trung tá Lạng kín đáo dẫn lên lầu, tôi đã thấy 7 hay 8 cựu cố vấn TĐS Mỹ ngày nào, có cả ông xếp cũ của tôi là Philip, Bill Tucker, một cố vấn cũ, đã vỗ vai tôi mà nói:” Mầy làm gì mà cứ làng sàng ra vào cổng Tân Sơn Nhất hoài vậy?” Ông ấy tiếp lời: “Mầy đừng có lo, dù chỉ còn một cái trực thăng, tao cũng không bỏ mầy đâu!”. 
 
Tòa Đại Sứ Mỹ tại Saigon, 1975.
 Ngày 28 tháng 4 năm 1975, phi đạo TSN bị pháo kích và máy bay Mỹ không đáp xuống đuợc nữa! Sáng ngày 29, cuộc di tản được tiếp tục bằng trực thăng.  
        Khoảng năm, sáu giờ sáng sớm ngày hôm sau thì đã nghe thấy tiếng đập cửa. Vừa mở cửa ra thì, năm sáu tên mang AK47, khăn xanh đỏ đeo ở tay ập vào, và bắt tôi đứng úp mặt vào tường, giơ hai tay lên cho chúng khám xét. Chúng bắt và dẫn tôi ra nhốt ở trụ sở Nhân Dân Tự Vệ cũ ở trong xóm. Chúng không cho tôi đem theo bất kỳ một thứ gì hết, kể cả không cho thay bộ đồ ngủ đang mặc trên người! Nhưng bất ngờ một tuần lễ sau, thì chúng thả tôi ra và bảo “muốn đi đâu thì đi.”   
Sau khi đuợc tha, tôi “mò” đến đi tìm người quen, truớc là một Thiếu tá Cảnh Sát tại Phan Thiết. Theo lời thì anh ta đa có mua đuợc một chiếc tàu, và có giấy phép của Ủy Ban Quân Quản VC cho phép tàu đi Phú Quốc.
 Anh ta bảo chúng tôi hãy mua vé như bình thuờng và dặn là “mình sẽ đổi huớng đi Thái Lan khi trên đuờng ra Phú Quốc.” Hơn một tiếng đồng hồ thì tàu nổ máy, tháo dây, và khởi hành. Nhưng vừa mới xa bờ có khoảng chừng 100 thuớc thì nghe thấy có một vài tiếng súng nổ! Hai bên hông tàu thấy xuất hiện hai chiếc ghe, lố nhố mấy chục tay súng AK. Họ nhẩy qua tàu chúng tôi, bắt mọi nguời đứng thẳng, giơ tay khỏi đầu và chịu sự khám xét.  
Có một nguời nhẩy “ùm” xuống nuớc để mong lẩn tránh, nhưng những cây AK đã thi nhau “nhả“ đạn theo. Không thấy anh ta trồi lên, nhung máu đỏ nổi lên, loang ra cả một vùng biển. Cho đến giờ phút này mà tôi vẫn chưa quên đuợc cái cảnh hãi hùng đó.” 
 2.)“ Cải Tạo viên Nguyễn Hữu Hải”
  
Chúng nhốt chúng tôi đuợc khoảng hơn một tuần lễ thì nghe tiếng chân chạy rầm rập bên ngoài phòng giam. Thắc mắc không biết chuyện gì đã xẩy ra? Khi cửa phòng giam mở ra, chúng tôi thấy hai hàng lính VC với gương mặt cô hồn các đảng. Viên chỉ huy gằn giọng:”Tất cả những nguời ở đây đều là tù binh, nhất cử nhất động đều phải xin phép, ai mà chống đối cách mạng sẽ bị xử bắn tại chỗ.” Hắn tiếp lời:” Nào, bây giờ bắt đầu đếm số từng nguời một, từ một đến muời, ai đếm xong, bỏ hai tay lên đầu và buớc ra khỏi cửa.” Đứng gần nơi cửa, tôi vội hô to:”Nguyễn Hữu Hải, số một.” Tôi để hai tay lên đầu và bước vội ra khỏi cửa để tránh cái không khí ngột ngạt hôi hám bên trong phòng giam. Chúng tôi đuợc chuyển xuống những chiếc ghe bầu tại Tắc Cậu. Ghe chạy đến khoảng trưa thì tấp vào bên bờ sông,“Yêu cầu cởi bỏ hết giầy dép, bỏ lại hành lý lỉnh kỉnh nặng nề trên ghe, tất cả phải rời khỏi ghe.” tên chỉ huy nói.
    Đến gần chiều tối thì chúng tôi đa thấy nhà cửa lác đác, dân chúng đứng bên đuờng nhìn chúng tôi với con mắt hằn học; “Đ.M. bắt đuợc hết bọn tù, hàng binh rồi,” và họ nguyền rủa:” Đ.M. nhốt tụi nó mút chỉ cà na cho tao!”
Chúng tôi đói khát ghê hồn. Một hồi sau, tôi đuợc dừng lại, mỗi nguời đuợc phát cho một chén cháo và mấy hạt muối. Húp vào tí cháo thấy tỉnh hẳn nguời. Sau đó chúng chia cho chúng tôi cứ muời lăm nguời thì vào một căn chòi thấp lợp bằng lá dừa. Những căn chòi này thấp lắm, chúng tôi chỉ có thể đứng lum khum mà không thể nào đứng thẳng nguời đuợc! Chúng phát cho mỗi nguời một cái “tỉn” cũ đựng nuớc mắm dùng để phóng uế trong đêm. 
  Chúng nói:”Đây là chỗ học tập cải tạo của các anh, khi nào mấy anh học thuộc những bài học này,” thì các anh sẽ đuợc trả tự do, về sum họp với gia đinh.” Tôi vẫn còn nhớ những bài học của chúng như sau:
Bài học thứ nhất: Lao động là vinh quang;
Bài học thứ hai: Đế quốc Mỹ là con đỉa hai vòi, một vòi hút máu nhân dân ta, một vòi hút máu nhân dân thế giới.
Bài học thứ ba: Ngụy quân là cha đẻ ngụy quyền.
Bài học thứ tu: Ngụy quyền là tay sai cho ngụy quân.
Bài học thứ năm: Ba giòng thác cách mạng.
Bài học thứ sáu: Chính sách muời điều bảy điểm của Mặt trận Giải phóng Miền Nam.
Bài học thứ bảy: Vùng kinh tế mới.
         Buổi sáng thức dậy theo tiếng kẻng; buổi chiều đi ngủ bằng tiếng kẻng…  Cái âm thanh sắc lạnh đó đã từng chi phối nếp sống và cuộc đời tôi trong giai đoạn đó thật là kinh khủng! Đến khoảng tháng thứ tư là chúng tôi đã được viết thư về để đuợc đi thăm nuôi.
Nghe tên đuợc kêu, tôi đã chạy như bay đến nhà thăm nuôi. Thấy mẹ tôi và cô em gái lần mò đi thăm tôi. Tôi ngồi một bên bàn, bên kia là mẹ và cô em gái, và ngôì ngay nơi đầu bàn là một tên bộ đội với cặp mắt cú vọ!
        “Con có đói không?” Mẹ tôi mở lời;
        “Không, con không có đói, ở đây đã có cách mạng lo cho đầy đủ, rồi vội tiếp lời  ”Mẹ gởi cho con một ít quần áo cũ, quần áo con rách hết cả rồi!”. Mẹ tôi nắm lấy đôi bàn tay tôi, bà bóp nhẹ đôi bàn tay chai cứng để thông cảm với nỗi bất hạnh của tôi cũng như của bà và của toàn thể những nguời dân miền Nam đã bị rơi vào tay Cộng Sản! 
      Đời sống trong trại tù nó khổ cực, nhưng mà tình cảm giữa anh em bạn bè thì lại rất là thân thiết. Có một câu chuyện mà tôi còn nhớ mãi, có một hôm “nhà trại” nói: “các anh học tập tốt, nhà trại sẽ cho mổ một con heo, anh nào biết làm heo thì xung phong đi làm.” Tôi có anh bạn tên Mai Hữu Lý, sau này anh ta bị chuyển trại ra ngoài Bắc và không biết sống chết thế nào, tình nguyện đi mổ heo. Buổi trưa, anh ta dấu mang về đuợc mấy miếng thịt heo sống cho chúng tôi “bồi duỡng.” Mấy miếng thịt heo bầy nhầy, có tí thịt, nhiều mỡ, và tí da… Mấy đứa chúng tôi chia nhau ăn. Ăn vào có chất mỡ, chất thịt nó bùi, nó béo, nó ngon làm sao đâu ấy, tỉnh hẳn cả nguời. Nhưng sáng sớm ngày hôm sau, tôi và một vài anh em ăn miếng thịt heo ngày hôm qua đã thấp thỏm cả đêm để chờ đuợc mở cửa, là chúng tôi chạy nhanh lên “nhà đội”:
        “Trình anh bộ đội, cho tôi xin phép đuợc đi cầu.”
“Ừa.”
        “Trình anh bộ đội, cho tôi xin đuợc phép đi tắm.” vì đem qua đã “vãi” cả ra quần! Ôi miếng thịt heo có tí mỡ tí da đã làm khổ chúng tôi. Trong lúc tôi đang tắm thì phía nhà cầu bị xụp đổ vì qúa nhiều nguời ngồi! Thật là kinh khủng, muời mấy anh em xụp xuống cái hố cầu tiêu, lúc nhúc ruồi bọ!    
Thấm thoát đã hơn hai năm cùng nhau “học tập tốt, lao động tốt”. Nhưng “không phải các anh học tập tốt là các anh đuợc về đâu, không phải các anh lao động tốt là các anh được về!” Mà chỉ “khi nào cách mạng thấy các anh tốt là cách mạng tự nhiên tha cho các anh mà thôi.”  Nhưng chỉ hai năm sau thì tôi đã tìm ra chân lý thế nào là tốt.
        “Xin ông ban cho tôi đi về, tôi sẽ biếu ông ban hai cây vàng.” Tôi nói;
        “Anh Hải, tôi thấy anh học tập tốt rồi đó, mà sao bây giờ anh lại dám hối lộ cách mạng hả?, ?”
        “Không thưa ông ban, tôi không dám hối lộ cách mạng, tôi chỉ biết ơn ông ban một cách cụ thể.” Tôi đã trả lời như vậy, và qủa y như rằng, một tuần lễ sau là tôi đã đuợc gọi lên nhà trại nhận giấy trả tự do. 
3.) Chuyện Vượt Biên:
 
        Rồi một ngày đẹp trời đã đến, những nguời bạn Hoa Kiều này đã tổ chức xong một đuờng dây vuợt biên, có bãi đáp đàng hoàng. Họ giới thiệu tôi với anh Nguyễn Văn Dung, cựu Thiếu tá HQ mới đuợc thả ra khỏi trại học tập, và anh Nguyễn Văn Trợ, một trung si HQ. Chúng tôi xuống Rạch Gía đuợc đúng có một tuần thì đuợc lệnh ra khơi, có hai chiếc ghe công an biên phòng hộ tống.   
        Ghe chúng tôi tiếp tục nhắm huớng Thái Lan đi thêm chừng hơn nửa ngày nữa thì thấy thấp thoáng có hai chiếc ghe. Hai chiếc ghe này mang số Thái Lan; Tôi làm đại diện nhẩy qua ghe của chúng. Sau một hồi nói chuyện mỏi tay, tôi hiểu đuợc ra rằng chúng muốn chúng tôi trả tiền cho chúng, rồi chúng sẽ huớng dẫn chúng tôi vào đến tận SongKla.Mọi nguời đồng ý và gom góp lại đuợc muời ngàn dollars ($10,000) giao cho chúng. Ghe chúng tôi chạy theo ghe của chúng cho đến hết đem, và vào sáng ngày hôm sau thì chúng tôi đa thấy hiện ra ba hòn núi noi xa xa. Chúng vẫy tay và chúc chúng tôi may mắn. 
        Nhưng may mắn đâu không thấy, mà sau đó chúng tôi chỉ thấy những bất hạnh dồn dập đổ xuống ghe của chúng tôi mà thôi! Thoạt tiên chúng tôi thấy xuất hiện hai chiếc ghe Thái Lan đang xả máy tiến về phía chúng tôi; chúng cập vào hai bên luờn tàu. Chúng đập phá phòng lái, lấy mất hải đồ và la bàn. Chúng lục xoát ghe chúng tôi, phá bung những hành lý chúng tôi mang theo để ăn cuớp những món đồ có gía trị như vàng hay tiền bạc. Ghe chúng tôi lênh đênh giữa biển khơi, dập dềnh với sóng nuớc, và làm mồi cho lũ hải tặc. Cứ như thế, tuần tự có cả thẩy muời hai ghe hải tặc trong ngày đã đến thay nhau cuớp phá ghe tỵ nạn của chúng tôi!
        Ngay sáng ngày hôm sau, một chiếc ghe Thái Lan nữa đang nhắm huớng chúng tôi mà phóng đến. Họ là nguời Hoa, nên đã bằng lòng kéo chiếc ghe của chúng tôi vào bờ. 
 Khi thấy ghe chúng tôi đã bị mắc cạn gần bờ, tôi vội hô to:”mọi nguời nhẩy xuống, lội vào bờ.”  Gom đống quần áo, giẻ rách lại, chúng tôi ruới dầu và châm lửa đốt đi chiếc ghe tỵ nạn của chúng tôi.
Lên đến bờ, quay đầu nhìn lại chiếc ghe đã đưa chúng tôi đến bến bờ tự do đang cháy bốc khói đen ngoài kia, chúng tôi vừa mừng vừa hồi hộp. Nó bé cỏn con, nằm nghiêng nghiêng bên triền sóng, con tàu thân yêu đã đem chúng tôi đến đuợc nơi đây với bao nhiêu sóng gió, nguy nan.
 
    
 "Boat people” đang nằm la liệt dưới sàn tàu 
        Ngay sáng sớm ngày hôm sau ở trại tỵ nạn, tôi đang nằm “nuớng” trên giừong để thụ huởng cái không khí tự do của ngày đầu tiên sau bao nhiêu năm chịu đựng duới ách kềm kẹp của Cộng Sản. Thôi rồi không còn những hồi hộp lúc nửa đêm, nghe tiếng chó sủa khi về sáng. Không còn những rình rập của cán bộ, công an phuờng khóm. Không còn những thấp thỏm, hồi hộp, luôn luôn lo âu, sợ hãi bị bắt bớ giam cầm cải tạo. Êm đềm qúa! Thanh bình qúa, nhưng buồn thay những điều này chúng tôi lại không có đuợc huởng trên chính quê hương Việt Nam yêu dấu của chúng tôi! Không còn những sóng to gió lớn. Không còn những vô vọng giữa biển khơi không thấy đâu là bến bờ! Không còn phải âu lo với những ghe hải tặc dã man tàn ác! Tôi lim dim mắt nằm lắng nghe cái tinh lặng của buổi sớm mai trong phòng, cái tiếng lào xào sao xác, âm vọng bắt đầu trong ngày của đời sống trong trại tỵ nạn. Bỗng tiếng lảnh lót, khuếch đại chói tai của cái loa phóng thanh:” Ai là Nguyễn Hữu Hải, truớc làm việc tại Tòa Đại Sứ Mỹ ở Việt Nam hãy lên trình diện văn phòng trại.” Tôi Ngạc nhiên! Thay quần áo, tôi lên văn phòng trại, và đuợc đua vào gặp mặt viên Trung tá nguời Thái Lan. Ông ta tuoi cuời thân thiện bảo với tôi là “boss” của ông ấy muốn mời tôi ra khỏi trại, và đi gặp mặt một nguời. Nơi ông ta chở tôi đến là Tòa Lãnh Sự Mỹ. Khung cảnh quen thuộc ở Tòa Lãnh Sự đập vào mắt tôi, nào là “Việt Cộng terminology”, tự điển Nguyễn Văn Khôn… Tôi đuợc tiếp chuyện với một viên cố vấn Mỹ mà tôi chưa hề quen biết. Ông ta nói là đuợc biết tôi đã từng làm việc tại TĐS Hoa Kỳ ở VN, nên đề nghị cho tôi một công việc tạm tại TLS Mỹ với số lương là hai trăm đô một tháng, bằng với tiền lương của một giáo chức ở Thái Lan, và ông Trung tá Thái Lan sẽ cho xe đón tôi ra làm việc hàng ngày. Đang túng bấn và đuợc trở lại làm việc thì còn gì hơn nữa, tôi nhận lời đi làm liền ngay sáng ngày hôm sau. Thế là cứ sáng sáng tôi “sách ô” đi theo xe của viên Trung tá nguời Thái ra tòa LS Mỹ làm việc, và gọi là cho có việc làm chứ cung chẳng có gì. Nhưng sau hon một tháng làm việc thì, những tiếng xầm sì ghen tức hay chê bai lọt đến tai tôi! Tôi là một nguời tỵ nạn duy nhất đã đuợc ra làm việc tại tòa LS Mỹ. Nhất là từ ban Chỉ Huy trại và đám thông dịch viên đã ghen tức ra mặt, và làm nhu là tôi đã ăn cuớp mất “cơm chim” của họ không bằng ấy! Tôi chán nản và buồn phiền, nên quyết định xin đi tỵ nạn với phái đoàn nguời Pháp mà không chờ đi Mỹ. Ngay từ bé tôi đã mơ đuợc đi “Tây”, muốn đuợc nhìn thấy kinh đô ánh sáng. Những bài thơ của Cung Trầm Tuởng hay Nguyên Sa đuợc phổ nhạc như Tiễn Em, Mùa Thu Paris (Cung Trầm Tuởng), Paris có gì lạ không em ?(Nguyên Sa)… đã làm cho tôi muốn đuợc huởng những cái lãng mạn của dòng sông Seine, của khu vuờn Lục Xâm Bảo, hay ga Lyon đen vàng… Một tuần lễ sau đó tôi đa có mặt tại Paris, Kinh Đô Ánh Sáng.
        Xin chép lại những bài tho ấy để những bạn nào không nhớ sẽ cảm nhận đuợc tình cảm của tôi: 
      Paris Có Gì Lạ Không Em ?

      Paris có gì lạ không em?
      Mai anh về em có còn ngoan
      Mùa xuân hoa lá vuong đầy ngõ
      Em có tìm anh trong cánh chim
      Paris có gì lạ không em?
      Mai anh về giữa bến sông Seine
      Anh về giữa một giòng sông trắng
      Là áo suong mù hay áo em ?

      Em có đứng ở bên bờ sông ?
      Làm on che khuất nửa vầng trăng
      Anh về có nuong theo giòng nuớc
      Anh sẽ tìm em trong bóng trăng

      Anh sẽ thở trong hoi suong khuya
      Mỗi lần tan một chút suong sa
      Bao giờ sáng một trời sao sáng
      Là mắt em nhìn trong gió đua ...

      Anh sẽ cầm lấy đôi bàn tay
      Tóc em anh sẽ gọi là mây
      Ngày sau hai đứa mình xa cách
      Anh vẫn đuợc nhìn mây trắng bay

      Anh sẽ chép tho trên thời gian
      Lời tho toàn những chuyện hờn ghen
      Vì em hay một vừng trăng sáng
      Ðã đắm trong lòng cặp mắt em ?

      Anh sẽ đan những phím to trùng
      Anh đan mà chả có thanh âm
      Chỉ nghe gió thoảng niềm thuong nhớ
      Ðể lúc xa vời để nhớ nhung

      Paris có gì lạ không em ?
      Mai anh về mắt vẫn lánh đen
      Vẫn hỏi lòng mình là huong cốm
      Chả biết tay ai làm lá sen ?...

  Nguyên Sa

      Mùa thu Paris

    Mùa thu Paris

    Trời buốt ra đi
    Hẹn em quán nhỏ
    Rung rung ruợu đỏ tràn ly

    Mùa thu đem mua
    Phố cu hè xua
    Công viên lá đổ
    Ngóng em kiên khổ phút, giờ

    Mùa thu âm thầm
    Bên vuờn Lục-Xâm
    Ngồi quen ghế đá
    Không em buốt gía từ tâm

    Mùa thu noi đâu ?
    Nguời em mắt nâu
    Tóc vàng sợi nhỏ
    Mong em chín đỏ trái sầu

    Mùa thu Paris
    Tràn dâng đôi mi
    Nguời em gác trọ
    Sang anh, gót nhỏ thầm thì

    Mùa thu không lời
    Son nhạt đôi môi
    Em buồn trở lại
    Hờn quên, hối cải cuộc đời

    Mùa thu! mùa thu
    Mây trời âm u
    Yêu nguời độ luợng
    Trông em tâm tuởng, giam tù

    Mùa thu !... Trời oi ! Tình thu !

  Cung Trầm Tuởng  
        Cuộc đời tôi trôi nổi thêm khi tôi có việc làm với Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc, UNHCR, và có những lúc tôi cũng đã trở lại làm việc ở Việt Nam, Quảng Ninh hay Hồng Kông. Nay định cư tại San José. Ngồi ôn lại di vãng, ghi lại những cảm nghi, những nơi mình đã đi qua, nhớ đến những bạn bè thân quen, những kỷ niệm mà sau mấy chục năm qua vẫn còn nhớ như in trong trí như Đệ, Dục, Long, Trực, Thạnh… trong Khóa 20 SVSQ/Hải Quân, như Trịnh Long Giang, Phạm Đức, Giang Xú Hà, Trần Xuân Thái trong CSQG, như An, Bằng trong toán Thám Sát Tỉnh, và những nguời đã nằm xuống cho đất nuớc Việt Nam thân yêu. 
   San Jose Tháng 2 năm 2009