Lê Thương và Hòn Vọng Phu |
Tác Giả: Trọng Đạt |
Chúa Nhật, 31 Tháng 5 Năm 2009 09:01 |
Nhạc sĩ Lê Thương, người nghệ sĩ tài danh với sáng tác bất hủ Hòn Vọng Phu, bản trường ca này như đã gắn liền với tên tuổi của ông. Sở sĩ chúng tôi chỉ đề cập riêng sáng tác này trong số nhiều bài hát của Lê Thương vì nó đã là một đóng góp rất lớn lao cho nền âm nhạc Việt Nam. Theo Phạm Anh Dũng (trong bài Tiểu sử nhạc sĩ Lê Thương) Lê Thương tên thật là Ngô đình Hộ, (Phan Hoàng lại nói Lê đình Hộ) sinh năm 1914 tại Nam Định mất ngày 18-9-1996 tại Việt Nam trong cảnh nghèo nàn. Măc dù là một nghệ sĩ có hạng trong nền nhạc Việt nam nhưng ông lại hành nghề giáo sư sử địa tại một số trường tư thục ở Sài Gòn, ông là một trong những người đi tiên phong trong nền tân nhạc Việt Nam bắt đầu cuối thập niên 30. Lê Thương trước 1975 là giáo sư dạy về nhạc sử ở trường Quốc gia âm nhạc, kịch nghệ Sài Gòn, về sáng tác ông khai thác nhạc tây phương để đưa vào nhạc dân tộc hầu tạo sắc thái Việt Nam, nhạc của ông đều phản ảnh tâm hồn người Việt, bình dị, đơn giản nhưng du dương thanh thoát. Lê Thương sáng tác rất nhiều, phổ nhạc vào thơ, nhưng bản nổi tiếng nhất và cũng là một trong những bản quan trọng nhất của nền nhạc Việt Nam là Trường ca bất hủ Hòn Vọng Phu, đây là bản nhạc kịch, dùng nhạc (chịu ảnh hưởng của Tây phương) để diễn tả một truyện cổ tích dân gian. Bài trường ca này gồm ba bản viết y như một Tam đoạn kịch (trilogie), bài có ba phần, mỗi phần có thể tự đứng riêng ra thành một đoản kịch và cũng họp lại thành một trường kịch. Trên thực tế người ta cũng coi Hòn Vọng Phu là một một Tam đoạn kịch vì có khi người ta chỉ hát bản Hòn Vọng Phu Một, có khi riêng bài Ai Xuôi Vạn Lý, hoặc chỉ riêng bản Người Chinh Phu Về Hòn Vọng Phu là một sự tích được truyền tụng sâu rộng trong dân gian tại một số nước thuộc Đông Nam Á châu như Nam Dương, Trung Hoa, Việt Nam. Hình ảnh người đàn bà chung thủy ôm con chờ chồng hóa đá đã được cụ thể hóa tại nhiều ngọn núi ở Đông Nam Á như. - Nam Dương, đảo Bornéo có núi Mont Kinabahu, cao 4,095 mét là Hòn vọng Phu nổi tiếng tại Đông Nam Á. - Tại Việt Nam có tại nhiều nơi như Lạng Sơn (nàng Tô Thị), Bình Định (núi bà), Hà Tiên, Phú Yên .. - Bên Trung Hoa, tại Cửu Long nằm trong phần đất Hồng Kông, nhượng địa của Trung Hoa cho Anh Quốc cũng có núi Vọng Phu, bà này đứng trên sư tử đầu sơn và cõng con trên lưng theo kiểu Trung Hoa chính công (theo Phan Hoàng) Sự tích cảm động của người đàn bà ôm con chờ chồng hoá đá đã gây xúc động và gợi nguồn cảm hứng cho các nhà thơ nhạc tại nước ta từ xưa đến nay. - Về âm nhạc, Lê Thương đã viết lên bản nhạc kịch lừng danh trong những năm 1946, 47 như đã nói ở trên. - Về Cải lương có vở tuồng tâm lý xã hội Hòn Vọng Phu do Trung tâm Làng Văn xuất bản tháng 6 năm 2006. - Về Thi ca Hán thì có hai bài Vọng Phu Thạch, một của Cao Bá Quát và một của cụ Nguyễn Du. Theo Phạm Anh Dũng (trong Tiểu sử Lê Thương) và Vương Trùng Dương (trong Lê Thương mang tình cổ tích dệt ngàn cung thương), bản Hòn Vọng Phu Một chịu ảnh hưởng từ Chinh phụ Ngâm khúc của bà Đoàn Thị Điểm diễn tả tâm trạng đau thương bi thiết của một người thiếu phụ có chồng đi chinh chiến, phải cam chịu nỗi cô đơn bóng chiếc. Trong bài "Phỏng vấn cuối cùng Hòn Vọng Phu - Lê thương" của Hoàng Phan thì nhạc sĩ tài danh này lại nói ông làm bản Hòn Vọng Phu I vào lúc ông đang sống bên bờ một con kinh tại Bến Tre năm 1946, Lê Thương ở Hà Nội di cư vào Nam từ 1942, chịu ảnh hưởng của không khí sôi sục kháng chiến chống Pháp hồi đó và đã diễn tả nó giống như không khí của Chinh Phụ Ngâm, ông nói. "Tôi nhớ khi tôi viết Hòn Vọng Phu I là lúc tôi đang sống ở bên bờ con kinh đào Chạc Sậy nối liền sông Đại ( một nhánh của sông Cửu Long) với sông Bến Tre , trong không khí sôi sục của cuộc Tổng khởi nghĩa. Cái không khí giống như trong Chinh phụ Ngâm". Thật vậy, dưới đây là những câu mở đầu hùng tráng. Lệnh vua hành quân chống kêu dồn, Quan với quân lên đường Đoàn ngựa xe cuối cùng Vừa ruổi theo lối sông Phía cách quan sa trường Quan với quân lên đường Hàng cờ theo trống dồn... Lê Thương cho biết bản trường ca đã được sáng tác trong những ngày luân lạc tại Bến Tre những năm 1945, 46, 47... Nhạc sĩ tài danh đã nói về khuynh hướng sáng tác của ông như sau. "Chúng tôi nghe nhạc Tây không phải bắt chước giống hệt ho, mà tìm cho mình một lối đi riêng, kết hợp âm nhạc hiện đại với âm nhạc truyền thống dân tộc.Nhờ dựa trên cơ sở đó tôi mới viết được những tác phẩm có tiếng vang sau này như Một Ngày Xanh và ba bản Hòn Vọng Phu..." Thực vậy khi nghe Hòn Vọng Phu chúng ta thấy bản trường ca dạt dào tình cảm y như làm sống lại cả một thời chinh chiến chan hoà tình tự dân tộc, nó diễn tả tuyệt diệu cả một sự tích dân gian, một bi kịch đã được truyền tụng từ bao lâu nay trong lòng dân tộc. Ta có cảm tưởng như đây là một bản nhạc thuần tuý Việt Nam mặc dù được sáng tác theo kỹ thuật Tây phương. Hòn Vọng Phu, Tô Thị Vọng Phu .. là một truyện dân gian truyền miệng. Trên thực tế truyện cổ tích Việt Nam được ghi chép lại cũng ít thôi như Truyện Cổ Nước Nam của Nguyễn Văn Ngọc và gần đây Truyện Cổ Tích Nước Nam của Trần Lam Giang, ngoài ra chúng tôi còn thấy trong tập truyện ngắn nổi tiếng Legendes des terres sereines (Huyền thoại ở xứ thanh bình) của Giáo sư Phạm Duy Khiêm (1908-1974) viết bằng tiếng Pháp năm 1943. Trong tập đoản thiên này truyện Hòn Vọng Phu lấy tên "La Montagne de l'attente". Chúng tôi xin kể sơ như sau. Xưa kia tại một làng miền thượng du có hai anh em mồ côi, một người anh hai mươi tuổi và một người em gái bẩy tuổi. Một hôm có ông thầy tướng số người Tầu đi ngang qua, người anh bèn hỏi ông chuyện tương lai của mình, ông thầy đáp. "Nếu ngày giờ sinh của cậu như thế... thì chắc chắn cậu sẽ phải lấy em cậu, không gì thay đổi định mệnh được" Lời tiên tri ám ảnh ngày đêm khiến cậu ta muốn điên lên được rồi đưa tới quyết định tàn nhẫn. Một hôm hai anh em đi đốn củi trong rừng, thừa lúc cô bé quay lưng lại cậu ta lấy búa chém cô ấy rồi bỏ trốn... Thế là hết ám ảnh, người anh ghê sợ tội ác của mình, đổi tên về sinh sống tại Lạng Sơn. Nhiều năm trôi qua, chàng ta kết hôn với con gái một nhà buôn , người vợ sinh hạ một con trai, gia đình hạnh phúc. Một hôm trời nắng, người chồng bước vào sân sau thấy vợ đang ngồi phơi tóc, chị ta quay lưng lại nên không thấy người chồng. Khi vợ chải tóc, anh để ý thấy một vết sẹo dài sau gáy bèn hỏi đầu đuôi, người vợ bèn kể lại: Chị chỉ là con nuôi ông nhà buôn, mười lăm năm trước mồ côi, nhà chỉ có hai anh em, một hôm vào rừng đốn củi bị người anh lấy búa chém rồi bỏ trốn, chị được bọn cướp tới cứu, sau chúng bị bỏ chạy vì bị đuổi bắt. Một ông nhà buôn có con gái mới chết bèn đem chị về nuôi. Nghe xong người chồng bèn xác nhận lại tên cha rồi biết chắc đó là em mình, chàng bèn buồn bã bỏ nhà ra đi biền biệt. Người vợ mỏi mòn chờ đợi không thấy chồng về, nàng ôm con nên núi đợi chờ cho tới khi hóa đá... Ông Vũ Ngọc Phan cũng kể một truyện anh em lấy nhau gần giống như vậy nhưng khó hiểu và rườm rà hơn truyện của Phạm Duy Khiêm. Có người nói truyện hai anh em lấy nhau này xuất phát tự bên Tầu, một điều lạ ngay thuở xa xưa ông cha ta và người Trung Hoa đã nghĩ ra được đề tài táo bạo như thế. Truyện Legendes des terres sereines của Phạm Duy Khiêm đã được giải thưởng Văn chương Đông Dương (Prix littéraire de l'Indochine), được tiếp đón nồng nhiệt, trong năm 1943 tái bản tới ba lần, năm 1997 nhà sách Piquier tại Paris đã tái bản lại dưới dạng sách bỏ túi Livre de poche. Truyện cổ tích dân gian đã được ngòi bút bay bướm tuyệt vời của Phạm Duy Khiêm diễn tả thành những áng văn chương bất hủ như Histoire de Từ Thức, Le songe de Nam Kha.. Có người tôi nói Legendes des teres sereines chỉ là một cuốn truyện cổ tích viết bằng tiếng Pháp một cách trơn tru, ngoài ra Nguyễn Phụng trong một bài đăng trên đặïc san Hành Chánh Miền Đông năm 2005 có nói cuốn đoản thiên này của họ Phạm không có tính cách sáng tạo, ông lấy truyện dân gian viết lên thành văn chương. Hòn Vọng Phu được lớp người cũ coi như một bản nhạc bất hủ trong số những bản tuyệt diệu nhất của nền tân nhạc Việt Nam như Thiên Thai, Con Thuyền Không Bến, Cô Láng Giếng, Cây Cầu Biến Giới... Theo chúng tôi nghĩ chắc không bao giờ có một Hòn Vọng Phu thứ hai, đây là bản mà chúng tôi ưa thích nhất từ hồi còn nhỏ cho tới nay, nhất là bài Ai Xuôi Vạn Lý, nó êm dịu, bi thiết, não nùng du dương tuyệt vời thể hiện tâm trạng một người đàn bà đau khổ mỏi mòn đợi chờ mà không gì có thể diễn tả cao hơn thế được. Điều đáng tiếc nay nhạc bình dân lại được khán thính giả nồng nhiệt đón nhận, những bản xưa cũ, bất hủ như Hòn Vọng Phu đã mất đi địa vị ưu thế của nó trước đây. Tuy nhiên mặc dù đã được sáng tác từ hơn nửa thế kỷ qua, Hòn Vọng Phu vẫn sống và sẽ còn sống mãi trong lòng dân tộc. Để kết thúc bài này xin mượn lời Vương Trùng Dương ghi nhận công trạng của Lê Thương cho nền nhạc dân tộc Việt Nam như sau. "Hơn nửa thế kỷ đóng góp cho âm nhạc Việt Nam, Lê Thương sáng tác hàng trăm tác phẩm, nhiều ca khúc khai sinh cho nền âm nhạc Việt Nam tuy đánh dấu cái mốc lớn lao trong lịch sử tân nhạc nhưng thời gian rồi sẽ phôi pha như nhiều ca khúc khác cùng thời của ông.Thế nhưng, ngày nào còn nhắc đến hình ảnh Hòn Vọng Phu, ngày đó tên tuổi Lê Thương vẫn còn bay lượn giữa muôn nghìn âm thanh bồng bềnh trong tâm thức." |