Tiếng đồng là tiếng phèng la, tiếng chuông mà sáng nào chúng tôi cũng bắt buộc phải nghe từ làng trên vọng xuống...
Anh là nghệ sĩ ? Nếu có cơ hội đề cập đến nghệ thuật ấy chắc anh cũng như nhiều người khác bỡ ngỡ. Vì có lẽ trong thế gian này, ít ai từng nghe nhắc đến loại nghệ thuật đó, dù nó là một nghệ thuật thật sự và hình như chỉ có anh mới am tường nó đến mức tuyệt vời.
Nghệ thuật đó là nghe tiếng đồng.
Nhe tiếng đồng ?
Có lẽ ai đó sẽ ngạc nhiên. Nhưng đối với tôi thì nó quen thân đến độ tôi suýt quên giới thiệu và trình bày những nét riêng biệt của nó.
*
Tiếng đồng là tiếng phèng la, tiếng chuông mà sáng nào chúng tôi cũng bắt buộc phải nghe từ làng trên vọng xuống. Làng P.K, một cái làng khá lạ lùng đối với thế giới ruộng đồng bao la của chúng tôi. Cho đến nỗi là bàng lân với nhau mà dân làng tôi gần như chẳng mấy quen biết dân làng ấy. Có hai lý do của sự ngăn cách. Họ theo công giáo và chuyên nghề đúc đồ đồng. Nói là theo công giáo, nhưng tôi vẫn thấy có đình và cả chùa nữa dựng cách không xa giáo đường bao nhiêu. Mà giáo dân thì từ bao giờ cho đến thời ấy chỉ mỗi ngày một phát triển ngay trong các gia đình giáo dân chứ tuyệt nhiên không tràn sang nhà đi lương (đến bây giờ thì gần như chỉ có khoảng năm bảy gia đình) mặc dầu ở đó có cả một ông cố đạo người Pháp, cố Tiết. Về nghề nghiệp thì cũng không làm bớt chút nào sự ngăn cách. Dân làng tôi chuyên nông nghiệp, sản phẩm bán ở chợ. Dân làng ấy chuyên đúc đồng, sản phẩm bán ở vùng núi non xa xôi, hiểm trở nào, xuất hiện với bóng dãy Trường Sơn nhiều màu luôn luôn trải dài trước mắt chúng tôi … Có lẽ chỉ có đàn bà đi chợ là quen với nhau; nhưng đàn bà không dự đời sống xã hội nào ngoài cái chợ nên gần như suốt năm, suốt nhiều năm trời tôi ít khi được gặp gỡ những người dân ở sát nách làng tôi và chỉ cách làng tôi chưa tới một cây số. Không gặp họ, nhưng tôi phải nghe tiếng đồng của họ mỗi buổi sáng. Hình như vào giờ đó dụng cụ mới ra lò và họ đem đánh ngay để thử tiếng. Nơi này mấy tiếng phèng phèng. Nơi kia mấy tiếng bu lu đối đáp nhau, kêu gọi nhau như để giới thiệu sự có mặt của làng, một cái làng quá nhỏ bị kẹp giữa làng tôi, khá rộng lớn, với một làng vĩ đại khác mà đình làng đã đi vào thành ngữ “Thình thình như cái đình La Qua.” Cái làng ấy nhỏ cho đến nỗi nhiều người đi ngang qua nó cũng không bao giờ biết có nó, nếu không nhờ tiếng đồng kia ầm ĩ đòi hỏi được sự phát hiện.
Lúc còn nhỏ, tôi không dám đi vào làng ấy. Vì vào làng phải theo hai con đường. Con đường thứ nhất nhỏ hẹp, hun hút … Con đường thứ hai phải băng qua giáo đường cao lớn, trắng xóa, nhọn hoắc lạ lùng. Chỉ đứng từ ngoài nhìn vào, tôi đã có cảm tưởng rờn rợn, như sắp dấn mình vào một cuộc phiêu lưu xa lạ, một thứ mê hồn trận mà cửa sanh không bao giờ xuất hiện. Chỉ có một lần, khi theo thói thường ra bãi tha ma để đi vệ sinh – Cái bãi ở sau làng tôi được xem như cầu tiêu công cộng trên mã mồ - tôi nhìn về phía cây đa, nơi bắt đầu con đường thứ ba dẫn vào làng bằng “cổng hậu”, tôi bị mê hoặc bởi tiếng chiêng và phèng la từng lúc nổi lên, tiếp theo liền là những tiếng đập chan chát, nạo soàn soạt vang đi rất xa. Tôi nhất quyết băng qua các mả lớn, mả con để đi vào làng ấy. Cây cối rậm rạp. Cảnh hoang vu. Mấy con trâu lững thững ngơ ngác nhìn tôi. Lũ trẻ chăn trâu vắng bóng dưới cây đa rậm, thân cây bành ra ba góc như một cái xương trâu khổng lồ xám xịt lóc hết thịt. Tôi lại phải vượt qua một ngôi miếu âm u rồi con đường đá lồi lõm, không giống đường làng tôi toàn bằng đất mịn rợp dưới bóng tre. Tôi rảo bước hơi xa mới thấy nhà cửa. Tất cả nhà đều có hàng rào cao, bịt bùng những cành lá sum sê lạ mắt, thỉnh thoảng sặc sỡ những hoa đỏ hoa vàng. Cũng không giống hàng rào các nhà trong làng tôi chỉ trồng keo vừa dày, vừa tiện bán lá cho các làng chuyên nghề trồng khoai. Tôi nghe những tiếng chiêng, phèng la chát chúa bên tai. Tôi thấy thấp thoáng cả những người đang thử các loại ”nhạc khí” đó và ở đây kia, những cái lò đang phụt lửa. Nhưng rồi tôi cắm đầu đi nhanh. Đó không phải là thế giới quen thuộc của tôi. Một thế giới phảng phất “Tây du” mà tôi ham đọc, nhưng không ham đến. Tôi thoát ra bằng cái ngõ mà khi nhìn lên, tôi tưởng suýt bị đè bẹp dưới mái nhà thờ cao vút trắng xóa.
*
Mấy năm sau, tôi mới có dịp đi vào làng đó như một người lớn, trong lốt một giáo viên đàng hoàng tuy tôi chỉ mới mười bốn tuổi. Thời ấy, lũ trẻ con các gia đình không lấy gì làm sung túc như tôi, cứ chờ đến hè là mở lớp dạy học, kiếm tiền tiêu. Tôi được một gia đình ở cuối làng mời đảm nhiệm một lớp học. Tôi có cơ hội ngày bốn lượt đi qua, được phụ huynh tỏ vẻ nể nang và lũ học sinh lễ phép giở mũ nón để chào hỏi như một ông thầy thật sự. Bao giờ ở lớp về, cũng có mấy cậu - có cậu lớn bằng tôi – ôm sách vở đi phía sau thầy, ra chiều cung kính. Tôi khỏi sợ cái cảnh phải nơm nớp lo là chúng đang phồng môi, trợn mắt hoặc ra dấu hiệu với nhau làm điệu “cú” thầy và khi thầy quay lại thì tỉnh bơ với bộ mặt khả ái hơn bao giò hết. Như chính lũ tôi đã đối xử với thầy theo một câu tục ngữ rất thông dụng của một phản giáo điều : “Dạ trước mặt, trổ c… sau lưng”.
Do cái bề thế đó, tôi được các phụ huynh tỏ vẻ ân cần. Tôi vào các gia đình ở gần đường chơi, chén trà, nói chuyện đời như người lớn ở ngay trên bộ bàn ghế đặt giữa nhà. Tôi được dẫn đi xem các lò đúc, các kho “xưởng” làm việc và được chỉ dẫn tường tận. Những cô gái sáng sủa, trắng trẻo – vì không làm nông – ăn mặc sang hơn người làng tôi nhiều, đỏ mặt rồi lẩn như chuột khi tôi đi qua.
Một hôm, tôi vào nhà một ông già lấy cớ để coi công việc làm, vì đó là mấy cơ sở sản xuất lớn nhất. Song mục đích là nhắc khéo món học phí đóng chậm. Ông không chờ tôi hỏi, xếp món tiền cẩn thận lên cái hộp trầu bằng đồng đặt giữa khay, tỏ vẻ lễ độ làm tôi phát ngượng. Rồi ông ân hận cho biết là công việc bận rộn quá, không kịp nhớ. Ông hỏi qua việc học của thằng Thành, con út ông. Tôi cũng kịp nhận ra trẻ con làng này không thông minh như làng tôi vì chưa có truyền thống học hành. Tất cả hình như mới bắt đầu và tôi là một trong những giáo viên mở trang sử thứ nhất. Nhưng trẻ con không vì thế mà vô dụng, chúng khỏi chăn trâu thì lại thông thạo nghề nghiệp lắm… Mới vứt tập sách vở có vẻ quá nhẹ đối với những bàn tay gân guốc, chúng tung ra, đứa nào có ngay công việc của đứa ấy, tuy nặng nề mà lại ra chiều khoan thai thoăn thoắt.
Chủ nhân đáp lại sự hiếu kỳ có vẻ hăng hái của tôi - một phần để che cái ngượng đi đòi học p[hí chăng ?- dẫn tôi ra phía lò đúc. Ông chỉ vào những cái khuôn chiêng, phèng la bằng đất trộn trấu xếp thành đống để ở góc nhà. Lò đúc giờ đã tắt lửa. Tuy thế ông cũng giảng giải qua loa cho tôi phương pháp nấu đồng vụn, nung các cốt khuông, đổ đồng rồi đem ra thử để lấy tiếng.
Việc đúc, tôi không quan tâm. Nhưng việc lấy tiếng đồng thì tôi rất chú ý. Tôi cứ tưởng đúc thế nào là cứ lấy tiếng theo thế ấy. Có sửa chữa cũng chỉ chút ít. Nhưng tôi không ngờ là tôi lầm.
Ông cụ dẫn tôi lại xưởng làm việc. Đó là một gian nhà trống với những cái chiêng, phèng la chồng lên nhau cạnh những bao lớn đựng các loại đồng vụn : ống dẫn nước , nồi, xanh hỏng, chốt vặn cửa, rô-bi-nê, dây điện, vỏ đạn v.v… Mấy người thợ ngồi các góc, mỗi người đang dùng một dụng cụ riêng để làm việc. Dụng cụ rất đơn giản, gồm một cái cán dài buộc vào một cây trụ nhỏ đóng trên mặt đất. Cuối cái cán là một lưỡi dao bào bằng thép rất bén. Mỗi người thợ ngồi trước, đặt nhạc cụ - hầu hết là phèng la – dưới chân, rồi lấy lưỡi dao bào mà “dẫy” lên mặt hay trong lòng nhạc cụ. Những tiếng xạc xạc của kim khí đều đều vang lên, và cứ sau mỗi cái tay đưa tới từng lớp đồng mỏng như lá lúa bị tách lên, co mím lại lả tả rụng. Những lát đồng sáng loáng, óng ánh, lạo rạo khi có ai chạm vào, cứ từng lớp như đàn giun bằng vàng chen chúc với nhau phía dưới nhạc cụ. Thỉnh thoảng, người thợ lại dừng tay, lấy cái dùi gỗ có quấn vải đánh lên mấy tiếng phèng phèng… Chủ nhân lắng tai nghe, gật đầu hoặc lắc đầu. Họ lại đặt nhạc cụ xuống, dẫy đi, dẫy lại những chỗ chưa được ổn. Tôi chỉ cái phèng la, loại nhạc cụ giống hệt cái nón thúng của phụ nữ miền Bắc hỏi :
- Thưa bác, tại sao gọi là phèng la ?
Ông cầm nhạc cụ lên, lấy dùi và bảo tôi :
- Cậu nghe đây !
Ông đập và nó phát ra những tiếng đồng :
- Cậu nghe rõ không ? “Phèng” rồi “la la la la a a a a”
Ông không chờ tôi hỏi thêm, giảng giải :
- Cái mặt phẳng đánh vào thì kêu phèng. Khi tiếng phèng dứt ở vòng chân quì tức là cái vành thì đổi sang tiếng la. Loại này đối với đồng bào mình thì chỉ có hai giọng dùng để đập cho kêu, cho to. Khi gọi dân, họp dân thì mấy ông làng xách ra, đánh như la làng la xóm … nhưng đối với người Thượng …
Ông quay lại chỉ từng lớp nhạc cụ xếp gọn cái này trong cái kia, cái kia trong cái nọ rất vừa vặn :
- Nhưng đối với người Thượng, nó thuộc về nghi lễ mà còn thuộc về âm nhạc nữa. Người thượng chơi phèng la đủ cỡ từ thứ nhỏ đến thứ thật lớn mà ta gọi là “tạ”, nặng đến hai ba chục ký-lô. Phèng la ít khi mua đơn độc. Bao giờ cũng cặp hay một bộ. Cặp hay đồ đôi thì tiếng hoàn toàn giống nhau. Bộ ba chiếc hay sáu chiếc thì tiếng cao thấp rõ ràng, cung bậc không lẫn lộn.
Lúc ấy người thợ xách lên một nhạc cụ mà từ lúc nãy đến giờ anh ta hí hoáy gõ, đập rồi đem dẫy, rồi lại gõ đập, mồ hôi nhầy nhụa cả trên trán. Anh lấy cái dùi đánh lên mấy tiếng, lắng tai nghe. Cả những người thợ khác cũng đều dừng lại và lắng tai nghe, không ai nói gì. Cụ chủ nhà đôi mắt có vẻ đăm chiêu, rồi bảo :
- Anh Quí à, tôi nghe như nơi chân chống xuống đường kiến còn một chỗ hơi dày, phải dẫy nữa.
- Dẫy nữa, lỡ ra nó mỏng đi mà không phải chỗ đó thì sao ? Tôi thì tôi nghe như cái vành không đủ sức dày nên không dội tiếng lại.
- Rắc rối! Anh lấy búa thử lại một vòng đường kiến xem dày mỏng đã đều chưa ?
- Tôi đã thử cả rồi. Tôi hiểu rõ từng li từng tí dày mỏng ra sao. Cả cái vành tôi cũng biết nó đủ sức dày rồi. Vậy mà tiếng vẫn chưa gọn, không hiểu tại sao ?
- Không hiểu sao kỳ à ? Gõ lên nghe.
Một người từ bên ngoài xồng xộc đi vào nói to lên, không chào ai cả ra vẻ rất quen biết. Cụ chủ nhà kêu lên :
- Mèn ơi ! Ông Thánh đây rồi.
Anh thợ Quí cũng cười hố hố :
- May ơi là may ! Tôi toát mồ hôi trán từ sáng đến bây giờ.
Tôi thấy mặt tất cả thợ cùng tươi cười lên thật y hệt khi thấy hiện thân của Hi vọng xuất hiện. Anh Quí xích cái phèng la, đánh mấy tiếng. Người thanh niên mới vào đầu bù xù, mặt hơi tai tái, cặp môi dày như phủ cả một khối thịt trào ra khỏi miệng kêu lên :
- Cha này ẩu quá ! Loại này sao lại đánh bằng dùi quấn vải. Phải đánh bằng loại cây cứng chớ. Đánh vậy thì bảo làm sao có tiếng cho đúng.
Rồi không chờ đợi, hai con mắt đen thui thủi, có hơi hồng hồng xám xám như màu rừng núi hực lên. Anh xách đại một chiếc guốc đang mang, đập vào nhạc cụ. Đột nhiên và lạ lùng, chính tôi không hề phân biệt và cũng không bao giờ để ý phân biệt âm thanh của tiếng đồng, thế mà tự nhiên tôi có cảm tưởng rõ ràng là tiếng mới này hay hơn, phong phú và ngân vang hơn tiếng cũ nhiều lắm. Người thanh niên lắng tai nghe rồi đánh thêm vài tiếng nữa, vất chiếc guốc xuống, cười hề hề :
- Sao ? Các ông nghe nó sai chỗ nào ?
- Chịu. Loại này chúng tôi ít hay làm thành ra chưa thấu triệt.
- Bán nát cho Thượng cả bộ này bộ nọ mà chưa thấu triệt cái con khỉ. Có chịu một bữa rượu, tôi sửa cho !
- Rượu thịt ! Được tuốt. Ông chủ cười tuyên bố.
- Tôi sống nhiều khi nhờ ba cái lặt vặt này đây ! Nhiều khi chỉ nện một “cú” guốc mà tôi lấy tiền cả một vòng xe. Vì nếu tôi không sửa, đố mang đi đâu mà Thượng nó thèm mua cho.
Anh cười, lại tháo chiếc guốc ra cầm nơi tay, lật úp nhạc cụ xuống, đập gót guốc theo vòng “chân quì” luôn mười cái dừng lại bảo anh Quí :
- Bây giờ anh đánh lại xem.
Anh Quí trở ngược cái dùi ban nãy, đánh mấy tiếng. Ông cụ cười ồ ồ, đập tay luôn ba cái vào vai người thanh niên rồi lay lấy lay để :
- Thiệt là hậu sinh khả úy ! Thiệt đúng như lấy thước mà đo.
Anh Quí cũng gục gặc ra vẻ khâm phục :
- Nhưng tại sao anh không dùng búa ?
- Ở rừng núi đâu có sẵn búa. Phải tập gặp cái gì thì dùng cái đó cho quen chớ.
- Uống rượu thường chớ, anh Cảo.
Ông chủ hỏi. Anh Cảo lắc đầu :
- Tôi say cả đêm. Bị mấy thằng khỉ nó ép uống rượu say rồi còn rủ đánh bạc nữa ! Tôi thua sạch nhẵn cả.
- Say mà đánh bạc thì phải thua chớ nói gì ! Thua rút được kinh nghiệm à ?
Cảo cười, lắc đầu hỏi Quí :
- Xong cái đó chưa, anh Quí ?
- Xong rồi. Chờ anh cả buổi sáng.
Đi lấy đi.
Trong khi thợ Quí đi ra phía sau. Cảo có vẻ mệt mỏi nhìn về phía tôi. Cụ chủ giới thiệu :
- Thầy thằng Thành đó.
Anh gật đầu chào tôi, ra vẻ biệt nhỡn. Tôi cũng nhìn anh với nhiều thiện cảm. Anh chậm rãi đáp lại câu nói lúc nãy của ông chủ :
- Tôi đâu có cầu rút kinh nghiệm. Ham thì cứ chơi đã. Vậy mà thua rồi lũ nó còn mua rượu đem về nữa chớ. Tôi uống rủi lại gặp gió bị mửa, mệt ngất cả đêm.
- Vậy mà bỏ về nổi, cũng giỏi đó.
- Tại tôi nghe tiếng đồng. Đang mê mệt tới đâu mà bất chợt nghe tiếng chiêng hay phèng la là giật mình tỉnh ngủ. Không hiểu thiên hạ nghe tiếng đồng ra sao, chớ nhiều lúc, tôi chịu không nổi. Bác nghĩ có một hôm tôi ở Trà Bồng, nửa khuya chợt thức dậy, nghe mấy người Thượng đánh chiêng đôi giọng “Bù rớt bù rơn” bằng ngón tay hết sức buồn thảm. Tôi nhớ nhà, ứa nước mắt, không làm sao ngủ lại được nữa.
Tôi ngạc nhiên :
- Đồ đồng mà cũng đánh bằng ngón tay à ?
- Đánh bằng đủ loại dùi, hoặc tay tùy theo phong tục địa phương. Dùi có khi quấn vải, có khi dùng cây dẻo, có khi phải quấn tóc như loại tạ của Thượng Hà Nha, Sông Con.
- Tạ, có phải nó nặng nên gọi thế không, anh Cảo ?
- Không hẳn. Phèng la lớn loại gõ của Ra-đê hay loại vỗ của Xê-đâng đường kính hai thước (thước mộc) to cả bằng hai cái nia ta, hai người khiêng cũng gọi tạ. Loại này khó làm nhất. Ở đây chỉ có một nhà biết làm. Âm thanh của nó cũng riêng biệt, không giống đâu cả. Ở đâu cũng căn bản là Tùng… ngao, còn ở đó là Tu tu tu, tư tư tư, từ từ và rền cả mặt phẳng của nhạc cụ. Trừ gia đình anh Th… và tôi, không ai rõ bí quyết làm loại này cả.
Câu nói đầy tự phụ, nhưng không một ai có phản ứng. Có lẽ đó chỉ là một sự thật đơn giản không cần bàn cãi gì.
Thợ Quí đi ra phía sau, giờ đã trở lại, khệ nệ khiêng trên vai với người thợ thứ hai một cái chiêng lớn, lớn như chưa bao giờ tôi trông thấy. Mới nhìn cái chiêng anh Cảo đã tỏ vẻ vừa ý. Anh ngoẹo đầu qua lại, ngắm trước, ngắm sau. Anh bảo Quí :
- Đánh nghe.
Anh Quí cầm cái dùi thật lớn ban đầu đập vào cái nướm của chiêng. Âm thanh dội lên, ngân vang… Rồi cứ như thế, Quí đập lần lần xuống cả mặt chiêng. Trong khi đó anh Cảo đứng xoạc hai chân, lùi dần, tay thọc choãi vào trong hai cái túi áo, lắng nghe như một nhà chân tu lắng nghe tiếng chuông chùa, như một tội nhân lắng nghe tiếng sinh hoạt bên ngoài lao xá, như một kẻ đói lắng nghe tiếng rao hàng. Hình như anh không chỉ lắng nghe tiếng chuông bên ngoài mà còn nghe vọng tiếng chiêng trong tâm hồn anh. Đôi mắt của anh mang nặng một màu sắc rừng rú rất khó tả mà đôi môi thì rung rung như đang muốn phát ra những âm thanh nào tương ứng. Tự nhiên tôi muốn so sánh anh với một số nhạc sĩ mà tôi đã đọc tiểu sử của họ. Tôi không hiểu tại sao có sự so sánh đó vì giữa hai nghề, tôi không nghĩ là đáng đuợc so sánh: Một bên là nghệ thuật cao siêu của những nghệ sĩ tài hoa, xuất thân ở các viện âm nhạc, gần như bay chập chờn trên những kinh đô ánh sáng. Một bên chỉ là anh thợ làm nhạc cụ bằng đồ đồng, phần lớn cho loại khách hàng chưa có chút kiến thức nào về nghệ thuật; một loại thợ mà ngay dân ở làng tôi cũng chẳng ai chú ý bao giờ ! Trước mắt tôi bày ra cái cảnh huy hoàng của những khán giả trí thức chen nhau đến các hý viện im lặng với vẻ im lặng tôn giáo nghe một bản nhạc cổ điển để thấy nổi bật lên cảnh những lái buôn nghèo khổ, băng núi băng ngàn đi bán mấy chục nhạc cụ bằng đồng có khi không lấy được tiền mà phải đổi chác một con trâu cổ một mớ lâm sản, một bộ da cọp, sừng nai; rồi những người Thượng đem vào một góc núi mịt mờ mà nhảy múa hò hét như điên cuồng ! Bây giờ thì tôi biết tôi lầm. Nhưng thời đó mới đọc đuợc sách báo Pháp, tư tưởng Âu châu là tiêu chuẩn để nhận xét, phê bình, tôi hoàn toàn bị huyễn hoặc. Thế nhưng lạ lùng, cũng ngay từ thời đó, trong thâm tâm tôi đã phát ra những phản ứng đã gần như một sự phủ nhận mơ hồ những lối suy tư ấy… nhất là khi tôi nhìn cái vẻ lạ lùng trang trọng thành kính mà tài hoa phát ra từ đôi mắt chăm chú của anh Cảo.
Khi anh Quí dừng cuộc du lịch của cái dùi trên khắp mặt chiêng, anh Cảo cũng dừng sự chăm chú. Anh gật đầu khen :
- Khá lắm !
Ông chủ nhà từ lúc nãy đến bây giờ yên lặng một cách lo âu, theo dõi từng cử chỉ, từng rung động của anh Cảo, bây giờ cũng phát ra một tiếng cười gần như bao hàm cả tiếng thở dài đáp:
- Không khá có họa mà chết ! Nướng hết năm cái rồi, cái này mà không xong là sạt nghiệp.
- Có nướng cả chục cũng chưa lỗ mà, bác !
Anh Cảo vừa nói, vừa tự tay cầm dùi, đập mạnh vào chiêng và phàn nàn:
- Cái dùi nhỏ quá, không đủ sức cho chiêng phát hết tiếng của nó. Chiều quấn cho tôi một cái to gấp ba nghe.
Người thợ hỏi :
- Bây giờ, làm cái chi trước, anh Cảo ?
- Dẫy mỏng cho đều quanh vòng cổ áo hai lát. Chiều tôi sẽ trở lại. Làm cẩn thận nghe.
Anh nói xong, gật đầu chỉ chào tôi rồi quay ra. Chủ nhân dặn :
- Chiều trở lại uống rượu nghe, anh Cảo.
- Dạ.
Trong khi đó, người thợ treo cái chiêng lên một chỗ khá cao rồi đứng xoạc hai chân, dùng lưỡi bào mà dẫy khác hẳn cái tư thế ngồi vẫn thường thấy. Chỉ làm việc một lát, đã nghe anh thở phì phò. Tôi lại gần nhìn xem. Lúc anh đặt lưỡi bào nghỉ tay, rồi cầm lên, vừa mới cạo vào nhạc cụ, đã quay hỏi tôi :
- Anh mới lấy tay rờ rờ lưỡi bào, phải không ?
- Phải … mà có sao … mà sao anh biết ?
- Tôi biết ngay mà ! Hễ có hơi tay chạm vào là nó đen lập tức.
Anh không tỏ sự tức bực, nhưng nhìn thấy anh ta phải tháo lưỡi bào đi mài lại trên một viên đá mài, tôi cảm thấy ân hận. Cụ chủ nhà như để gỡ sự bối rối cho tôi, tiến đến bảo :
- Khi nãy tôi chưa nói với cậu về cái chiêng. Chiêng là biến giọng chữ chinh, gọi nôm na là cái bu lu. Loại này dùng để cúng tế. Người Thượng cũng có chơi, nhưng ít hơn loại phèng la. Nó khác cái phèng la là vì cái nướm ở giữa và vì mặt nó không phẳng mà lại dợn sóng.
- Thưa bác, sóng này là tại mình đúc ra như thế ?
- Không. Nếu đúc ra thì nó không kêu. Chỉ khi nào đúc xong, lấy chân dận lên trên, rồi lận từ bên trong ngược ra cho nó dợn sóng, nó mới chịu kêu. Lấy dùi đánh vào nướm nó kêu bu rồi chuyển sang lu lu lu khi đi qua vòng cổ áo là bộ phận xoay quanh cái nướm. Cuối vòng cổ áo, gặp đường dợn sóng khiến tiếng cũng dợn sóng theo : u u ù ù ú u u. Từ đây âm thanh vang ra đến vòng quì là vòng cuối cùng phát ra u u a a … Nhưng lại gặp cái vành dày, nó dội ngược cả tiếng lại nên rung mạnh cả mặt.
Để cho tôi nhận thức đầy đủ, ông lấy cái dùi đập vào nướm. Ngày trước, tôi vẫn thường nghe đánh chiêng luôn, nhưng tôi chỉ biết đại khái không tìm hiểu. Nhưng sau khi được giảng giải, tôi mới thấy tất cả ý nghĩa của những chỗ cong, vẹo, dợn sóng mà tôi yên trí chỉ có giá trị mỹ thuật. Âm thanh tiếng chiêng bây giờ ngân lên, vang ra, uyển chuyển dợn qua các bộ phận và tôi tưởng như theo dõi đuợc, bắt chợp được sự khai triển, xê dịch của nó trong các thớ đồng không còn vô tri nữa.
Anh Quí mài lưỡi bào xong, trở lại làm việc. Tôi lại theo cụ chủ đi xem những người thợ khác đang thử phèng la. Người này đánh lên mấy tiếng. Người khác đánh theo mấy tiếng. Một người khác nữa cũng đánh theo như phụ họa, đột ngột, quay hỏi tôi :
- Cậu nghe những tiếng đó có gì khác nhau không ?
- Không. Cháu nghe như nhau cả.
- Nhưng thật ra thì khác nhau. Đây là loại hàng dành cho Thượng Ba Gia, Đồng Ké (Quảng Ngãi), thuộc loại đồ “bộ ba”. Tiếng thứ nhất loại tum âm vang thùng ngoắp, tiếng thứ hai loại túp, âm vang tu kéo dài, tiếng thứ ba thuộc loại nhủa, âm vang ngoắp. Đó là một loại mà còn dị biệt, huống chi các tỉnh khác nhau, các loại khác nhau thì tiếng còn khác biệt đến đâu.
- Làm sao phân biệt nhau được bác ?
-Quen tai thì nghe ra.
- Nhưng có cần phải khác nhau như vậy không
- Không khác nhau thì ai mà mua. Tỉ như ngày Tết, ở ta ai cũng phải có bánh tét chế bằng nếp với nhưn đậu, không có nó thì xem như vắng vẻ, không thành Tết. Ở Bắc cũng dùng nếp, đậu, nhưng lại chế bánh chưng, hương vị khác hẳn, hợp với phong tục ngoài ấy. Nhạc cụ cũng vậy, cũng là đồng pha, nhưng mỗi nơi đòi hỏi một giọng, một lối chơi theo một lối riêng, giọng nói riêng. Mình là nhà sản xuất, phải biết phân biệt rõ cái giọng đó một cách thật chính xác thì hàng của mình mới chạy.
Người Thượng là Thượng cái chi kia chớ tiếng đồng thì họ đâu có Thượng !
- Chắc bác nghe được hết các tiếng ?
- Tôi chỉ chuyên làm vài loại hàng. Còn thì coi như làm phụ các hàng khác ; ở đây mỗi nhà giỏi nhất cũng chỉ làm vài loại chính.
– Có ai nghe đựợc hết các loại không bác ?
- Có. Thiếu gì. Có người nghe được tiếng từ Quảng Trị vào đến Quảng Ngãi, Pleiku, Kontum, Ban-mê-thuộc… Không nghe thì làm sao làm thợ được. Nhưng thiệt ra thì cũng chỉ biết chắc vài loại, còn những loại khác thì cũng gà mờ, như kiểu anh Quí đó. Anh Quí là hạng chuyên làm chiêng đôi Trà Bồng tức là loại thợ giỏi nhất đó.
- Còn anh Cảo ?
- Anh Cảo à ? Cảo là loại thợ đặc biệt. Tôi làm nghề mấy mươi năm nay mới thấy một người như chú ấy.
- Anh ấy cũng chuyên nghề đúc hả, bác ?
- Không, chú ấy chỉ chuyên nghe.
- Làm sao cho đủ sống, bác ? Cháu cứ tưởng nghe chỉ là phần phụ thôi. Chẳng lẽ đó cũng là một nghề hay sao ?
- Đúng vậy, nhưng với chú Cảo thì đó là một nghề hẳn hoi.
- Lạ thật !
- Chú ấy có lỗ tai kỳ diệu. Ngồi đây chứ nghe tiếng đồng xa mấy chú cũng nói được rộng hẹp mấy thước dày mỏng ra sao, thuộc về dân Thượng nào … Mà nhất định không sai.
- Nghề nầy, té ra cũng rắc rối dữ, bác hè.
- Chú Cảo lạ lắm. Mà chú cũng dạn dĩ lắm. Chú xông pha lên núi rừng hẻo lánh nghe cho được tiếng đồng của các sắc dân để lúc về bảo thợ biết cách mà đúc. Nhờ đó, thị trường của chúng tôi ngày một rộng thêm. Trước, chúng tôi chỉ chuyên bán cho các tỉnh gần. Bây giờ thì ngày nào, người của chúng tôi cũng có ở các tỉnh xa xôi trên cao nguyên cả.
- Anh ấy có mang nhạc cụ của họ về không ?
- Không bao giờ. Người Thượng họ đã có đồ gì là giữ riệt lấy, cho của ấy là quí nhất, là bất ly thân. Nhưng chú Cảo thì nhớ nhập tâm, trở về đây, chú gọi thợ, chỉ kích thước mà đúc rồi tự nghe lấy mà “làm tiếng”.
Tôi chỉ cái chiêng lớn, đang được anh thợ Quí dẫy mạnh :
- Cái nầy cũng thuộc loại ấy à, bác ?
- Không, cái nầy thuộc về một loại riêng, đặc biệt hơn nữa không phải làm từng loạt kia. Loại này chắc anh Cảo chết, không bao giờ có lại nữa.
- Sao kỳ lạ dữ vậy bác ?
Chủ nhân có vẻ do dự. Có thể vì câu chuyện kéo dài quá. Có thể vì một điều không tiện nói ra của nghề. Có thể ông đang bận. Nhưng rồi cái tính cởi mở của người vùng tôi, cái bệnh thích nói chuyện của ông nhất là sự hiếu kỳ tăng gia trong đôi mắt, trong lời nói hăng hái muốn hiểu, muốn biết một cách quá chân thành của tôi khiến ông không nỡ dừng lại :
- Loại này là một loại đặc biệt.
Tôi nhớ ông đã nói câu đó. Sự lặp lại hình như cốt ý quan trọng hóa thêm cái điều đáng lẽ không nên nói ra : Nguyên anh Cảo có lên chơi một ông ‘làng già” tức ông tù trưởng người Thượng. Ông ấy đem khoe các bộ phèng la, chiêng lớn nhỏ của ông. Người Thượng tính sự giàu có của họ bằng số trâu cổ, ché đựng bạc đồng trắng, các bộ nhạc cụ mà họ tàng trữ, như ta trữ vàng vậy. Trong số chiêng rất cũ, có một bộ lẻ một chiếc mà là lại chiếc cổ nhất, lớn nhất mà ông tù trưởng quí hơn hết. Ông nói là có ai tìm được cái chiêng bị mất, ông sẵn lòng mua một giá cao nhất, hoặc đổi gì ông cũng vui lòng chịu. Anh Cảo bảo đánh cho nghe. Anh nghe gần, nghe xa. Tự tay gõ cùng khắp, cả sấp lẫn ngửa, cả trong lẫn ngoài suốt buổi. Cuối cùng anh bảo : “Tôi có thấy trong nhà của một ông tù trưởng ở Ban-mê-thuột có cái chiêng y hệt cái này. Chắc là của ông bị mất. Nếu ông muốn mua lại, tôi đi lấy về cho.” Tù trưởng bằng lòng và định giá với anh. Anh liền về đây, ủy thác cho ông cụ đúc lại cái chiêng mà anh đã đo kích thước, đã thuộc làu cái âm thanh.
Tôi hỏi :
- Nhưng làm sao giống hẳn được ? Tôi tưởng lỡ ra một dợn sóng sai đi chút ít thì âm thanh cũng lạc hẳn rồi.
- Ấy thế mà anh Cảo nhớ hết. Chú nhớ từng li, từng tí. Tôi đã nói người Thượng họ không biết cái chi kia chớ cái phèng la, cái chiêng thì họ còn rành rẽ gấp trăm lần ta. Mà cậu đừng tưởng chơi chiêng đôi là chỉ để hai cái gần nhau rồi đánh lên để nghe cho giống nhau “đại khái” là đủ đâu. Họ sẽ cho chiêng đánh gần, đánh xa, đánh thật xa, rồi họ đứng giữa để nghe để phân biệt từng đường tơ kẻ tóc. Rồi họ đem lật sấp, lật ngửa, đập từng bộ phận, so sánh xem có chỗ nào chưa hoàn toàn giống nhau không. Họ đập bằng cây, bằng búa, cả chục người xúm lại nghe ngóng. Sau đó họ còn cho người mang cả hai cái chiêng lên hai đỉnh núi để cùng gióng lên một lần với nhau. Nhờ đó, họ có thể nghe những chỗ chuyển tiếp từ vòng cổ áo sang đến vòng chân quì. Rồi từ chân quì phát ra, ngân vang xa rộng là bao nhiêu có giáp nhau và có tắt vào chỗ họ đứng không.
- Rắc rối thật.
- Cũng chưa rắc rối bằng lượt thử cuối cùng.
- Còn lượt cuối cùng kia à, bác ?
- Cậu lên đây tôi cho xem.
Tôi theo ông cụ, trở lại nhà trên. Ông cụ lấy hai cái phèng la, móc trên hai cái móc cách xa nhau hơn một thước tây, cùng theo một chiều với nhau, nghĩa là cái mặt phèng la phía sau nhìn vào lưng cái phía trước. Ông cụ bảo :
-Cái này lớn hơn cái trước nhiều. Tôi đánh cậu nghe thử cái thứ hai ra sao. Ông lấy dùi đánh mạnh. Tôi tự phàn nàn đôi tai mình kém quá, không nghe gì ở nhạc cụ thứ hai, trước mặt nó cả. Ông cụ cười ha hả : - Thì tôi cũng không nghe chi hết. Lần này cậu thử nghe xem sao.
Ông lấy cái thứ nhất xuống, thay bằng một cái cùng cỡ và giống hệt như hai giọt nước với cái thứ nhất, rồi cũng dùng cái dùi ban nãy đề đánh. Trước khi đánh ông còn bảo tôi :
- Loại này là đồ “chiêng đôi” Trà Bồng. Gọi thế chứ nó cũng là phèng la. Giọng Trà Bồng gồm có mấy giọng : Bù rốp (cao), Bù rắp lay, lay (lớn và nhỏ), Bù rớt Bù rởn. Đây là loại giọng lớn.
Tiếng thùng … ngao phát ra từ cái phèng la ở phía sau thì lạ lùng. Tôi nghe như có tiếng thùng… ngao như thế phát ra ở cái phía trước. Tôi tưởng mình nghe lầm. Nhưng rõ ràng là như thế. Rõ ràng không ai đánh, thế mà cái phía trước cứ kêu mà kêu y hệt như cái thứ hai. Như hai đứa trẻ song sinh, đứa này bị đánh đau xót la hét thế nào thì đứa kia cũng đau xót la hét lên như thế. Tôi buột miệng kêu lên :
- Giống nhau như đúc !
- Thế mới gọi là “đồ đôi” mà cậu.
- Nhưng làm sao cái chiêng này ở một nơi, cái chiêng kia ở một ngả mà anh Cảo cả quyết nó sẽ ‘đồng thanh đồng ứng” với nhau như thế này được ?
- Thì tôi đã nói : Cảo là loại đặc biệt mà !
Khi tôi chào chủ nhân ra về thì dưới nhà thợ cũng đã ăn cơm xong. Vậy mà tôi không ân hận, còn cằn nhằn :
- Mình quên hỏi: Anh Cảo có thể biến hoá một cái chiêng theo âm thanh đã qui định, nhưng làm sao đổi màu sắc cho hợp với một cái chiêng cổ đã mấy đời !
*
Mấy hôm sau, có dịp đi qua đó, tôi ghé vào xem anh Cảo sửa đổi tiếng đồng. Anh ngồi trên một cái ghế nhỏ, chỉ cẩn thận từng li, để cho người thợ dẫy, cạo những chỗ dày, lấy búa biến đổi âm tiết trên vài vùng, sửa đổi vài đường nét cho cân đối. Khi anh Quí ra sức lấy dùi nện vào nướm, anh Cảo lắng hết tinh thần để nghe, mày nhíu lại, đôi mắt xa vắng. Hình như anh đang tự tưởng tượng là tù trưởng, đang cố phân biệt hai âm thanh, cùng nổi lên một lúc, một cái vẳng lên từ dĩ vãng, một cái rộn rã trong thực tại. Rồi tiếng chiêng nhỏ dần, mơ hồ … và vị tù trưởng sống thực với tiếng chiêng trong dĩ vãng hơn chính tiếng chiêng trong thực tại, lấy cái khiếm diện làm tiêu chuẩn cho cái hiện diện với một cường ký vô song. Và lòng tự tin vô bờ bến. Và khi tôi phải nghĩ rằng tất cả năng khiếu đặc biệt ấy chỉ dùng cho một công tác giả mạo ! Và anh đem hết tâm hồn để phụng sự cho cái giả mạo ấy ! Anh làm công việc đó có phải vì cảm thấy phải làm ? Không làm không chịu được, sẽ bứt rứt, buồn khổ ? Hay làm chỉ cốt để kiếm được nhiều tiền mà uống rượu và đánh bạc ? Dù sao, khi nhìn cái vẻ nghiêm trang, cái tinh thần gần như huyền bí mà anh đặt hết vào thính giác, sự cố gắng gần như ma quái để gọi về một âm thanh tôi cũng quên hết những điều suy nghĩ vẩn vơ để chỉ còn biết thương yêu, cảm phục anh.
Ít lâu sau, tôi không còn thấy anh ở nhà đó nữa. Hỏi thì thằng Thành cho biết cái chiêng đã hoàn tất. Tôi hỏi nó một cách không chắc chắn để được đáp lại là làm sao biến màu da của nhạc cụ trở thành cổ lỗ như chính âm thanh lịch sử của nó. Nó lúng búng không đáp, đúng như tôi nghĩ.
Rồi những tiếng chiêng, phèng la lạ của nhiều vị tù trưởng, nhiều người Thượng khá giả từ đời ông bà xa xôi nào lại có dịp sống lại, mang cái âm thanh xa vắng từ rừng núi hẻo lánh vang dội xuống quê tôi, như những nhân vật cổ tích tạo bằng âm hưởng đi lạc vào nơi đây tiếng còi ô-tô của Thế Kỷ Hai Mươi. Mỗi lần nghe một tiếng đồng mới mẻ ấy, tôi lại thấy hiện ra hình ảnh anh Cảo say sưa, mửa thông thốc cả rượu thịt cũng hiện ra và tôi không nhận rõ anh trong hình ảnh nào.
Một đêm, đi chơi về khuya tôi bắt gặp anh đang đi lang thang. Anh đi qua, đi lại trên một con đường rất vắng. Tôi tưởng anh thích sự cô độc hoặc có điều gì lo nghĩ. Khi tôi hỏi, anh bảo :
- Tôi đang sửa tiếng bộ ba phèng la cho nó vô với nhau.
- Anh ở đây, làm sao mà sửa ?
- Không, tôi đang nghe.
Thì ra anh đang nghe thật. Ba giọng phèng la hơi khác nhau cùng ngân nga trong làng, lẩn sau hàng mù u dày đặc, lỏi chỏi mấy ánh đèn le lói trong sương.
- Tôi phải đi xa để nghe cho nó thật đúng. Anh có nghe không ? Rõ ràng là tiếng giũa bị hỏng. Đã không vô được với nhau, đời nào Thượng nó chịu mua.
Anh rủ tôi về nhà anh chơi. Tôi hỏi :
- Anh không đi sửa tiếng đồng à ?
- Sáng mai cũng được. Chỗ nào hỏng thì đã biết rồi.
Nhà anh là một căn nhà nhỏ ở cuối xóm. Nhà trống trơn, gần như chẳng có một cái gì. Giữa nhà là một bộ bàn ghế cũ, trên đó phất phơ một ngọn đèn chai. Trên cái giường tre một bà già ngủ ngon.
- Mẹ tôi đó. Bà có tật tối lại uống vài xu rượu là không biết trời đất gì hết. Ban ngày thì bà đi mua “xác đồng” ờ ngoài Đà Nẵng.
Tôi không hiểu anh kiếm khá nhiều tiền thế mà anh làm gì hết. Có lẽ không đồng xu nào rơi vào túi anh còn vướng lại căn nhà thiếu tiện nghi này. Tôi cảm thấy không tiện hỏi thêm về gia thế anh nên quay sang hỏi về kỹ thuật đồ đồng. Khi nghe tôi đề cập đến cách làm cũ những nhạc cụ mới, anh cười một cái cười tinh quái, vừa ngao ngán :
- ỐI ! Có cái con khỉ gì của nghề này là thiệt anh. Giả ! Giả tuốt ! Xác đồng thì mua lại của tụi ăn cắp, đồ đồng thì bắt chước, tiếng thì mạo lại tiếng đồng đã có sẵn từ đời nào … Mà dù mình có sáng chế ra tiếng mới, cũng chẳng ma nào thèm mua.
- Vậy chớ không phải làng ta vốn làm nghề này từ lâu đời rồi à ?
- Đâu ! Chỉ mới vài đời. Tổ sư còn sống nhăn răng ra đó. Mà nghề này cũng chẳng phải An Nam mình bày ra trước đâu. Có lẽ người Thượng đã có từ đời Chiêm Thành xa xôi kia. Chỉ biết là sau này họ đã dùng nhạc cụ Lào. Nhưng không phải đồ đúc mà là đồ rèn, rèn như thợ rèn vậy. Âm thanh có từ lâu đời, bây giờ mình phải giả cho nó đúng, mà đối với người Thượng tồn cổ thì càng đúng chừng nào, càng quí chừng đó. Cho nên không chỉ phải chỉ giả cái tiếng, chúng tôi đôi khi còn phải đúc sù sì, lởm chởm, nện những nhát búa vào cho nó thành dấu, thành vết, tưởng như đồ rèn thật.
- Còn màu sắc !! Tôi tưởng đồ đồng cũ thì màu nó cũng khác lắm chớ.
- Dĩ nhiên là rất khác. Cho nên nhạc cụ thì mới toanh, mà cái thì phải phun nước trầu, cái thì phải đánh bằng lá mướp với bồ hóng … Có cái -nói xin lỗi- phải ngâm với nước tiểu, lá bứa, lá khế chua chua, chát chát … Anh muốn cũ mấy mươi đời, chúng tôi cũng có phương kế tạo ra cả. Mà không giả lại bán không được.
Anh bật cười, không hiểu tại sao :
-Giả dối ! Giả dối tuốt. Vậy mà nhà nào cũng lo khư khư giữ nghề riêng. Đố anh cạy răng cho họ nói lấy một lời về những bí quyết làm tiếng, làm màu.
Khi tiễn tôi ra cổng, anh đột ngột hỏi tôi :
- Thượng ở Phi châu có chơi phèng la, chiêng không anh ?
- Tôi đâu biết ! Nhưng tôi nghĩ là ở đâu có người còn “dã man” thì chắc còn chơi nhạc cụ này
.
Tôi đi ra, có cảm tưởng đối với anh, chân trời hoạt động hẹp hòi, tiếng đồng trên suốt dãy cao nguyên này không thỏa lỗ tai rất thính, rất cường ký của anh. Và biết đâu anh không muốn bỏ vương quốc Hồi Ký để đi vào cương vực Sáng Tạo ? Có thể nào có một tâm hồn nghệ sĩ mà chỉ thích, chỉ bằng lòng, chỉ thỏa mãn với làm theo và làm giả dù làm theo làm giả tuyệt vời?
Về sau này, tôi ít có cơ hội gặp anh. Chỉ một hôm vào xem một canh bạc lớn ở nhà quen, tôi thấy anh ngồi một xó, mắt đỏ kè, hơi rượu nồng nặc. Tôi cười, hỏi :
- Thua hết rồi sao, anh Cảo ?
Anh ọc một tiếng nhỏ làm ngập mùi rượu trước mũi tôi và nói :
- Cha mẹ đời ! Hốt của thằng Thượng để mang về cúng cho mấy thằng “gà què ăn quẩn cối xay” hết. Đời chẳng còn nghĩa lý gì !
*
Khoảng một vài năm sau, tôi ghi nhận một hiện tượng lạ xảy ra ở vùng tôi. Trong cái nhà chứa gái -cái duy nhất- ở trong làng tôi, có một cô gái Thượng du. Tiếng Việt có lối dùng rất lạ : Đàn bà Việt thì họ gọi là bà, cô, phụ nữ, con gái (con gái là thành từ ngữ chính thức trong tự điển Larousse âm là con gai hay cogaye, giải thích : Đàn bà Việt Nam) ; đàn bà Tàu hay người Việt lấy Tàu: Mấy thím ; đàn bà Việt lấy tây : Me tây; đàn bà Tây phương : Đầm, đầm Pháp, đầm Mỹ. Nhưng đàn bà Thượng du thì gọi là thon lỏn : Thượng cái (cũng nên chú ý : Không có tiếng Thượng đực. Và cũng nên so sánh: Trong khi đó, con chí cái, tức con chí lớn nhất trên đầu thì nhất gọi là chí đực). “Con Thượng cái” làm đĩ ! Hỡi ơi ! Thì ra giống phụ nữ An Nam này đoan trang, đến thế rồi ư ? Không có ai thèm làm đĩ nữa ư mà đến nỗi chủ chứa phải lên tận chỗ thâm sơn, cùng cốc dẫn đàn bà Thượng về thay thế ? Nói cho đúng, cái nhà chứa này có tên ghê gớm vậy, chứ “nội dung” cũng chẳng có gì khiến lũ trẻ chúng tôi phải chú ý. Đó chỉ là nhà của một bà già da mặt giống một trái mảng cầu, không chồng con, không có phương kế kiếm ăn nên thỉnh thoảng ai có mèo mỡ gì thì dẫn vào cho bà ít tiền để ăn nằm giây lát. Hoặc trong làng, có vài người đàn bà nghèo, chồng chết, không đủ tiền may cái áo, cái quần cho con thì gạ đến cho ông lý, ông hương say rượu qua đàng. Thảng hoặc lắm mới có một vài cô ở xa xăm tìm đến. Những cô này tôi biết ngay. Vì thế nào họ cũng có đánh môi, đánh má bằng phấn rẻ tiền hoặc giấy bao hương. Nhưng họ cũng ít dám chường mặt ra ngoài. Trong làng tôi, chỉ vài người có tiếng rất bạo, xem dư luận như cái lá má, hoặc rất quỉ quyệt mới dám lẻn vào đó. Thành ra, chẳng bao giờ tôi bắt gặp một ai đang dòm dỏ, ra vào, suốt nhiều năm trường, ngoại trừ một lần … Lần đó đặc biệt đương sự lại là một bậc đại nho, đỗ tiến sĩ, đi võng xanh – cái võng duy nhất còn lại để gợi cái đẹp thuần nhã ngày xưa – sau khi xuống tòa đại sứ về, cho đỗ võng lại. Rồi đương sự mang cái thân già lụ khụ đi vào thanh lâu rách rưới tìm hoa. Tôi tưởng cũng nên nhắc thêm nhà chứa ấy ở xế cái cổng của viên thánh thờ đức Khổng tử và thất thập nhị hiền rất nguy nga, không đầy ba trăm mét. Không rõ bậc đại nho ấy đã tìm thấy thứ hoa gì dưới sự chứng kiến của đức : “Vạn thế sư biểu”.
Nếu vị tiến sĩ ấy chờ đến lần này mới vào thì chắc ông cũng đến chết giấc vì đóa hoa rừng. Tôi có thấy cô gái Thượng ấy còn trẻ. Hai vú căng phồng uốn cong, đầu vú như hai cái chiêng mỹ miều. Cái mặt đen, với đôi môi đỏ, dày nhô ra phía trước như vết thương lành. Đôi mắt đen thẳm, lờ đờ, lừ đừ. Tôi chưa quen vẻ đẹp núi rừng nên chỉ biết rùng mình. Dân làng tôi chắc cũng thế. Thế thì bà chủ mang về để triển lãm cho vui ư ?
Về sau, tôi mới biết là “mèo” của anh Cảo. Anh lên núi, không hiểu cao hứng gì mà bứt hoa rừng đem về. Hay là cô gái Thượng mê tài anh, quyết rứt bỏ quê hương cố hữu để theo anh? Đến đây không tiện gửi nàng cho ai, anh gửi vào nhà chứa. Khách vào thích thì tự do. Còn không, anh cũng cho tiền để ăn, để sống qua ngày. “Con Thượng cái” trở thành cái đầu đề phê bình, dị nghị kinh khủng ở vùng tôi một thời. Danh anh cao, khi là nhân vật tài hoa, với trí nhớ kinh dị, với tâm hồn nghệ sĩ không ai biết, bây giờ thì nổi tiếng rầm rầm vì là chủ nhân “con Thượng cái” được xem như loại người liều, người ẩu, sinh tử nhất đời ! Nhưng anh Cảo phớt đều. Anh đang bận để tâm trí vào cái phèng la mới, để ký thác những âm thanh chính xác đang ngân nga trong óc. Rồi anh còn bận đi uống rượu, đánh bạc. “Con đĩ Thượng” cứ sống ung dung với tất cả sự thiếu thốn quen thuộc để cho thanh niên làng tôi ngắm nghía như một con vật lạ. Một ngày kia, khi thấy tôi chăm chú nhìn, người “Thượng cái” lấy tay vẫy và nói líu lô gì. Tôi hoảng hốt, bỏ chạy.
Tôi trải qua nhiều buổi sáng phải nghe những tiếng văng vẳng ở làng P.K. Tôi tự hỏi không biết người đàn bà Thượng ấy thuộc sắc dân nào. Nếu là Rhadé, sau khi nghe hết sáu nhạc cụ đồ gõ với giọng ích on, nếu là Sédang, khi nghe kéo dài, triền miên hết sáu nhạc cụ đồ vỗ với giọng tùng ngoắp, nếu dân Trà Bồng với giọng bù rớt, bù rơn đánh bằng tay buồn thê thảm… nàng sẽ nghĩ gì ? Và những đêm tiếng đồng thử muộn trong lúc vắng vẻ, nó gợi cho nàng cảm tưởng gì? Và những ngày mà vô tình cả một làng cùng thử nhạc cụ như một ngày đại hội âm nhạc, tiếng đối đáp, tiếng kêu gọi, tiếng la, tiếng rền, tiếng trong, tiếng đục … như tất cả muôn vạn dân Thượng kéo rốc cả về, hiện diện ở phía sau lũy tre xanh đàng kia, sắp sửa mở đại lễ, đại tiệc, nàng sẽ cảm giác, cảm tưởng ra sao ? Tự nhiên nỗi buồn của tôi gieo theo âm hưởng tiếng đồng đi tìm tâm sự của người kỳ nữ bất đắc dĩ của gió trăng ngàn. Tôi không hiểu tương lai sẽ xô đẩy nàng về đâu.
Về đâu ? Về một nơi thật thê thảm của đời gái giang hồ. Nàng đã được một khách làng chơi chiếu cố, không phải để tìm hoa nguyệt mà để sang bệnh hoa liễu. Thời đó, những kẻ có bệnh hoa liễu tin là nếu mình sang bệnh được cho gái khác, mình sẽ được nhẹ bệnh đi. Không sang được cho gái Việt quá tinh ranh, hắn đã tinh ranh tìm gái Thượng ! Thành ra nàng bây giờ là mối ám ảnh hãi hùng đối với mụ chủ. Một hôm trời mưa gió, mụ đánh đuổi nàng ra đường, đóng chặt ngõ không cho vào.
Tôi không hiểu đời nàng kết thúc ra sao.
*
Nhiều năm xa quê hương tôi vẫn yên trí anh Cảo vẫn sống đầy đủ. Vẫn hiên ngang mang những âm thanh lạ lùng từ núi rừng về, tạo ra những cái chứa đựng giả mạo. Vẫn tự do trụy lạc và mang cái tinh thần trụy lạc đó gieo rắc ở núi rừng. Vẫn chất đầy túi những món tiền kiếm được nhờ đôi lỗ tai kỳ diệu.
Nhưng tôi cũng lại lầm nữa.
Một người lái buôn nhạc cụ cho tôi biết đã bắt gặp xác anh Cảo trên một con đường mòn vào một làng Thượng. Người lái buôn biết chắc là xác anh tuy không còn cái đầu.
Có lẽ dân Thượng muốn nói gì với cái đầu của anh ở một nơi khác. Nơi mà xác anh không đến được nữa …