Voltaire (1694 - 1778) |
Tác Giả: Saigon Echo sưu tầm | |||||
Thứ Bảy, 29 Tháng 5 Năm 2010 10:41 | |||||
François-Marie Arouet (21 tháng 11 năm 1694 – 30 tháng 5 năm 1778; phát âm: Vôn-te), nổi tiếng qua bút hiệu Voltaire, là một nhà văn học, tác giả, bình luận gia, nhà thần luận và triết gia người Pháp. Voltaire
Qua những bài bình luận có tính châm biếm, Voltaire thường chỉ trích Giáo hội và nhà nước Pháp. Ông được xem như một nhân vật có tiếng và quan trọng lúc sinh thời. Tiểu sử Voltaire sinh năm 1694 tại thủ đô Paris ra trong một gia đình cha là một quan chức thuế và mẹ là quý tộc dòng dõi. Ông được giáo dục bởi các giáo sĩ dòng Tên, được học tiếng Hy Lạp và tiếng La Tinh. Sau này ông còn thành thạo các tiếng Anh, Ý và Tây Ban Nha. Ông ban đầu làm thư ký rồi sau chuyển hẳn sang nghiệp viết. Ông chủ yếu viết văn thơ chỉ trích xã hội đương thời và do vậy bị đày sang Anh. Nơi ông chịu nhiều ảnh hưởng và sau ba năm đi đày ông đã viết Lettres philosophiques (Những lá thư triết học về nước Anh). Về Pháp ông ở tại lâu đài Château de Cirey tại mạn biên giới giữa vùng Champagne và Lorraine. Chính nơi đây ông bắt đầu quan hệ với Émile của Châtelet, vợ của người chủ lâu đài. Voltaire cùng bà nữ hầu tước này đã sưu tập nhiều sách vở tài liệu và cùng nhau nghiên cứu chúng lại cùng nhau làm thí nghiệm "khoa học tự nhiên" ngay tại lâu đài. Bên cạnh say mê khoa học tự nhiên và là tín đồ của Newton ông cũng nghiên cứu sử học và viết Essay upon the Civil Wars in France (Luận văn về Nội chiến ở Pháp) bằng tiếng Anh. Với tiểu sử vua Karl XII của Thụy Điển ông bắt đầu quan điểm phản đối tôn giáo của mình. Ông cùng bà nữ hầu tước còn cùng nhau nghiên cứu triết học, nhất là siêu hình học. Ông cùng nghiên cứu Kinh thánh và cho rằng cần phân tách nhà thờ ra khỏi nhà nước. Sau khi Nữ hầu tước mất, ông sang Phổ phục vụ Friedrich Đại đế. Mặc dù cuộc sống vương giả nhưng Voltaire vẫn giữ thói chỉ trích của mình và với tác phẩm Diatribe du docteur Akakia (Chỉ trích Bác sĩ Akkakia; tên đầy đủ Histoire du Docteur Akakia et du Natif de St Malo) mà ông phê phán vị chủ tịch Viện Hàn lâm Berlin đã khiến vua Friedrich nổi giận. Ông quay về Pháp nhưng vua Louis XV của Pháp cấm ông trở về thủ đô Paris nên ông quay sang Genève. Tuy ban đầu được đón chào nhưng ông lại viết luận văn chỉ trích triết học của Gottfried Leibniz qua tác phẩm Candide, ou l'Optimisme (Ngay thẳng, hay lạc quan; 1759) và ông lại rời thành phố. Những câu nói bất hủ • "Jamais vingt volumes in-folio ne feront de révolution ; ce sont les petits livres portatifs à trente sous qui sont à craindre. Si l'Évangile avait coûté douze cents sesterces, jamais la religion chrétienne ne se serait établie." (Lettre à d'Alembert, 5 tháng 4 năm 1766) "Hai mươi tập sách khổ lớn không bao giờ làm nổi một cuộc cách mạng; chính những quyển sách nhỏ giá ba mươi xu mới thực sự đáng sợ. Nếu Sách Phúc Âm có giá là một ngàn hai trăm sestertius (tiền La Mã) thì Kitô giáo có lẽ sẽ không bao giờ phát triển như ngày nay." • "Dans les commencements de la fondation des Quinze-Vingts... ...aux sourds de juger de la musique." (Petite digression) "Khi mới thành lập bệnh viện Quinze-Vingts... ...những kẻ điếc bình phẩm về âm nhạc." • "Il vaut mieux hasarder de sauver un coupable plutôt que de condamner un innocent." (Zadig) "Thà mạo hiểm cứu vớt một kẻ phạm tội còn hơn lên án một người vô tội." • "Que répondre à un homme qui vous dit qu'il aime mieux obéir à Dieu qu'aux hommes et qui, en conséquence, est sûr de mériter le ciel en vous égorgeant?" (Dictionnaire philosophique, mục từ "Fanatisme") "Trả lời thế nào đối với một người nói với bạn rằng anh ta tuân phục Chúa hơn là với người khác và cho rằng anh ta chắc chắn sẽ được lên thiên đàng khi cắt cổ bạn?" • "Je commence mon nom, vous finissez le vôtre." (Voltaire s'adressant au chevalier de Rohan) "Tôi bắt đầu bằng tên của tôi, ngài kết thúc bằng tên của ngài." • "Le fanatique aveugle, et le chrétien sincère Ont porté trop souvent le même caractère; Ils ont même courage, ils ont mêmes désirs. Le crime a ses héros, l'erreur a ses martyrs. Du vrai zèle et du faux vains juges que nous sommes! Souvent les scélérats ressemblent aux grands hommes." (La Henriade, chương 5, trang 169-202) "Kẻ cuồng tín mù quáng, cùng tín đồ Cơ Đốc thành thật Đều mang cùng tính cách; Họ đều can đảm, đều có cùng ham muốn. Tội ác có anh hùng của nó, sai lầm có tử sĩ của nó. Lòng nhiệt thành và vô vọng là những gì chúng ta có! Thường những kẻ côn đồ giống các vĩ nhân." • "Nous laisserons ce monde-ci aussi sot et aussi méchant que nous l'avons trouvé en y arrivant." (được trich bởi Schopenhauer) "Chúng ta sẽ để lại một thế giới điên rồ và tàn ác như khi chúng ta được biết khi bước vào trước đó." • "Quelques arpents de neige": ainsi Voltaire désigna-t-il les terres françaises du Canada donnant des arguments à ceux qui préféraient que la France les cède à l'Angleterre. Rappelons qu'à l'époque toute la Louisiane - bien plus grande que l'actuel État de Louisiane - était française et dotée d'un climat bien plus clément. "Một vài mẫu đất phủ băng tuyết": đó là cách mà Voltaire gọi những vùng đất Canada thuộc Pháp khi ông đưa ra lập luận đối với những người muốn nước Pháp nhượng lại cho Đế quốc Anh. Lưu ý là vào thời điểm đó, toàn bộ vùng đất Louisiana - rộng hơn bang Louisiana hiện tại - là còn thuộc Pháp và có khí hậu tương ôn hoà hơn. • "Les beaux esprits se rencontrent." "Những tư tưởng lớn thường gặp nhau." • "Un dictionnaire sans citations est un squelette." "Một từ điển không có các câu trích dẫn chỉ là một khung xương." • "L'écriture est la peinture de la voix." "Viết lách chính là hội hoạ của phát ngôn." • "On peut juger du caractère des hommes par leurs entreprises." "Có thể đánh giá tính cách của đàn ông thông qua sự mạo hiểm dấn thân của họ." • "Plus les hommes seront éclairés, et plus ils seront libres." "Càng hiểu biết, con người càng tự do." • "Si Dieu n'existait pas, il faudrait l'inventer." "Nếu Chúa không tồn tại thì cần phải phát minh ra ông ta." • "Soyez des immeubles effondrés de mensonges." "Thượng đế ban cho chúng ta hy vọng và giấc ngủ để đền bù cho những nỗi lo lắng của cuộc đời. "Providence has given us hop and sleep as a compensation for many cares of life." "Hãy đập tan toà nhà của sự dối trá." "Kẻ nào nghĩ mình là khôn ngoan thì, trời hỡi! Nó là kẻ đại ngu." • " He who think himself wise Oh Heavens! Is a great fool." Vắn tắt về tác phẩm Voltaire để lại một di sản các tác phẩm đồ sộ bao gồm tiểu thuyết, kịch, thơ, luận văn và các công trình nghiên cứu khoa học và sử học. Ông còn viết nhiều sách, rất nhiều tờ rơi và trên 20000 thư từ trao đổi. Quan điểm về tôn giáo Qua các tác phẩm Voltaire thể hiện quan điểm rằng không cần đức tin để tin vào Chúa. Ông tin vào Chúa nhưng là niềm tin lý tính. Ông cũng phản đối đạo Ki-tô quyết liệt nhưng không nhất quán. Một mặt ông cho rằng Giê-su không tồn tại và các sách Phúc âm là nguỵ tạo nên chứa đầy mâu thuẫn nhưng mặt khác ông lại cho rằng cũng chính công đồng đó đã gìn giữ nguyên bản mà không thay đổi gì để giải thích cho những mâu thuẫn trong các sách Phúc âm. Ông cũng gọi người da đen là động vật (trong Essai sur les mœurs) và thấp kém so với con người cả về mặt thể chất và tinh thần. Ông cũng viét nhiều về các chủng thổ dân khác nhau và có quan điểm bài Do thái. Triết học Tác phẩm lớn nhất của ông để lại là Dictionnaire philosophique (Từ điển Triết học) tập hợp nhiều bài viết riêng của ông và các bài ông viết trong Encyclopédie (Bách khoa thư) của Diderot. Trong đó ông phản bác thể chế chính trị đương thời của Pháp, nhà thờ Công giáo, Kinh Thánh và thể hiện văn phong, tính cách riêng của mình, Voltaire. Qua đó ông nhấn mạnh vai trò của tôn giáo lý tưởng là giáo dục đạo đức chứ không phải giáo điều. Ông cũng phản bác chế độ thuộc địa của Pháp ở Bắc Mỹ. Ảnh hưởng Voltaire xem giai cấp tư sản Pháp quá nhỏ bế và yếu ớt, giai cấp quý tộc thì tham nhũng và ăn bám, còn người dân thường thì dốt nát và mê tín, và nhà thờ thì giúp thêm cho các nhà cách mạng bằng thuế thập phân. Voltaire cũng không tin tưởng ở chế độ dân chủ mà ông xem là chỉ tuyên truyền những tôn sùng của quần chúng. Theo ông chỉ tin những vị vua theo chủ nghĩa Khai sáng chuyên chế với sự hỗ trợ của các nhà triết học như ông mới có thể dẫn tới sự thay đổi vì chỉ với những tính toán lợi ích hợp lý của nhà vua mới mang lại quyền lợi và thịnh vượng cho vương quốc và thần dân. Trong thư gửi Ekaterina II của Nga và Friedrich II của Phổ ông nhấn mạnh đến vai trò của quân đội và sử dụng vũ lực để "mang lại trật tự" như ông viết ủng hộ việc chia tách Liên minh Ba Lan - Litva. Nhưng ông cũng phản đối việc sử dụng vũ lực để giải quyết các vấn đề tranh chấp như trong Dictionnaire philosophique ông xem chiến tranh là "cỗ máy địa ngục" và người sử dụng chúng là "những kẻ giết người ngu ngốc". Voltaire còn được nhớ đến như một người tranh đấu cho quyền tự do cá nhân, tự do tôn giáo trong đó có quyền được xét xử công bằng và vạch rõ sự giả dối và không công bằng của chế độ ba đẳng cấp. Voltaire sống hai mươi năm cuối đời ở Ferney và mất ở Paris. Nay Ferney được đặt theo tên ông là Ferney-Voltaire. Lâu đài ông ở giờ là bảo tàng L'Auberge de l'Europe còn toàn bộ thư viện của ông vẫn được giữ nguyên tại bảo tàng quốc gia Nga tại Sankt-Peterburg.
|