Phổ Nghi (1908 - 1912) (1934 - 1945) |
Tác Giả: Saigon Echo sưu tầm | |||||||||||||||||
Thứ Hai, 16 Tháng 8 Năm 2010 11:45 | |||||||||||||||||
Phổ Nghi (phồn thể: 溥儀; giản thể: 溥仪; pinyin: Pu Yi; niên hiệu: Tuyên Thống; 1906 – 1967) là vị vua cuối cùng của triều đại Mãn Thanh nói riêng và của chế độ quân chủ Trung Quốc nói chung. Phổ Nghi
Tại vị 2 tháng 12 năm 1908 – 12 tháng 12 năm 1912 Tiền nhiệm Quang Tự hoàng đế Kế nhiệm Không có: Mãn Thanh sụp đổ Tên đầy đủ Thụy hiệu Tốn Hoàng đế Miếu hiệu Thanh Cung Tông Thân phụ Hàm Thân vương Sinh 7 tháng 2 năm 1906 Mất 17 tháng 10 năm 1967 (61 tuổi) An táng Nghĩa địa Cách mạng Bát Bảo Sơn Phổ Nghi (phồn thể: 溥儀; giản thể: 溥仪; pinyin: Pu Yi; niên hiệu: Tuyên Thống; 1906 – 1967) là vị vua cuối cùng của triều đại Mãn Thanh nói riêng và của chế độ quân chủ Trung Quốc nói chung. Ông lên ngôi lúc 2 tuổi, bị buộc phải thoái vị năm 1912 khi Cách mạng Tân Hợi bùng nổ và được Phát xít Nhật đưa lên làm vua bù nhìn của Mãn Châu Quốc ở Đông Bắc Trung Quốc năm 1934. Năm 1945, ông bị Quân đội Xô viết bắt. Từ 1949 đến 1959, ông bị Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quản thúc, giam giữ. Tháng 12 năm 1959, ông được tha và sống ở Bắc Kinh như một thường dân cho đến khi chết. Bà cố nội:
Việc nuôi dưỡng Phổ Nghi rất khó khăn để khiến cậu bé trở thành một đứa trẻ có sức khỏe và biết điều. Ban đêm, cậu bé được cung phụng như ông trời con và cậu bé đã không thể cư xử như một đứa bé bình thường. Ngoài bà vú nuôi họ Vương ra, những người lớn xung quanh cậu bé hoàn toàn xa lạ, giữ khoảng cách và không thể rèn luyện cho cậu bé. Khi cậu đến đâu mọi người đều phái quỳ xuống và khấu đầu. Do đó cậu bé Phổ Nghi đã phát hiện ra quyền lực tuyệt đối được sử dụng đối với các hoạn quan và cậu thường bắt đánh đập họ vì những lỗi nhỏ[3]. Cha cậu, Thuần Thân Vương, làm Nhiếp chính vương cho đến ngày 6 tháng 12 năm 1911 khi Hiếu Định Cảnh Thái hậu kế tục vị trí này để chống lại Cách mạng Tân Hợi. Long Dụ Hoàng hậu đã ký “Thanh Đế thoái vị chiếu thư” (清帝退位詔書) ngày 12 tháng 2 năm 1912, sau Cách mạng Tân Hợi theo một thỏa thuận do Viên Thế Khải làm môi giới trung gian với Triều đình ở Bắc Kinh và những người Cộng hòa ở Nam Trung Hoa: theo các “điều kiện ưu đãi của Hoàng đế nhà Thanh” (清帝退位優待條件) ký với Trung Hoa Dân Quốc mới, Phổ Nghi được giữ lại tước vị và được chính quyền Cộng hòa đối xử bằng nghị định thư được gán cho một vua ngoại quốc. Điều này tương tự như Luật đảm bảo của Ý năm 1870 ban cho Giáo hoàng một số đặc quyền và danh dự nhất định như đối với Vua Ý. Ông và Triều đình được phép ở lại trong nửa phía Bắc Tử Cấm Thành (các cung riêng) cũng như ở trong Di Hòa Viên. Hàng năm, Chính phủ Cộng hòa sẽ trợ cấp cho Hoàng gia 4 triệu dollar bạc, dù khoản này không bao giờ được chu cấp đầy đủ và đã bị xóa bỏ chỉ vài năm sau. Thời kỳ phục hồi đế vị ngắn (1917) Năm 1917, quân phiệt Trương Huân (張勛) đã phục hồi đế vị cho Phổ Nghi trong 12 ngày từ ngày 1 tháng 7 đến 12 tháng 7. Những công dân nam của Bắc Kinh đã phải nhanh chóng đội tóc đuôi sam giả để tránh bị phạt do đã cắt chúng năm 1912. Trong 12 ngày này, một quả bom nhỏ đã được một máy bay của Cộng hòa thả xuống Tử Cấm Thành và gây ra hư hại nhỏ. Sự kiện này được xem như cuộc không kích đầu tiên ở Đông Á. Sự phục hồi đế vị này đã thất bại do làn sóng phản đối khắp Trung Hoa và một sự can thiệp đúng lúc của một quân phiệt khác là Đoàn Kì Thụy (段祺瑞). Giữa tháng 7, các đường phố Bắc Kinh đã tràn ngập các đuôi sam giả đã bị các chủ nhân của nó nhanh chóng vứt đi cũng như chúng được vội vã mua để đội lên đầu vậy. Phổ Nghi bị trục xuất khỏi Tử Cấm Thành năm 1924 bởi Quân phiệt Phùng Ngọc Tường. Hoàng đế Mãn Châu Quốc (1933–1945) Ngày 1 tháng 3 năm 1933, Phổ Nghi đã được Nhật Bản dựng lên ngôi Hoàng đế Mãn Châu Quốc, một ngôi vị bị nhiều nhà sử học coi là nhà nước bù nhìn của Đế quốc Nhật Bản, dưới niên hiệu Đại Đồng (大同).
Năm 1934, ông đã chính thức đăng quang Hoàng đế Mãn Châu Quốc với niên hiệu Khang Đức (康德). Ông vẫn bí mật luôn ở thế xung đột với Nhật Bản nhưng bên ngoài vẫn tỏ ra phục tùng. Ông không hài lòng vì thành “Quốc trưởng” Mãn Châu Quốc và sau đó là là “Hoàng đế Mãn Châu Quốc” thay vì được phục hồi hoàn toàn thành Hoàng đế triều Thanh. Là một phần của Chính sách thuộc địa Nhật Bản ở Mãn Châu Quốc, Phổ Nghi phải ở Ngụy Hoàng cung trong thời gian này. Trong thời gian trị vì này, ông xung đột với Nhật Bản về y phục; người Nhật muốn ông mặc y phục Mãn Châu Quốc, còn ông xem đó là một sự sỉ nhục nếu mặc các y phục khác thay vì mặc y phục truyền thống của triều Thanh. Trong một trường hợp thỏa hiệp tiêu biểu, ông mặc một bộ đồng phục khi ngồi trên ngai và mặc long phục trong lễ tuyên cáo lên ngôi tại Thiên Đàn. Em trai Phổ Nghi là Phổ Kiệt (溥傑) cưới Hiro Saga, một người bà con xa với Nhật Hoàng Hirohito và được phong làm Hoàng tự (người kế vị).
Với sự cổ vũ của Mao và sau đó là Thủ tướng Chu Ân Lai và được Chính phủ công khai tán thành, Phổ Nghi đã viết tự truyện “Nửa cuộc đời trước đây của tôi” (我的前半生; bản dịch tiếng Anh có tên From Emperor to Citizen - Từ Hoàng đế đến Thường dân) vào thập niên 1960 cùng với Lý Văn Đạt, một biên tập viên của Cục Xuất bản Nhân dân Bắc Kinh. Mao Trạch Đông bắt đầu tiến hành Cách mạng Văn hóa năm 1966, và các Hồng vệ binh xem Phổ Nghi, một biểu tượng của chế độ phong kiến Trung Hoa là một mục tiêu dễ tấn công. Với sự bảo vệ của phòng công an địa phương, Phổ Nghi được bảo vệ dù khẩu phần ăn, các vật dụng sang trọng như bàn và ghế bành đã bị gạt bỏ. Phổ Nghi đã chịu ảnh hưởng về mặt thể chất và tình cảm. Ông đã qua đời ở Bắc Kinh do biến chứng của ung thư thận và bệnh tim năm 1967 trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa. Theo luật Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, xác ông được hỏa táng thay vì mai táng như tổ tiên của ông. Tro của ông được chôn tại Nghĩa địa Cách mạng Bát Bảo Sơn, nơi chôn cất các quan chức của đảng và nhà nước Trung Quốc. Trước khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập, đây là nơi chôn cất các nàng hầu trong các cung phủ và các thái giám. Năm 1995, bà quả phụ Lý Thục Hiền đã di chuyển tro của ông đến một nghĩa địa cách Bắc Kinh 120 km về phía Tây Nam. Phối ngẫu Phổ Nghi trước sau có cả thảy 5 người vợ chính thức: • Quách Bố La Uyển Dung (1906–1946, 郭布羅•婉容, Gobulo Wan Rong): Vợ chính thức, cưới năm 1922, được phong là Hiếu Khác Mẫn hoàng hậu (孝恪愍皇后) • Văn Tú (1909–1953, 文绣, Wen Xiu): cưới năm 1922, được phong là Thục Phi (淑妃). Ly dị với Phổ Nghi năm 1931. • Đàm Ngọc Linh (1920–1942, 谭玉龄, Tan Yuling): cưới năm 1937, được phong là Tường quý nhân (祥貴人). Năm 2004, tôn tộc nhà Thanh tôn xưng bà danh hiệu Minh Hiền hoàng quý phi (明賢皇貴妃). • Lý Ngọc Cầm (1928–2001, 李玉琴, Li Yuqin): cưới năm 1943, được phong Phúc quý nhân (福贵人). Ly dị với Phổ Nghi năm 1958. Được người đời mệnh danh là Mạt Đại hoàng nương (末代皇娘) • Lý Thục Hiền (1925–1997, 李淑賢, Li Shuxian): cưới năm 1962. Năm 2004, tôn tộc nhà Thanh tôn xưng bà danh hiệu Hiếu Duệ Mẫn hoàng hậu (孝睿愍皇后).
|