Ba ơi, mai là đến ngày báo hiếu người cha rồi! Con nhớ quê hương mình không có ngày lễ báo hiếu từ mẫu “Mother’s Day” hay ngày báo hiếu từ phụ “Father’s Day” như cái xứ con đang tạm dung đó ba! Con biết ba sẽ cười hiền lành mà bảo rằng:
“Con bé nầy nhiều chuyện rườm rà… Xứ mình cha mẹ mở mắt không lên vì chạy gạo hàng ngày cho cả nhà… thì còn có tâm tình gì mà nghĩ đến ngày báo hiếu, báo ơn… Công ơn cha mẹ trả không chỉ có ngày đó đâu con. Nhớ lúc đi tu nghiệp ở Mỹ, ba cũng biết ngày lễ báo hiếu từ mẫu hay từ phụ chớ. Nếu ở gần thì con đưa cha mẹ đi ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều… ở xa thì mua gởi cho cái áo, cái khăn… hay gởi cho mấy chục, có tiền thì được một trăm, hay nhiều hơn… Theo ba thì ơn cha mẹ sanh thành dưỡng dục như núi Thái, như đại dương vô bờ vô tận… chớ đâu chỉ có ngày đó thôi con”
Con sẽ vùi đầu vào ngực, ôm chầm lấy vai ba, mà bảo với ba rằng: “Ba ơi, theo con biết, mỗi năm xứ người có ngày báo hiếu là để gợi nhớ, để hâm nóng, để nhắc nhở lòng tôn kính, thương yêu, hiếu thảo của con đối với cha mẹ. Đó cũng còn tùy thuộc vào tâm tình và hoàn cảnh của mỗi người nữa ba. Còn con thì ba đừng có lo nghe! Con nhớ thương và kính yêu ba dài dài, đều đều… cho đến chết không hề lạt phai chút nào hết đó ba!” Nghĩa chép miệng thở dài! Cô nhìn những cánh hải âu bay lượn giỡn đùa, cùng tiếng kêu vang vang của chúng trên trời cao. Và cây mọc trong nước sát mé bờ, nhánh gie ra ngoài… Chim mẹ đang đút từng miếng mồi nhỏ vào miệng lũ chim con… Cô cảm thấy nao lòng thở dài nghĩ ngợi!
Vì cho đến bây giờ thật sự tôi cũng chưa biết mẹ mình là ai? Có thể mẹ tôi đã qua đời rồi chăng? Có thể vì hoàn cảnh nào đó bà không nhận con? Có thể, có thể, và có thể… Bao nhiêu nguyên nhân khiến tôi nghĩ và đặt câu hỏi trong đầu… Nhưng từ nhỏ đến giờ vẫn không có câu giải đáp. Vì tôi vẫn chưa bao giờ gặp người khi tôi biết đánh vần chữ “Mẹ” Khi tôi biết nhận xét, khi tôi hiểu, khi tôi biết nghĩ suy, và tôi biết tủi thân khi thấy những đứa trẻ tuổi cỡ mình có mẹ!
Bởi mẹ bỏ tôi cho nội, khi con bà chưa đầy 2 tuổi. Ngôi nhà cũ trống không của ông bà để lại, là di vật cuối cùng của gia đình cũng bị giặc tịch thu lấy làm chỗ hội họp cho đám thanh niên trong phường. Họ bảo đó là nhà của“Ngụy quân” Và bà cháu tôi đương nhiên có tên trong danh sách phải đi kinh tế mới, khi cha tôi còn bị họ nhốt trong tù cải tạo… Bà đùm túm cháu, lang thang sống hẩm hiu lây lất với nhau bữa khoai bữa đậu… ở xó chợ, gầm cầu! Vì chúng tôi không nhà, bà đã già còn bịnh tật liên miên nữa.
Cho đến ngày giặc thả ba về! Vì ba tôi bị bịnh phù thủng trầm kha không lao dịch nỗi. Giặc cho về vì lý do đơn giản ông ở lại chỉ tốn kém, chớ không có lợi lộc chi cho chúng cả… Tội nghiệp ba tôi, sau bao nhiêu năm bị đày đọa từ thể xác đến tâm hồn trong tù cải tạo. Khi trở về ông mất tất cả, cái gì cũng không có, chỉ có nhiều thứ bịnh! Nỗi đau buồn mất mát đeo dính ba người chúng tôi. Không có ăn thì tiền đâu thang thuốc… Vì bịnh tật, thiếu thốn, khổ đau, và nỗi buồn nối tiếp buồn theo… Ba tôi như người mất trí vì bà nội qua đời sau khi ông thả về chưa đầy ba tháng!
Uất hận ngập lòng, nhiều lần ba tôi đã ngữa mặt lên trời nghẹn ngào mà than rằng: - Ông Trời có bất công không? Hay kiếp trước tôi đã gây nhiều oan khiên cay nghiệt nên bây giờ nhận lãnh bao nhiêu đau khổ buồn thương lần lượt chụp phủ xuống cha con tôi…? Tội nghiệp con tôi còn nhỏ quá, xin cho tôi nhận lãnh tất cả mọi sự việc đã vay. Mong Ơn Trên linh thiêng giúp cho cháu có cuộc sống an ổn, cuộc sống thật sự của kiếp một con người bình thường trên cõi đời nầy. Không còn lối thoát, ba tôi phải đi xin ăn! Đó là việc làm duy nhứt để kiếm sống cho hai cha con tôi thôi. Vì khốn khổ chất chồng, và thương đau khóc mẹ, đôi mắt ông đã bị mù lòa! Tội nghiệp ba sống không bằng chết! Ông sống trong tâm tối không được ánh sáng mặt trời chiếu rọi, cùng nỗi đau đớn xâu xé, và xấu hổ ngữa tay xin tiền… trông nhờ vào từ tâm của thế nhân!
Tuy đôi mắt bị mù lòa, nhưng tâm hồn ba tôi trong sáng như nhật nguyệt. Ông thường dạy dỗ và nhắc nhở cho tôi biết ai là bạn, ai là kẻ thù… Ông cũng không vì bịnh tật và hoàn cảnh hiện tại của mình mà thất chí, rồi làm những chuyện không nên, hay nói năng xàm xỡ với những người chung quanh... Ông luôn giữ câu của người xưa: “Lành cho sạch/ Rách cho thơm” Ba tôi đi xin ăn từ sáng sớm tới chiều tối mới về. Nhưng không bao giờ cho tôi đi theo. Tôi được ở trong chùa để sư sai vặt và dạy cho học biết chữ. Với trí non nớt của mình, tôi không biết ông đang nghĩ suy gì? Nhưng tôi biết chắc chắn một điều là ý chí mãnh liệt để ba tôi sinh tồn vì không muốn con mình côi cút bơ vơ…
Bấy lâu nay cha con tôi nhờ sư cụ thương tình cho ở mé hiên chùa. Những ngày gió lạnh mưa chan về đến chỗ ở, có khi ông bị lạnh cóng cả người… Tôi la cầu cứu, sư cho uống nước gừng nóng, đốt củi lửa hơ, và sức dầu nắn bóp ông giãn gân cốt, và từ từ khỏe lại… Và hai năm nay, sau khi được một đồng đội ngày xưa, giờ là ngoại kiều về thăm quê hương bất ngờ gặp lại. Ông tốt bụng đã cho ba tôi tiền để làm vốn bán vé số. Kể từ sau đó ba tôi không còn đi xin ăn nữa! Gánh nặng xót xa trong lòng ông phần nào được nhẹ đi.
Cứ sáng sớm, vầng thái dương còn e ấp ở phương đông, chim chốc gọi đàn bay đi tìm mồi… Thành phố rộn tiếng còi, tiếng động cơ xe cộ, tiếng nguời bán hàng, tiếng trẻ con cười nói trên đường đến trường… Thấy chúng ôm tập sách, mặc áo quần lành lẽ… Hồn tôi se thắt, với những ước mơ thầm kín nở lớn trong lòng! Tôi dắt ba ra ngả tư đầu đường nhiều người qua lại. Giúp treo tấm ni-long che nắng che mưa để ông ngồi bán vé số. Và chiều chiều tôi đến dắt ba về… Khi thành phố lên đèn, dưới chân gốc những nhà cao cửa rộng… của bọn người sống trong đau khổ của dân… cha con hẫm hút có nhau. Khi vui ông thường kể cho tôi nghe những chuyện ngày xưa lúc còn là lính chiến… Ba kể trong say xưa trong niềm tinh lẫn niềm xúc động nghẹn ngào. Trong niềm tinh, niềm hy vọng thầm kín… Dần dà ba tôi đã lấy lại mức sống bình thường trong tâm hồn. Và thỉnh thoảng tôi còn bắt gặp niềm vui trong giọng nói, hoặc nụ cười nhẹ trên môi ông.
*Nắng Sài Gòn mấy ngày nay đẹp lắm… Phố phường vàng màu cờ và sắc áo lính đại diện các bịnh chủng từ chiến trường trở về thành phố… trong ngày lễ lớn. Ngồi chung với mấy bà tán dốc, bà Tám y tá (chích thuốc theo toa bác sĩ) lên tiếng trước: - Mấy chị biết con bà Hai bán bánh bò, bánh da lợn… ngoài chợ là cậu Nhân chớ? Tôi thấy cậu mặc bộ đồ lính Thủy Quân Lục Chiến, cùng một số quân nhân đại diện đơn vị về diễn hành ngày 19 tháng 6… Ôi đẹp trai thì thôi, và thật oai phong quá chừng chừng đi!
Bà Tư bán gạo, góp chuyện: - Thế cho nên, sau mùa Quân lực đó, khi thấy bóng dáng thấp thoáng chàng về phép, thì các em trong xóm lượn qua lượn lại nườm nượp. Họ mong coi có được lọt mắt xanh chàng để làm người yêu của lính chiến miền xa không? Chị Tám Dung thợ uốn tóc ngạc nhiên, lên tiếng: - Mấy chị nói thiệt hay nói giỡn, bộ có vậy sao? Chị Út Nga vợ ông Sáu Hiến, tài xế xe đò đường Long An-Sài Gòn. Chị là phụ nữ trẻ nhất trong nhóm đang bàn chuyện thiên hạ sự. Tánh tình vui vẻ và hay nói tiếu. Ngồi kế bà Tư cười khè khè chêm vào những lời lẽ vui nhộn… Tiếng cười chưa dứt, thì chị gống gân cổ trổi giọng hát nữa: - Có chớ, sao không thật! Mấy bà nghĩ xem: “Bạn ơi quan hà xin cạn chén ly bôi/ Ngày mai tôi đã đã đi xa rồi… Giữa đoàn hùng binh có tôi đi hàng đầu/ Trở về là khi nước non vui bình yên…” Rồi chị bắc qua bài khác, hát câu đầu nầy nhảy qua câu đầu kia: “Đừng chê anh lính đám cưới nhà binh em ơi/ Em sẽ là cô dâu đẹp tuyệt vời …/ Đám cưới bọn ta tưng bừng biết mấy…/… Tám xe lội nước theo sau/ Chín xe đại bá đi đầu… Cưới em nhỏ lắm em ơi/ cưới em mời mấy trăm người… Có ai bằng đôi ta đâu…” Mèn ơi, mấy em nghe đến đó quýnh đít thiếu điều năn nỉ ĩ ôi xin sửa túi nâng khăn là đàng khác… Coi bộ chưa đã, chị hứng chí rống họng lớn tiếng: - Nhưng“Sức mấy! Bỏ qua đi tám!” Bây giờ thì hai bông mai vàng trên ve áo cậu Nhân, đã bịt miệng các em cho mình là kiều nữ trong xóm… Bởi lúc chàng còn đi học, các nàng chê là thằng con bà bán bánh nghèo mạt rệp… Anh chàng lính chiến Nhân “nhà nghèo,nhưng học giỏi, và đẹp giai” tảng lờ làm ngơ các cô nàng trong xóm… Khiến các em vừa tức vừa tiếc hùi hụi, bởi ngày xưa lỡ dại chê nhằm người ta! Các bà phá lên cười rộ vui vẻ rồi trở về nhà ai phận nấy. Họ là những người phụ nữ lam lũ ở xòm nghèo, bình dân, vui vẻ, tốt bụng giúp đỡ chòm xóm khi ai đau bịnh, tối lửa tắt đèn… Họ hay chọc ghẹo đối phương nhưng để vui cười chung rồi qua đi chớ không nói xấu, nói hành nói tỏi, hay ác ý với ai…
Cho đến ngày kia, chàng Nhân dắt về giới thiệu với mẹ, cô Hồng Thủy làm ở sở Mỹ nơi chàng thường theo mấy người bạn ngoại quốc ghé mua hàng “PX” (cửa hàng của quân đội đồng minh, không có thuế) Bà Hai má Nhân là người mẹ dễ dãi, thương yêu và luôn chiều chuộng con. Bà nghĩ giờ anh cũng đã lớn rồi, có thương cô nào thì bà cưới cô ấy cho anh. Thế là đám cưới nhà binh được tổ chức đơn sơ nhưng đầy đủ lục lễ cho con mình. Dù là cảnh nhà mẹ góa con côi. Bà đi đủ lễ, chớ không nói đơn sơ mà giảm quà lễ để thiên hạ cười chê mẹ con bà. Sau ngày cưới, Hồng Thủy về sống với mẹ chồng. Còn Nhân thì luôn bôn ba ngoài chiến trận, đôi ba tháng mới về thăm gia đình một lần. Khi dâu sanh đứa con gái, bà nội đặt cho tên Nghĩa (Nguyễn Thị Nhân Nghĩa) con của ông Nguyễn Vĩnh Nhân và bà Trương Hồng Thủy…
Bà Hai nghỉ buôn bán, vui mừng sung sướng ở nhà trông coi tâm can bửu bối, là đứa cháu nội bé nhỏ của bà đó đa! Cho con mình yên lòng ngoài chiến tuyến, và con dâu đi làm! Một góc nhỏ xíu ở phương trời miền Nam tự do. Có gia đình bà Hai, không giàu sang nhung lụa, nhưng ấm êm hạnh phúc dâng đầy. Rồi thời thế đổi thay, “Ngày 30 tháng 4 năm 1975” thì giặc phương Bắc tràn vào cưỡng chíếm miền Nam. Gia đình bà Hai tan nát, Nhân bị giặc bắt cầm tù trong cải tạo. Hồng Thủy ra buôn bán hàng ở chợ trời, nhưng không bao lâu vợ anh đi luôn không về nữa! Bà Hai già yếu phải đi bươi rác, lượm lon… khổ cực biết chừng nào để chắt chiu nuôi cháu, và bám víu cuộc sống nghèo nàn chờ ngày con trai trở về… Đó là những gì Nghĩa nghe bà kể lại, và cô hiểu biết suy xét theo thời gian tuổi lớn khôn dần…
*Bà chủ tiệm nước Cao Thăng ở chợ thành Mỹ Tho, thường đi chùa làm việc từ thiện… Qua lời sư, bà biết được tình cảnh cha con tôi. Nên khi sắp sửa trốn chạy khỏi nuớc Cộng sản cưỡng chiếm… bà cho một người trong hai cha con tôi một chỗ ngồi rất nhỏ ở dưới tàu chở mấy trăm người vượt biên. “Một chỗ ngồi nhỏ xíu dưới hầm tàu, nhưng to lớn vô cùng, to lớn như một thế giới cho những kẻ đi tìm tự do! Và đó đã thể hiện một tấm lòng thương người, một tấm lòng Bồ Tát bao la như đại dương của bà chủ tiệm Cao Thăng và là chủ tàu vượt biên… đối với cha con chúng tôi” Tôi khóc sướt mướt vùi đầu vào ngực ba: - Con không đi, con không đi… con không thể xa ba… Chết sống chúng ta có nhau ba ơi…
Cặp mắt sâu hõm hàng ngày như hai cái hố nhỏ của ba càng sâu hơn. Ông lạnh lùng bảo tôi: - Nghĩa, hãy trả lời ba: “Con có thương, và muốn trả hiếu cho ba không?” - Dạ có, dạ có trên cõi đời nầy người con kính yêu nhứt là bà nội và ba… Ba chết con sẽ chết theo, ba ở đâu con sẽ ở đó… Xin ba đừng bắt con phải xa ba… Cho dù nơi con sắp đến là chốn Bồng lai tiên giới… nếu không có ba, con cũng không đi đâu ba ơi…
Ba ôm lấy đầu, và vuốt tóc tôi dịu giọng bảo nhỏ: - Ba cũng không muốn xa con gái ba, nhưng vì tương lai của con… Qua bên đó may ra con còn gặp được tấm lòng nhân của người khác xứ được đi học, và tiến thân… Con ở lại là gánh nặng cho ba, vì ba không lo cho con được! Dù muốn lo nhưng tình cảnh ba mù lòa, lại là một người thất bại bị kẻ thù trù dập cố tình hủy diệt… Ở đây chúng ta ăn không no, lạnh không áo, vô gia cư, không nghề nghiệp, thì tương lai con sẽ về đâu? Và con còn chuyện phải thay ba đang làm dang dở… Trả hiếu cho ba, thì con hãy nghe lời ba. Nghe lời ba tức là đã trả hiếu cho ba rồi đó con…
Tôi ôm chầm lấy ba vừa khóc vừa trả lời: “Dạ con nghe ba… Con sẽ quyết làm những gì ba đã dặn dò… Con thương ba lắm ba ơi!” *Trong cuộc đời bé nhỏ của tôi, chưa bao giờ tôi sung sướng bằng! Dù sau nầy ngày tôi ra trường y khoa, nhận bằng bác sĩ ở Mỹ, cũng không bằng! Tôi vẫn nhớ hoài, nhớ suốt đời kiếp nầy để không bao giờ quên ơn người, ơn đời.
Sáng nay trời trong, mây tạnh nhưng nắng gay gắt vô cùng. Tôi ngồi ôm bọc áo quần cũ vá chằng vá chịt của cha con tôi. Nhưng lòng tôi ngập tràn hạnh phúc… Cho dù trước mắt là hầm chông, là bẫy mìn… tôi vẫn thản nhiên tiến bước… vì có ba tôi bên cạnh. Mặc dù ông không nói lời nào, trong đôi mắt sâu thẩm không còn thấy ánh sáng mặt trời, nhưng trên khuôn mặt hằn nét thống khổ, kiên cường, bất khuất đó đã cho tôi niềm tinh và niềm hy vọng! Tiếng của đoàn người ngồi chờ xuống tàu lào xào, ồn ào lúc to lúc nhỏ, mặc dù người dẫn đường đã nhiều lần nhắc nhở giữ yên lặng…
Tôi nhớ rất rõ, mấy hôm trước khi phải theo đoàn người vượt biên. Tôi buồn rầu vì phải sắp xa cha tật nguyền, bịnh hoạn của mình. Ngồi bẹp dưới góc cây trắc bá diệp ngoài sân chùa, nghe sư tụng kinh có ca có kệ, khi lòng đang ngổn ngang trăm mối đau buồn, khiến tôi càng thêm buồn thúi ruột… Thút thít ngồi dựa gốc cây khóc một mình, lơ đãng đưa mắt nhìn trời xanh mây trắng, nhưng trong tâm tư tôi trời như đang tối sầm, tưởng chừng như mây khói đèn đang kín trên cao, và tôi cũng nghĩ dại mong trời sập xuống chết hết cho rồi!
Từ trong Chánh điện bước ra, dáng sư cao gầy. Mặt sư lúc nào cũng trang nghiêm, trầm tỉnh. Thấy tôi sư bảo: - Nghĩa, cha con đâu, ông đi bán vé số rồi à? Chừng nào ba con về, dắt lên gặp sư nghe… Con đang khóc đó hả? Tôi lau vội những giọt nước mắt còn động trên mi: - Dạ, con khóc vì không muốn xa ba con! Tội nghiệp ba mù lòa, con đi rồi không ai đưa ông ra chỗ bán vé số, không ai rót nước, đút cơm khi ông bịnh hoạn… Con thương ba con lắm sư ơi… Nhịn không được, tôi khóc ồ lên lớn. Sư vuốt tóc tôi chép miệng nhẹ thở dài rồi trở vào chùa… Tiếng cầu kinh hòa cùng tiếng mõ chuông lại ngân nga, êm êm vang vang trong không gian… Mùi khói, nhang, trầm hương theo gió nhè nhẹ thoảng đưa…
Chiều đó tôi dắt ba đến gặp như sư đã dặn. Tôi thấy sư đang tỉa nhành chết, lá úa của những cây kiểng trước sân chùa. Sư vẫn điềm đạm, nét mặt suy tư, và chầm chậm nói với chúng tôi: - Nghe thấy hoàn cảnh của cha con anh, ông chủ Cao Thăng bảo vợ cho cả hai cha con cùng đi luôn… Cha con tôi quì xuống lạy sư! Không nói gì, tay lần chuỗi, mắt u buồn hiền lành, từ tốn sư khẽ bảo: - Cầu xin Phật Tổ phù hộ cho cha con anh! Tôi chẳng giúp gì được, có lẽ do lòng thương con của một người cha như anh, đã làm động lòng người đời và động lòng Trời khiến xui như vậy… Phải luôn ăn hiền ở lành, bởi Ơn Trên không bao giờ phụ kẻ có lòng…
Sư quay qua vuốt tóc tôi: - Nghĩa, sư biết con là đứa trẻ ngoan! Qua tới bờ bến tự do con ráng học hành… làm người tốt, để trả hiếu cho cha con và trả ơn đời… Mười mấy ngày trên đường vượt tuyến sóng gió biển khơi. Rồi tàu cũng được cặp một bến ở Nam Dương Quần Đảo. Trên Hành trình vượt biên của tàu mang số “Mỹ Tho 2736” của chúng tôi chết gần cả trăm người vừa già vừa trẻ em, vì sóng gió dập dồn và yếu sức…
Huyệt mộ người cha kính yêu của tôi, cũng ở lòng đại dương trong chuyến bôn đào bằng đường biển nầy! *Hôm nay cũng trên trên chuyến tàu trên biển, tôi theo đoàn y tế thiện nguyện, đi trị bịnh cho những tù nhân trong trại tù Alcatraz, ở hòn đảo Alcatraz gần San Fransico thuộc tiểu bang California. Tôi nhìn trời nước bao la, nhìn thành phố San Fransico nhà cái cao, cái thấp… chập chùng san sát như dính liền nhau. Cả thành phố dưới bầu trời rạng rỡ nắng mai, và như nằm lững lờ trên mặt nước trong xanh lao xao sóng bủa.
Ba ơi, con đang ở trên một nước tự do, ngắm nhìn trời xanh, in những vầng mây trắng cuồn cuộn nhẹ trôi là đà. Nắng mai chiếu lung linh, gió mát thổi bồng mái tóc con… Màu nước biển xanh và trong vắt thấy cả cá lội nhỡn nhơ… Con nhớ ba lắm, con thương ba vô cùng… Con gái ba đã không phụ lòng ba, giờ con đã thành tài như ba ước mong… Ngoài những giờ làm việc ở bịnh viện chuyên khoa về mắt… Thời gian còn lại, con ghi danh hành nghề trong các đoàn y tế thiện nguyện. Con đã đi Thái Lan, Cam-Bô-Chia, các nước vùng dân nghèo… Cả ở Ép-Phi-Ca… nữa đó ba. Nhưng con chưa trở về cố quốc! Vì nơi đó chưa đổi lại màu cờ ngày xưa của Việt Nam Cộng Hòa. Sư cụ giúp chúng ta đã viên tịch… Gia đình ông Cao Thăng đang ở Canada (bà qua đời từ mấy năm trước) Các con ông đã thành nhân.
Ba và lời ba đã dạy dỗ là kim chỉ Nam đã và sẽ làm hành trình cho con suốt cuộc đời nầy! Ngày xưa ba đi lính vì an nguy cho gia đình và dân tộc. Không kể đến thân mình, ba cùng đồng đội bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải quê hương đất nước, cho một miền Nam Cộng Hòa Tự Do của chúng ta. Bây giờ con gái ba làm những gì con có thể làm được như ba dạy bảo là giúp người, giúp đời, và… Ba ơi, mặc dù ba nay đã ra người thiên cổ, nhưng con biết ba lúc nào cũng quanh quẩn bên con, nhắc nhở con, giúp đỡ con gái ba. Con thấy tủi thân không có ba như các bạn bè. Ai còn cha thì xôn xao mua quà nầy quà kia cho cha, trong ngày lễ vinh danh người cha…
Thưa ba, mỗi năm ngày báo hiếu từ phụ, lại cận kề ngày Quân Lực của Việt Nam Cộng Hòa. Con xin gởi ba tấm lòng thành ghi nhớ ơn tiền nhân, nhớ ơn ba trong ngày báo hiếu từ phụ. Ba đã cho con dáng dáp hình hài lành lặn nầy. Ba cho con tâm hồn tươi vui, khỏe mạnh nầy. Ba đã cho con tất cả, tất cả những gì con hiện có… Con đã làm những việc thiện mà ba dặn dò chỉ dạy… Nhưng con vẫn còn nợ ba!
Bởi trước khi lìa đời, ba đã trăn trối: “Hãy dong ruỗi con đường ba đi còn dang dở…” Xin lỗi ba, chúng con những người trẻ lưu vong sẽ hoàn tất trong ngày không xa… Ba ơi, con còn nợ ba!
Mùa báo hiếu từ phụ. Mùa Quân Lực VNCH, 19 tháng 6 Tệ xá Diễm Diễm Khánh An DƯ THỊ DIỄM BUỒN
VIẾT CHO CHỒNG EM “NGƯỜI LÍNH CỘNG HÒA”
Em dắt con thăm chồng nơi đất Bắc Ngày giặc vào cháu chưa được lên hai Vì sa cơ, cha lâm cảnh tù đày… Giặc chụp mũ tội: “Ngụy Quân bán nước...” Trại cải tạo giam những người trí thức Của miền Nam, mài miệt ghế nhà trường Ra ngành nghề... làm lính trấn biên cương Khắp các ái địa đầu vùng tuyến lửa... Chàng yên tâm có em lo nhà cửa Bốn Quân khu, Bến Hải đến Cà Mau... Chặn thù, tiếp Miên, chiến đấu Hà Lào… Cùng đồng đội xông pha lòng đất địch Lính Cộng Hòa hào hùng xây chiến tích Chống xâm lăng càn quét lũ bạo tàn Bọn Cộng nô phải vỡ mật, teo gan Hải, Lục, không quân, Thiên thần Mũ Đỏ… Bao thống khổ nước nhà sau bỏ ngỏ! Tháng Tư Đen! Bức tử phải tan hàng Những chàng trai đi gìn giữ giang san Bị giặc bắt ải đày nơi hiểm nghiệt! Bao nhiêu năm đau lòng dân tộc Việt Bấy nhiêu năm đất nước phủ màu tang Giặc cắt chia lãnh thổ hiến ngoại bang Dẫn Tàu Cộng! Làm tan hoang đất nước Em dắt con thăm nuôi chồng xuôi ngược Nam Hà, Hàm Tân, Tiên Lãnh, Vườn Đào... Chồng em tù ngục lận đận lao đao… Ngày trở lại, cháu đã tròn đôi chín! Đó là tuổi mộng mơ yêu màu tím Thuở ngày xưa, em sung sướng đến trường Nay con em vì đất nước tan thương! Cha cải tạo, đói ăn, không lành áo... Mọi thủ đoạn giặc dối lừa chao đảo Đảng độc tài nghiền nát tuổi xuân xanh Nhồi sọ, nhiễu nhương... bóp vỡ mộng lành Lớp trẻ Việt... tương lai như bọt biển! Chồng của em tròn đời là lính chiến Chàng vững lòng dù thời cuộc đổi thay Vẫn kiên tâm chờ đợi có một ngày Dân tộc Việt đứng lên giành Chánh nghĩa Giờ đã điểm! Mọi người đà thấm thía... Biết khổ đau dưới ách kẻ vô nhân… Hiểu thế nào lòng dạ bọn vô thần… Khi nước nhà đấm chìm trong tay giặc! Mười Chín Tháng Sáu! Là ngày Quân Lực! Nhớ ngày xưa! Ôi xao xác bâng khuâng! Xót quê hương! Tàu Cộng chiếm đoạt dần... Ôi, người lính Cộng Hòa yêu nước Việt!.
|