Luân Lý Về Nhẫn |
Tác Giả: Dalai Lama | |||
Thứ Hai, 02 Tháng 3 Năm 2009 08:56 | |||
Tôi tin rằng sự triển khai tâm từ bi, mà hạnh phúc tùy thuộc vào đó, đòi hỏi một khuynh hướng nhị phân. Một diện, chúng ta cần phải giới hạn các yếu tố ngăn trở từ bi. Mặt khác, chúng ta cần vun bồi các yếu tố tiếp dẫn từ bi. Nhưng chúng ta đã thấy, những gì có tính cách tiếp dẫn từ bi là tình thương, nhẫn nại, bao dung, tha thứ, khiêm cung, vân vân. Điều ngăn trở từ bi là thiếu sự giới hạn nội tại mà ta có thể nhận ra như nguồn gốc của mọi hành vi vô luân. Bằng sự chuyển cải thói quen và xu hướng, chúng ta có thể bắt đầu kiện toàn trạng thái tổng quát của tâm và trí (kun long) — nơi từ đó hành động phát khởi. Điều trước tiên, bởi vì phẩm chất tâm linh tiếp dẫn từ bi sẽ kéo theo hành vi luân lý tích cực, nên cần phải vun bồi một thói quen giới luật nội tại. Tôi không phủ nhận đó là một quyết định chủ yếu, nhưng ít ra chúng ta vốn đã quen thuộc với nguyên tắc. Thí dụ, khi biết được tánh chất hủy hoại, chúng ta sẽ giới chế bản thân mình và con cái không dễ dãi trong việc dùng thuốc. Tuy nhiên, rất quan trọng phải nhìn nhận rằng, giới hạn các phản ứng trước ý niệm và cảm xúc tiêu cực không phải là vấn đề chỉ đè nén chúng: điều quan yếu chính là nhận thấy rõ tánh chất hủy hoại của chúng. Nếu chỉ được bảo rằng ham muốn — một thứ cảm xúc có tiềm chất rất mạnh mẽ và hủy hoại — là tiêu cực, sẽ không đủ cung ứng một sức kháng cự mạnh mẽ đối với nó. Nếu chúng ta chỉ ra lệnh cho đời sống ngoại diện nhưng lại bỏ quên đời sống nội tâm, sẽ khó lòng tránh khỏi nghi hoặc, lo âu, và các thứ nhiễu loạn khác bành trướng, rồi hạnh phúc xa lìa ta. Đó là vì, không như giới luật vật lý, giới luật nội tại — hoặc tâm linh — không thể đạt đến bằng áp lực, mà chỉ bằng nỗ lực tự nguyện và tinh tấn. Nói cách khác, hành xử một cách đúng luân lý bao gồm nhiều hơn là chỉ tuân theo luật pháp hay giáo điều. Tâm vô giới luật chẳng khác nào như một con voi hoang. Nó đi phá bậy ngoài tầm kiểm soát, sẽ gây tàn hại lớn lao. Nhưng tác hại và đau khổ thường gặp như kết quả của thất bại trong việc giới chế các thúc đẩy tiêu cực của tâm còn vượt quá tác hại do một con voi phá phách. Không những các thúc đẩy đó có thể mang đến sự tàn phá sự vật, chúng còn có thể tạo thành một nỗi khổ dài lâu cho người khác và chính ta. Nói thế không nghĩa là tâm (lo) vốn có tánh tàn phá. Dưới ảnh hưởng của ý tưởng hoặc cảm xúc tiêu cực mãnh liệt, tâm có vẻ như chỉ có một tánh chất đơn biệt. Nếu như, lấy thí dụ, thù ghét là đặc tánh không biến chuyển của tâm thức, thế thì tâm thức hẳn phải luôn luôn thù ghét. Rõ rệt không phải như thế. Cần có một sự phân biệt quan trọng giữa tâm thức như tự nó, và các ý niệm cùng cảm xúc do tâm kinh nghiệm. Tương tự, trong khi thỉnh thoảng một kinh nghiệm mạnh mẽ có thể xâm lấn chúng ta, sau đó khi quán xét lại, ta sẽ không thấy cảm động nữa. Khi còn bé, tôi thường hay khích động quá đáng, vào cuối năm, lúc nghỉ lễ "Monlam Chenmo". Đó là Đại lễ Cầu nguyện đánh dấu sự khởi đầu của Tân niên Tây tạng. Trong khả năng như một Đạt lai Lạt ma, tôi đóng vai trò quan trọng trong lễ này, phải dời từ Potala sang một dãy phòng tại đền Jokhang, một trong các thánh điện chủ yếu của Tây tạng. Khi thời điểm càng cận kề, tôi càng bỏ nhiều thời gian để mộng giữa ban ngày đến viễn ảnh đó, nửa sợ và nửa mừng, và ngày càng học ít đi. Cảm giác sợ hãi của tôi là do ý tưởng đến bài kệ thuyết thật dài mà tôi phải đọc thuộc lòng trong chánh lễ, sự khích động là do ý tưởng đi ngang qua đám đông khổng lồ các người hành hương và thương khách bày hàng dài nơi khu chợ ngay trước các cơ ngơi điện thờ. Mặc dù cả hai cảm xúc vừa quá khích động lẫn quá sợ hãi tôi cảm thấy lúc đó rất thật, nhưng ngày nay, nghĩ lại, tôi chỉ cười vì các hồi niệm đó. Bây giờ thì tôi khá quen thuộc với đám đông. Và, sau nhiều năm thật hành, việc đọc kệ không còn làm tôi bối rối nữa. Chúng ta có thể nhận thức bản chất của tâm như là nước trong hồ. Khi nước bị một cơn giông bão quậy dậy, bùn từ dưới đáy sẽ vẩn lên, và nước đục ngầu. Nhưng bản chất của nước không phải là dơ bẩn. Khi cơn giông qua đi, bùn lắng xuống, và nước trong sạch trở lại. Cũng thế, mặc dù chúng ta thường cho là tâm, hoặc trí, là một thực thể cố định và bất biến, khi quán xét sâu xa hơn, ta thấy nó hàm chứa cả một quang phổ các sự kiện và kinh nghiệm. Những thứ này gồm cả các tri giác cảm xúc của ta, tiếp thụ các đối tượng một cách trực tiếp, cũng như các ý tưởng và tình cảm, qua phương tiện truyền đạt của ngôn ngữ và khái niệm. Tâm rất năng động: bằng nỗ lực tinh tấn ta có thể ảnh hưởng các biến chuyển trong trạng thái tinh thần và cảm xúc. Chúng ta biết, chẳng hạn như, sự thoải mái và tự tin có thể giúp đánh tan sợ hãi. Tương tự, các hình thái cố vấn dẫn đến một sự tỉnh thức cao hơn, cùng với sự thân ái, có thể giúp giải trừ áp lực tinh thần. Sự nhận xét thấy cảm xúc và tâm thức không cùng là một, cho biết chúng ta không phải bị cảm xúc điều khiển. Trước khi hành động, ắt có một sự kiện tinh thần và tình cảm mà ta có thể được ít nhiều tự do phản ứng; mặc dù, trừ phi học biết giới luật tâm trí, ta sẽ khó thật hành được thứ tự do này. Lại nữa, cách phản ứng trước các sự kiện và kinh nghiệm còn thẩm định nội dung đạo đức của các hành động, trên tổng quát. Một cách giản dị, điều đó có nghĩa, nếu chúng ta hành xử một cách tích cực, đặt ích lợi của tha nhân trước bản thân, hành động của ta sẽ tích cực. Nếu ta phản ứng tiêu cực, bỏ quên tha nhân, hành động của ta tiêu cực và vô luân. Theo sự hiểu biết đó, chúng ta có thể nhìn tâm, hoặc trí, như là một vị tổng thống hoặc một vị vua chúa rất liêm khiết, rất trong sạch. Dưới cái nhìn đó, ý niệm và cảm xúc của ta như các vị bộ trưởng. Một số trong bọn họ đưa ra các lời cố vấn tốt, số khác lại xấu. Vài người đặt sự an sinh của tha nhân làm mối quan tâm chính yếu, người khác chỉ biết đến tư lợi hạn hẹp. Trách vụ của ý thức chủ yếu — lãnh tụ — là phán quyết những người thừa hành nào đưa ra lời cố vấn tốt, và người nào xấu, người nào đáng tin cậy và người nào không, và phải hành động theo lời khuyên của người này chứ không phải người kia. Trong ý nghĩa đó, sự kiện tinh thần và cảm xúc nào đưa ra các lời khuyên xấu, có thể xem như là một hình thái của đau khổ. Thật vậy, ta thấy rằng nếu cho phép chúng phát triển ở một mức độ đáng kể, tâm sẽ bị đẫm đầy cảm xúc, và ta sẽ kinh nghiệm một thứ rối loạn nội tại. Điều đó cũng có một diện vật lý. Vào một giai đoạn giận dữ nào, chẳng hạn, ta kinh nghiệm một rối loạn mạnh mẽ đến sự quân bình thường lệ, điều đó người khác có thể cảm nhận được. Tất cả chúng ta đều quen thuộc cùng sự kiện toàn bộ không khí bị phá hỏng khi chỉ một người trong gia đình đang khó chịu. Khi chúng ta nổi giận, cả người lẫn vật đều có xu hướng muốn xa lánh. Đôi khi cơn rối loạn đó quá mạnh đến độ thật khó chịu đựng nổi. Rồi có thể đi đến việc trút lên đầu người khác. Khi làm vậy, chúng ta thể hiện ra bên ngoài sự rối loạn bên trong của mình. Không hẳn bất cứ tình cảm hoặc cảm xúc nào gây khó chịu cho ta đều nhất thiết là tiêu cực. Sự đóng góp tiên khởi làm phân biệt được loại cảm xúc bình thường và loại làm tiêu hao an bình chính là sự cấu thành nhận thức tiêu cực của nó. Một giây phút phiền muộn không thể trở thành nỗi sầu thê thảm trừ phi chúng ta cứ bám lấy nó và thêm thắt vào đó các ý niệm và tưởng tượng tiêu cực. Trong trường hợp tôi kể trên, ngoài hai cảm xúc nền tảng — vừa sự khích động tôi cảm thấy do đám đông người hành hương và thương khách, vừa nỗi lo sợ tôi có vì phải đọc thuộc lòng bài kệ quá dài — còn thêm vào trên đó một yếu tố nhận thức. Qua các giấc mơ ban ngày khá ám ảnh, sự tưởng tượng của tôi áp đặt một thứ gì vượt trên thực tế của hoàn cảnh. Và đó là các câu chuyện tôi tự bảo mình về sự kiện sắp xảy ra, đã làm tiêu hao sự thanh tịnh cơ bản của tôi. Không phải bất cứ nỗi lo sợ nào cũng trẻ con như câu chuyện tôi vừa kể. Có những trường hợp chúng ta kinh nghiệm một loại sợ hãi duy lý hơn. Loại này, chẳng những không tiêu cực, lại còn có thể thật sự hữu ích. Nó có thể giúp chúng ta đề cao sự thức tỉnh, và tạo một số năng lực cần thiết để tự bảo toàn. Vào đêm đầu tiên tôi trốn khỏi Lhasa năm 1959, khi rời nhà trong trang phục như một người lính, tôi đã cảm giác loại sợ hãi đó. Nhưng vì không có thời giờ và cũng không muốn nghĩ đến, nó đã không làm phiền tôi là bao. Ảnh hưởng lớn nhất của nó là giúp cho tôi thật tỉnh táo. Có thể nói đó là một giai đoạn sợ hãi vừa chánh đáng vừa hữu ích. Nỗi sợ chúng ta cảm thấy liên hệ đến một hoàn cảnh nào đó khá tế nhị và quan trọng, có thể xem như chánh đáng. Ở đây tôi nghĩ đến điều mà chúng ta cảm thấy khi phải đưa ra một quyết định có một tầm ảnh hưởng đáng kể đến đời sống của người khác. Nỗi sợ này có thể làm ta rối loạn một cách nào đó. Nhưng nguy hiểm và tiêu cực nhất là nỗi sợ hoàn toàn phi lý lại có thể phủ ngập và làm tê liệt chúng ta. Ở Tây tạng, chúng tôi gọi loại sự kiện và cảm xúc tiêu cực đó là "nyong mong", nghĩa là "điều phiền nhiễu đến từ bên trong" hoặc như thường được dịch là "cảm xúc phiền nhiễu." Qua nhãn quan đó, nói chung, tất cả các ý niệm, cảm xúc, và sự kiện tinh thần phản ánh một trạng thái tâm tiêu cực và thiếu từ ái sẽ làm tiêu hao kinh nghiệm về an bình nội tại của ta. Tất cả các ý niệm và cảm xúc — như hận thù, giận dữ, ham muốn, tham lam, tỵ hiềm, vân vân — đều xem như là các thứ phiền nhiễu theo nghĩa đó. Chúng ta thấy các cảm xúc phiền nhiễu này rất mạnh nếu ta không làm việc gì để kháng chế chúng, mặc dù không có thứ nào có giá trị đáng tồn tại, chúng lại có thể đưa ta đến mức điên loạn và có khi tự tử. Nhưng bởi vì các cực đoan đó tương đối hiếm, ta cứ hay xem cảm xúc tiêu cực như thành phần dính liền cùng tâm mà ta chỉ có thể làm rất ít việc kháng chế chúng. Tuy nhiên, nếu không nhận ra tiềm chất phá hoại của chúng, ta không thể thấy sự cần thiết phải đối phó chúng. Trái lại, ta còn có xu hướng nuôi dưỡng và tăng cường chúng. Điều này tạo thêm đất cho chúng nảy nở. Tuy nhiên, nếu ta nhận thấy được bản chất của chúng, vốn chỉ hoàn toàn là phá hoại. Chúng là nguồn chủ yếu của hành vi vô luân. Chúng là nền tảng của lo âu, ẩn ức, lẫn lộn, và căng thẳng, vốn là nét đặc thù trong đời sống người đương đại. Ý niệm và cảm xúc tiêu cực là các thứ nhiễu hại nguyện vọng cơ bản nhất của chúng ta — muốn hạnh phúc và tránh đau khổ. Khi ta hành động dưới ảnh hưởng của chúng, sẽ lãng quên tầm ảnh hưởng của hành động mình đối với người khác: như thế chúng chính là nguyên nhân của hành vi phá hoại cả đối với người khác lẫn chính mình. Giết người, xì căng đan, và lừa đảo tất cả đều có cội nguồn từ cảm xúc phiền nhiễu. Đó là lý do tôi cho rằng tâm vô giới luật — tức là tâm chịu ảnh hưởng của giận ghét, thù hận, tham lam, kiêu mạn, ích kỷ, vân vân — là nguồn của tất cả mọi khó khăn của ta, không phải loại đau khổ không thể tránh (bệnh, lão, tử, vân vân). Thất bại trong việc kiểm soát phản ứng trước các cảm xúc phiền nhiễu này là mở cửa cho đau khổ của cả ta lẫn người. Bảo rằng khi khiến người đau khổ chính ta cũng đau khổ, không phải hàm ý có thể áp đặt điều đó một cách hợp lý bất cứ lúc nào; chẳng hạn như, ta đánh người nào đó cũng tức là tự đánh mình. Tôi đưa ra một đề nghị tổng quát hơn thế. Đúng hơn, tôi muốn nêu rõ là tầm ảnh hưởng của hành động của ta — cả tích cực lẫn tiêu cực — đã ghi sâu trong tâm ta. Nếu quả đúng là mọi người đều có khả năng thiện cảm ở trình độ nào đó, tiếp theo đó, khi một cá nhân này hại cá nhân kia, tiềm năng đó bị phủ trùm lên, hoặc lắng đọng xuống bằng cách nào đó. Lấy trường hợp một người hành hạ tàn nhẫn người khác. Trí (lo) của họ, hoặc thô thiển hoặc ở trình độ ý thức của, có thể bị kềm kẹp trong một thứ tư tưởng hoặc lý tưởng tác hại nào đó khiến họ nghĩ nạn nhân đáng bị hành xử như thế. Niềm tin đó — ở một mức độ có thể đã được chọn lựa trước — cho phép người tàn ác kia đè nén được cảm xúc của mình. Tuy nhiên, tận trong chiều sâu, vẫn bị ràng buộc trở thành một mức ảnh hưởng nào đó. Về lâu sau, có một mức xác xuất cao là người hành hạ sẽ cảm thấy khó chịu. Đưa vào khuôn khổ này một thí dụ đã nói đến trước đây — về các nhà độc tài bất nhân như Hitler hay Stalin. Dường như lúc gần tàn đời, họ trở nên cô đơn, lo lắng, đầy sầu thảm và nghi ngờ, giống như con quạ sợ chính cái bóng của mình. Dĩ nhiên, số người đi vào cực đoan như vậy rất ít. Ảnh hưởng của các hành động tiêu cực tầm nhỏ còn vi tế hơn là các thứ trọng yếu. Thử lấy một thí dụ ít cực đoan về phương cách mà hành động tiêu cực tạo đau khổ cho ta và người, hãy quan sát câu chuyện của một đứa bé ra ngoài chơi và đánh lộn cùng một đứa khác. Ngay sau đó, đứa bé đánh thắng có thể kinh nghiệm một cảm giác thỏa mãn. Nhưng khi về nhà, cảm xúc đó tan biến đi, và một trạng thái tâm vi tế hơn hiện ra. Ở điểm đó, một cảm thức khó chịu hiện ra. Có thể mô tả cảm tưởng đó như một thứ vong thân khỏi bản ngã: cá nhân cảm thấy không "đúng." Trong trường hợp đứa trẻ ra ngoài chơi với bạn và vui vẻ cả buổi chiều cùng đứa bạn đó, sau đó, chẳng những có một cảm giác thỏa mãn ngay, nhưng khi tâm đã lắng xuống và sự khích động đã tiêu tan, sẽ có một cảm thức bình tĩnh và thoải mái. Một thí dụ khác về phương cách hành động tiêu cực tác hại đến người dễ dãi với chúng, có thể thấy qua câu chuyện về tiếng tăm của một cá nhân. Thông thường, người ta — ngay cả thú vật, trong vấn đề này — ghê tởm sự độc ác, hung tợn, lừa đảo vân vân. Điều này cho thấy nếu chúng ta có sinh hoạt tác hại đến người khác, mặc dù có thể được thỏa mãn nhất thời, người khác sẽ bắt đầu nhìn ta khác đi. Họ sẽ e ngại trước chúng ta, bối rối và nghi ngờ trước tiếng xấu của ta. Với thời gian, ta sẽ mất dần bạn bè. Theo cách đó, có tiếng tốt cũng là một nguồn hạnh phúc, chúng ta mang lại đau khổ cho chính mình nếu phá hoại nó. Thật thế, dù có vài ngoại lệ, chúng ta thấy nếu một người sống đời vô cùng ích kỷ, không quan tâm gì đến sự an sinh của kẻ khác, họ sẽ trở nên cô đơn và khốn khổ. Mặc dù họ có thể được một nhóm bạn vây quanh vì sự giàu có hoặc bối cảnh của họ, khi cá nhân ích kỷ hay hung hăng đó gặp thảm kịch, không những các người gọi là bạn đó biến mất, họ còn có thể thầm khoái trá nữa. Và hơn nữa, nếu người đó thật quỷ quái, có thể khi chết đi cũng chẳng mấy ai nhớ đến. Có khi người ta còn cảm thấy hài lòng — như nhiều người bị nhốt trong các trại tập trung giết người của Đức quốc xã hẳn cảm thấy thế khi các tay đồ tể bắt giam họ lần lượt bị xử quyết. Ngược lại, chúng ta thấy những người thật lòng quan tâm đến kẻ khác, họ rất được kính nể, có khi đến cả tôn thờ. Những người như thế khi chết đi, rất nhiều người buồn thương và tiếc nuối sự ra đi của họ. Lấy trường hợp của Mahatma Gandhi. Mặc dù học ở Tây phương, và có hoàn cảnh để hưởng thụ một đời sống thoải mái, ông chọn việc hoạt động cho người khác và sống gần như là một khất sĩ ở Ấn độ hầu có thể tận hiến đời mình cho công cuộc đấu tranh. Mặc dù tên ông giờ chỉ còn là kỷ niệm, nhưng nhiều triệu người vẫn tiếp tục hưởng tiện ích và cảm hứng từ các hành động cao thượng của ông. Khi quán sát về nguyên nhân thật sự của cảm xúc phiền nhiễu, chúng ta có thể định ra một số các yếu tố khác. Trong đó bao gồm cả thói quen của tất cả mọi người thường nghĩ đến chính bản thân trước khi đến người khác. Có thể kể cả xu hướng dự phóng các đặc điểm lên sự vật và sự kiện trước khi và bên ngoài thực tế xảy ra — như sự nhầm lẫn cuộn dây thừng thành con rắn. Nhưng vượt trên đó, bởi vì ý niệm và cảm xúc tiêu cực không hiện hữu độc lập cùng các hiện tượng khác, nên sự vật và sự kiện thật mà ta tiếp xúc đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo thành phản ứng của ta. Như thế không có thứ gì lại bất khả phát động chúng. Bất cứ thứ gì cũng có thể là nguồn của cảm xúc phiền nhiễu — không phải chỉ có đối thủ của ta mà cả bằng hữu và các thứ sở hữu quý báu nhất, kể cả chính bản thân ta. Điều này đề ra, bước đầu tiên của tiến trình đối phó thật sự cùng các ý niệm và cảm xúc tiêu cực là tránh các trường hợp và sinh hoạt thông thường có thể khiến chúng khởi dậy. Chẳng hạn như, nếu ta thấy mình sẽ trở nên giận dữ khi gặp một người nào đó, tốt nhất nên tránh đi cho đến khi phát huy được một nguồn nội lực nào khác hơn. Bước thứ nhì là tránh các điều kiện hiện thực dẫn đến các ý niệm và cảm xúc mạnh. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi ta phải học nhận thức các loại cảm xúc phiền nhiễu khi chúng khởi dậy trong ta. Việc đó không phải dễ. Trong lúc thù hận là một cảm xúc rất mạnh một khi phát huy trọn vẹn, trong các giai đoạn đầu tiên của sự chán ghét mà ta cảm thấy trước một đối tượng hoặc hiện tượng nào đó có thể rất tế nhị. Và ngay trong các giai đoạn tiến triển hơn, cảm xúc phiền nhiễu cũng không luôn luôn thể hiện rõ nét. Kẻ giết người có thể tương đối bình tỉnh vào lúc hắn bóp cò súng. Chính vì vậy, chúng ta cần phải chú ý kỹ lưỡng và tỉnh thức về thân xác và hành động của nó, về ngôn ngữ và điều gì mình phát biểu, và về tâm và trí cùng những gì ta nghĩ và cảm thấy. Chúng ta phải thận trọng trước bất cứ sự tiêu cực nhỏ bé nào, và luôn tự hỏi các câu như, "Tôi hạnh phúc hơn khi mang ý niệm và cảm xúc tiêu cực phá hoại, hoặc khi chúng thiện lành?" "Bản chất của tâm thức là gì? Nó có tự hiện hữu trong nó và do nó hay không, hoặc chỉ hiện hữu tùy thuộc vào các yếu tố khác?" Chúng ta cần phải nghĩ, nghĩ, nghĩ. Chúng ta phải làm như một nhà khoa học góp nhặt dữ kiện, phân tích, và thu hoạch các kết luận thích ứng. Đạt đến tri kiến về tánh chất tiêu cực của mình là một công tác trọn đời, và một công tác có khả năng cực kỳ vi tế. Nhưng trừ phi chúng ta thật hành, sẽ không thể nào thấy được phải làm từ điểm nào để chuyển hóa thiết yếu cuộc đời mình. Chúng ta có nên bỏ ra một phần thời gian và nỗ lực thường chỉ dùng vào các việc tầm thường — nói chuyện tầm phào và các thứ tương tự — hầu đạt đến một tri kiến về thực chất của cảm xúc phiền nhiễu chăng. Tôi tin rằng việc đó có một ảnh hưởng rất lớn lao đến phẩm chất của cuộc đời. Cả cá nhân lẫn xã hội đều hưởng lợi lạc. Một trong các điều trước tiên chúng ta cần khám phá là cảm xúc phiền nhiễu tác hại đến thế nào. Và khi càng phát huy được sự thẩm định về bản chất tác hại của chúng, ta càng xa rời xu hướng theo đuổi chúng. Chỉ nội điều đó cũng có một ảnh hưởng đầy ý nghĩa cho đời ta. Cần quán xét không những ý niệm và cảm xúc tiêu cực phá hủy kinh nghiệm an bình của chúng ta như thế nào, mà còn làm hao mòn cả sức khỏe. Trong hệ thống y khoa Tây tạng, giận dữ là nguồn gốc đầu tiên của nhiều bệnh chứng, kể cả các bệnh liên quan đến áp huyết cao, mất ngủ, và suy nhược bất thường — quan điểm này ngày càng được y khoa thay thế chấp nhận. Một hồi niệm tuổi thơ của tôi có thể phác họa được phương cách cảm xúc phiền nhiễu tác hại như thế nào. Khi còn ở tuổi vị thành niên, một trong các giải trí ưa thích của tôi là cứ táy máy sửa mấy chiếc xe hơi cũ của vị tiền nhiệm, Đạt lai Lạt ma thứ 13 đã sở hữu không lâu trước khi ngài mất năm 1933. Có tất cả là bốn chiếc, hai chiếc Austins nhỏ của hãng chế tạo Anh, một chiếc Dodge, một chiếc Jeep xập xệ, cả hai đều của Mỹ. Bốn chiếc này cộng lại hầu như là các chiếc xe hơi duy nhất tại Tây tạng lúc bấy giờ. Đối với một Đạt lai Lạt ma trẻ tuổi, các cổ vật bụi bậm đó thật vô cùng thu hút, và tôi cứ muốn làm cho chúng chạy trở lại. Giấc mơ thầm kín của tôi là học lái xe. Nhưng sau một thời gian đầy phiền toái cùng các viên chức chính quyền khác nhau, cuối cùng tôi mới tìm ra được một người biết chút đỉnh về xe hơi. Đó là Lhakpa Tsering, đến từ Kalimpong, một thành phố nằm cạnh biên giới Ấn độ. Một hôm, tôi còn nhớ, anh ta đang làm việc với cái máy của một trong các chiếc xe, thình lình, anh buông cái mỏ lết xuống, chửi thề lớn tiếng, và đứng bật dậy. Chẳng may, anh lại quên cái nấp xe còn đang mở phía trên đầu mình, và đụng vào đó thật mạnh. Nhưng rồi trước sự sửng sốt của tôi, thay vì cẩn thận cúi đầu lùi ra, anh lại càng nổi giận thêm lên, và đứng bật dậy một lần nữa, đụng đầu một lần thứ nhì càng mạnh hơn nữa. Tôi đứng sững sờ một hồi trước mấy món đồ cổ đó. Rồi sau đó, tôi không thể nào ngưng cười được. Lhakpa Tsering nổi giận như thế chỉ mang đến kết quả là hai vết trầy khá nặng. Đó chỉ là chuyện xui của anh. Nhưng từ điều đó, chúng ta có thể thấy phương cách mà cảm xúc phiền nhiễu phá hoại một trong các phẩm chất quý giá nhất của ta, gọi là, khả năng thức giác phân biện. Mất khả năng này, chúng ta sẽ không thể đánh giá giữa đúng và sai, thẩm định điều gì mang đến lợi lạc dài lâu và điều chỉ có lợi tạm thời cho ta và người, và nhận thức được kết quả từ hành động của mình; do đó sẽ không hơn gì loài thú mấy. Tuy có vẻ như nhỏ nhặt, nhưng dưới ảnh hưởng của chúng, ta có thể làm những gì mà bình thường ta không bao giờ nghĩ đến làm điều đó. Sự bế tắc của cơ năng quan yếu này cho thấy một đặc điểm tiêu cực khác của loại sự kiện tinh thần và cảm xúc. Các cảm xúc phiền nhiễu lừa dối chúng ta. Chúng có vẻ như trao tặng sự thỏa mãn. Mặc dù cảm xúc đó đến với ta mạo danh như là bảo vệ, như mang đến sức mạnh và sự táo bạo, thật ra thứ năng lực đó trên căn bản chỉ là mù quáng. Quyết định đưa ra dưới ảnh hưởng của nó thường chỉ là nguồn gốc của sự hối tiếc. Loại sân giận như thế rất thường là chỉ dấu một sự yếu đuối hơn sức mạnh. Nhiều người kinh nghiệm về các tranh cãi tệ hại đến độ người ta bắt đầu hành hạ nhau bằng ngôn ngữ, một dấu hiệu cho thấy sự yếu đuối của họ. Hơn nữa, chúng ta không cần sân giận mới có thể phát huy được can đảm và tự tin. Như chúng ta thấy, các phẩm tánh đó chỉ làm được qua các phương thức khác. Các cảm xúc phiền nhiễu còn chứa một diện phi lý. Chúng khích lệ ta giả thiết như các thứ bề ngoài là luôn cân xứng với thực tế. Khi chúng ta bắt đầu giận dữ hoặc cảm thấy thù ghét, ta có xu hướng nhìn người khác như là các đặc tánh của họ không thể nào biến đổi. Một người có thể trông thật đáng chỉ trích từ đỉnh đầu cho đến đế giày dưới chân họ. Chúng ta quên khuấy đi, cũng như ta, họ là chúng sanh đau khổ với cùng thứ ước vọng hạnh phúc và tránh đau khổ. Dù vậy, khi sức mạnh của cơn giận đã giảm bớt, chỉ cần dùng lẽ thường, ta cũng biết là họ trông không đến nỗi tệ lắm. Cùng tiến trình này nhưng đảo ngược chiều, là trường hợp cá nhân bị say đắm quá. Đối tượng sẽ trở thành thật đáng ham muốn, cho đến khi móng vuốt của cảm xúc phiền nhiễu buông lơi, thì họ trông cũng không có gì đáng gọi là hoàn hảo. Thật vậy, khi đam mê của chúng ta khởi dậy quá mạnh, có một sự nguy hiểm đáng kể hướng về phía đối cực kia. Cá nhân đã từng được thần tượng hóa, có thể trở nên đáng khinh hoặc đáng ghét, mặc dù đó cũng chỉ là một người từ đầu chí cuối. Các cảm xúc phiền nhiễu còn vô ích. Càng tiếp thụ chúng nhiều, ta lại càng ít chỗ dành các phẩm tánh — như lòng tử tế và tâm từ bi — và càng ít khả năng hầu giải quyết các vấn đề. Thật vậy, không khi nào các ý niệm và cảm xúc tiêu cực này lại giúp ích cho ta hoặc người khác. Chúng ta càng sân hận, thì người khác càng e dè xa lánh. Càng nghi hoặc, thì càng mất đi các người có thể tin cậy và trở nên cô độc. Càng tham dục, thì càng ít cơ hội triển khai được các liên hệ thích đáng cùng người khác, và càng cô đơn hơn. Hãy xem người có sinh hoạt bị điều động phần lớn do các cảm xúc phiền nhiễu, hoặc nói cách khác, do các ràng buộc ưa ghét thô thiển, đến từ tham dục, vọng cầu, kiêu mạn, vân vân. Người như vậy cũng có thể trở nên rất quyền lực và nổi tiếng. Tên của họ có khi còn ghi vào lịch sử. Nhưng sau khi họ chết, sức mạnh của họ cũng đi theo và danh vọng chỉ còn là một ngôn từ trống rỗng. Như thế quả thật họ đã đạt đến điều gì? Không ở đâu sự vô ích của cảm xúc phiền nhiễu lộ liễu bằng trường hợp sân hận. Khi trở nên sân giận, chúng ta ngưng cắt mọi thứ từ bi, thương yêu, rộng lượng, tha thứ, bao dung, và nhẫn nại cùng một lúc. Chúng ta tự dẹp mất các thứ mà hạnh phúc hàm chứa. Và chẳng những cơn giận phá hủy tức khắc các cơ năng chủ yếu của ta, nó còn đưa ta vào phẫn nộ, khinh bỉ, thù hận, và độc ác — mỗi thứ đó đều luôn luôn tiêu cực vì là nguyên do trực tiếp tác hại đến người khác. Sân giận gây đau khổ. Ít nhất là nó tạo nỗi khổ của sự bối rối. Một thí dụ, tôi luôn luôn thích việc sửa đồng hồ. Nhưng tôi còn nhớ một số trường hợp hồi còn bé, khi từng mất hết nhẫn nại với các thứ phụ tùng nhỏ nhặt và phức tạp. Tôi nhặt một bộ máy và đập mạnh nó lên bàn. Dĩ nhiên, tôi cảm thấy ân hận và hỗ thẹn vì thái độ của mình — đặc biệt là khi, vào một trường hợp nọ, tôi phải trả đồng hồ lại cho người chủ trong tình trạng tồi tệ hơn trước khi sửa. Câu chuyện này tuy rất tầm thường, nhưng đưa đến một điểm là, mặc dù chúng ta có nhiều của cải vật chất thế nào — thức ăn ngon, bàn ghế tốt, máy truyền hình tối tân — khi giận dữ cũng đều bị mất hết an bình nội tại. Chúng ta không còn hưởng thụ bữa ăn ngon được. Và một khi trở thành thói quen, ta sẽ học từ đó, là dù giàu, dù mạnh, các người khác cũng chỉ tránh né ta. Họ sẽ bảo, "Ồ, vâng, ông ấy rất khôn khéo, nhưng ông ấy xấu nết quá, ai cũng biết," và người khác sẽ tránh xa. Hoặc là họ sẽ bảo, "Vâng bà ấy quả thật có tài đặc biệt, nhưng hay dễ nổi cơn quá. Tốt hơn hết là nên coi chừng." Cũng như khi con chó hay gầm gừ và nhe răng, chúng ta cần cẩn thận đề phòng những kẻ có con tim dễ bị rối loạn bởi cơn giận dữ. Tốt hơn hết ta tránh đến gần để khỏi bị lãnh cơn bất tử. Tôi không phủ nhận sự kiện, tương tự như trong trường hợp sợ hãi, có một thứ sân giận "thô" nào đó mà chúng ta kinh nghiệm như là một sự đổ dồn năng lực vào người, hơn là một cảm xúc tăng cường có nhận thức. Hình thức sân giận này được tưởng chừng như có thể mang lại kết quả tích cực. Thử tưởng tượng đến cơn giận trước sự bất công khiến người ta hành động một cách vị tha. Cơn giận khiến ta xông vào giúp đỡ cho người nào đó bị tấn công ngoài đường phố, cũng có thể xem như tích cực. Nhưng nếu nó vượt qua mức tiếp giao cùng sự bất công, hoặc nếu nó trở thành việc cá nhân và chuyển sang trả thù hoặc độc ác, thì nguy hiểm khởi dậy. Khi chúng ta làm điều gì tiêu cực, vẫn có thể nhận ra sự khác biệt giữa ta và hành động tiêu cực đó. Nhưng ta lại thường thất bại trong việc tách biệt hành động và tác nhân khi nó đến từ người khác. Điều này cho thấy cơn giận dù được bề ngoài có vẻ được xác nhận như đúng, cũng vẫn khó tin cậy. Nếu thấy hơi quá đáng khi bảo sân giận là một cảm xúc hoàn toàn vô ích, chúng ta có thể xét lại xem có người nào từng bảo là sân giận có thể mang lại hạnh phúc chăng? Không ai cả. Có y sĩ nào cho toa dùng giận để chữa bệnh chưa? Không một ai. Độc giả thử tự hỏi mình: khi ta trở nên giận dữ, ta có hạnh phúc chăng? Tâm ta có bình tĩnh và thân ta có thoải mái chăng? Hoặc trái lại ta còn cảm thấy thân như căng thẳng và tâm bất ổn? Nếu muốn giữ được tâm an bình hầu đạt đến hạnh phúc, theo đó phải áp đặt khuynh hướng duy lý và vô vụ lợi lên các ý niệm và cảm xúc tiêu cực, ta cần phải vun trồng một thói quen vững chắc giới hạn các phản ứng trước chúng. Các ý niệm và cảm xúc tiêu cực chỉ xui khiến ta đi vào hành động vô luân. Hơn nữa, bởi vì cảm xúc tiêu cực còn là nguồn đau khổ nội tại — đó là nền tảng của ẩn ức, lẫn lộn, bất an, lo lắng, và mất tự trọng dẫn đến sự tiêu hao lòng tự tin — cho nên thất bại khi làm việc đó khiến ta phải ở trong trạng thái khó chịu tinh thần và cảm xúc thường xuyên. An bình nội tại không thể có được. Lo lắng và ẩn ức sẽ không bao giờ biến mất. Vài người cảm thấy mặc dù có thể đúng khi phải ngăn các cảm xúc hận thù khiến cho ta trở thành hung bạo và đi đến giết chóc, nhưng ta sẽ bị nguy hiểm mất đi sự độc lập nếu cứ hạn chế các cảm xúc và giới luật tâm trí. Thật ra, chính điều đối ngược lại mới đúng. Giống như các đối thủ của tình thương yêu và tâm từ bi, sân hận và các cảm xúc tiêu cực không bao giờ bị tắt ngúm. Chúng còn có một xu hướng bành trướng, giống như dòng sông lụt lội vào mùa hè khi băng tuyết tan. Do đó, thay vì được tự do, trái lại tâm ta còn bị nô lệ và trở nên bất lực trước chúng. Khi ta dễ dãi cùng các ý niệm và cảm xúc tiêu cực, ta sẽ quen thuộc cùng chúng không thể tránh khỏi. Kết quả, dần dần ta càng nghiêng về chúng hơn và càng bị chúng điều động hơn. Ta sẽ quen bùng nổ mỗi khi đối diện cùng các trường hợp không thú vị. An bình nội tại, như đặc điểm chủ yếu của hạnh phúc, và sân hận không thể nào cùng hiện hữu mà không làm tiêu hao lẫn nhau. Thật vậy, ý niệm và cảm xúc tiêu cực làm tiêu hao các nguyên nhân tạo ra an bình và hạnh phúc. Thử nghĩ cho đúng, thật hoàn toàn phi lý khi tìm hạnh phúc mà không làm gì để giới chế giận dữ, khinh bỉ, và các ý niệm và cảm xúc ác độc. Hãy nghĩ khi ta trở thành giận dữ, ta thường dùng các lời lẽ nặng nề. Lời lẽ nặng nề có thể phá hủy tình bạn. Hạnh phúc đặt trên các mối liên hệ cùng người khác, nếu ta hủy diệt tình bạn, thì đã làm tiêu mòn một trong các điều kiện thật sự của chính hạnh phúc. Bảo rằng ta cần phải ngăn cơn giận cùng các ý niệm và cảm xúc tiêu cực, không có nghĩa ta phải phủ nhận các cảm xúc. Có một sự khác biệt quan yếu giữa phủ nhận và giới luật. Việc sau thiết lập một thứ kỷ luật cẩn trọng và tự nguyện đặt trên sự tôn trọng ích lợi tha nhân. Điều đó rất khác với trường hợp của người đè nén các cảm xúc như là giận dữ chỉ vì họ cảm thấy cần phải phô bày một bề ngoài có vẻ tự chủ, hoặc vì lo sợ đến ý nghĩ của người khác. Thái độ đó giống như khép miệng vết thương lại trong khi nó còn nhiễm độc. Lại nữa, chúng ta không phải nói đến chuyện các luật lệ phải tuân theo. Khi phủ nhận và áp lực xảy ra chỉ tạo nguy hiểm, vì cá nhân đó sẽ tồn trữ các sự giận dữ và thù ghét. Vấn đề ở đây là trong một thời điểm tương lai nào đó, họ có thể thấy mình không còn chịu đựng nổi các thứ cảm xúc đó lâu hơn nữa. Nói cách khác, dĩ nhiên có các ý niệm và cảm xúc thích đáng, còn quan trọng là khác, để mà bày tỏ thẳng thắn — kể cả các thứ tiêu cực — dù có các cách thích hợp ít hoặc nhiều để làm thế. Tốt hơn là nên đối diện với người hoặc hoàn cảnh hầu giải quyết, chứ đừng che dấu nỗi giận, nghiền ngẫm nó, và nuôi oán hận trong tâm. Tuy vậy, nếu ta bày tỏ một cách không biện biệt các thứ ý niệm và cảm xúc tiêu cực, chỉ trên nền tảng là chúng cần được bộc lộ rõ ràng, thì rất có thể — qua các lý do tôi đã nêu trên — sẽ khiến ta mất đi sự bình tỉnh và làm quá đáng. Do đó, điều quan trọng là phải biết biện biệt, kể cả trên diện các cảm xúc mà ta bày tỏ lẫn cách thức bày tỏ chúng. Theo tôi hiểu, hạnh phúc chân thật có đặc tánh là an bình nội tại và đặt trên nền tảng liên hệ hài hòa cùng tha nhân. Do đó nó tùy thuộc vào hành vi luân lý. Hành vi này lại bao gồm những hành động lấy lợi ích tha nhân làm trọng. Như thế, nếu chúng ta muốn hạnh phúc, cần phải kềm chế bớt các phản ứng trước ý niệm và cảm xúc tiêu cực. Tôi muốn ngụ ý như khi bảo rằng, chúng ta cần phải thuần con voi hoang dại vốn là cái tâm vô giới luật của ta. Khi tôi thất bại trong việc giới chế các phản ứng trước cảm xúc tiêu cực, hành động của tôi trở thành vô luân lý và nhiễu hại các nguyên nhân đưa đến hạnh phúc. Ở đây, chúng ta không phải nói đến việc đắc quả Phật quả, mà cũng không nói đến việc hợp nhất cùng Thượng đế. Chúng ta chỉ nhận thức đơn thuần rằng, các lợi lạc và hạnh phúc tương lai của tôi, vốn nối kết rất gần gũi cùng của người khác, vì thế cần phải học để hành xử cho thích ứng.
|