Home Đời Sống Tài Liệu Phần II: Viễn cảnh ảm đạm từ việc nắn dòng Mekong

Phần II: Viễn cảnh ảm đạm từ việc nắn dòng Mekong PDF Print E-mail
Tác Giả: Kỳ Thư (gt)   
Thứ Sáu, 28 Tháng 8 Năm 2009 04:33

Trong phần này, Tiến sĩ Tyson R. Roberts tiếp tục đưa ra những tác động tiêu cực từ dự án xây dựng hệ thống đập thuỷ điện trên sông Mekong cũng như kế hoạch nắn dòng sông này phục vụ giao thông đường thuỷ của Trung Quốc.

Lũ lụt trầm trọng

Vào tháng 9 - 10/2000, Campuchia và khu vực châu thổ Mekong của nam Việt Nam trải qua nạn lũ lụt chưa từng có. Chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long ở nam Việt Nam.

Khi ấy, tôi đang ở Phnom Penh và thành phố gần như chìm trong nước. Có thể so sánh nạn lụt bấy giờ giống như lũ lụt xảy ra ở Bangladesh và tỉnh Tây Bengal của Ấn Độ. Ở Nam Á, lũ lụt thường do lượng mưa khác thường bởi hiện tượng nóng lên toàn cầu, và sự quản lý tồi trong hệ thống đập thuỷ điện, đập thủy lợi. Ở Campuchia và Việt Nam, lũ lụt chỉ là do sự khác thường của lượng mưa. Đặc biệt, không thấy đề cập tới vai trò của đập Manwan của Trung Quốc. Cho dù trữ lượng nước của đập này không quá lớn, nhưng nó cũng đóng một vai trò theo cách này hay cách khác.

 
                     Sông Mekong phần chảy qua Lào. (Ảnh: Japanfocus)

Đập Manwan sẽ ngăn dòng nước lũ (hay ít nhất là giảm bớt lũ lụt vùng hạ lưu)? Hay góp phần khiến mực nước vùng hạ du Mekong trở nên cao hơn vào tháng 9, tháng 10 năm 2000? Khi tôi đưa câu hỏi này ra với các quan chức ở trụ sở của Uỷ ban sông Mekong (MRC) tại Phnom Penh, họ trả lời kể từ khi Trung Quốc không phải là thành viên của MRC, họ không có bất cứ dữ liệu nào.

Tôi vẫn chưa có câu trả lời về đập Manwan và vai trò của nó trong nạn lụt tháng 9, 10/2000.

Các đập thuỷ điện trên sông Lan Thương của Trung Quốc sẽ đảm bảo cho những nước vùng hạ du tránh khỏi lũ lụt? Câu trả lời là “Có”. Hệ thống đập thuỷ điện có thể cung cấp một biện pháp chống lụt, nhưng chỉ phù hợp trong tình huống lũ lụt thông thường.

Mục đích chính của đập thủy điện là giữ nước để phát điện. Trong mùa mưa, nước được giữ lại để đảm bảo công suất phát điện cho mùa khô. Vì thế, khi xảy ra một trận lụt lớn và bất ngờ, các hồ chứa nước quá nhiều nước, có thể phải xả nước để đảm bảo an toàn cho đập và góp phần khiến nạn lụt vùng hạ du thêm trầm trọng. Điều này có lẽ đã xảy ra với đập Manwan trong mùa lụt tháng 9, 10/2000.

Khi một trận lũ lụt xảy ra quá mức dự đoán, ví dụ như kiểu lũ lụt 500 năm mới xảy ra một lần (các kỹ sư thuỷ điện gọi là lũ lụt 500 năm), các đập chứa nước lớn như dự án Tiểu Loan và Nuozhadu là một mối nguy thực sự.

Chúng phải lưu một lượng nước tương đương với 5 năm hoặc nhiều hơn của những mùa lụt “thông thường” để đạt tới mực trữ nước thông thường. Khi mùa lụt lớn hơn dự đoán xảy ra, các đập này sẽ phải xả nước càng sớm càng tốt. Nghĩa là cùng một lúc, mùa lụt vùng hạ du sẽ phải hứng chịu tổng lượng nước lụt của thượng nguồn cộng với lưu lượng nước của vài năm lụt trữ lại phía sau các con đập. Theo đó, hệ thống đập thuỷ điện của Lan Thương sẽ gây ra một thảm hoạ môi trường lớn hơn bao giờ hết.

Các vấn đề trầm tích

Nguy cơ nghiêm trọng nhất ảnh hưởng tới sự bền vững của hệ thống nhà máy thuỷ điện Lan Thương xuất phát từ khả năng chứa nước ngày một suy giảm do những dòng chảy trầm tích vào các hồ chứa. Tất cả những dấu hiệu hiện tại cho thấy, xói mòn đất đang diễn ra với tỉ lệ gia tăng và có lẽ, tỉ lệ vận chuyển trầm tích trong sông là kết quả của việc đánh giá không đúng mức khả năng của các hồ chứa trong việc hấp thụ tải trọng trầm tích (của dòng chảy).

Lan Thương chỉ chiếm khoảng 16% tổng lưu lượng nước của sông Mekong khi nó tới vùng châu thổ, nhưng lại chiếm 50% trong tổng số ước tính tải trọng trầm tích 150-170 triệu tấn/năm. Đó cũng là một phần bởi địa hình dốc đứng vùng thượng nguồn Mekong.

Những ước tính của Trung Quốc trong khả năng vận chuyển trầm tích của sông Lan Thương có lẽ quá thấp. Có một số lý do giải thích như trầm tích Lan Thương phần lớn là đá mạt thô và cát, nó được vận chuyển ở đáy sông thay vì là dạng trầm tích lơ lửng và luôn rất khó để đo đạc, đặc biệt trong điều kiện xảy ra lũ lụt lớn.

Cũng có nguyên nhân góp phần gia tăng tỉ lệ xói mòn là phá rừng, là sự nóng lên toàn cầu khiến băng tan chảy và mưa lớn hơn.

Có nhiều nhân tố góp phần vào việc làm tăng trọng tải trầm tích Lan Thương thường bị bỏ qua. Một trong số đó là những đợt lở đất ngầm, hiện tượng gia tăng lượng mưa cục bộ. Sụt lở nhiều nhất dường như xảy ra ở khu vực gần các đập chứa do tác động “hút nước” liên quan tới phát điện khi nhu cầu sử dụng lên đỉnh điểm.

Gia tăng lượng mưa cục bộ vì sự hiện diện của hồ chứa nước là một vấn đề chính với hai hồ chứa khổng lồ Nuozhadu và Tiểu Loan. Bề mặt nước khổng lồ và điều kiện gió ở các hẻm núi Lan Thương sẽ kết hợp với nhau làm gia tăng lượng mưa cục bộ, cũng vì thế mà gia tăng sự xói mòn.

Hãy lấy tình hình lắng đọng trầm tích ở hồ chứa Manwan làm ví dụ. Các nhà khoa học ước tính rằng, mực nước chết với hồ chứa đập Tiểu Loan sẽ là 4.750 triệu mét khối (mcm) trong khi của Manwan là 662 mcm. Như vậy mực nước chết của Tiểu Loan chỉ gấp 7,3 lần của  Manwan.

Ước tính Tiểu Loan sẽ có thể hấp thụ trầm tích Lan Thương trong 100 năm là quá phóng đại. Ba mươi năm là ước tính an toàn nhưng xem ra vẫn quá lạc quan.

Manwan rõ ràng đang chịu những nguy cơ của dòng chảy trầm tích quá lớn. Hậu quả đó là:

- Nguy cơ hỏng hóc turbine

- Giảm phát điện trong mùa khô khi khả năng giữ nước của hồ chứa cuối cùng cũng giảm dần

- Rút ngắn tuổi thọ của Manwan

- Gia tăng nguy cơ với đập trong trường hợp xảy ra lũ đột ngột

Trung Quốc có thể nhanh chóng xây dựng đập Tiểu Loan, và rồi họ sẽ “xả hơi” trong vòng hai tới ba thập niên trước khi phải bắt đầu lo lắng về trầm tích lắng đọng trong công trình này.

Khi môi trường tiếp tục suy giảm ở lưu vực Lan Thương, những nguy cơ mới sẽ phát sinh từ hiện tượng lở đất tại vùng núi ngày một lớn hơn. Đó là lý do vì sao tôi đưa ra ước tính tuổi thọ hồ chứa nước của một con đập lớn như Tiểu Loan chỉ là 30 năm so với con số 100 năm mà các nhà đầu tư đề xuất.

Phá rừng

Số phận của các hồ chứa nước được tạo ra từ những đập thuỷ điện trên sông Lan Thương sẽ xác định bằng sự tồn tại của hệ thống rừng tại các hẻm núi và thung lũng của dòng Lan Thương cũng như các thung lũng của một số nhánh sông khác.

Và, viễn cảnh ấy khá ảm đạm.

Phần lớn diện tích rừng của Vân Nam đã bị phát quang. Nhiều khu vực rừng tự nhiên đã bị thay thế bởi những đồn điền độc canh. Ở Xishuangbanna (Sipsongpanna) thuộc phía nam Vân Nam, cây trồng chính là cao su. Để có một đồn điền cao su thì đầu tiên, rừng tự nhiên cần phải được “làm sạch” hoàn toàn. Cây trồng theo hàng và mất vài năm mới tới tuổi thu hoạch.

Khi cây còn nhỏ, độ che phủ rất thấp, khác hẳn với rừng tự nhiên. Mặt đất tại các đồn điền cao su ở Xishuangbanna hoàn toàn trống trải. Ở đây có câu hỏi rằng, một đồn điền cây trồng như vậy liệu có hạn chế được xói mòn đất như rừng tự nhiên mà nó thay thế. Sau nhiều năm khả năng khai thác cao su của cây giảm. Những cây già sẽ lại được cây non thay thế. Mỗi lần như thế, đất đai lại “quang quẻ” trở lại, theo đó, chất lượng và độ ổn định của đất trồng sụt giảm và xu thế xói mòn lại gia tăng.

 Phần III - Chiến lược bí mật của Trung Quốc với Mekong

Trong nhiều thập niên, chiến lược của Trung Quốc là thực hiện những dự án về sông Mekong trong im lặng và bí mật. Trung Quốc xây đập Manwan (1986-1993) ở một khu vực xa xôi và không tham vấn bất kể nước nào vùng hạ nguồn.

Trong phần ba, ngoài những tác động tiêu cực từ dự án khai thác thuỷ điện trên sông Mekong của Trung Quốc, Tiến sĩ Tyson R. Roberts còn đưa ra cả những lợi ích "đáng nghi ngờ" mà hệ thống đập thượng nguồn Mekong có thể mang lại.

 
 Đập Manwan ở thượng nguồn Mekong, tỉnh Vân Nam - Trung Quốc. (Ảnhinternationalrivers)

Ảnh hưởng với cá và nghề cá

Sản lượng đánh bắt cá hàng năm của Mekong ước tính vào khoảng 1 triệu tấn. Khoảng 400.000 tấn (40%) thuộc về Campuchia. Biển Hồ hay Tonle Sap của Campuchia chiếm hơn 100.000 tấn. Cá nước ngọt cung cấp chừng 80% tiêu dùng đạm động vật ở Campuchia.

Vào mùa mưa, dòng chảy Mekong gây ngập lụt lớn ở nhiều vùng đồng bằng châu thổ của Campuchia trong đó có Biển Hồ. Nó cũng tạo ra vô số khu đẻ trứng và bãi nuôi cho hàng trăm loài cá.

Nếu điều chỉnh dòng chảy Mekong sẽ gây ra tác động nghiêm trọng với toàn bộ nghề cá vùng hạ lưu trong đó có các khu vực châu thổ Campuchia nói chung và Biển Hồ nói riêng.

Vùng đồng bằng châu thổ của Việt Nam cũng bị ảnh hưởng rất lớn. Nghề đánh bắt cá cũng như nghề nuôi cá lồng không tránh khỏi tác động chung.

Ảnh hưởng với nông nghiệp

Rất nhiều vựa lúa vùng hạ du nằm ở các châu thổ. Sản xuất lúa gạo liên quan trực tiếp tới nước, phù sa và chất dinh dưỡng được cung cấp từ những mùa lụt của Mekong.

Một tác động quan trọng khác với nông nghiệp có thể là rất tồi tệ hay thậm chí là dấu chấm hết mà những dự án thuỷ điện vùng thượng lưu Mekong gây ra là mạng lưới trang trại, nông trường bên bờ sông. Tiếng Campuchia gọi là “chamkar”, Thái Lan và Lào gọi là “kaset rim fang menam”, nó liên quan tới các nông trang trên đảo và bên bờ những dòng sông lớn như Mekong và Tonle Sap.

Mùa thu hoạch trên cạn hàng năm bao gồm thuốc lá, ngô, dưa hấu, dưa chuột, bí, mướp đắng, cà chua, khoai tây, hạt tiêu, khoai sọ, củ cải, cà rốt, rau diếp, chuối, cải bắp, đu đủ, mía đường, các loại nấm, thảo dược, hoa. Cây lưu niên có xoài, các cây họ cam quýt…

Những sản phẩm từ trang trại như thuốc lá, ngô và ớt được đưa vào gieo trồng cách đây khoảng 200 năm nhưng những sản phẩm khác có lẽ đã sinh sôi nảy nở ở khu vực trung và hạ lưu vực Mekong hơn 1.000 năm trước. Hàng loạt loại cây này có đóng góp to lớn vào chất lượng cuộc sống địa phương. Trong gieo trồng, các loài cây này đòi hỏi không sử dụng phân hoá học hay thuốc trừ sâu. Diện tích đất sẵn cho gieo trồng phụ thuộc vào lượng nước sông dâng lên và rút xuống trong một năm. Sản phẩm cũng liên quan tới lượng phù sa sông bồi đắp mỗi năm.

Những nông trang sẽ bị ảnh hưởng rất lớn và có lẽ hoàn toàn không còn tồn tại từ bên bờ Mekong nếu dòng chảy của sông bị thay đổi dẫn tới sự khác biệt về mực nước lên xuống cũng như lượng phù sa nghèo hoặc kém chất lượng. Hàng trăm thậm chí hàng nghìn đặc tính cây trồng và gen thực vật có thể mất đi nếu những đập thuỷ điện Lan Thương hoàn thành và sông Mekong được phát triển phục vụ giao thông đường thuỷ.

Những ảnh hưởng khác và sự nghi ngờ về lợi ích

Trung Quốc vẫn khẳng định các đập thuỷ lợi lớn có thể mang lại lợi ích dài hạn, bất chấp ngày càng có thêm nhiều bằng chứng cho thấy sự đối lập từ tuyên bố ấy. Tất cả các nước đều lo lắng rằng, Trung Quốc sẽ phát triển sông Mekong ở mức độ lớn hơn cho tới khi có những dự án của cá nhân hoặc tổ chức đưa ra các đánh giá về ảnh hưởng môi trường và xã hội một cách hoàn thiện và chân thực nhất.

Những ảnh hưởng xã hội và môi trường không thể chấp nhận được với các quốc gia vùng hạ nguồn sẽ là nền tảng vững chắc khiến những dự án của Trung Quốc có thể bị bác bỏ. Các đánh giá về ảnh hưởng xã hội và môi trường sẽ chỉ phù hợp nếu nó đại diện cho xã hội nông thôn cũng như thành thị và đại diện cho môi trường. Đánh giá do tổ chức thúc đẩy những dự án thực hiện hoặc kiểm soát hiếm khi đáng tin cậy.

Đánh giá kiểu này thường quá phóng đại về mặt kinh tế và những lợi ích khác trong khi phớt lờ hoặc đánh giá không đúng mức về ảnh hưởng xã hội và môi trường.

Kể từ năm 1950, Trung Quốc đã tăng cường nhiều biện pháp nhằm khai thác những khu rừng rộng lớn, khoáng sản và nguồn năng lượng… với quy mô lớn. Dự án cùng lúc xây dựng hệ thống đập thuỷ điện trên dòng Lan Thương và nắn dòng Mekong là một phần của tiến trình này.

Trung Quốc sẽ không hài lòng cho tới khi toàn bộ dòng chảy Mekong đoạn dưới Vân Nam đổ vào một hệ thống đường thuỷ hỗ trợ cho tàu thuyền hàng hoá đi ra biển cả. Trong nhiều thập niên, chiến lược của Trung Quốc là thực hiện những thiết kế về sông Mekong trong im lặng và bí mật. Trung Quốc xây đập Manwan (1986-1993) ở một khu vực xa xôi và không có sự tham gia của bất kể nước nào vùng hạ nguồn.

Trung Quốc tới nay vẫn không gia nhập Uỷ ban sông Mekong (MRC), và không có bất cứ nỗ lực nào để cung cấp thông tin về những dự án họ khai thác trên sông. Cho tới nay, khi chiến lược Mekong không thể giấu giếm hơn nữa, Trung Quốc lại khai thác sông bằng tốc độ và sự quyết tâm.

Thời gian hạn chế, nỗ lực và việc đóng góp đưa ra các đánh giá ảnh hưởng tới môi trường và xã hội rất không đầy đủ. Những nghiên cứu địa chấn tối thiểu để phát hiện ra các trận động đất có đóng góp lớn tới lở đất, hoặc các đập thuỷ điện lớn cùng hồ chứa nước có thể thúc đẩy hoạt động địa chấn, sẽ đòi hỏi nhiều năm nghiên cứu cùng các thiết bị tiên tiến cùng kỹ năng chuyên môn cao.

Khi các đập đã xây dựng và hồ chứa bắt đầu đầy nước, thì tình hình địa chấn sẽ phải liên tục kiểm tra, theo dõi.

Các thủ tục đối phó với tình trạng khẩn cấp bao gồm hệ thống cảnh báo khẩn cấp hạ nguồn và tiến trình sơ tán sẽ cần được sắp xếp hiệu quả trước khi công trình xây dựng bất kể con đập lớn nào hoàn thành.

Vài lợi tích tiềm năng từ việc điều chỉnh dòng chảy Mekong bởi hệ thống đập và hồ chứa nước trên sông lan Thương của Trung Quốc có thể được tính gồm:

- Lợi ích nổi bật cho vùng hạ nguồn sẽ là Lào, Myanmar và Thái Lan trong việc có được khối lượng nước lớn hơn (đã được điều chỉnh) phục vụ cho việc phát điện ở những dự án “đang chạy giữa dòng” cần phải cân nhắc kỹ hơn. Khả năng kinh tế của toàn bộ bảy dự án đề xuất giữa Pak Beng và Vientiane dường như được gia tăng bởi khả năng sản xuất điện nhiều hơn cung cấp cho thị trường Thái Lan khi nhu cầu dùng điện trong mùa khô lên đỉnh điểm. Pak Beng và các dự án khác ở phía bắc Lào đòi hỏi cần nghiên cứu kỹ hơn, sẽ có thể giành được tỉ lệ cao xứng đáng sau khi Tiểu Loan bắt đầu xả nước.

Tuy nhiên, những điều được cho là lợi ích này vẫn khá mơ hồ. Uỷ ban sông Mekong không còn ủng hộ các dự án trên. Những ảnh hưởng sâu sắc về môi trường liên quan tới đập Pak Mun trên sông Mun của Thái Lan – nhánh sông lớn của Mekong - giờ đây bắt đầu được công nhận.

Một lợi ích mơ hồ khác liên quan đến gia tăng khả năng tưới tiêu cho vùng hạ nguồn. Tăng nước trong các tháng mùa khô sau khi đập Tiểu Loan hoàn thành là một ích lợi với giả định không có sự “rút nước” nào quá lớn ở thượng nguồn.

(Còn tiếp)

      Kỳ Thư (gt)