Home Đời Sống Tài Liệu Tiền giấy: Cuộc cải cách tiền tệ vô tiền khoáng hậu

Tiền giấy: Cuộc cải cách tiền tệ vô tiền khoáng hậu PDF Print E-mail
Tác Giả: Lê Đình Phụng   
Thứ Ba, 31 Tháng 8 Năm 2010 06:33
Mặc dù thời gian tồn tại ngắn ngủi (1400 - 1407) nhưng nhà Hồ đã tiến hành nhiều cuộc cải cách kinh tế, trong đó có cải cách tiền tệ, đánh một dấu ấn quan trọng trong lịch sử tiền tệ Việt Nam.

 

Lần đầu tiên phát hành tiền giấy

Nhà Hồ lên ngôi trong hoàn cảnh đất nước khá đặc biệt: Nhà Trần suy yếu, đất nước kiệt quệ, bên ngoài thì nhà Minh dòm ngó tìm cách xâm lăng nước ta. Trước hoàn cảnh đó, Hồ Quý Ly, một viên quan có tư tưởng tiến bộ tìm mọi cách phục hưng đất nước.

Trưởng thành từ một quan đại thần với quan hệ thân tộc con rể vua Trần Minh Tông, sau nhiều năm củng cố lực lượng, Hồ Quý Ly truất ngôi vua Trần tự lập làm vua, mở đầu triều đại nhà Hồ trong lịch sử.

Trước đó, năm 1394 ông đã được Thái thượng hoàng nhà Trần bật đèn xanh: "Sau khi Trẫm chết, quan gia nếu giúp được thì giúp, nếu hèn kém ngu muội thì khanh cứ tự nhận lấy ngôi vua" (Đại Việt sử ký toàn thư tập II, tr 187).

Cùng với việc cải cách quân sự, những cuộc cải cách kinh tế được tiến hành, việc đầu tiên là phát hành tiền giấy. Năm 1396: "Mùa hạ tháng 4, bắt đầu phát tiền giấy Thông Bảo hội sao.

In xong ra lệnh cho người đến đổi, cứ một quan tiền đồng đổi lấy 1 quan 2 tiền giấy. Thể thức tiền giấy: tờ 10 đồng vẽ rồng, tờ 30 đồng vẽ sóng, tờ 1 tiền vẽ mây, tờ 2 tiền vẽ rùa, tờ 3 tiền vẽ lân, tờ 1 quan vẽ rồng. Kẻ làm tiền giả bị tội chết, ruộng đất tài sản bị tịch thu. Cấm tuyệt tiền đồng, không được chứa lén, tiêu vụng, tất cả thu hết về kho Ngao Trì ở kinh thành và trị sở các xứ. Kẻ nào vi phạm cũng bị trị tội như làm tiền giả".

Đây là lần đầu tiên tiền giấy xuất hiện ở Việt Nam. Đồng tiền phát hành có hai yếu tố mới. Tiền không ghi niên hiệu vua. Đây là một phép thử ngoại lệ trong tiền tệ Việt Nam khai tử niên hiệu của triều đại Trần, chuẩn bị cho một triều đại mới.
 
Description: Description: r

Tiền giấy được nhà Hồ phát huy hiệu quả triệt để thời gian khi cầm quyền. 

 

Chất liệu tiền là giấy chưa hề có trong tiền lệ lịch sử chế tác tiền Việt Nam. Tiền giấy sẽ góp phần giúp cho nhà Hồ thu về số lượng đồng lớn dùng để đúc vũ khí, đặc biệt là súng thần công, một loại binh khí mới được ra đời trong thời gian này. Chính vì thế, tiền giấy được nhà Hồ phát huy hiệu quả triệt để thời gian khi cầm quyền. 

Lịch sử của tiền giấy

Tiền giấy có nguồn gốc từ tờ giấy Khoán thời Đường, do tiền đồng nặng khi sử dụng số lượng lớn không thuận tiện nên sáng tạo ra tờ Khoán dùng "để nhận tiền thực, đổi tiền giấy, nhận tiền giấy đổi tiền thực" có giá trị như tiền cho dễ mang đi trao đổi. "Thời Tống gọi là giao hội, đời Kim mới gọi là sao".

Đời Tống, bộ lạc Nữ Chân vì ít đồng nên theo tờ Giao hội làm ra tiền giấy. Nhà Trần giai đoạn cuối cũng sử dụng tờ Hội giao thay tiền và Hồ Quý Ly đã phát triển từ Hội giao thành tiền giấy vừa tiết kiệm đồng vừa thuận lợi trong giao thương.

Cho đến nay, chúng ta chưa tìm được đồng tiền giấy nào cho nên chưa rõ kích thước, chất lượng giấy, kỹ thuật in ấn, cách thể hiện hình vẽ mà chỉ biết được qua ghi chép trong lịch sử.

Nhưng những hiện vật thời Trần tìm được qua các cuộc khai quật khảo cổ học như hình rồng, thủy ba (sóng nước), tản vân (vân mây) khắc tạc trên các bệ đá thời Trần đã phần nào cho biết sự phức tạp của các họa tiết trang trí trên đồng tiền này. Tiền giấy cũng cho thấy, nghề sản xuất giấy có sự phát triển đặc biệt với kỹ thuật cao sản xuất ra loại giấy để in tiền.

Những đồng tiền thời Trần

Nhà Trần kéo dài 176 năm (1225 - 1400 với 13 đời vua), về cơ bản vẫn ổn  định duy trì phát triển một cơ cấu xã hội như thời Lý, nền kinh tế dần được phục hưng. 


Những hoạt động nội thương và ngoại thương được xây dựng đặt tiền đề cơ sở từ thời Lý đến triều Trần đã phát huy tác dụng. Trong 13 vua đời Trần có 5 đời vua cho đúc tiền, có vua cho đúc nhiều lần với số lượng lớn. Những lần đúc tiền là những thời điểm bước ngoặt trong đời sống kinh tế cộng đồng, những đồng tiền được đúc ra đã phát huy tác dụng, làm ổn định xã hội, tăng cường ngân khố quốc gia, tạo nên sức mạnh cho nền kinh tế thời Trần.

1. Trần Thái Tông (1226 - 1258) lên ngôi kế thừa di sản cuối mùa của vương triều Lý với nền kinh tế suy đốn, kho tàng trống rỗng vì loạn lạc. Để phục hưng kinh tế sau khi ổn định xã hội, Trần Thái Tông cho điều chỉnh giá trị đồng tiền và đúc tiền lưu hành.
 

Description: Description: d

Nhà Trần

Sử cũ ghi lại năm 1226: "Xuống chiếu cho dân gian dùng tiền "tỉnh bách" mỗi tiền là 69 đồng. Tiền nộp cho Nhà nước (tiền thượng cung) thì mỗi tiền là 70 đồng" (trích Đại Việt sử ký toàn thư tập II, tr 9). Hơn 30 năm cầm quyền với 3 niên hiệu, Trần Thái Tông đã nhiều lần cho đúc tiền mang 3 niên hiệu của thời đại. Hiện nay khảo cổ học còn tìm thấy 3 niên hiệu tiền thời Trần Thái Tông.

- Niên hiệu Kiến Trung (1226 - 1232) là tiền Kiến Trung thông bảo. Tiền đúc hình tròn, đường kính 2,1 - 2,14cm. Vành biên hơi rộng, phẳng. Giữa lỗ vuông có gờ nổi. Mặt trước chữ viết đối xứng qua tâm. Cách đọc tròn theo chiều kim đồng hồ. Mặt sau phẳng.

- Niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình (1232 - 1251) đúc tiền Chính Bình thông bảo. Tiền đúc hình tròn. Vành biên rộng phẳng, giữa có lỗ vuông. Mặt trước chữ viết đối xứng qua tâm. Cách đọc vòng tròn theo chiều kim đồng hồ. Mặt sau trơn phẳng.

- Niên hiệu Nguyên Phong (1251 - 1258) đúc tiền Nguyên Phong thông bảo. Tiền đúc hình tròn. Vành biên rộng, giữa có lỗ vuông. Mặt trước chữ viết đối xứng qua tâm. Chữ có hai loại chữ chân và chữ thảo, điều này cho thấy đồng tiền này có hai lần đúc hoặc khi đúc sử dụng hai khuôn khác nhau. Cách đọc vòng tròn theo chiều kim đồng hồ. Mặt sau trơn phẳng.

2. Trần Thánh Tông (1258 - 1278) ở ngôi 20 năm có hai niên hiệu là Thiệu Long và Bảo Phù. Hiện nay mới tìm được tiền Thiệu Long thông bảo. Tiền đúc hình tròn, vành biên rộng phẳng, giữa có lỗ vuông. Mặt trước chữ viết đối xứng qua tâm, cách đọc vòng tròn theo chiều kim đồng hồ. Mặt sau phẳng nhẵn. Đây là đồng tiền duy nhất được đúc dưới thời Trần Thánh Tông.

Những đồng tiền thời Trần: Thời điểm bước ngoặt trong đời sống

Trong 13 vua đời Trần có 5 đời vua cho đúc tiền, có vua cho đúc nhiều lần với số lượng lớn. Những lần đúc tiền là những thời điểm bước ngoặt trong đời sống kinh tế cộng đồng...
 


3. Sau một thời gian dài, các đời vua Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông không thấy sử cũ ghi lại việc đúc tiền tệ và cũng chưa tìm được đồng tiền đúc vào thời này. Đến thời vua Trần Minh Tông, nhà Trần lại tiến hành đúc tiền cho lưu thông ngoài xã hội.

Trong những niên hiệu được sử dụng, niên hiệu Khai Thái (1324 - 1329) nhà Trần cho đúc tiền Khai Thái nguyên bảo. Tiền đúc hình tròn, đường kính 2,37cm, vành biên rộng phẳng, giữa có hình vuông có gờ, lỗ hơi tròn. Mặt trước chữ viết đối xứng qua tâm, cách đọc trên trước, dưới sau và phải trước, trái sau.

Mặt sau tiền Khai Thái nguyên bảo có hai loại, một loại mặt sau trơn phẳng và một loại mặt sau trơn nhưng có chữ Trần.
 

Description: Description:  http://bee.net.vn/dataimages/201008/original/images443323_T7_tien_moi_ne.jpg

 

4. Trần Dụ Tông là đời vua Trần đúc nhiều tiền nhất, nhiều lần đúc với số lượng lớn. Niên hiệu Thiệu Phong (1341 - 1357) có hai lần đúc tiền: Thiệu Phong nguyên bảo và Thiệu Phong thông bảo.

Tiền Thiệu Phong nguyên bảo có đến 4 loại khác nhau. Điều này cho thấy có khả năng Nhà nước có 4 xưởng đúc tiền khác nhau, hoặc 4 lần đúc loại tiền này với thời gian khác nhau. Tiền Thiệu Phong thông bảo có đến 20 loại khác nhau đã cho thấy nhu cầu sử dụng tiền và đúc tiền rất rầm rộ, trước nhu cầu đòi hỏi của sự phát triển kinh tế.

Niên hiệu Đại Trị (1358 - 1369) Trần Dụ Tông lại cho đúc liên tiếp các đồng tiền Đại Trị nguyên bảo; Đại Trị thông bảo. Tiền Đại trị nguyên bảo có đến 5 loại tiền với các lối chữ viết khác nhau.

Tiền Đại Trị thông bảo còn phong phú hơn với nhiều loại. Những đồng tiền này cơ bản có kích thước giống nhau, đường kính 2,35 - 2,38cm. Mặt trước viết chữ, cách đọc trên dưới, phải trái.

5. Sau Trần Dụ Tông, Dương Nhật Lễ lên ngôi lấy niên hiệu Đại Định (1369 - 1370), ông đã cho đúc tiền Đại Định thông bảo. Tiền Đại Định thông bảo được đúc hình dáng và kích thước như các đồng tiền thời Trần khác.

Tiền hình tròn, giữa có lỗ vuông. Mặt trước chữ viết đối xứng qua tâm, cách đọc trên trước dưới sau, phải trước trái sau, nét chữ sắc sảo. Mặt sau để trơn nhẵn.

6. Trần Nghệ Tông lên ngôi (1370 - 1372), niên hiệu Thiệu Khánh ông cho đúc tiền Thiệu Khánh thông bảo. Đồng tiền này được sử liệu ghi chép, nhưng cho đến nay còn lại rất hiếm hoi.

Tiền tệ thời Trần và những hệ quả

Trong lịch sử, thời gian cầm quyền của nhà Trần không kéo dài như thời Lý, nhưng việc đúc và sử dụng đồng tiền nhiều hơn, rộng rãi hơn. Đồng tiền lưu thông trở thành động lực chính để phát triển kinh tế. 


Nội, ngoại thương phát triển


Có tiền, kinh tế hàng hóa phát triển, các ngành sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, mua bán ngoại thương được đẩy mạnh. Đồng tiền được sử dụng mua bán ruộng đất. Năm 1253, Nhà nước "bán ruộng công, mỗi diện là 5 quan tiền (bấy giờ mẫu gọi là diện) cho phép nhân dân mua làm ruộng tư". Năm 1266, "Xuống chiếu cho vương hầu, công chúa, phò mã, cung tần chiêu tập dân phiêu tán không có sản nghiệp làm nô tì để khai khẩn ruộng bỏ hoang thành lập điền trang".

Tiền góp phần phát triển hoạt  động kinh doanh thương nghiệp trong nước. Hệ thống chợ phát triển rộng rãi khắp nơi, từ kinh kỳ đến thôn quê. Sứ nhà Nguyên Trần Phu cho biết: "Chợ ở thôn xóm hai tháng họp một lần, trăm thứ hàng hóa tụ họp ở đây. Cứ năm dặm thì dựng một cái nhà, bốn mặt đều đặt chõng để làm nơi họp chợ". Hoạt động thương mại góp phần kích thích nền sản xuất hàng hóa phát triển.
 

Description: Description: c

Tiền được sử dụng trong hoạt động ngoại thương buôn bán với thương nhân nước ngoài.


Tiền được sử dụng trong hoạt động ngoại thương buôn bán với thương nhân nước ngoài. Ngoài thương cảng Vân Đồn (Quảng Ninh) xuất hiện từ thời Lý do Nhà nước kiểm soát thì các thương cảng ven biển cũng hoạt động khá sôi nổi như cảng Diễn Châu (Nghệ An), Hội Thống (Hà Tĩnh).

An Nam tức sự của Trần Phu cho biết: "Phủ Thanh Hóa... cách thành Giao Châu hơn hai trăm dặm. Các thuyền phiên hải ngoại tụ tập ở đấy, họp chợ ngay trên thuyền rất đông... với lái buôn các nước Xiêm, Java, Lộ Hạc, Hồi Hột; Đặc biệt là các thương nhân Trung Quốc".

Sự tác quái của đồng tiền

Để kích thích nền thương nghiệp phát triển, nhà Trần luôn cho đúc tiền bổ sung. Nhiều ngành nghề liên quan đến tiền xuất hiện như đánh bạc, cầm cố, cho vay nặng lãi, mua bán chức tước, phạt lỗi quan lại... chứng tỏ đồng tiền đã phát huy tác dụng và chi phối đời sống xã hội khá sâu sắc. Đồng tiền cũng góp phần làm tha hóa một bộ phận cư dân cho đến vua quan trong xã hội.

Năm 1362, vua "gọi các nhà giàu trong nước như ở làng Đình Bảng thuộc Bắc Giang, làng Nga Đình thuộc Quốc Oai vào cung đánh bạc. Có tiếng bạc đặt tới 300 quan tiền, ba tiếng thì đã tới gần nghìn quan rồi".

Các quan cũng đua nhau đánh bạc "thua vài chục quan là vò đầu bứt tóc khổ sở". Quan hệ tiền tệ đã kích thích sự phát triển nền kinh tế trong các lĩnh vực công và ngược lại sự tác quái của đồng tiền cũng xuất hiện chi phối đời sống của con người.

Cuối thời Trần vào thế  kỷ XIV, xã hội phong kiến lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Kinh tế dần suy yếu. Thiên tai địch họa luôn xảy ra, các cuộc chiến tranh với Chiêm Thành và Ai Lao kéo dài liên miên làm cho vương triều Trần dần suy yếu. Hồ Quý Ly dần tập hợp lực lượng, thâu tóm quyền hành, tạo ra những uy thế đầu tiên để dần nắm lấy chính quyền.

Năm 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi vua Trần Thiếu Đế, tự lập làm vua, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, đổi quốc hiệu là Đại Ngu. Trong 7 năm ở ngôi, Quý Ly đã thực hiện nhiều cuộc cải cách kinh tế, trong đó có cải cách tiền tệ, đánh dấu một chương mới trong lịch sử tiền tệ Việt Nam.

Những đồng tiền thời Lê

Thời Lê tiền được đúc nhiều. Sự trở lại của tiền chất liệu đồng được chuẩn hóa bằng những quy chế của Nhà nước.  
 

1. Lê Thái Tổ (1428 - 1433)

Khi vừa lên ngôi, ông đã chú  trọng việc mở xưởng đúc tiền. Sử cũ ghi lại, cuối năm 1428, ông đã cho đúc tiền Thuận Thiên thông bảo và quy định 50 đồng là một tiền.

Đồng tiền này đến nay vẫn chưa tìm thấy khi nghiên cứu khảo cổ và trong sưu tập của các nhà sưu tập tiền.

Description: Description: d

Tiền Thuận Thiên nguyên bảo.

Niên hiệu Thuận Thiên còn thấy xuất hiện tiền Thuận Thiên nguyên bảo. Tiền hình tròn, đường kính 2,5cm, vành biên rộng trơn; Giữa có lỗ vuông, chữ viết đối xứng qua tâm. Cách đọc trên trước, dưới sau, phải trước, trái sau, nét chữ sắc gọn. Mặt sau để trơn.

Đồng tiền này có lẽ được đúc sau năm 1429 khi triều đình bàn xong quy chế đúc tiền và chính thức đúc tiền mới.

2. Lê Thái Tông (1434 - 1442)

Nhận rõ vai trò đồng tiền trong mạch máu lưu thông cùng với sự khan hiếm của đồng tiền trong giao lưu hàng hóa, ông ra lệnh chỉ: "Từ nay về sau, tiền đồng sứt mẻ nhưng còn xâu dây được thì phải lưu thông tiêu dùng, không được chê bỏ, nếu đã mẻ gãy không xâu dây được nữa thì thôi không tiêu. Người nào trái lệnh từ chối không nhận, hay kén chọn tiền lành thì phải tội như nhau".

Description: Description: d

Tiền Thiệu Bình thông bảo.

Ở ngôi 9 năm, ông đã cho đúc hai đồng tiền mang niên hiệu triều đại mình. Năm 1434, ông đổi niên hiệu là Thiệu Bình và cho đúc tiền Thiệu Bình thông bảo. Tiền có hình tròn, vành biên rộng nhẵn, đường kính 2,5cm. Giữa có lỗ vuông, chữ viết đối xứng qua tâm, cách đọc trên trước dưới sau, phải trước trái sau. Mặt sau phẳng nhẵn.

Năm 1439, vua Lê lại có quy định mới về tỷ lệ quy đổi đồng tiền: "Tháng 3 ra lệnh chỉ quy định số đồng của một tiền... Hễ tiền đồng thì 60 đồng là một tiền".

Năm 1440, ông lại đổi niên hiệu mới là Đại Bảo (1440 - 1442) và cho đúc đồng tiền Đại Bảo thông bảo. Tiền có hình tròn, đường kính 2,5cm; Vành biên hơi hẹp để trơn. Giữa có lỗ vuông, chữ viết đối xứng qua tâm. Cách đọc  trên trước dưới sau, phải trước trái sau. Chữ viết gọn, nét sắc sảo. 

3. Lê Nhân Tông (1443 -1459)

Ngay khi lên ngôi, ông cho đổi niên hiệu là Thái Hòa. Niên hiệu này kéo dài đến năm 1453 và ông cho đúc tiền Thái Hòa thông bảo. Tiền có hình tròn, đường kính 2,5cm cách thể hiện thống nhất với đồng tiền Đại Bảo thông bảo trước đó, chỉ khác về niên hiệu đúc.

Description: Description: d

Tiền Thái Hòa thông bảo.

Năm 1453, "vua bắt đầu đích thân coi chính sự, đổi miếu hiệu" là Diên Ninh và năm Diên Ninh thứ nhất 1454 "Mùa xuân tháng giêng đúc tiền Diên Ninh".

Tiền Diên Ninh thông bảo hiện nay tìm thấy có đến 4 loại khác nhau thể hiện qua những chữ viết trên tiền, điều này cho thấy, có thể có 4 lần đúc loại  tiền này hoặc có 4 xưởng hay 4 loại khuôn dùng để đúc tiền. Điều này cho thấy số lượng tiền loại này được đúc và lưu hành khá nhiều trong đời sống kinh tế.

4. Lê Nghi Dân (1459 -1460)

Ở ngôi 2 năm và đúc tiền một lần. Năm 1459, Lạng Sơn vương Nghi Dân thoán nghịch giết vua Lê Nhân Tông tự lập làm vua.

Đổi niên hiệu là Thiên Hưng, đồng tiền đến giai đoạn này đã được coi là sự biểu hiện của quyền lực, cho nên Nghi Dân dù chỉ cầm quyền 2 năm nhưng đã kịp cho đúc tiền để khẳng định niên hiệu ngôi báu của mình.

Description: Description: d

Tiền Đại Bảo thông bảo.

Tiền Thiên Hưng thông bảo được đúc mang đặc điểm của tiền thời Lê Sơ với hình tròn, đường kính 2,5cm. Giữa có lỗ vuông. Chữ viết đối xứng qua tâm, cách đọc trên trước, dưới sau, phải trước, trái sau. Nét chữ sắc gọn. Mặt sau trơn phẳng.

5. Lê Thánh Tông (1460 - 1498)

Sau sự biến Nghi Dân, các công thần nhà Lê giành lại ngôi báu. Năm 1460, Lê Thánh Tông lên ngôi đổi niên hiệu là Quang Thuận cho đúc tiền mang niên hiệu Quang Thuận thông bảo và ra lệnh "Nghiêm cấm việc loại bỏ tiền đồng".

Theo các nhà nghiên cứu, tiền Quang Thuận thông bảo có nhiều loại tiền to chữ to, tiền to chữ mảnh, tiền nhỏ chữ to, tiền to chữ nhỏ. Chính vì thế cho rằng trong 9 năm niên hiệu Quang Thuận, năm nào cũng có đúc tiền và có nhiều xưởng đúc tiền khác nhau, đủ số lượng đưa đồng tiền ra lưu hành trên thị trường.

Năm 1470, Lê Thánh Tông đổi niên hiệu là Hồng Đức. Niên hiệu Hồng Đức kéo dài 28 năm. Đây là thời kỳ phát triển rực rỡ của dân tộc Việt trên nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Thăng Long - Đông Đô trở thành trung tâm thương mại lớn, nhu cầu sử dụng đồng tiền lớn và Lê Thánh Tông cho đúc tiền Hồng Đức thông bảo. Tiền Hồng Đức thông bảo được đúc nhiều lần, liên tục trong lịch sử. Những đồng tiền Hồng Đức thông bảo tìm được cho thấy có nhiều loại tiền khác nhau. Đồng tiền được đúc chất lượng đồng cao, chữ viết gọn sắc, tiền dày đẹp. Đúng như sắc chỉ vua ban ngày 1/5/1486 nói rõ: "Việc dùng tiền, quý ở chỗ trên dưới lưu thông; Chứa ở kho tàng quý ở chỗ để lâu không hỏng".

6. Lê Hiến Tông (1498 -1504)


Để kích thích nền kinh tế phát triển ông đã nhiều lần cho đúc tiền: Cảnh Thống thông bảo. Tiền Cảnh Thống thông bảo vẫn duy trì theo kích thước, mẫu tiền Hồng Đức thông bảo. Tiền đúc chất liệu đồng tốt, thường dày nặng có đồng nặng đến 5 - 6g.

Description: Description: f

Từ trái sang, từ trên xuống: Thiên Hưng thông bảo, Hồng Đức thông bảo, Đoan Khánh thông bảo, Hồng Thuận thông bảo, Quang Thiệu Thông bảo.

7. Lê Uy Mục (1505 -1509)

Lê Hiến Tông mất, Lê  Túc Tông lên ngôi 1 năm thì mất. Dù cố gắng "sửa sang nghiệp lớn, dựng đặt gốc lớn" nhưng có lẽ thời kỳ này ông không phát hành tiền mới, mặc dù khi lên ngôi ông cho đặt niên hiệu mới là Thái Trinh. Cho đến nay chưa tìm thấy sự có mặt của đồng tiền mang niên hiệu Thái Trinh. Lê Uy Mục lên nối ngôi đổi niên hiệu là  Đoan Khánh.

Ông cho đúc tiền Đoan Khánh thông bảo. Chữ viết trên đồng tiền này tuân thủ theo phép đúc tiền nhưng đồng tiền mỏng và nhẹ hơn tiền Cảnh Thống thông bảo.

8. Lê Tương Dực (1510 - 1516)

Lấy niên hiệu là Hồng Thuận. Vua "chơi bời vô độ, xây dựng liên miên" bị giết ở cửa nhà Thái học. Trong những năm cầm quyền, Lê Tương Dực cho đúc tiền Hồng Thuận thông bảo. Đây là lần đúc tiền theo niên hiệu để khẳng định ngôi báu của mình bởi Lê Tương Dực giết vua tự lập làm vua.

9. Lê Chiêu Tông (1516 - 1522)

Lấy niên hiệu là Quang Thiệu. Đây là thời kỳ loạn lạc rối ren của xã  hội Việt Nam. Sự tranh giành quyền bính trong nội bộ  cung đình quyết liệt, các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ  ra liên tiếp, vua phải bỏ các kinh đô đi lánh nạn. Kinh tế Việt Nam có phần sa sút điêu tàn. Mặc dù vậy, thời kỳ này Lê Chiêu Tông cho đúc tiền  Quang Thiệu thông bảo.

Năm 1522 Lê Chiêu Tông phải bỏ chạy. Mạc Đăng Dung lập em vua Chiêu Tông là Lê Cung Hoàng lên làm vua, đổi niên hiệu là Thống Nguyên. Cung Hoàng Đế ở ngôi 5 năm (1522 - 1527). Thời kỳ này sử cũ ghi lại không thấy có sự đúc tiền, nhưng trong hệ thống tiền cổ có tiền Thống Nguyên. Theo các nhà nghiên cứu, đồng tiền này còn phải tiếp tục nghiên cứu mới khẳng định được niên đại.

Tiền tệ thời Lý và những "cú hích" cho nền kinh tế

Sự có mặt của các đồng tiền đã góp phần khẳng định chủ quyền dân tộc - chủ quyền về tài chính.  Những đồng tiền độc lập, tự chủ đã góp phần gìn giữ nền độc lập dân tộc và xây dựng đất nước. 

Đẩy mạnh lưu thông tiền tệ

 Ngay từ khi lên ngôi, Lý Thái Tổ đã xuống chỉ "Tiền là huyết của dân, không thể thiếu". Tiền tệ thời Lý luôn có sự phát triển, bổ sung tạo nên nguồn ngân quỹ chính quốc gia.

 Nhà Lý đã có những kho tiền quốc gia lớn. Lượng tiền ấy được sử dụng  xây dựng các công trình kiến trúc cung điện, chùa chiền tạo nên diện mạo mới cho nền văn hóa đất nước. Các kiến trúc chùa Trấn Quốc, chùa Một cột, đền Bà Tấm (Hà Nội); chùa Phật Tích, chùa Dạm (Bắc Ninh);  chùa tháp Tường Long (Hải Phòng); chùa Long Đội, tháp Chương Sơn (Nam Hà, Nam Định)...

 Đầu thời Lý, đã có cuộc cải cách hành chính lớn. Đổi 10 đạo thành 24 lộ lấy Thăng Long làm trung tâm kinh tế đã tạo nên sức sống mới cho vùng đất này. Nhà Lý ban hành nhiều chính sách khuyến nông cởi mở đã tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển, hàng hóa sản xuất tăng lên, nhu cầu mua và bán đẩy mạnh lưu thông tiền tệ thông qua hệ thống chợ tại kinh đô cũng như các vùng quê.

 Description: Description: d

Mặt trước và sau tiền Thuận Thiên Đại Bảo - đồng tiền đầu tiên của nhà Lý.


Sử liệu cho biết, ngoài chợ Đông trong kinh thành, năm 1035 "Mở chợ Tây Nhai và dãy phố dài ở chợ ấy". Những hoạt động kinh tế trong một thời kỳ dài khá ổn định như sử liệu ghi chép, năm 1016 "30 bó lúa giá 70đ". Đồng tiền giữ vị thế vững chắc trong đời sống xã hội. Tiền thời Lý được quy định 1 tiền là 50đ. 1 quan có 10 tiền = 500đ.

 Thăng Long đã trở thành một trung tâm kinh tế thương mại về hàng nông nghiệp và thủ công nghiệp của cả nước. Giá cả ổn định, tiền tệ lưu thông phản ánh nền kinh tế nói chung và nội thương có bước phát triển.  

 Ngoại thương phát đạt

 Kinh tế hàng hóa phát triển là tiền đề để thúc đẩy ngoại thương phát đạt, các thương điếm buôn bán ven biển xuất hiện. Năm 1149 "Mùa xuân tháng 2, thuyền buôn ba nước Trảo Oa; Lộ Lạc; Xiêm La vào Hải Đông xin cư trú buôn bán, bèn cho lập trang ở nơi hải đảo gọi là Vân Đồn để buôn bán hàng hóa quý".

 Như vậy, vào thời Lý bên cạnh những thương nhân Trung Hoa, ngoại thương Việt Nam đã có sự tham gia của các thương nhân các nước trong khu vực Đông Nam Á. Bên cạnh ngoại thương đường biển, ngoại thương đường bộ cũng đẩy mạnh với  "Bạc dịch trường" dọc tuyến biên giới vơi các địa điểm: Vĩnh Bình, Như Hồng, Hoành Sơn, Tô Mậu... Số vốn một chuyến đi buôn bán trong một năm lên đến hàng nghìn quan.

 Không những là mạch máu trong hoạt động kinh tế, tiền còn đóng vai trò  quan trọng trong nhiều lĩnh vực. Tiền là nguồn thu ngân sách của vương triều, hay là vật ban thưởng mỗi khi lên ngôi: Năm 1028 nhân việc mới lên ngôi "xuống chiếu lấy tiền lụa trong kho lớn ban cho thiên hạ"; Ban phát thưởng cho quan lại "phát quần áo, tiền lụa trong Nội phủ để ban cho", hay chẩn cấp cho dân nghèo khi đói kém "năm 1070 phát thóc và tiền lụa trong kho để chẩn cấp cho dân nghèo"...

 Tóm lại, tiền tệ thời Lý  đã trở thành công cụ hữu hiệu được sử  dụng trong nhiều lĩnh vực, đưa vương triều Lý phát triển toàn diện, trên mọi mặt kinh tế, văn hóa, tạo nên một thời kỳ có tiếng là văn minh trong lịch sử dân tộc.

Thái Bình hưng bảo: Đồng tiền đầu tiên của Việt Nam

Bước vào kỷ nguyên độc lập, cùng với việc xây dựng chính quyền, quân đội... các triều đại Việt Nam khẳng định nền tài chính dân tộc riêng bằng cách đúc và lưu thông những đồng tiền của triều đại mình.
 
Tiền biểu hiện tư duy cội nguồn

Triều đại độc lập  đầu tiên Ngô Quyền, chúng ta chưa tìm thấy được  đồng tiền Việt Nam riêng. Đến thời Đinh Tiên Hoàng, sau khi dẹp loạn các sứ quân, thống nhất lãnh thổ, xây dựng chính quyền tập quyền trung ương "dựng đô mới, đắp thành, đào hào, xây cung điện đặt triều nghi" (theo ĐVSKTT, tr 211), ông đã cho phát hành đồng tiền riêng của triều đại mình đó là đồng Thái Bình Hưng Bảo.

Tiền Thái Bình Hưng Bảo đúc từ chất liệu đồng, khá mỏng, có hình tròn đường kính 2,2 - 2,35cm, bên ngoài có riềm tròn rộng, phẳng. Chính giữa là lỗ có hình vuông, chữ được viết nổi đối xứng qua lỗ vuông (Thái trên - Bình dưới; Hưng bên phải, Bảo bên trái).

Description: Description: g

  Mặt sau tiền thời Đinh.
 

Hình dáng tiền có thể biểu hiện tư duy cội nguồn về vũ trụ: Trời tròn, đất vuông, bắt nguồn từ thuở Vua Hùng dựng nước. Sau lưng đồng tiền có một chữ Đinh. Các nhà nghiên cứu tiền cổ đều thừa nhận, đó là đồng tiền nhà Đinh sản xuất lưu hành, không thể nhầm với bất kỳ đồng tiền nào khác trong và ngoài nước.

Tiền Thái Bình Hưng Bảo là đồng tiền đầu tiên của Việt Nam, góp phần khẳng định nền độc lập tự chủ của dân tộc trên các lĩnh vực. Tiền lần đầu tiên xuất hiện nên số lượng  tìm được chưa nhiều và hạn chế bởi không gian chủ yếu tìm thấy ở Hoa Lư - vùng kinh đô cũ và đồng bằng Bắc Bộ.
Khẳng định giá trị tiền tệ của nhà nước độc lập

Thời Tiền Lê (năm 984) trước nhu cầu phát triển của nền kinh tế và giao thương trao đổi, Lê Hoàn cho lập xưởng đúc tiền Thiên Phúc trấn bảo.

Tiền Thiên Phúc kế thừa hình dáng và kích thước như tiền thời Đinh, có hình tròn, đường kính 2,2 - 2,4cm. Giữa có lỗ hình vuông, mặt trước có chữ viết chân phương niên hiệu của triều đại. Mặt sau lưng có chữ Lê, chữ đúc gọn nổi sắc nét.

Tiền Thiên Phúc sau này tìm được ở nhiều nơi: cố đô Hoa Lư, thành Thăng Long, thương cảng Vân Đồn và nhiều nơi khác, những trung tâm kinh tế của đất nước thời bấy giờ. Sự có mặt của tiền Thiên Phúc ở nhiều nơi, không gian lưu thông rộng cho thấy, tiền được đúc và sử dụng nhiều, khẳng định giá trị tiền tệ của nhà nước độc lập.

Description: Description: g

  Mặt trước tiền thời Đinh.

Bên cạnh những đồng tiền do nhà nước độc lập Việt phát hành, các đồng tiền Trung Quốc cũng được sử dụng trong thông thương trao đổi với tư cách là "ngoại tệ". Trong các hoạt động kinh tế, thương mại hai đồng tiền Việt Nam và Trung Quốc được sử dụng song song, nhất là các vùng thương cảng biên viễn.

Sự có mặt của các đồng tiền Việt Nam ngay từ buổi đầu giành độc lập, đã góp phần khẳng định ý thức dân tộc, tinh thần độc lập tự chủ của các triều đại Việt Nam. Đây là những cơ sở ban đầu để sau này tiền tệ Việt Nam được các triều đại sau phát huy và phát triển.

Lịch sử xuất hiện của tiền Việt Nam

Từ khi xuất hiện cho đến nay, đồng tiền không chỉ dừng lại vai trò là vật trung gian kinh tế mà còn tham gia vào các hoạt động xã hội, tín ngưỡng khác.
 
Từ mục đích thay thế vật trung gian

Ban đầu con người lựa chọn vật có giá trị trao đổi sẵn có trong tự nhiên. Sau đó xuất hiện vật trung gian được chế tác ra với mục đích thay thế vật trung gian tự nhiên - đó là tiền. Tại Trung Quốc, vật trung gian ban đầu được sử dụng là vỏ sò. Vỏ sò dùng làm tiền ngày càng hiếm, sau này người ta dùng đá, gỗ, xương tạo nên hình con sò để thay thế.
 

Description: Description: f

Đồng tiền Khai Nguyên thông bảo.

 Tài liệu khảo cổ học và dân tộc học ở Việt Nam cũng cho thấy, một số tộc người đã lấy ốc làm vật trung gian trao đổi. Hai con ốc tìm được bỏ trong hốc mắt của một sọ người ở ngôi mộ tại địa điểm Phai Vệ (Tuyên Quang) thuộc thời đại đồ đá mới là loại ốc Cypriea arabica, có thể đây là một loại tiền. Ốc sử dụng làm tiền còn được phát hiện ở các di tích xóm  Thàm - Quảng Bình, Mán Bạc - Ninh Bình, Quảng Ninh thuộc giai đoạn hậu kỳ đá mới sơ kỳ kim khí. Đây có thể coi là giai đoạn nguyên thuỷ của tiền. 

Đến tiền kim loại xuất hiện

Cùng với sự chuyển biến về kinh tế sản xuất, tiền kim loại xuất hiện, thay thế cho các loại tiền từ tự nhiên (vỏ ốc).

Tại Việt Nam, do điều kiện lịch sử từ những năm đầu Công nguyên đến năm 938 tộc người Việt bị đô hộ, nước ta trở thành quận, huyện của các triều đại phong kiến phương Bắc. Những đồng tiền sử dụng trong thời kỳ này đều do các triều đại phong kiến Trung Hoa chế tác.

Vào những năm trước Công nguyên có loại "đao tiền" thời Tây Hán. Tiền được chế tác bằng chất liệu sắt, có hình con dao nhỏ. Loại hình này cho đến nay tìm được không nhiều tại mộ Việt Khê (Hải Phòng).
Bên cạnh đao tiền còn có tiền Bán Lạng (nửa lạng), tiền Ngũ Thù. Tiền Bán Lạng tìm được tại nhiều khu vực được coi là những trung tâm kinh tế buổi đầu như: Luy Lâu (Bắc Ninh); Cổ Loa (Hà Nội); Đông Sơn (Thanh Hóa). Tiền Ngũ Thù tìm được nhiều tại các ngôi mộ cổ tại Đông Triều (Quảng Ninh), Luy Lâu, Tiên Sơn, Yên Dũng (Bắc Ninh) Hội Thống (Hà Tĩnh)... xa hơn là Điện Bàn; Hội An (Quảng Nam).

Sự có mặt rộng khắp của các đồng tiền Trung Quốc trên địa bàn nước ta đã nói lên sự giao lưu trao đổi khá phổ  biến có tính khu vực hình thành nền kinh tế thương mại phát triển. Các triều đại về sau xuất hiện các loại tiền: Hoá tiền, Thái Bình Bách tiền, Đại tuyền ngũ thập... Đầu thế kỷ VII nhà Đường (năm 621), Đường Cao Tổ bắt đầu có sự cải cách lớn về hệ thống tiền tệ.

Trên đồng tiền đúc, ngoài niên hiệu, tiền có chữ thông bảo, trọng bảo như: Khai Nguyên thông bảo, Càn Nguyên trọng bảo. Cuộc cải cách này là cơ sở để các đồng tiền đúc về sau tuân thủ, mặc dầu mỗi thời đại có sự cách tân khác nhau.

Trong một nghìn năm Bắc thuộc có thể thấy đồng tiền lưu hành trong xã  hội cơ bản là do các triều đại phong kiến Trung Hoa phát hành. Các đồng tiền này được chế tác từ kim loại đồng, hình tròn, giữa có lỗ vuông hoặc tròn tùy theo thời đại, trên tiền có đúc các dòng chữ biểu thị niên đại xuất hiện. Nhiều đồng tiền được chế tác chất lượng cao, tiền dày, chất lượng đồng tốt, chữ đúc gọn đẹp được người tiêu dùng ưa chuộng mãi về sau như đồng Khai Nguyên thông bảo.