Home Đời Sống Tài Liệu Sự Thật Về Cách Mạng Mùa Thu

Sự Thật Về Cách Mạng Mùa Thu PDF Print E-mail
Tác Giả: Sưu tầm trên net   
Thứ Năm, 09 Tháng 9 Năm 2010 07:51
Sự thực về "Cách Mạng Mùa Thu 1945" đã được ngòi bút Nguyễn Mạnh Côn miêu tả trong tác phẩm lý luận "Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử", và cụ Lệ Thần Trần Trọng Kim kể lại trong hồi ký  'Một Cơn Gió Bụi"
 
 
 
Cách đây 65 năm , chúng tôi còn chưa ra đời, năm 1945 nhân sự kiện đệ nhị thế chiến chấm dứt quân đội Nhật chiếm đóng Việt Nam được lệnh đầu hàng nên gần như án binh bất động để chớ quân đội Đồng Minh đến giải giới; quân đội Pháp lúc đó ở Âu Châu bản quốc của họ mới được giải phóng khỏi ách đô hộ của phát xít Đức chưa kịp tăng viện cho quân đội ở Đông Dương.
Và ảnh hưởng tác hại của nạn đói đã cướp đi hai triệu người dân tại  Bắc Việt khiến quốc dân Việt Nam đều nhìn ra tất cả tai họa chỉ vì hai chữ ngoại thuộc nên nhân cơ hội đó đứng lên đòi độc lập. Nhưng tất cả mọi người cũng đều hiểu rằng: những toán quân ô hợp của các tổ chức yêu nước không thể đối chọi được với quân đội Nhật Bản. Tất cả hy vọng đều nhằm vào thắng lợi của Đồng Minh.
Mặt Trận Việt Minh đeo đuổi mục đích cộng sản. Nhưng trong số đó có mục đích kháng Nhật, đuổi Tây. Họ hoạt động có tổ chức và có khoa học nhất trong các đoàn thể lúc bấy giờ. Yếu tố quyết định là họ có bằng cớ liên lạc với Đồng Minh, được Đồng minh tiếp tế và giao cho nhiệm vụ tình báo kháng Nhật.
Họ chụp ảnh sĩ quan Hoa Kỳ đang huấn luyện cán bộ, ảnh phi cơ Mỹ thả dù tiếp tế chiến khu. Chứng minh là họ có chút giao dịch với Đồng minh. Trong khi bao nhiêu hy vọng kháng Nhật đều đặt vào sự thắng lợi của Đồng minh do đó họ nắm được thành phần quả cảm của giai tầng tiểu tư sản trí thức đã nhầm lẫn do căn tính vọng ngoại. Qua thành phần này Việt minh dễ dàng nắm được hầu hết đồng bào cần lao ở nông thôn và thành thị. Vì thế Việt Minh được hoan nghênh. Và cuộc lừa đảo, ăn cướp vĩ đại nhất lịch sử dân tộc đã bắt đầu
Sự thực về "Cách Mạng Mùa Thu 1945" đã được ngòi bút Nguyễn Mạnh Côn miêu tả trong tác phẩm lý luận "Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử", và cụ Lệ Thần Trần Trọng Kim kể lại trong hồi ký  'Một Cơn Gió Bụi"
 
trích
 
“Thành ra ngày 17-8 vừa rồi, có trọn vẹn ba lá cờ chạy hiệu, giữa đám biểu tình của Tổng hội Công chức mà huy động được hơn trăm ngàn người đi biểu tình ngày 19. Rồi lại có không đến ba mươi cán bộ Việt Minh thụt lại phía sau đoàn biểu tình vĩ đại ấy mà “cướp” được chính quyền ở một nước hai mươi nhăm triệu dân.
Trung hãy nghe tôi tả rõ cuộc biểu tình tổng khởi nghĩa ngày 19 tháng 8.
Người ta bảo nhau, rủ nhau may cờ để đi biểu tình tuần hành. Ít lắm là đoàn biểu tình có một trăm ngàn người. Nếu đi từng nhà, triệu thỉnh từng người thì cán bộ Việt Minh chỉ tập họp được vài ngàn người. Nhưng không mấy ai được gặp cán bộ. Chỉ cần một người nói lên: “19 tháng 8!” thế là đủ một truyền mười, mười truyền trăm, trăm đến ngàn, đến trăm ngàn.
Chúng tôi vác cả một rừng cờ đến đợi trước nhà Hát Lớn từ bốn giờ sáng. Mãi hơn tám giờ mới có micro với loa phóng thanh. Mấy cán bộ Thành của Việt minh lên đọc, ngập ngừng, những lời hiệu triệu yếu đuối so với khí thế bừng bừng của chúng tôi đứng nghe. Hơn mười giờ bắt đầu biến biểu tình thành tuần hành “thị uy” về phía “Bắc bộ phủ!”.
Người ta đã có quyền hành chính. Bây giờ đi cướp quyền quân sự. Tượng trưng cho quân đội lúc đó là hơn một ngàn Bảo an binh đóng  ở trại lính Khố xanh cũ, đường Đồng khánh, Rolandes, thì các cán bộ đại biểu đi chậm lại rồi mất dạng. Hơn trăm ngàn người dồn nhau, tiến vào sát cổng trại Bảo an. Cổng đóng. Phía trong cổng hai khẩu súng máy hạng trung và ước độ năm chục binh sĩ hoặc nằm bên cạnh súng, hoặc nấp mình sau những bức tường cuốn, súng đặt trên vai nòng quay về phía cổng. Người đi đầu -không có võ khí- trông thấy hai sĩ quan Nhật đứng giữa lính, muốn quay lại. Người phía sau không thấy gì cả, thúc bách nhau tiến lên. Chen chật quá, tay đã co lên không buông xuống được, tay đương thõng không co lên được. Cứ dồn nhau như thế, đến một giờ rưỡi thì có kẻ xuẩn động ném gạch vào lính Nhật gác ở ngã tư chợ Hôm, Hàm long. Lính Nhật nổ súng, hai người bị thương nơi chân. Náo động. Có tiếng hô “Đánh! Đánh!”. Cuộc biếu tình có thể trở nên lưu huyết. Bộ Tư lệnh Nhật, trong năm phút, phái chiến xa đến chặn tất cả mọi ngả đường vào chỗ đoàn tuần hành. Nội bất xuất ..cho đến năm giờ chiều. , ngày chớm Thu sắp tàn. Sương bắt đầu xuống. Cờ vác mỏi tay, đã cuộn giấu vào bụng áo. Chiến xa Nhật vẫn chặn đường. Một vài người muốn ra về đều thấy lưỡi lê dí vào bụng. Hoang mang bắt đầu. Phía ngoài hàng rào chiến xa có nhiều người mẹ đi tìm con, nước mắt chạy quanh. Chỉ một giờ nữa là tối. Quân Nhật có thể cho từng người một ra về, sau khi khám xét kỹ lưỡng. Cuộc khởi nghĩa tự nó sẽ tan vỡ. Nhưng bỗng  có tiếng reo lên như động biển. Thì ra trong sân trại Bảo an, lá cờ Quẻ Ly vừa hạ xuống, lá cờ của Tổng khởi nghĩa được kéo lên. Chiến xa Nhật mở máy về trại. Hơn một trăm ngàn người sô nhau ra về, mãi đến bẩy giờ tối mới tan hẳn. Và người ta xôn xao hỏi nhau: “- Sao? Sao?”. Có người nói không xong, có người lại quả quyết rằng mắt thấy hai sĩ quan Nhật bị chói chặt giải đi, và Uỷ ban Tổng khởi nghĩa đã chiếm trọn trại lính.
Nhưng sự thật,sự thật muôn đời là Uỷ ban đã bỏ chết đồng bào trước họng súng Nhật. May sao trong đoàn tuần hành có một chàng thanh niên thân Nhật vào được trại, thuyết phục được viên chỉ huy Xuyên điền (Kawada) làm một cử chỉ tượng trưng là kéo lá cờ mới. Sau hết nài nỉ mãi bằng điện thoại mới yêu cầu được bộ Tư lệnh Nhật mở vòng vây…
Sự thật của cuộc Tổng khởi nghĩa là như thế đấy Trung ạ.”
 

hết trích (Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử)
 
Trong tác phẩm 'Một Cơn Gió Bụi" cụ Lệ ThầnTrần Trọng Kim kể lại:
 
Trích  'Một Cơn Gió Bụi"
 
 
Ðảng Việt Minh là gì và do đâu mà ra? Trước thì ít người biết rõ căn nguyên, sau đi đây đó xét hỏi kỹ càng mới biết rõ nguồn gốc. Thoạt đầu vào khoảng năm 1938 ở bắc việt đã nghe nói có đảng Việt Minh hành động ở mạn thượng du, nhưng lúc ấy ai cũng tưởng là một đảng cách mệnh mới nào đó nên không để ý đến mấy.
Nguyên từ khoảng 1925-1926 trở đi, ở Việt Nam đã có người nói đến chủ nghĩa cộng sản. Lúc ấy có một thiếu niên tên Nguyễn Tất Thành, sinh năm 1894, con nhà thi lễ, quê làng Kim Liên huyện Nam Ðàn thuộc tỉnh Nghệ An. Trước học trường trung học ở Huế rồi bỏ sang Pháp theo Xã Hội Ðảng, lấy tên là Nguyễn Ái Quốc. Sau lại sang Nga vào đảng Cộng Sản, đến khoảng 1929-1930 ông trở về gây phong trào cộng sản cách mệnh ở vùng Nghệ Tĩnh. Lúc ấy chính phủ bảo hộ Pháp dùng võ lực đàn áp một cách tàn nhẫn. Việc ấy thất bại, đảng cộng sản tuy phải im hơi lặng tiếng, nhưng vẫn ngấm ngầm tuyên truyền trong đám dân gian và thợ thuyền, theo đúng phương pháp đã định ở Mạc Tư Khoa bên Nga.
Trong khoảng thời gian ấy, Nguyễn Ái Quốc lánh sang Hương Cảng, bị người Anh bắt. Người Pháp muốn đòi người Anh giao trả cho chính phủ Ðông Dương, song theo tục lệ Anh, người Anh không giao trả những người can phạm vào việc chính trị, vì vậy ông phải giam ít lâu rồi được tha và bị đuổi ra khỏi Hương Cảng.
Ông Nguyễn Ái Quốc sang Quảng Châu và phao tin rằng ông đã chết trong ngục khi bị bắt ở Hương Cảng, và lại đổi tên là Lý Thụy rồi chen lẫn với những người cách mệnh Việt Nam ở bên Tàu. Vào khoảng 1936-1937 ông lập ra đảng cộng sản gọi là Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh, gọi tắt là Việt Minh, và cho người về hoạt động ở miền thượng du bắc việt. Vì vậy thuở ấy người ta mới biết là có đảng Việt Minh.
Ðến cuối năm 1940 nhân khi quân Nhật Bản ở Quảng Tây đánh vào Lạng Sơn, những người như bọn ông Trần Trung Lập trong đảng Việt Nam Quang Phục Hội của ông Phan Bội Châu lập ra khi trước, theo quân Nhật về đánh quân Pháp hồi tháng chín năm 1940. Sau vì người Nhật ký hiệp ước với người Pháp rồi trả lại thành Lạng Sơn cho người Pháp, ông Trần Trung Lập bị quân Pháp bắt được đem xử tử. Toán quân phục quốc vỡ tan, có một số độ 700 người, trong số ấy có độ 40 nữ đảng viên theo ông Hoàng Lương chạy sang Tàu.
Vậy các đảng của người Việt Nam ở bên Tàu vào khoảng năm 1942 trở đi, có Việt Nam Phục Quốc Ðồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Ðảng và những người cách mệnh không có đảng phái v...v...
Thuở ấy, chính phủ Trung Hoa thấy những đảng viên Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh Hội hành động theo chủ nghĩa cộng sản, bèn xuống lệnh giải tán đảng ấy và bắt Lý Thụy giam trong hang đá ở Liễu Châu, ủy cho tướng Trương Phát Khuê chủ trương việc tập hợp các đảng phái cách mệnh Việt Nam lập thành một đảng để hành động cho có hệ thống. Trương Phát Khuê giao cho ông Hoàng Lương trù liệu việc ấy.
Ngày mùng 1 tháng mười năm 1942, ông Hoàng Lương chiêu tập ở Liễu Châu những người trong các đảng phái hay không có đảng phái để lập ra một đảng duy nhất gọi là Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội, gồm đại biểu các đảng sau đây:
1) Việt Nam Phục Quốc Ðồng Minh Hội, có Hoàng Lương và Hồ Học Lãm làm đại biểu.
2) Việt Nam Quốc Dân Ðảng, có Vũ Hồng Khanh và Nghiêm Kế Tổ làm đại biểu.
3) Vô đảng phái, có Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần, Trần Báo, Trương Trung Phụng làm đại biểu.
Các đại biểu trước hết lập thành một ủy ban trừ bị do Nguyễn Hải Thần chủ tọa để xếp đặt mọi việc.
Lúc ấy Lý Thụy còn phải giam, ủy ban trừ bị đứng ra bảo đảm với chính phủ Trung Hoa, xin lĩnh ra để cùng làm việc. Theo lời một người Việt Nam có mặt trong hội nghị ấy đã nói: Lý Thụy có kết nghĩa với một người cộng sản Tàu tên là Hầu Chí Minh, làm chức thiếu tướng trong quân đội thuộc quyền chỉ huy của Trương Phát Khuê. Khi ở nhà ngục ra, ông muốn tỏ tình thân ái với bạn mới lấy tên là Hồ Chí Minh. Khi ông được tha ra, liền tuyên thệ xin hết lòng trung thành với Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội mà làm việc.
Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội đã thành lập, đổi ủy ban trừ bị ra làm ủy ban chấp hành. Khi ấy ông Hoàng Lương vì có sự gì xích mích với chính phủ Trung Hoa nên bị bắt đem về Trùng Khánh. Bởi vậy ủy ban chấp hành chỉ có những người này:
 
1.Trương Bội Công, chủ tọa.  
2.Trần Ðình Xuyên.  
3.Nguyễn Hải Thần.  
4.Vũ Hồng Khanh, ủy viên.  
5.Bồ Xuân Luật.  
6.Trương Trung Phụng.  
7.Nông Kính Du.
 
Hồ Chí Minh được cử làm hậu bổ ủy viên và Trần Báo làm tổng cán sự.
Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội vừa thành lập chưa được bao lâu thì đã có sự bất hòa trong nhóm ủy viên, nên chủ tọa là Trương Bội Công từ chức và bỏ về Vân Nam rồi mất ở đấy. Hội cử ông Nguyễn Hải Thần lên làm chủ tọa.
Trong những người cách mệnh Việt Nam hoạt động bên Tàu thuở ấy, ta có thể biết những người này:
Trương Bội Công, người Thanh Hóa, có nghị lực và cương quyết, trước học trường võ bị và làm đến chức thiếu tướng trong quân đội Tàu.
Nguyễn Hải Thần, chính tên là Vũ Hải Thu, người tỉnh Hà Ðông. Ông là người lão thực, trước đã thi đỗ tú tài, thường gọi ông Tú Ðại Từ. Khi ông Phan Bội Châu xướng lên việc xuất dương vào quãng năm 1905-1906, ông ra ngoài vào học trường võ bị Hoàng Phố gần Quảng Châu. Ông quen biết Tôn Dật Tiên, Tưởng Giới Thạch, Ngô Thiết Thành, Trần Lập Phu v...v... Vì có sự quen biết ấy, nên khi ông Tưởng Giới Thạch làm giám đốc trường Hoàng Phố, có đưa ông vào làm một chức giáo sư ở trường, dạy về chính trị, mỗi tháng được sáu bảy chục tiền Tàu, lúc ấy cũng đủ ăn tiêu. Một năm ở Nam Ðịnh có cuộc xướng danh khoa thi hương, toàn quyền Sarraut về chứng cuộc ấy, ông về ném quả tạc đạn định giết viên toàn quyền. Nhưng tạc đạn không nổ, ông chạy thoát, đổi tên là Nguyễn Cẩm Giang. Một lần nữa sau cuộc chiến tranh 1914-1918 ông đem một toán quân thổ phỉ về đánh châu Ðà Long, ta thường gọi là châu Ðà Lùng thuộc Cao Bằng. Việc thất bại ông sang ở luôn bên vùng nam nước Tàu và đổi tên là Nguyễn Hải Thần. Sự nghiệp cách mệnh của ông chứng rõ trong bài thơ sau này, ông gửi cho tôi khi tôi ở Quảng Châu vào khoảng cuối năm 1946:
Bốn chục năm nay vị nước nòi Nước nòi chưa mạnh, quyết chưa thôi Ðà Long phất trận gươm ba tấc Nam Ðịnh tương bom lửa một mồi Cha đứa cắn gà toan cõng rắn Mẹ thằng giày mã dám đem voi Nào ai mãnh sĩ mưu thần đó Góp sức đun tay để cứu đời
 
Vũ Hồng Khanh, tức là Giáo Giản, trước làm giáo học ở một trường tiểu học bắc việt, sau theo Nguyễn Thái Học vào Quốc Dân Ðảng khởi nghĩa ở Yên Bái, rồi chạy sang Tàu ở bên Vân Nam.
Nguyễn Tường Tam, có bằng khoa học cử nhân, trước đứng chủ trương báo Phong Hóa rồi Ngày Nay ở Hà Nội và lập ra đảng Ðại Việt Dân Chính. Ðến khi quân Nhật vào đóng ở Ðông Dương, vì sự hành động của bọn ông, người Pháp toan bắt, ông nhờ quân đội Nhật đưa sang ở Quảng Châu rồi sang Quảng Tây, nhập vào Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội.
Những người ấy tuy nói là đảng nọ phái kia, nhưng kỳ thực không có sự tổ chức gì ra trò. Bọn ông Hồ Chí Minh biết như thế nên mới lợi dụng danh hiệu Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội để che đậy công việc làm.
Ðảng Việt Minh cộng sản có tổ chức rất chu mật và theo đúng phương pháp khoa học. Trong khi ông Hồ Chí Minh ở bên Tàu để chờ đợi thời cơ, ở trong nước đâu đâu cũng có cán bộ, ngấm ngầm hành động và tuyên truyền rất khôn khéo. Họ lợi dụng lòng ái quốc của dân chúng mà tuyên truyền Việt Minh không phải là đảng cộng sản, chỉ là một mặt trận gồm tất cả các đảng phái lấy lại độc lập cho nước nhà, vậy nên từ bắc chí nam đâu cũng có người theo.
Cách hành động của họ thì bất cứ công sở hay tư sở, hễ đâu có một tổ chức làm việc là có người của họ chen lấn vào, hoặc để tuyên truyền, hoặc để hoạt động theo chủ nghĩa họ. Ðảng viên cộng sản lại biết giữ kỷ luật rất nghiêm và rất chịu khó làm việc. Xem như Hội Truyền Bá Quốc Ngữ khi mới thành lập ở Hà Nội là có ngay những người cộng sản vào hội rồi, và những người nhận việc đi dạy học rất chăm, không quản công lao gì cả. Một tổ chức có kỷ luật và chịu khó làm việc như thế, làm gì mà không mạnh.
Sự tổ chức của đảng cộng sản đã mạnh và nhất là từ khi quân Nhật Bản vào đóng ở Ðông Dương, rồi xem hình như người Pháp lại ngấm ngầm dung túng họ, có ý để họ quấy nhiễu quân Nhật may ra có xảy biến đổi gì chăng. Cho nên người ta thấy lúc ấy chính phủ bảo hộ vẫn bắt bớ những người làm thuyền thợ theo cộng sản, song người cộng sản nào có chút thế lực thì bắt rồi lại thả ra, hoặc dùng để làm việc với mình. Cái tình thế đảng cộng sản ở trong nước trước khi có cuộc đảo chính của quân Nhật là thế.
Trong khi ấy ông Hồ Chí Minh ở bên Tàu vẫn cộng tác với Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội, không có tranh dành địa vị như những người khác, cứ làm việc của một đảng viên có kỷ luật. Cái khôn khéo của ông lúc ấy không để lộ cho ai biết ông là lãnh tụ đảng cộng sản Ðông Dương.
Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội ở Liễu Châu được ít lâu rồi vì sự tấn công của quân Nhật, hội phải dời về Bách Sắc và đặt thêm hai chi bộ; một chi bộ ở Côn Minh do Vũ Hồng Khanh quản lý, và một chi bộ ở tỉnh Quảng Tây do Trương Trung Phụng quản lý.
Về khoảng cuối năm 1944, Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội lại dời về tỉnh Quảng Tây và cho ông Hồ Chí Minh về Bách Sắc để trù liệu kế hoạch nhập Việt. Sau đó hội cho ông Hồ Chí Minh cùng 22 đảng viên phần nhiều là người trong đảng Phục Quốc về nước để khởi sự hành động. Trong số 22 người ấy có một nữ đảng viên tên là Ðỗ Thị Lạc là người sau có đứa con gái với Hồ Chí Minh. Về sau thấy người ta nói khi về đến địa hạt Bắc Giang, có ba đảng viên trong 22 người ấy bị giết vì không chịu theo cộng sản.
Lúc đầu bọn ông Hồ Chí Minh chia ra làm hai đoàn. Một đoàn có ông Ðặng Văn Ý, cựu trung úy trong quân đội Pháp trước về Lạng Sơn đánh lấy đồn Bảo Lạc, thuộc Hà Giang. Một đoàn đi với Hồ Chí Minh có Vũ Nam Long, sau thường gọi là tướng Nam Long, đánh lấy đồn Ðồng Mu ở Sóc Giang thuộc Cao Bằng. Việc ấy xảy ra vào khoảng tháng hai năm 1945.
Từ đó bọn ông Hồ Chí Minh bỏ danh hiệu Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội mà dùng danh hiệu cũ là Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh, tức Việt Minh, và dùng cờ đỏ sao vàng của cộng sản. Rồi đến quảng đầu tháng ba năm 1945 thì về đến vùng Văn Lãng, thuộc Thái Nguyên giáp Tuyên Quang và lập trụ sở bí mật ở đó. Từ bấy giờ trở đi, đảng Việt Minh hành động rất mạnh, nhưng cái tên Hồ Chí Minh vẫn giữ rất kín cho đến gần cuối tháng tám, sau khi cướp được chính quyền ở bắc bộ, người ta mới nghe nói.
Các chi bộ cộng sản ở trung và Nam Bộ đã sẵn sàng đâu đấy cả rồi, song cứ phải giữ bí mật, đợi khi có mệnh lệnh mới được ra mặt hành động. bắc bộ, một mặt họ sai những người táo tợn đi đánh phá các nơi, hễ đâu có ai ra mặt chống họ, họ bắt đi hay giết chết, làm cho dân chúng khiếp sợ. Một mặt họ cho người đi diễn thuyết và tuyên truyền rằng đảng Việt Minh đã có các nước Ðồng Minh là Tàu, Nga, Mỹ ủng hộ và giúp cho binh khí để đánh bọn độc tài Pháp và Nhật. Họ lại nói rằng quân Việt Minh đã đánh lấy được mấy tỉnh ở mạn thượng du bắc bộ rồi.
Vào khoảng tháng 5 năm 1945, người Nhật thấy Việt Minh có thế mạnh, tưởng là một đảng theo chủ nghĩa quốc gia, bèn cho người đi tìm cách điều đình. Ðến ngày mùng 9 tháng năm, hai người Nhật và một người Việt Nam làm thông ngôn lên đến Ký Phú gần huyện Ðại Từ thuộc Thái Nguyên, đều bị quân Việt Minh giết cả. Việt Minh lại sai người về ám sát mấy người sĩ quan Nhật ở giữa Hà Nội và cho người đi đánh phủ nọ huyện kia. Các quan phủ huyện, người thì bị bắt, người thì chạy trốn, dân tình nôn nao cả lên. Những thanh niên Việt Nam lúc ấy phần nhiều cũng theo Việt Minh và đi tuyên truyền rầm rĩ. Người Nhật thấy vậy bèn ra lệnh bắt các thanh niên và những người họ ngờ theo Việt Minh đem giam và tra tấn rất cực khổ.
Khi tôi được tin người Nhật bắt các thanh niên ở Hà Nội, lập tức tôi thu xếp ra bắc. Hôm sau tôi nói chuyện với ông Yokohama, tối cao cố vấn Nhật, rằng hai ngày nữa tôi ra Hà Nội. Ông ấy bảo tôi: "Cụ đang nhọc mệt ra Hà Nội làm gì, mọi việc dần dần rồi đâu ra đấy cả". Tôi nói thật ý định của tôi, ông Yokohama không nói gì. Ðến sáng hôm sau ông nói rằng: "Nếu cụ đi Hà Nội, thì tôi cùng đi với cụ". Tôi bảo được thế càng hay.
Tôi ra Hà Nội, cùng đi có các ông Hoàng Xuân Hãn bộ trưởng bộ giáo dục, ông Vũ Văn Hiền bộ trưởng bộ tài chính, ông Phan Anh bộ trưởng bộ Y Tế, đề phòng khi điều đình ổn thỏa, sẽ lấy lại các công sở.
Ði lúc bấy giờ rất khó khăn, ngày đêm tàu bay Mỹ sang đánh phá, phải đêm đi ngày nghỉ. Ra đến Hà Nội được mấy ngày ông Vũ Ngọc Anh đi về Thái Bình thăm nhà và xem những bệnh viện vùng ấy, rồi đến khi trở về gần Bần Yên Nhân, bị tàu bay Mỹ bắn chết.
Thế là trong nội các mất một ông bộ trưởng rất tận tâm về việc nước, và chúng tôi mất một người bạn hòa nhã và trung thành.
Tôi đến Hà Nội hôm trước, hôm sau đến gặp ông Tsuchi-Hashi Yuitsu, tổng tư lệnh nhật, quyền chức toàn quyền của Pháp ở Ðông Dương, rồi bắt đầu nói chuyện. Trong cuộc nói chuyện chỉ có viên tổng tư lệnh, viên cố vấn và tôi. Viên tối cao cố vấn phiên dịch tiếng Việt ra tiếng Pháp. Nói câu nào, trước khi phiên dịch ra tiếng Pháp hay tiếng Nhật, viên ấy biên lấy những câu hỏi và những câu đáp lại.
Trước hết tôi nói: "Quân đội Nhật đã đánh quân đội Pháp và công nhiên hứa hẹn trả quyền tự chủ cho nước Việt Nam. Bởi vậy tôi không quản tuổi già và sự khó khăn của hoàn cảnh mà đứng ra lập chính phủ. Tôi làm việc một lòng giúp nước tôi, cũng như các ông lo việc giúp nước Nhật, thế mà thấy nhiều người nói nọ nói kia rất khó chịu. Nếu các ông cho tôi là người làm việc cho nước Nhật, việc ấy không phải là phận sự của tôi, tôi sẵn lòng xin lui".
Tổng tư lệnh Nhật nói:
„Bao giờ người Nhật cũng giữ lời hứa hẹn nên những việc nội trị trong nước Việt Nam là không can thiệp đến. Còn những việc chưa giải quyết được là vì cần phải có thì giờ để thu xếp cho ổn thỏa. Cụ đừng nghe người Nhật hay người Việt Nam nói nhảm không có căn cứ gì. Vả tôi phụng mệnh Thiên Hoàng sang đây, việc gì cũng trách cứ ở tôi, cụ đừng ngại.“
„Ngài đã nói thế, phận sự của chính phủ chúng tôi là phải thu lại mấy thành thị Hà Nội, Hải Phòng, Ðà Nẵng và toàn hạt đất Nam Bộcho nước Việt Nam. Nếu việc ấy không xong, thì chúng tôi đối với quốc dân không có nghĩa lý gì cả.“
„Chúng tôi bao giờ cũng định trả lại các lãnh thổ Việt Nam cho chính phủ Việt Nam. Nhưng vì sợ các ông chưa xếp đặt được sẵn sàng, nên còn trì hoãn lại ít lâu.“
„Chúng tôi vẫn sẵn sàng về việc ấy, chỉ còn đợi sự quyết định của các ông mà thôi.“
„Vậy thì cụ định bao giờ lấy lại ba thành thị kia?“
„Nếu ngài bằng lòng, thì tôi xin lấy ngay tự bây giờ.“
Viên tổng tư lệnh Nhật nghĩ một lúc rồi nói:
„Vậy xin để đến sáng ngày kia, vào 11 giờ cụ cho làm lễ thu nhận ba thành thị ấy. Còn Nam Bộ thì có nước Cao Miên còn lôi thôi về mấy tỉnh ở biên giới.“
Tôi nói:
„Việc ấy hiện bây giờ không thành vấn đề được, vì địa giới Nam Bộngày nay với địa giới Nam Bộ ngày trước không có gì thay đổi. Vậy phận sự chúng tôi là phải lấy lại toàn lãnh thổ của tổ quốc. Còn như Cao Miên có muốn nói chuyện gì về việc ấy, thì sẽ nói chuyện với chúng tôi về sau. Vả theo ý tôi, thì nước Cao Miên muốn thừa cơ chiếm lấy một ít đất của nam bộ, như thế làm mất cái tinh thần thân thiện của hai nước lân bang, và không đời nào dân Việt Nam chịu.“
Tổng tư lệnh Nhật cứ viện hết lý do nọ đến lý do kia, thành ra cứ bàn cãi đến một ngày mới chịu nhận lời trả lại nam bộ. Có một điều nên biết, là từ ngày tôi ra Hà Nội, người Nhật nói chuyện rất hòa nhã và có vẻ cung kính, chứ không có điều gì trịch thượng hay gai ngạnh. Khi họ đã nhận lời trả lại đất nam bộ, có hỏi tôi rằng: "Bao giờ cụ định vào nhận lấy đất nam bộ, hay cụ định cho ai đi thay cụ". Tôi nghĩ trong cái việc khó khăn này, mình phải đi mới được, và tôi nói: "Tôi về Huế vài ngày để tâu bày mọi việc với hoàng thượng, rồi độ chừng ngày mùng 8 tháng tám là tôi đã ở Sài gòn rồi".
Tổng tư lệnh Nhật nói: "Cụ định vào thì hôm ấy tôi cũng vào, để xếp đặt mọi chuyện cho chóng xong".
Tôi nói: "Cám ơn ngài. Ðược như thế thì có thể tránh được mọi sự khó khăn lặt vặt".
Việc lấy lại toàn lãnh thổ Việt Nam như thế là quyết định xong. Tôi nói đến việc lấy lại các công sở trước thuộc về chính phủ Ðông Dương toàn quyền. Tổng tư lệnh Nhật nói việc ấy có nhiều sự phức tạp vì các công sở ấy quan hệ đến các nước lân bang như Cao Miên và Ai Lao nữa.
Tôi nói: "Các ông đã đánh đổ các thuộc địa của Pháp, đã nhận cho Việt Nam, Cao Miên và Ai Lao được tự chủ thì các công sở ấy theo lẽ tất nhiên là phải trả lại cho các nước ấy. Còn sự giao thiệp về quyền lợi riêng của mấy nước chúng tôi, sẽ theo tình thân thiện mà bàn với nhau".
Có một điều tôi nhất định đòi cho được, là phải bỏ chế độ phủ toàn quyền cũ, mới hợp cái nghĩa tự chủ của ba nước trong xứ Ðông Dương.
Sau cuộc đàm phán hơn một ngày bàn về chi tiết việc giao trả lại chính phủ Việt Nam hết thảy các công sở, như sở hỏa xa, sở công an, vì còn chiến tranh, người Nhật xin để riêng mấy phòng cho họ hợp tác với người Việt Nam. Tôi nghĩ: trong lúc đầu còn lắm sự khó khăn, ta phải tạm nhượng bộ ít nhiều, để cho êm chuyện. Tôi ưng thuận. Còn ngày thu nhận các công sở ấy định vào ngày 15 tháng tám mà bấy giờ là ngày mùng 2 tháng tám dương lịch.
Nhưng công việc và mấy vấn đề trên xong đâu đấy rồi, tôi xin tổng tư lệnh Nhật tha và trả lại cho chính phủ Việt Nam hết thảy những sĩ quan và quân lính Việt Nam mà quân đội Nhật còn giam giữ ở các nơi, để chúng tôi tổ chức lại quân đội bảo an. Và nhân vì súng ống không có, tôi lại xin cho chúng tôi đủ súng ống đạn dược để những đội bảo an ấy dùng. Tổng tư lệnh Nhật nhận lời và tạm cho bắc bộ 2000 khẩu súng và đạn dược. Tôi về lập tức cho gọi đại úy Thu và một trung úy đã được tha từ trước làm chương trình cải tổ các đội bảo an.
Tôi xin tha cho những thanh niên bị hiến binh Nhật bắt vì theo Việt Minh. Lúc ấy phần nhiều thanh niên hăng hái quá thường hay bạo động. Tổng tư lệnh Nhật gọi viên đại tá coi hiến binh Nhật đem sổ cho tôi xem, thì chỉ thấy độ 300 người bị bắt, chứ không như người ta đồn có tới hàng ngàn người, và có non một trăm người đã được tha rồi. Những người còn phải giữ lại là vì có chứng cớ, như cho tiền hay đã đi hội họp ở chỗ nào.
Tôi lấy mọi lẽ giải thích sự hành động của thanh niên, và bảo người Nhật rộng lượng mà tha hết cả ra, để khỏi làm náo động lòng người. Hiến binh Nhật hứa sẽ xét chóng mà tha dần ra. Ngày hôm sau họ tha ra được năm, sáu chục người.
Nói rút lại, chúng tôi ra Hà Nội, điều đình với tổng tư lệnh Nhật được kết quả như là: lấy lại toàn lãnh thổ của nước Việt Nam, thu hết các công sở thuộc phủ toàn quyền cũ của Pháp, lấy hết các binh sĩ Việt Nam để tổ chức đội quân bảo an, lấy được 2000 khẩu súng mới và đạn dược, và xin tha được một số thanh niên bị bắt.
Sự điều đình của chúng tôi được ổn thỏa dễ dàng, có lẽ vì người Nhật tự biết họ sắp thua nên họ đổi thái độ để mua chuộc lòng người. Hay là họ có ý gì khác nữa, ta không thể biết được.
Lúc ấy chúng tôi còn dự định làm nhiều việc khác, nhất là chương trình cải tổ quân đội, luyện tập quân lính đề phòng khi hữu sự. Nếu có thì giờ thi hành được, thì độ năm bảy tháng, hay độ một năm, sẽ có kết quả khả quan lắm. Song ý người định thế, mà trời không cho làm thì saỏ
Chúng tôi phải thu xếp về Huế. Giá lúc ấy có một người làm khâm sai ở bắc bộ cương quyết và hiểu việc, thì các việc tổ chức có thể mau chóng hơn, nhưng ông Phan Kế Toại là người chuyên làm việc trong thời bảo hộ của Pháp, tuy trong sạch hơn cả, song chỉ là một ông quan biết thừa hành mệnh lệnh, chứ về đường chính trị thì không thông thạo lắm, và tính lại nhát. Ông thấy một đường thì người Nhật làm khó dễ, một đường thì bọn Việt Minh bạo động, nay đánh chỗ này, mai đánh chỗ nọ, ông sợ hãi và chán nản, chỉ nói chuyện xin từ chức.
Phàm những người cầm quyền bính trong tay mà có những người tế nhị tài giỏi, biết quyền biến, giúp việc thì dù việc dở cũng hóa hay, mà không thì việc hay cũng hóa dở. Ðó là điều các nhà làm chính trị nên chú ý.
Trước tôi thấy cách làm việc của ông Toại rất lộn xộn, tôi đã muốn tìm người thay, nhưng tìm aỉ Người nói giỏi thì nhiều, mà người làm được việc thì ít. Nếu ở trong quan trường cũ có người tài cán và hiểu việc thì hơn, vì chức khâm sai là một chức kiêm cả việc chính trị và cai trị. Việc cai trị không có lịch duyệt không làm được. Ông Toại là người làm quan có tiếng hơn cả mà còn như thế, huống người khác rồi ra sao. Vì thế nên tôi cứ trù trừ mãi. Sau ông Toại cứ nài. Tôi nghe nói ông Nguyễn Tường Long là người biết chính trị và có nghị lực hơn cả, nhưng lúc ấy ông đang bị bệnh thương hàn. Tôi nghĩ đến ông Nguyễn Xuân Chữ là người trong Việt Nam Ái Quốc Ðảng, có tính cương quyết và đứng đắn. Tôi gặp ông Chữ nói chuyện, ông đã nhận lời, nhưng hôm sau ông về bàn tính thế nào lại đổi ý, nói xin để thong thả.
Tôi thì vội về mà người thì không có. Tôi phải bảo ông Toại phải cố ở lại mà làm việc cho đến khi tôi thu xong đất nam bộ, tôi sẽ tìm người thay. Ông Toại nể tôi mà ở lại.
Ðảng Việt Minh lúc ấy rất hoạt động, đánh huyện này, phá phủ kia. Lính bảo an ở các nơi phần nhiều bị Việt Minh tuyên truyền, tuy chưa theo hẳn, nhưng không chống cự nữa. Dân gian bấy giờ rất hoang mang, một đường có chính phủ quốc gia, nhưng vì thời gian eo hẹp, chưa kịp sắp đặt gì cả. Công việc thấy có nhiều sự khốn khó mà thường nghe sự tuyên truyền của Việt Minh, nói họ đã có các nước Ðồng Minh giúp đỡ cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập. Dân ta từ khi bị người Pháp sang cai trị, cứ khao khát độc lập, nay nghe Việt Minh nói thế, lại nghe nói đảng Việt Minh lên cầm quyền, dân không phải đóng thuế nữa, được hoàn toàn tự do và có nhiều hạnh phúc, thành ra ai cũng tin theo. Ngay những đạo thanh niên tiền tuyến do bộ Thanh Niên lập ra, cũng có ý ngã về Việt Minh.
Tôi thấy tình thế ấy, tôi bảo ông Phan Kế Toại đi tìm một vài người Việt Minh đến nói chuyện, vì lúc ấy tôi còn tưởng đảng Việt Minh dù theo chủ nghĩa cộng sản, nhưng chắc cũng nghĩ đến tương lai nước nhà. Hôm sau ông Toại đưa một thiếu niên Việt Minh đến, tôi nói: "Chúng tôi ra làm việc chỉ vì nước mà thôi, chứ không có ý cầu danh lợi gì cả, tôi chắc đảng các ông cũng vì nước mà hành động. Nếu vậy chúng ta tuy đi con đường khác nhau, nhưng cũng một mục đích như nhau, các ông thử xem ta có thể hợp tác với nhau, kẻ ở trong người ở ngoài, để cứu nước được không?".
Người ấy nói:
„Sự hành động của chúng tôi đã có chủ nghĩa riêng và có chương trình nhất định để đem nước đến chỗ hoàn toàn độc lập. Chúng tôi có thể làm lấy được.”
„Sự mưu cầu cho nước được độc lập cũng là mục đích của chúng tôi, nhưng vì đi đường thẳng có nhiều sự khó khăn nên chúng tôi phải uyển khúc mà đi từ từ có lẽ chắc chắn hơn.“
„Chúng tôi chỉ có một con đường thẳng đi đến hoàn toàn độc lập chứ không có hai.“
„Theo như ý các ông như thế, tôi sợ rất hại cho dân, mà chưa chắc đã thành công được.“
„Chúng tôi chắc thế nào cũng thành công. Nếu có hại cũng không cần, có hại rồi mới có lợi. Dù người trong nước mười phần chết mất chín, chúng tôi sẽ lập một xã hội mới với một thành phần còn lại, còn hơn với chín phần kia.”
Rồi người ấy ngồi đọc một bài hình như đã thuộc lòng để kể những công việc của đảng Việt Minh. Tôi thấy thái độ người ấy như thế, tôi biết không thể lấy nghĩa lý nói chuyện được.
Tôi nói:
„Nếu các ông chắc lấy được quyền độc lập cho nước nhà, các ông không vào chính phủ làm việc, cần gì phải đánh phá cho khổ dân?“
„Chúng tôi sẽ cướp lấy quyền để tỏ cho các nước Ðồng Minh biết chúng tôi mạnh, chứ không chịu để ai nhường.“
„Các ông chắc là các nước Ðồng Minh tin ở sức mạnh của các ông không?“
„Chắc lắm. Chắc trăm phần trăm.”
„Tương lai còn dài, các ông nhận lấy trách nhiệm đối với quốc dân và lịch sử.“
Xong việc ấy rồi cách hai hôm sau chúng tôi về Huế. Ông Phan Anh và ông Vũ Văn Hiền cùng về với tôi, còn ông Hoàng Xuân Hãn ở lại Hà Nội đợi đến ngày thu nhận sở Ðông Dương Học Chính và sở Công Chính.
Về đến Huế chúng tôi tâu bày mọi việc cho vua Bảo Ðại biết. Ngày tỏ ý vui vẻ lắm. Ðến khi họp hội đồng chính phủ trình bày công việc và kết quả việc chúng tôi ra Hà Nội, tôi vừa nói xong, ông Trần Văn Chương bộ trưởng ngoại giao nói: "Cụ ra Hà Nội lần này thành công là nhờ sự điều đình của tôi, khi tôi ra Hà Nội lần trước". Tôi nghe lời ông Chương nói, rất ngạc nhiên, vì lúc ấy tôi không nghĩ đến công cán gì cả. Lời ông Chương nói tỏ ra cái ý tranh công. Ngày trước tôi vẫn thường nói với các bộ trưởng: "Chúng ta cùng nhau hết lòng làm việc giúp nước, xin đừng ghen tị gì cả. Nếu ai làm được việc gì ích lợi là công chung tất cả của chúng ta. Hễ tôi làm không nổi và có ai sẵn lòng thay tôi, tôi xin nhường ngay". Sự tôi muốn nhường đó, ông Chương biết rõ hơn mọi người khác.
Tôi đáp lại ông Chương: "Việc tôi nói đây để trình bày những việc đã làm để nội các biết. Nếu có được một chút hiệu quả nhờ sự điều đình của ông Chương khi trước, càng hay. Thế tỏ ra công chung của mọi người trong nội các".
Sự thật sau khi ông Trần Văn Chương ra Hà Nội, có viên trung tướng tham mưu trưởng của tư lệnh bộ Nhật ở Ðông Dương tôi đã gặp khi trước, lúc mới ở Băng Cốc về Sài gòn, viên ấy ở Hà Nội trở vào nam, đi qua Huế có viết cho tôi lá thư bằng tiếng Nhật, nhờ ông Yokohama dịch ra tiếng Pháp đưa tận tay cho tôi. Ðại ý trong thư nói: "Việc ông bộ trưởng ngoại giao ra Hà Nội không có kết quả, vì ông ấy không biết giao thiệp, làm mếch lòng người Nhật". Tôi đưa thư ấy cho ông Hoàng Xuân Hãn và ông Phan Anh xem, để rõ tình thực.
Xong việc ấy, nói đến việc đi vào Nam Bộ. Thấy ý kiến các ông bộ trưởng phân vân. Ông Trần Ðình Nam, bộ trưởng bộ nội vụ, nói: "Nếu cụ đi nam, ở Huế nếu có xẩy ra việc gì, không ai chịu trách nhiệm". Ông Hồ Tá Khanh, bộ trưởng bộ kinh tế, đưa thư nói đại ý: "Phong trào Việt Minh mạnh lắm, nội các Trần Trọng Kim nên thôi đi, để họ làm việc may ra họ cứu được nước". Tôi nói: "Sự tôi thôi, thì tôi đã dự định rồi, nhưng để lấy lại đất Nam Bộ cho trọn công việc của mình, tôi thôi ngay".
Tôi thấy việc đi nam có nhiều sự cản trở, trong nội các không có hòa khí như lúc đầu, và có lắm chuyện nhỏ mọn không muốn nói ra, làm tôi mất cả lòng hăng hái làm việc, thành ra đến ngày mùng 8 tháng tám tôi vẫn không đi nam được. Tổng tư lệnh Nhật ở Hà Nội vào Sài gòn không thấy tôi, điện ra dục. Tôi điện vào xin cứ cho lấy lại nam bộ, tôi không phải vào Nam nữa.
Ðược tin người Nhật ưng thuận, và lúc ấy có ông Nguyễn Văn Sâm lãnh tụ đảng Quảng Xã, vừa ở Sài Gòn ra Huế. Tôi vào tâu vua Bảo Ðại, xin cử ông Sâm làm Nam Bộ Khâm Sai. Ngày 14 tháng tám năm 1945, ông Sâm được sắc chỉ bổ vào Nam.
Ông Nguyễn Văn Sâm đi rồi, tôi cho công việc làm của tôi như thế tạm xong. Tôi nói tạm xong, vì lúc ấy tôi tưởng Nhật khéo léo lắm cũng chỉ được năm bảy tháng nữa là cùng, rồi ra quân Ðồng Minh kéo lên Ðông Dương, những việc đã làm đó, ai kể vào đâu. Song dù sao nó cũng thành cái hằn, cái nếp, thành một việc đã có rõ ràng, theo tình thế chính trị, người ta không thể xóa bỏ hẳn đi được.
Việc lấy lại đất Nam Bộ xong, tôi vào tâu vua Bảo Ðại, xin cho tôi từ chức. Ngài nói: "Ông đang làm được việc, sao lại xin thôi, và ông thôi lấy ai thay". Tôi tâu trình lên mấy người, ngài tỏ vẻ không thuận, bảo: "Các ông hãy tạm làm việc, chờ đến khi tìm được người ra lập nội các hãy thôi".
Lúc ấy tôi như cất được gánh nặng, nhưng tìm ai thay? Tôi nghĩ nên tìm những người thuộc về các đảng phái như Ngô Ðình Diệm, Nguyễn Xuân Chữ, Lê Toàn, Tạ Thu Thâu, Hồ Hữu Tường, Ðặng Thái Mai v...v... đã có tiếng hoạt động về chính trị, để vào lập nội các mới. Tôi điện đi các nơi mời những người ấy vào Huế, nhưng sợ một bức điện không được rõ, tôi nhờ ông Phan Anh ra Bắc và ông Hồ Tá Khanh vào nam gặp mọi người và nói chuyện cho rõ đuôi đầu. Nhưng ông Phan Anh ra đến vùng Phủ Diễn bị quân Việt Minh bắt giữ lại, ông Hồ Tá Khanh vào đến Quảng Ngãi cũng bị giữ lại. Ðang lúc ấy được tin nước Nhật Bản bị bom nguyên tử không chịu nổi phải xin hàng.
Vua Bảo Ðại gọi tôi vào nói: "Trong lúc rối loạn như thế này, các ông hãy lập ra lâm thời chính phủ để đợi xem tình thế biến đổi ra sao đã". Tôi bất đắc dĩ phải tạm ở lại. Lâm thời chính phủ vừa làm việc mấy ngày, ông Phan Kế Toại điện vào xin từ chức. Lúc ấy bọn ông Nguyễn Xuân Chữ, Trần Văn Lai xin lập Ủy Ban Cứu Quốc. Chính phủ nhận lời. Cách hai ngày sau, ngày 19 tháng tám, các công chức ở Hà Nội nghe bọn Việt Minh xúi tổ chức cuộc biểu tình. Ðảng Việt Minh nhân cơ hội ấy chiếm lấy Bắc Bộ. Ðược mấy ngày ông Hồ Chí Minh về làm chủ tịch chính phủ lâm thời. Các đoàn thể thanh niên và các người trí thức ở bắc bộ điện vào Huế xin vua Bảo Ðại thoái vị và nhường cho Hồ Chí Minh.
Trong tình thế nguy ngập như thế, ở Huế còn có người bàn sự chống cự. Tôi muốn biết rõ sự thực, liền gọi trung úy Phan Tử Lăng người đứng coi đoàn thanh niên tiền tuyến ở Huế, hỏi xem có thể trông cậy bọn ấy được không. Trung úy Trương Tử Lăng nói: "Tôi có thể nói riêng về phần tôi thì được. Còn về phần các thanh niên tôi không dám chắc".
Bọn thanh niên tiền tuyến trước rất nhiệt thành nay còn thế, huống chi những lính bảo an và lính hộ thành tất cả độ vài trăm người; những lính để canh giữ công sở, súng ống không ra gì, đạn dược không đủ, còn làm gì được, cũng bị Việt Minh tuyên truyền xiêu lòng hết cả rồi. Lúc ấy chỉ còn cách lui đi là phải hơn cả.
Tôi vào tâu vua Bảo Ðại: "Xin ngài đừng nghe người ta bàn ra bàn vào. Việc đã nguy cấp lắm rồi, ngài nên xem lịch sử của vua Louis XVI bên Pháp và vua Nicholas II bên Nga mà thoái vị ngay là phải hơn cả. Vì dân ta đã bị bọn Việt Minh tuyên truyền và đang hăng hái về việc cách mệnh như nước đang lên mạnh, mình ngăn lại thì vỡ lở hết cả. Mình thế lực đã không có, bọn Việt Minh lại có dân chúng ủng hộ, nên để cho họ nhận lấy trách nhiệm bảo vệ nền độc lập của nước".
Vua Bảo Ðại là ông vua thông minh, hiểu ngay và nói: "Trẫm có thiết gì ngôi vua đâu, miễn là bọn Việt Minh giữ được nền tự chủ của nước nhà là đủ. Trẫm muốn là người dân của một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ".
Nhờ ngài có tư tưởng quảng đại nên có tờ chiếu thoái vị. Khi tờ chiếu ấy tuyên bố ra, nhân dân có nhiều người ngậm ngùi cảm động, nhưng lúc ấy phần tình thế nguy ngập, phần sợ hãi, còn ai dám nói năng gì nữa. Ðến bọn thanh niên tiền tuyến, người chính phủ tin cậy cũng bỏ theo Việt Minh, bọn lính hộ thành của nhà vua cũng không nghĩ đến nữa. Còn các quan cũ lẫn nấp đâu mất cả. Thật là tình cảnh rất tiều tụy. Nếu không mau tay lui đi, tính mệnh nhà vua và hoàng gia chưa biết ra thế nào.
Lúc bấy giờ người Nhật có đến bảo tôi: "Quân đội Nhật còn trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi quân Ðồng Minh đến thay. Nếu chính phủ Việt Nam công nhiên có lời mời quân Nhật giúp, quân Nhật còn có thể giữ trật tự". Tôi nghĩ quân Nhật đã đầu hàng, quân Ðồng Minh sắp đến, mình nhờ quân Nhật đánh người mình còn nghĩa lý gì nữa, và lại mang tiếng "cõng rắn cắn gà nhà". Tôi từ chối không nhận.
Sau thấy những người ở ngoài không biết rõ tình thế nói: lúc ấy giá chính phủ không lui vội, tìm cách chống cự lại, Việt Minh không làm gì được, vì họ không có binh lực gì cả. Về đường binh lực, lúc ấy Việt Minh không không có gì thật. Nhưng cái phương lược của họ đánh bằng tuyên truyền, bằng lối quỉ quyệt lừa dối để lôi kéo dân chúng đi theo, chứ không đánh bằng binh khí. Sự tuyên truyền của họ đã có ngấm ngầm từ lâu trước khi quân Nhật đảo chính chứ không phải bây giờ mới có. Mình đem một vài trăm người trông cậy được ra chống với mấy vạn người toàn thanh niên thuyền thợ và đàn bà trẻ con, lại có những người Việt Minh táo tợn đứng sau lưng xui khiến, chống sao được? Chẳng qua chỉ gây một cuộc đổ máu vô ích, cốt chỉ bảo cho Việt Minh chớ có cướp phá. Mình đã mở cửa mời họ còn đánh phá gì nữa. Lúc bấy giờ chúng tôi nghĩ: họ đã thắng thế, dù sao họ cũng lo đến sự kiến thiết của nước nhà, nên chúng tôi mong ít có sự phá hại.
Việt Minh đã lên cầm quyền, vua Bảo Ðại đã thoái vị, tôi ra ở nhà đã thuê từ trước tại làng Vĩ Dạ gần Huế. Ðược mấy ngày, Việt Minh vào đưa vua Bảo Ðại, bấy giờ gọi là công dân Vĩnh Thụy, ra làm Tối Cao Cố Vấn ở Hà Nội để dễ quản thúc.
Sau thấy có người, hoặc vì tuyên truyền, hoặc vì không biết rõ sự thực nói: Chính phủ Trần Trọng Kim là một chính phủ bù nhìn, ý nói là chúng tôi ra làm việc để bọn Nhật sai khiến. Tôi dám cả tiếng bác lời nói đó.  
Ngay từ lúc đầu, khi mới lập xong nội các, tôi đi với ông Hoàng Xuân Hãn sang phòng làm việc của viên tối cao cố vấn Nhật, gặp ông Yokohama để đòi lại dinh khâm sai, dinh khâm sứ cũ của Pháp, để làm dinh nội các tổng trưởng. Ông Yokohama lúc đầu còn do dự và thấy những công chức Nhật muốn cản trở. Tôi quả quyết nói: "Nếu các ông không trả chúng tôi dinh ấy và các phòng làm việc của viên khâm sứ thì chúng tôi thôi ngay. Vì không phải chúng tôi muốn ở dinh lớn, nhưng đó là biểu hiệu quyền tự chủ của nước Việt Nam theo lời hứa hẹn của người Nhật sau cuộc đảo chính ngày mùng 9 tháng ba. Những dinh thự ấy bây giờ là của Việt Nam". Ông Yokohama thấy tôi nói thế, liền nhận lời trả ngay, và xin để riêng mấy phòng trên lầu của phủ khâm sứ cũ cho nhân viên sở tối cao cố vấn làm việc, vì ở ngoài phố không có nhà khác.
Từ đó về sau, khi có việc gì, tôi gọi điện thoại mời viên cố vấn sang bên dinh nội các tổng trưởng nói chuyện chứ tôi không sang bên ấy. Việc ấy ở Huế ai cũng biết.
Lúc đầu người Nhật có ý muốn đòi khi chính phủ Việt Nam có việc làm gì quan hệ, phải hỏi trước viên tối cao cố vấn, có thuận mới được làm. Tôi bác đi, viện lẽ việc nội trị là việc chúng tôi, lẽ nào lại phải xin phép rồi mới được làm. Người Nhật đã đứng vào địa vị cố vấn, khi nào có việc hệ trọng, chúng tôi sẽ thông báo cho biết là đủ. Lúc ấy cũng được ông Yokohama là người thạo việc ngoại giao và am hiểu tình thế, nên mọi việc đều được êm ái và ổn thỏa.
các tỉnh có những người quen thói cũ, hễ có việc gì, chạy đi cầu cứu người Nhật. Tôi còn nhớ, có một người con người bạn cũ của tôi, làm y sĩ trong cuộc y tế của một tỉnh khác, chạy đi nhờ một viên sĩ quan Nhật can thiệp để xin ở lại. Tôi thấy thế, liền bảo ông bộ trưởng y tế bắt người y sĩ ấy phải đi ngay, để tỏ cho biết chính phủ Việt Nam không phải dưới quyền sai khiến của người Nhật.
Như thế chúng tôi có phải là một chính phủ bù nhìn, cứ luồn cúi dưới quyền đàn áp của người Nhật không? Chính vua Bảo Ðại đã hiểu rõ sự ấy, nên khi ngài ở Hương Cảng có nói chuyện với một phóng viên của một tờ báo bên Pháp: "Người Nhật thấy chúng tôi cương ngạnh quá, tỏ ý tiếc đã để chúng tôi làm việc".
Còn những công việc chúng tôi đã làm trong mấy tháng tôi đã kể rõ ở trên. Ðối với dân chúng tôi đã tìm cách nâng cao dân trí lên. Người nào làm bậy có chứng cớ rõ ràng thì theo luật pháp mà trừng trị rất nghiêm. Chúng tôi lấy lại toàn lãnh thổ của tổ quốc và làm mọi việc không có điều gì nhục đến quốc thể. Ðó là chỗ chúng tôi tự hào, trong khi làm việc, không để cho ai lấy uy quyền đè nén, và đối với lương tâm không có gì đáng hổ thẹn.
Tôi ra ở làng Lại Thế. Lúc đầu ông Trịnh Ðình Thảo, nguyên bộ trưởng bộ tư pháp, đến ở với chúng tôi hơn một tháng mới trở về Sài gòn. Chúng tôi ở đấy ngày ngày nghe tiếng trống mõ của dân làng, đàn bà trẻ con và dân đinh vác dao vác gậy đi biểu tình. Một hôm lại thấy đồn rầm lên rằng: "Trong bốn nước Ðồng Minh Mỹ, Anh, Nga và Tàu, mỗi nước được hai phiếu, mà Mỹ và Nga đã bỏ bốn phiếu, Tàu bỏ một phiếu tức là được năm phiếu cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập. Vậy các dân làng phải sửa soạn ăn mừng độc lập". Rồi sau lại thấy mở cuộc quyên vàng khắp cả nước. Ai có vòng xuyến hoa tai hoặc đồ gì bằng vàng phải đem nạp chính phủ để tổ chức việc nước. Hết cuộc quyên vàng đến cuộc quyên đồng, đủ mọi thứ. trong hoàng thành, Việt Minh cho người vào lấy những bảo vật và y phục của các vua chúa đời trước đem ra chợ bán. Khi quân Nhật sắp hàng có đưa trả lại chính phủ Việt Nam bốn tấn bạc bằng thoi chở vào để trong cung, số bạc ấy không biết về sau ai lấy mất.
Bấy giờ tôi không có tiền, may nhờ chính phủ Việt Minh ở Huế trả tôi 1.600 đồng, tiền lương quá nửa tháng cuối cùng của tôi, tôi mới có tiền chi tiêu. Trong khi đó tôi cho con ra Hà Nội thu xếp rồi vào đem chúng tôi ra. Nhưng ra Hà Nội con tôi lo tiền chưa được, thành ra chúng tôi phải ở lại Huế hơn ba tháng. Ðất khách quê người hiu quạnh buồn bã, chỉ một mình vui với trăng, gió mát, với trời mưa nước lụt, ngồi nghe chim hót, ngắm cò bay, khi hứng thì đem Ðường thi ra dịch, nhờ thế khuây khỏa được qua ngày.
Chờ mãi không thấy con vào, may nhờ có một người đến chơi, biết rõ tình thế của tôi, tự nhiên giúp tôi món tiền, chúng tôi mới thuê mấy chỗ trên xe hơi chở hàng đi Hà Nội.
Ấy thế là xong một giấc mộng Nam Kha, bận rộn hơn bốn tháng trời, nghĩ lại thấy nực cười. Khi ở Băng Cốc về, tôi vẫn định bụng không làm gì cả, mà thành ra phải làm việc này đến dự định làm việc nọ, rút cục tay không lại hoàn tay không.
 
hết trích  'Một Cơn Gió Bụi"
 
Và năm nay nhà văn Tô Hải đã góp phần vào việc nói lên sự thật
 
 
trích Tô Hải
 
1- Việt Minh có thực sự “cướp chính quyền” trong tay giặc Pháp và giặc Nhật hay không?
2- Từ 9 tháng 3 đến 19/8/45 nước Việt Nam không có chính quyền nào?
 
Và từ đó đặt ra vấn đề:
 
a) – Cuộc cướp chính quyền từ trong tay Nhật, Pháp không hề có, mà đơn giản chỉ là một cuộc lật đổ một chính quyền còn non trẻ: Chính phủ Trần trọng Kim với những nhân vật nổi tiếng cả trong lẫn ngoài nước.
 
126 ngày nắm giữ một chính quyền của một đất nước hoang tàn, chết đói đầy đường, không một đồng trong ngân quỹ, 95% người dân không biết chữ, được thế giới công nhận và sau này đa số vẫn được mời vào “Chính phủ liên hiệp”… Vậy vì sao mà nhà nước Cộng sản Việt Nam phải “lờ tịt” cái Sự Thật đó đi?
 
b) – Có phải chính những người như bọn tớ, tay cầm cờ vàng ba sọc đỏ, miệng hát “Này thanh niên ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng”, kéo nhau đi biểu tình ủng hộ chính phủ Trần trọng Kim đã “quáng gà cách mạng” nên giữa chừng a-dua, khi thấy người ta trương lên lá cờ đỏ sao vàng to tướng và phát cho chúng tớ những lá cờ đỏ nhỏ bằng cái quạt mo là những người đã được “Đảng giáo dục” và “đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống” để thực hiện nghị quyết của Đại Hội Quốc Dân (?) họp ở Tân Trào?
 
Không! Hoàn toàn không!
 
Chúng tớ, lúc ấy, dù bất cứ ai, bất cứ tổ chức nào, đã đưa ra đường lối chống Pháp, đã hứa hẹn Độc Lâp-Tự Do cho đất nước, đều sẵn sàng đi theo!
 
Đến cựu Hoàng Bảo Đại cũng còn tuyên bố “Làm dân một nước tự do còn hơn là làm vua một nước nô lệ!” nữa là!
 
Hơn thế nữa, bọn thanh niên “hăng máu vịt” chúng tớ, lúc ấy cũng như Việt Minh ở chiến khu về, có quái gì mà phải lo. Ai cũng biết thừa đi là “Cướp chính quyền phen này sẽ chẳng có đổ máu vì Nhật đã đầu hàng vô điều kiện, Pháp vẫn chưa ra khỏi các trại giam chờ ngày trao trả cho quân đồng minh! Ai cũng biết chắc là sẽ chẳng có súng nổ, máu trào… chứ cứ như cách mạng Pháp, cách mạng Nga thì… sức mấy mà mặc com-lê, cà-vạt đàng hoàng, tay không mà dám đi “Cướp”chính quyền trong tay Nhật-Pháp cơ chứ!
 
17/8/1945: Mít-tinh của Tổng đoàn Công chức để chào mừng chính phủ Trần Trọng Kim bỗng chốc trở thành biểu tình của Mặt trận Việt Minh.
Mọi “mâm cỗ độc lập tự do” đã có chính phủ Trần Trọng Kim dọn sẵn, kể cả hàng loạt cuộc mít tinh, biểu tình suốt từ ngày Nhật đầu hàng vô điều kiện cho đến ngày 19 tháng 8…, tất cả các hoạt động thanh niên tiền tuyến, thanh niên khất thực, phụ nữ, nhi đồng, công chức… đều được “tự giác” tổ chức bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, suốt 126 ngày….
Việt Minh với cái tên chẳng hề cộng sản, đệ tam, đệ tứ, đệ ngũ gì, có cái “tài”, theo tớ, duy nhất là, khi vào tiệc thì cầm cốc đứng lên hô to: “Nào! Mời các bạn cầm đũa!”. Cứ làm như bữa tiệc ấy là chính mình bỏ tiền ra chiêu đãi toàn dân vậy!
“Cuộc cách mạng duy nhất nhân văn” (?), “duy nhất không đổ máu” do “Đảng ta lãnh đạo” mà ông Nguyễn Quyết nói lắp bắp trên thềm Nhà Hát Lớn Hà Nội đúng ngày 19/8/2010 vừa qua, nó vừa lẩm cẩm lại vừa làm những nhân chứng như tớ, nếu còn sống, phải… thương cho sự mất trí nhớ của ông về định nghĩa thế nào là cách mạng, là đảo chính, thế nào là nhân văn (?).
Chẳng lẽ không nhân văn thì ông huy động toàn dân dùng gậy gộc, dáo.mác “giết, giết hết bàn tay không ngơi nghỉ”, lao vào các trại lính Nhật lúc đó đã án binh bất động từ cả 3 tháng trời, chờ quân đồng minh vào giải giới hay sao? Hay là bắt toàn bộ cái “chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim”, các ông Phan kế Toại, Hoàng Xuân Hãn, Phan Anh… đi học tập cải tạo như hồi 1975 ở miền Nam?
Nói trắng ra rằng, dân Việt Nam chẳng hề biết đến cái sự lãnh đạo tài tình nào của Đảng Cộng Sản trước cái ngày 19 tháng 8 năm 1945 ấy! Vả lại lúc đó Đảng các ông có mấy người? Làm sao chỉ có gần 60 chục mống (trong đó có cả ông anh họ tớ, Tô Kim Châu, Ban Bình Dân Học Vụ cùng Nguyễn Hữu Đang, không hề là Đảng viên CS, sau này ông Châu bỏ vô Nam, làm cái gì đó ở toà án quân sự Việt Nam Cộng Hoà, nên đi học tập “có” 11 năm!) đi họp ở Tân Trào về mà động viên được cả triệu người, đủ mọi thành phần từ Bắc vô Nam, đứng lên đòi Độc Lập Tự Do kia chứ!
Chẳng qua là khổ quá, đói quá, nhục quá mà bất cứ tổ chức nào dám đứng ra điều khiển đất nước đang có nguy cơ rơi vào tình trạng vô chính phủ, chúng tôi, những người nông dân sắp chết đói, những người tiểu tư sản, trí thức biết tủi nhục, đều ủng hộ.
Và lớp trẻ chúng tớ, ủng hộ vô điều kiện chính phủ Trần Trọng Kim.
Chúng tớ “hoạt động cách mạng” từ đấy, một thành tích “cách mạng tiền khởi nghĩa” mà sau này nhiều, rất nhiều kẻ cơ hội đã kê khai là “hoạt động cách mạng tiền khởi nghĩa” để hưởng nhiều bổng lộc, lợi quyền. Một sự “đánh tráo” mà kẻ đánh tráo và người bị lừa đều… vui vẻ cả vì… tất cả đều công nhận sự đánh tráo để cùng có lợi… Số người tiền khởi nghĩa càng đông càng chứng tỏ “quần chúng đi theo đảng” thật sự hùng hậu, thừa sức “Cướp” chính quyền từ tay quân Nhật- Pháp!
 
Chính phủ Trần Trọng Kim
 
Còn cái chuyện “giọn cỗ mời ông xơi” của chính phủ Trần Trọng Kim thì… coi như không có trong lịch sử! Có một thời người ta còn gọi là “chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim”. Tuy nhiên bù nhìn cho ai thì mãi sau này nó vẫn bị… bỏ ngỏ! Còn tớ và nhiều bạn bè đương thời của tớ thì đã có kết luận rất sớm là… bù nhìn cho… các ông cộng sản chứ còn ai nữa!!”
 
Tớ đã đưa ra những dẫn chứng trích trong các trang hồi ký của các ông Trần Trọng Kim, Vũ Đình Hoè… đặc biệt nhấn mạnh đến vụ tướng Yamamoto muốn trao vũ khí cho chính phủ Trần Trọng Kim để các ông ấy chống lại Việt Minh… Nhưng các ông đã cự tuyệt thẳng thừng vì “nhiệm vụ tước vũ khí quân đội Nhật là của Quân Đội Đồng Minh”. Hơn nữa các ông ấy “không muốn dân Việt Nam lại phải dùng vũ khí chống lại nhau”.
Tóm lại, theo tớ, 19 tháng 8 năm 45 nếu tớ là nhà viết sử có lương tâm tớ sẽ viết hẳn một chương: Chính phủ Trần Trọng Kim và cuộc đảo chính ngày 19/08/1945. Tiếp theo đó là những trang bi tráng nhất về lịch sử dân tộc Việt Nam sau cuộc Đảo Chính này, vì:
 
- Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đã bắt đầu bị đổi màu từ đây.
- Máu đổ xương rơi cũng bắt đầu từ đây.
- Hầu hết những ai không chịu đổi màu đã, hoặc bị thủ tiêu hoặc “tìm đường cứu nước” bằng một hướng đi khác để trở thành “kẻ thù của nhân dân” hoặc đơn giản hơn chỉ để sống và làm việc bằng trái tim và khối óc của chính mình. Một vài người đã mang theo nỗi oan ức xuống tuyền đài thậm chí có người phải tự sát với lời trăn trối để đời “Lịch sử sẽ phán xét cho tôi” (Nguyễn Tường Tam).
- Những ai còn lại đành cam chịu kiếp sống sợ, sống hèn chờ đợi, hy vọng vào một ngày được thực sự Tự do, Độc lập…
Trong cùng thời diểm đó, có biết bao nước thuộc địa khác trên khắp thế giới đã chẳng phải “thề phanh thây, uống máu quân thù….” cũng độc lập tự do… mà có một thời gian dài người ta “tuyên giáo” chúng ta là “Độc Lập… giả hiệu”! Cho đến hôm nay, cho đến bao giờ, bao giờ, nước ta mới đuổi kịp các “nước độc lập giả hiệu” như Ấn Độ, Indonesia, Singapore, Thái Lan… nhỉ?
Tóm lại, là một nhân chứng đã sống và “hoạt động cách mạng quáng gà” rồi “cách mạng câm-điếc” suốt 65 năm, qua 3 chế độ “Quân chủ lập hiến Trần Trọng Kim”, “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà” và “Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”, bây giờ sắp giã từ cõi đời này, tớ thấy có nhiệm vụ phải nói lên những gì mà lớp trẻ, kể cả các Nhà lãnh đạo trẻ, những trí thức trẻ (đối với tớ cứ từ 60 trở xuống đều coi là trẻ cả) và đặc biệt các nhà viết sử trẻ nên đào sâu, tìm hiểu về cái thời gian lịch sử bị xuyên tạc cố ý này…
Chỉ tiếc rằng: Những điều tớ kể lại chỉ nằm ở trên cái blog cỏn con của tớ, chẳng có ai hưởng ứng vì: Đa số nhân chứng sống như tớ, kẻ đã qua đời, kẻ còn sống thì đã lẩn thẩn, kẻ thì… vừa ngu vừa… hèn, cho nên có cho ăn “cháo gan cóc tía” cũng chẳng dám nói lên cái thời tay cầm cờ vàng ba sọc đỏ, miệng hát “Này thanh niên ơi…” dưới bàn tay bắt nhịp của chính Khâm sai đại thần Phan Kế Toại (sau này Hồ Chí Minh mời làm Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà giai đoạn 1955-1961)!
Cho nên, cứ mỗi lần 19 tháng 8 và 2/9, tớ luôn chịu khó theo dõi xem lịch sử có được “bổ sung” thêm điều gì đúng như tớ mong đợi không.
 
Thì đây:
 
1 – Ngày 13 tháng 7 vừa qua, giáo sư Philippe Devilliers 90 tuổi, cựu phóng viên tờ “Le Monde”có mặt tại Việt Nam năm 1945 đã trao tặng cho cá nhân giáo sư Phan Huy Lê 203 tấm ảnh, trong đó chắc chắn có nhiều “tấm ảnh lịch sử”. Cụ thể, theo báo “Tuổi Trẻ” ngày 19/8/2010 là tấm ảnh chụp cuộc biểu tình của “Tổng Hội Công Chức” ngày 7 tháng 8/1945 ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim mà tớ cũng có mặt và hò hét đến khản cổ “Việt Nam Độc Lập muôn năm!”, “Đả đảo phát xít Nhật!”.
 
Mong rằng tất cả những tấm ảnh của “cá nhân tặng cá nhân” đó sớm được công bố, đặc biệt là những tấm ảnh nào khẳng định được chính phủ Trần Trọng Kim là có thật. Tớ tin rằng, một nhà sử học đã dám công bố “Anh hùng Lê văn Tám là chuyện bịa đặt” (do Bộ Trưởng bộ Tuyên Truyền Trần Huy Liệu trối trăn lại), lại không dám lấp đầy cái “lỗ hổng lịch sử” này bằng những tấm ảnh mà có lẽ Devilliers không muốn trao cho Chính quyền vì sợ nó sẽ vô tác dụng khi bị xếp xó hoặc bị thủ tiêu vì một lý do chính trị nào đó?
 
2 – Lần đầu tiên,VTV1 đã có bài “Kể chuyện dân Hà Nội đã nổi dậy cướp chính quyền” Chỉ có một câu mà tớ chú ý vì nó được phát ra từ cái loa đắc lực nhất của Ban Tuyên Giáo. Đó là: công khai xác nhận có chuyện trao chính quyền cho cách mạng của đốc lý Trần văn Lai (tớ đã quên béng ông này, nhờ VTV1 mà tớ nhớ lại: Ông chính là người mở đầu buổi mít-tinh hoan nghênh ngày ra mắt của Tổng Hội Công Chức ngày 7/8/45 của chính phủ “bù nhìn” (không có tên và nói rõ bù nhìn của ai?).
 
3 – Đúng ngày 19/8/2010, báo “Nhân Dân” và VTV1 có đưa tin về “cuộc giao lưu gặp gỡ giữa các “nhân chứng sống” của cách mạng tháng 8/45 hào hùng”. Nhiều nhân vật tớ quá quen, quá biết, dù chỉ hơn tớ vài ba tuổi… Trong số các vị được mời đến đã quá lẩn thẩn, nói năng lắp bắp, câu trước ngược với câu sau… thậm chí nhầm luôn cả ngày tháng… Tớ có chú ý đến nhân vật Lê Trọng Nghĩa, đã quá già để nói gì nhưng được giới thiệu là thành viên đoàn đàm phán với “chính phủ bù nhìn của phát xít Nhật”!
 
Chỉ có mấy điều “mới lạ” đó, lần đầu tiên trong cuộc đời muộn màng làm blogger, tớ thấy khoái chí nói với bà xã :
- Đấy! đấy! bài trên blog của anh viết năm ngoái, năm nay nhà nước đã cho phép cái ông Nghĩa này trả lời trên Tivi công nhận là có chuyện đàm phán với chính phủ…
Bà xã cướp lời:
 - Nhưng đâu có gọi là chính phủ Trần Trọng Kim mà gọi là chính phủ bù nhìn của phát xít Nhật!
 Tuy mất hứng nhưng tớ vẫn câng câng lên giọng (tuy hơi có đuôi đuối)!
- Dù gì đi nữa thì cũng phải công nhận những gì tôi viết là chẳng có bịa đặt! Chính phủ Trần Trọng Kim là có thật, chính danh, là người “dọn cỗ ” cho cuộc Đảo Chính Không Tiếng Súng, Không Máu Đổ Xương Rơi và… rất “Nhân Văn” như tướng Nguyễn Quyết mới “sáng tác” (hoặc do ai mách nước?) trịnh trọng tuyên bố ngày 19 tháng 8 năm nay! Phủ nhận họ, vu cáo họ là “bù nhìn cho Phát Xít Nhật” là có tội với lịch sử!
 
Nhân dịp này, tớ kêu gọi:
- Những ai từng là nhân chứng lịch sử của cuộc cách mạng mùa thu, đang còn sống, còn tỉnh táo, còn có cái tâm trong sáng, còn có cái tầm… không biết sợ.
- Những nhà viết sử trẻ, những người có điều kiện tiếp cận với những tư liệu quý hiếm ở những Trung Tâm Lưu Trữ trong và ngoài nước như C.A.O.M bên Pháp, hãy bạch hoá tất cả những gì có được trong tay, hãy giúp các nhà “viết sử ăn lương nhà nước” mạnh dạn hơn, khách quan hơn nhìn về quá khứ (như mới đây vừa công bố trên mạng toàn cầu nội dung và bức hình “thủ tướng Trần văn Hữu của chính phủ Bảo Đại đã ký tên vào Hiệp Ước Cựu Kim Sơn xác định trước toàn thế giới Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam!”
- Tớ mong ước: Năm tới, sẽ còn những điều Mới hơn,Thật hơn, Đúng hơn, khi kỷ niệm những ngày tháng sục sôi cách mạng giải phóng dân tộc này.
Lịch sử phải được chỉnh sửa, phải được bổ sung, ngô phải ra ngô, khoai phải ra khoai”! Không thể u xoẹ, lập lờ, đánh tráo, đánh lận công-tội của những nhân vật lịch sử, phủ nhận vai trò của hàng triệu người (trong đó có tớ), ngày ấy, chẳng biết Đảng là ai, ở đâu, làm gì, mà chỉ lao mình vào cuộc “chơi cách mạng” dưới sự động viên của các ông Phan Kế Toại, Phan Anh, Dương Đức Hiền… chứ chẳng phải theo chân ông Nguyễn Quyết, hay được Đảng giáo dục tuyên truyền một tí ti ông cụ nào cả!
Tớ cũng hy vọng: Chính các nhà Tuyên Giáo đương thời cũng tỉnh ngộ dần trước những bằng chứng không thể chối cãi (vì hầu hết đều không là nhân chứng lịch sử) cho phép công bố những Sự Thật Lịch Sử Mới mà… không phải cái gì cũng “Nhờ công ơn của Đảng” tất tần tật!
 
hết trích
 
Sự thật  đến nay ông Tộ Hải mới viết ra đã quá muộn. Tuy nhiên thế hệ cũ sắp đi qua thiết tưởng những tài liệu này hàng năm cần được nhắc nhở cho hậu duệ nhận rõ bộ mặt gian xảo của Việt Cộng.