Home Đời Sống Tài Liệu Tứ Thư Ngũ Kinh

Tứ Thư Ngũ Kinh PDF Print E-mail
Tác Giả: Hồ Quí Chương   
Thứ Tư, 09 Tháng 2 Năm 2011 22:27

Những tinh hoa 9 bộ sách học của các ông Nghè Tiến sĩ VN thuở xưa

Ngày xưa bằng Đường Tơ Lụa, người Á Rập đến Trung Hoa học nghề in, nghề chế thuốc súng, rồi Á Rập dạy lại các nghề đó cho người Âu. Ngày nay thế kỷ 20, Trung Hoa “học” từ Mỹ, Nga về nguyên tử không gian... nhưng Trung Hoa vẫn luôn luôn đề phòng chống lại âm mưu có hại cho dân tộc họ từ Nga Mỹ. Thì quá khứ có giai đoạn nào đó, tổ tiên ta đã “học” đạo lý triết học từ Trung Hoa cũng là chuyện bình thường của văn minh tiến bộ và các cụ cũng luôn đề phòng âm mưu xâm lược, đồng hóa của Trung Hoa.

Lịch sử văn minh thế giới là học hỏi nhau tiến bộ, sáng tạo rồi tiêu diệt nhau. “Cá lớn nuốt cá bé”. Chỉ có lòng yêu nước, sáng suốt, Cương Nhu đúng lúc mới tự bảo vệ để dân tộc sống còn.

Qua tài liệu tham khảo của các sử gia, các nhà Khổng học VN: Trung Quốc Sử Cương của Phan Khoang, Việt Sử Tân Biên của Phạm Văn Sơn, Lịch sử Văn Minh Thế giới, Lịch Sử Văn Minh Trung Hoa, Luận Ngữ, Kinh Dịch, Trung Dung, của học giả Nguyễn Hiến Lê, Kinh Thi của giáo sư Tạ Quang Phát dịch giải... xin ôn sơ lược chương trình giáo dục cao đẳng ngày xưa ở nước ta.

Tôi không dám phân tách phê bình một chủ đề văn hóa phức tạp sâu xa, mà chỉ cô đọng sơ sài chia sẻ vài nét căn bản về 9 môn học chính của các thế hệ giám sinh (student) Việt Nam (VN) đã trải dài 850 năm đến các bạn trẻ hải ngoại. Thời ấy sau khi đỗ hương cống còn gọi cử nhân, các ông phải tiếp tục học hành khó khăn thêm khoảng 4 năm nữa, mới mong thành ông Nghè, Tiến Sĩ. Chương trình giáo dục nặng văn thơ, đạo đức, luận lý, chính trị, xã hội... có nguồn gốc từ Trung Hoa cổ. Điều này không thể chối cãi được, đã đóng góp phần lớn cho văn hóa nước nhà. Các nhà khoa bảng VN ngày xưa thừa biết dã tâm bành trướng đế quốc nên hận ghét chính sách đồng hóa của các đế quyền Trung Hoa, cũng phải trân quý đạo lý minh triết từ các nhà tư tưởng xứ sở đó, các cụ gọi là “đạo Thánh Hiền”.

Đồng thời qua sử liệu gốc từ Trung Hoa sẽ giải thích sơ lược một cách khách quan, thắc mắc của giới trẻ Việt di tản: Từ xa xưa, trước khi đến định cư ở Bắc phần VN, tổ tiên ta sinh sống nơi đâu? Sống như thế nào? Nhờ các sử liệu đó chúng ta sẽ thông hiểu được một số tâm tình tổ tiên qua ca dao thi nhạc từ 3000 năm trước. Sau đó tìm hiểu các cụ đã học được điều chi từ người Tàu để xây dựng văn hóa, bảo vệ xứ sở? Song song, nếu chúng ta biết thêm vài điều độc đáo lịch sử Trung Hoa thuở hồng hoang cổ đại cũng để thán phục họ, một dân tộc lớn láng giềng đã có một nền văn hóa cổ khá cao. Xin mời! Chúng ta cùng tìm hiểu sơ lược :

A - Sơ lược Trường Quốc Tử Giám Thăng Long.
B - Tứ Thư Ngũ Kinh ở vị trí nào trong rừng tư tưởng triết học Trung Hoa?
C - Ngũ Kinh : Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lể, Kinh Xuân Thu, Kinh Dịch
D - Tứ thư : Đại Học, Luận Ngữ, Mạnh Tử, Trung Dung
E - Vài ưu điểm độc đáo nhất, vài khuyết điểm nặng nề
F - Lời kết

Tứ Thư, Ngũ Kinh là 9 bộ sách kinh điển nhà Nho Trung Hoa. Mỗi bộ là một thiên đạo triết sâu xa, dành cho các nhà khoa bảng thâm Nho Trung Hoa Việt Nam nghiên cứu. Gần 9 thế kỷ liên tục Quốc Tử Giám (QTG) Thăng Long và Huế dùng 9 bộ sách này làm các môn học chính dạy các giám sinh (student) thi Đình. Đỗ thi Đình, kỳ thi cao cấp cuối cùng của nước ta thuở xưa, tốt nghiệp với học vị (degree) Tiến Sĩ - Ông Nghè - được vua trọng dụng bằng những chức vụ cao cấp nhất. Trước khi tìm hiểu Tứ Thư Ngũ Kinh, chúng ta nên biết sơ lược trường QTG Thăng Long và vị trí Tứ Thư Ngũ Kinh trong rừng tư tưởng triết học Trung Hoa.

A - Trường Quốc Tử Giám:

Là cơ sở giáo dục cao cấp, được xây dựng tại kinh đô Thăng Long năm 1075 đời nhà Lý với khoa thi Hội đầu tiên có tên “Minh Kinh Bác học” (1). QTG được các vua nước Nam liên tục công nhận học vị (degree) Tiến Sĩ, một trong vài điều kiện ngày nay bắt buộc phải có để được coi là trường Đại học (2). Đến năm 1919 nhà Nguyễn, QTG bị thực dân Pháp đóng cửa. Trường hoạt động liên tục 850 năm đào tạo 3000 ông Tiến Sĩ.

Thuở xưa, sau khi đỗ thi Hương, mỗi Hương Cống có học vị Cử Nhân, tài năng cũng đã danh nhân bậc thầy như: văn hào Nguyễn Du, nhà cách mạng Phan Bội Châu, La Sơn Phu Tử viện trưởng Viện Sùng Chính (3)... các ông Cử ông Cống được ghi tên học Quốc Tử Giám tại kinh đô Thăng Long để tiếp tục trau dồi kinh sử thêm khoảng 5, 3 năm nữa với chương trình giáo dục cao cấp hơn. Tứ Thư Ngũ Kinh là 9 môn học chính của các năm này. Được chia làm 2 giai đoạn: khoảng 2 năm đầu học để thi Hội, khoảng 2 năm kế học tiếp để thi Đình. Mỗi kỳ thi Đình tỉ lệ đỗ rất thấp khoảng 5%, giám sinh đỗ đầu thi Đình gọi là Trạng Nguyên (4). Những giám sinh đỗ kế đó được gọi Đình Nguyên, Tiến sĩ hay ông Nghè. Tùy thứ hạng đỗ cao thấp, nhà Nguyễn có thêm nhiều danh vị để chỉ học vị Tiến sĩ. Tên các ông được vua ra lệnh phổ biến vinh danh khắùp kinh đô. Tân khoa (graduates) được vua ra lệnh cung cấp ngựa xe lính hầu võng lọng cờ quạt từ kinh đô tưng bừng “vinh quy bái tổ” về làng đương sự sinh sống, để ông Tiến Sĩ cám ơn thầy dạy, cha mẹ kể cả vợ hoặc hôn thê:

“Một mai chàng đỗ khoa thi....
... Ngựa anh đi trước võng nàng theo sau”

Các ông Nghè trở thành nhà khoa bảng cao cấp nhất phục vụ đất nước. Tiểu sử các ông được khắc vào bia đá lớn đặt ở Văn Miếu (Temple Literature) truyền ngàn đời để con cháu tưởng nhớ. Hiện nay hầu hết các bia đá vẫn còn, ngoại trừ bia vài ông bị đục bỏ vì chống lại triều đình, như bia 7 ông Tiến Sĩ cuối đời nhà Lê (5). Bảy ông Tiến Sĩ nầy thấy nhà Lê đã mục nát, trong khi nhà Thanh dòm ngó đất Bắc Hà, các ông liền rời Thăng Long vào Huế theo phò Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ để tiếp tục phụng sự đất nước một cách đúng đắn. Các ông thừa hiểu học thành tài để phụng sự đất nước, không phải phục vụ cho một dòng họ.

B - Đại cương Tứ Thư Ngũ Kinh ở vị trí nào trong rừng tư tưởng triết học Trung Hoa?

Triết học Trung Hoa thời thượng cổ, trung cổ rất phong phú, tư tưởng sâu sắc, nhiều học phái mâu thuẫn đối kháng nhau, nhưng hầu hết đồng có mẫu số chung: Nhân bản và chủ trương đạo đức để an bình xã hội. Triết học phát triển trong dân gian Trung Hoa rất mạnh. Ngoài Nho gia với Tứ Thư Ngũ Kinh, còn có những học phái khác cũng phát triển rực rỡ.

- Đạo gia: Lão Tử, Trang Tử... chú trọng đạo đức để tu học. Vài đoạn trong Đạo Đức Kinh khuyên con người nên giống như nước. “Nước phá được thành, hủy được lửa, sau đó nước lại chảy về chỗ trũng, chỗ thấp nhất”. Có nghĩa khi cần con người nên mạnh bạo, vũ bão như nước, sau đó trở về đời sống bình thường phải khiêm nhượng như nước (6)

- Phật gia, từ trước công nguyên các tăng lữ Phật giáo Ấn Độ truyền đạo vào Trung Hoa, đến thế kỷ thứ 7 đời nhà Đường, tăng lữ Trung Hoa Trần Huyền Trang (tức Tam Tạng) qua Ấn Độ tu học 18 năm trở về Hàm Dương, ông dịch hằng ngàn kinh Phật từ chữ Phạn. Ông phổ biến triết lý đạo Phật: Cái nhân gieo ra sẽ phải nhận cái quả. Không chỉ riêng kiếp này cái quả vẫn tồn tại và xảy ra ở các kiếp kế tiếp. Cuộc đời con người là bể khổ phát sinh từ lòng dục. Để tìm bình an cho tâm hồn, an bình cho xã hội, đạo Phật dạy mọi người diệt dục, diệt tham sân si. Đời sống càng ít nhu cầu càng dễ tìm thấy hạnh phúc (chỉ sơ lược triết lý không đề cập giáo lý). Sau ông còn nhiều tăng lữ Trung Hoa sang Ấn Độ thỉnh kinh tu học nhưng ông Trang nổi tiếng nhất. Vì là tăng lữ đầu tiên đến Ấn và khi qua đời ông để lại cho hậu thế một kho tàng vĩ đại không những về triết lý đạo Phật, mà còn nhiều bộ sách ghi chép kiến thức, sử địa, phong tục, xã hội địa phương thời bấy giờ trên đường đi lẫn đường về. Ông đến Ấn Độ, rồi trở về Tàu bằng 2 đường khác nhau. Ông cũng được xem là nhà thám hiểm lớn của Trung Hoa.

- Kiêm ái: Mặc Tử ... Hãy yêu thương mọi người như yêu chính mình (giống Đức Giêsu). Ông là triết gia có lòng quảng đại vị tha nhất trong các triết gia Trung Hoa.

- Pháp gia: Tuân Tử, Hàn Phi quan niệm “Nhân chi sơ tính bản ác”. Bản chất con người tham lam ích kỷ, cần giáo dục. Đừng nói chuyện vị tha nhân nghĩa với kẻ ác. Xã hội phải chú trọng luật pháp và tất cả mọi người bình đẳng trước pháp luật. Vậy Pháp gia có lẽ thiên vềø chính trị hơn triết? Điển hình: Hàn Phi, Lý Tư cùng học trò Tuân Tử, chính cuộc đời 2 ông cũng chứng minh hùng hồn, nhân chi sơ tính bản ác của kẻ nhiều tham vọng chính trị. Cả 2 cùng làm quan lớn tột đỉnh đời Tần Thủy Hoàng, cùng cố vấn pháp luật, ổn định xã hội giúp vua Tần thống nhất và trị nước. Vì đam mê khanh tướng cả 2 cùng bị giết bởi nhau (7).

Còn nhiều học thuyết khác: duy lý, duy tâm, duy vật, vô thần hoặc thiên khoa học...

Quan niệm ngược với Pháp gia là Nho gia: “Nhân chi sơ tính bổn thiện”. Bản chất con người là tốt, chỉ cần giáo dục nhân tâm cho nhân dân, nhất là giáo dục vua quan để vua quan hướng dẫn lại dân chúng, chắc chắn xã hội sẽ tốt đẹp mà không cần dùng võ lực, pháp luật. Có thể nói 2000 năm lịch sử, Trung Hoa đã gắn liền với Nho gia và Nho gia là Trung Hoa.

Nho gia với những sáng lập viên, trụ cột Khổng Tử (8) Mạnh Tử, Tăng Sâm quan niệm: Vũ trụ đã có trật tự (từ Kinh Dịch) thì con người sống trong gia đình xã hội cũng phải có tôn ti trật tự đồng bộ. Hai con cọp không thể cùng làm chúa tể sống hòa bình trong một khu rừng. Các ông chủ trương: Bất kỳ tổ chức lớn nhỏ nào, từ gia đình đến quốc gia phải có và chỉ có 1 người lãnh đạo toàn quyền. Từ đó với quốc gia, ông chủ trương: trọng chính danh. Vua là thế thiên hành đạo, mọi người phải kính trọng vua. Vua ra vua, quan ra quan, dân ra dân. Người cha là chủ gia đình, vợ phải kính trọng chồng (9), con kính trọng cha. Không có bình đẳng giữa vua, quan, dân; không bình đẳng giữa vợ chồng, nam nữ, tuổi tác. Để gìn giữ trật tự xã hội, dù vua hay cha mẹ sai trái nặng nề, Nho gia không có cơ quan của dân “kiểm soát” vua, cũng như không chấp nhận con cái “sửa sai” cha mẹ. Đó là chủ trương chính yếu của Khổng Tử cho phù hợp với trật tự vũ trụ từ Kinh Dịch. Bổn phận người dân, nhất là nam nhân phải học hành, tu luyện đạo đức trong gia đình, sau đó tham gia chính trị, phục vụ xã hội đất nước: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Hơn 2000 năm sau, Tổng Thống Kennedy Mỹ quốc cũng đã khuyến khích dân Mỹ bằng một câu nổi tiếng tương tự: “Đừng đòi hỏi xã hội đã làm gì được cho anh, hãy tự hỏi anh đã làm được gì cho xã hội”.

Những quan niệm triết lý đạo đức: danh dự, tự trọng, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, hiếu, kiêm, thứ, dũng, trung (dung), trung thành, liêm sỉ, quân sư phụ, trung quân ái quốc, tam cương ngũ thường, tam tòng tứ đức... Gọi chung là “đạo làm người”, đạo của người quân tử được Khổng Tử và các thế hệ nhà Nho phân tách, hệ thống hóa chứa đựng trong Tứ Thư, Ngũ Kinh.

Sách Trung Dung, đến nay vẫn còn có giá trị cao: “Điều gì không muốn người ta làm cho mình, thì đừng làm cho người ta”. Sách dạy cách “cương quyết” làm một việc gì, nhưng bài bác cực đoan, quá khích, trung dung cũng không có nghĩa ba phải. “Hồng thắm thời hồng chóng phai, thoang thoảng hoa nhài mới lại thơm lâu”. Đó là thuyết tương đối theo quan niệm Á Đông.

Ngũ Kinh đựơc quân quyền Trung Hoa công nhận và đưa vào giáo dục đời Hán Vũ Đế thế kỷ thứ 2 bc năm 111bc (10). Mười thế kỷ sau, Tứ Thư được đưa vào giáo dục đời nhà Đường thế kỷ thứ 8 ad. Tư tưởng Tứ Thư cũng là những lời giảng thuyết của Khổng Tử, do các Nho gia sống sau Khổng Tử luận thuyết. Ngũ Kinh đặt nặng lịch sử, Tứ Thư đặt nặng triết học đạo làm người để điều hành xã hội, chính trị trên nền tảng vương đạo. Sau đó đến thế kỷ 12 ad, Tứ Thư được Chu Hy hiệu đính lại. Nhà Minh, nhà Thanh dùng Tứ Thư do Chu Hy hiệu đính.

Với Đại Việt (11), Ngũ Kinh được đưa vào giáo dục từ đời nhà Lý (1075) khi thành lập Quốc Tử Giám. Tứ Thư (bản gốc, không phải của Chu Hy) được đưa vào giáo dục đời nhà Trần (1232), khi vua Trần mở khoa thi Đình đầu tiên, thi đỗ gọi Thái học sinh, tương đương Tiến sĩ.

Theo thời gian lịch sử, chúng ta nên biết sơ lược Ngũ Kinh trước.

C - Ngũ Kinh là 5 bộ sách: Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu và Kinh Dịch:

Ngũ Kinh kể điển tích lịch sử, giao tế, xã hội, triết học, đề cao đạo lý. Ý niệm Ngũ Kinh có trước Khổng Tử sinh ra (550 bc) hàng ngàn năm, đến Khổng Tử có công sưu tầm, phân tách, nghiên cứu, hiệu đính, hệ thống hóa (edit, editor), chữ nhà Nho gọi là san định. Nên đời sau thường xem Ngũ Kinh của Khổng Tử. Sau khi ông mất nhiều thế kỷ, Ngũ Kinh vẫn bị đế quyền Trung Hoa dèm pha không dùng, Tần Thủy Hoàng (220 bc) đốt Ngũ Kinh. Vua Hán Cao Tổ (Lưu Bang khai sáng nhà Hán năm 200 bc) có lần nói: “Ta ngồi trên mình ngựa tóm thu thiên hạ có cần học Kinh Thi, Kinh Thư đâu. Bọn học trò chỉ là phường giá áo túi cơm”. Sau đó ông cũng biết: Ngồi trên mình ngựa không thể “trị” được thiên hạ. Đến một lúc vua quan Trung Hoa sáng mắt, khám phá ra Ngũ Kinh là khí giới sắc bén để bảo vệ uy quyền cho chế độ quân chủ chuyên chế. Khởi đầu, năm 111 bc vua Hán Vũ Đế (cháu 4 đời Hán Cao Tổ Lưu Bang) đưa Ngũ Kinh vào chương trình giáo dục (như đã nói ).

Đúng ra Khổng Tử viết được Lục Kinh, không phải chỉ Ngũ Kinh. Kinh Nhạc bị Tần Thủy Hoàng (220 bc) đốt cháy gần hết chỉ còn chương cuối, có người chộp lại đem về cất giấu.

Kinh Thư và Kinh Thi ghi chép nhiều dữ kiện liên hệ lịch sử nguồn gốc dân tộc Việt nhất. Các sử gia VN thường trích sử liệu từ 2 Kinh nầy để tìm hiểu nguồn gốc dân Việt ngày nay.

1 - Kinh Thư: Theo “Việt sử Tân Biên” (trang 35, 36) của sử gia Phạm Văn Sơn (Đại Tá Trưởng ban Quân Sử BộTTM/ Quân Lực VNCH). Kinh Thư là bộ sử do Khổng Tử ghi chép từ đời vua Nghiêu, Thuấn đến cuối đời Tây Chu (năm 2500bc đến 770 bc). Thời khoảng lịch sử của Kinh Thư, với ta làø thời kỳ truyền thuyết 18 đời vua Hùng, nhưng Kinh Thư không nói chi về 18 đời Hùng Vương. Trong Kinh Thư, Khổng Tử vẽ địa giới tộc Hán tức nhà Chu và các chư hầu. Ông cũng “vẽ” địa giới các bộ tộc KHÔNG phải tộc Hán ở phía bắc, nam Trung Hoa. Đoạn sưu tầm sau đây, chỉ phớt sơ cổ sử Trung Hoa, nhưng sẽ nói rõ về cổ sử các bộ tộc Man Di (không phải tộc Hán) ở phía nam Hán tộc từ Kinh Thư:

Thuở ấy, tộc Hán sinh sống, tạo thành nhiều nước chư hầu cho Tây Chu (12) ở quanh quẩn lưu vực sông Hoàng Hà. Phía bắc tộc Hán: rợ Xích Địch (tiền thân rợ Hồ về sau), rợ Tây Nhung, Sơn Nhung (sau đó bị đồng hóa thành người Hán, mất tên). Phía nam, từ sông Hoài xuôi nam ngang qua lưu vực Trường Giang tức sông Dương Tử (13) đến phía nam 5 dãy núi Ngũ Lĩnh (Hồ Nam, Giang Tây, Phúc Kiến) là đất sống của những dân tộc Man Di có tên: Giao Chỉ, Bách Việt, Mân Việt, Việt Thường (14) (mời xem bản đồ 1, 2). Kinh Thư ghi nhận: Người Giao Chỉ có 2 ngón chân cái giao nhau hình chữ L (15). Các bộ tộc Man Di có 4 đặc điểm: xâm mình, cắt tóc ngắn, hay khoanh tay và cài áo bên phải (lúc ấy Hán tộc cài áo ở giữa). Họ làm nghề chài lưới săn bắn, thường sinh sống gần ao hồ sông biển, ven rừng. Tính tình giống Man Di: chăm chỉ làm việc, thích hòa bình, khi cần không sợ chết. “Văn hóa khác hẳn Hán tộc”. Đã bị chê man di nhưng vẫn có “văn hóa” có nghĩa họ vẫn chê ta đấy.

Với kiến thức nông cạn, tôi nghĩ: Chữ “man di” chẳng có gì đáng buồn! Mời lật “Sử Thế Giới” cách đây 3000 năm có bao nhiêu bộ tộc man di? Bao nhiêu dân tộc có văn hóa?

Để dễ tìm nguồn gốc VN, người Việt không nên “giận” chữ man di. Chúng ta cứ xem Man Di là danh từ riêng chỉ các bộ tộc không phải Hán tộc ở phía nam sông Hoàng Hà (tức là từ sông Hoài xuôi về Nam ngang qua 2 bên lưu vực sông Dương Tử, rồi càng về Hoa Nam) (16)

Sử gia VN đem đối chiếu cổ thư này với địa lý, thì các giống Man Di sống ở các tỉnh Phúc Kiến, Hồ Nam, Hồ Bắc, Chiết Giang gần hồ Đồng Đình có núi Ngũ Lĩnh (lưu vực phía nam sông Dương Tử). Điều này chẳng khác chi truyền thuyết Hùng Vương “Con Rồng Cháu Tiên”, xuất xứ từ Đại Việt Sử Ký của sử gia Ngô Sĩ Liên thời nhà Lê, chúng ta đã học thời trung tiểu học VNCH: Vua Đế Minh cháu 3 đời vua Thần Nông (17) đi tuần thú phương nam đến núi Ngũ Lĩnh gặp nàng tiên, lấy nhau sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục làm vua, hiệu Kinh Dương Vương (18). Kinh Dương Vương lấy con gái vua Đồng Đình hồ là Long Nữ sinh ra Lạc Long Quân, Lạc Long Quân lấy Bà Âu Cơ sinh ra 1 bọc có 100 trứng nở 100 con (Bách Việt) 50 con theo mẹ lên núi (thành người thượng du sau này?) 50 con theo cha xuống biển (có nghĩa xuống đồng bằng thành người kinh). Lạc Long Quân phong cho con trưởng (ở đồng bằng) làm vua Hùng Vương thứ 1. Vua Hùng đặt tên nước Văn Lang. Chúng ta nghe các địa danh quen thuộc: Hồ Đồng Đình, núi Ngũ Lỉnh và tên vài bộ tộc quen thuộc: Bách Việt, Giao Chỉ.

Tuy Kinh Thư không nói chi về nước Văn Lang và 18 đời vua Hùng, nhưng Kinh Thư nói rõ: Dòng Dương Tử là “Nguồn sống” của tộc Giao Chỉ và giống Man Di, trước cả Hán tộc từ phương Bắc tràn xuống sông Hoàng Hà. Đây là những tài liệu quý của ngoại quốc (khách quan) mà sử ta lẫn sử Âu Mỹ thường dùng để đi tìm hiểu nguồn gốc 2 dân tộc Tàu, Việt .

Sử gia Tư Mã Thiên: Đến thế kỷ thứ 6 bc giống Man Di ở lưu vực Dương Tử đã di cư về Hoa Nam, kẻ ở lại bị đồng hoá (Hán hoá) trở thành các nước Sở, Ngô, Việt (19). Và trước tây lịch dân cư Quảng Đông, Quảng Tây, đảo Hải Nam và Bắc phần VN cùng một nguồn gốc không liên hệ gì Hán tộc có tên Bách Việt (Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim trang 29). Do đó ai nghĩ rằng: Người Việt do người Tàu mà có. Không đúng! Càng trật xa hơn dưới mắt nhà khoa học: Hán tộc có gốc Mông gô lích từ sa mạc Gobi. Còn hầu hết người Việt ngày nay và giống Man Di thuở xưa có gốc Anh đô nê diêng từ vùng Đa đảo (Polynesia) Thái Bình Dương di cư vào (cùng gốc Mã Lai) Á châu. Thời kỳ Băng Giá Cuối Cùng (The Last Ice Age, cách đây khoảng 15 ngàn năm) giữa Đa đảo và Á châu gần như là đất liền. (Trích từ sách Bangsa Champa, trang 236, tác giả Dohamide, người Việt gốc Chiêm Thành.)

Anh đô nê diêng, Mông gô lích là thuật ngữ của giới cổ sử VN từ đầu thế kỷ 20, không phải ngôn ngữ Hà Nội. Chữ khoa học Giganpithèque là Anh đô nê giêng gốc Mã Lai và Sinanthrope Người Vượn Bắùc Kinh (20) là Mông gô lích gốc Mông Cổ.

4000 năm 2 dân tộc Hán Việt sống gần gũi, tất nhiên một số người Việt ngày nay phải có lai giống với Hán tộc, cũng như một số người tộc Hán đã lai giống với các tộc Man Di vậy.

Mời bạn đọc tiếp Kinh Thi để biết thêm tâm tình các bộ tộc Man Di, Giao Chỉ, Bách Việt.

2 - Kinh Thi: Theo “Trung Quốc Sử Cương” của Phan Khoan: Đời nhà Chu (1000 năm bc) các vua Trung Hoa đặt các quan Thái Sử sưu tầm 3000 bài thơ cổ (ca dao) trong nhân gian và những bài thi nhạc cung đình từ trước đó, xếp thành 1 tập sách gọi là Kinh Thi. Đến Khổng Tử, ông chọn lựa chỉ giữ 300 bài tuyệt tác nhất, cũng đề tên Kinh Thi.

“Trung Quốc Sử Cương” cuốn sử giáo khoa trung học VNCH, sử gia Phan Khoan muốn ngắn gọn để học sinh dễ hiểu, dễ nhớ, nên ông vắn tắt. Thật sự Kinh Thi (sau khi Khổng Tử chọn lựa) gồm hơn 300 thiên, mỗi thiên gồm nhiều chương, mỗi chương gồm nhiều bài thơ cổ của 15 chư hầu lớn nhà Chu. Lúc ấy nhà Chu có cả trăm chư hầu, hầu hết diện tích chỉ bằng vài làng xã nước ta, mỗi chư hầu có triều đình riêng, quân đội riêng. Có nghĩa Kinh Thi khi chưa chọn lựa có đến 3000 thiên.

Kinh khủng cho văn hóa một xứ sở ở 3, 4000 năm trước. Đáng phục thay!

Nhiều học giả Trung Hoa nói: Chưa bao giờ Khổâng Tử nhận đã san định Kinh Thi, nhưng vì đạo lý của Kinh Thi cũng là đạo lý Khổng Tử và các tiên nho thi bá nước ta về sau đều gắn cho Khổng Tử san định Kinh Thi. Vậy cứ theo gương ông cha cho tiện việc sử sách, chúng ta coi Kinh Thi là của Khổng Tử. Ngoài ca dao thơ phú tả tình tả cảnh, Kinh còn có những phân tách khen chê của Khổâng Tử để răn đời. Kinh Thi bằng Quốc ngữõ do các học giả VN dịch giải còn dầy hơn, ngoài việc ghi nguyên bản chữ Hán cổ còn dịch nghĩa, dịch ý chữ Quốc ngữ

4000 năm thiên nhiên vật thể đổi dời, văn thơ lãng mạn tiến bộ ý tứ sâu sắc hơn. Còn tình cảm người xưa, người với người, với xóm làng, với quê hương có khác gì ngày nay không? Kinh Thi nói về các tình cảm đó, giữa vợ chồng yêu thương, trai gái hờn ghen vui giận, bạn bè quý mến cần nhau, vua quan hợp tác phục vụ hay chống báng nhau. Ca dao lời thơ mộc mạc, chân thật, uyển chuyển hàm súc, vừa biểu tượng đời sống dân gian ngày xưa, vừa giáo dục nhân dân đời sau bằng đạo lý. Qua Kinh Thi người ta biết tính tình người dân, phong tục xã hội từng địa phương Hán tộc và các chư hầu thời thượng cổ với thịnh suy bởi chiến tranh, thanh bình. Có thể trong Kinh Thi có cả ca dao các bộ tộc Man Di, sẽ phân tách kế đến.

Mời bạn trẻ VN đọc tiếp sẽ khám phá nhiều thú vị: 13 trong số 15 chư hầu nhà Chu có ca dao trong Kinh Thi đều ở phía Tây, phía Bắc và phía Đông nhà Chu, hầu hết họ là tộc Hán. Chỉ 2 “chư hầu” còn lại là Chu Nam, Thiệu Nam ở phía nam nhà Chu, là tộc Hán chăng? Chợt nhớ tới Kinh Thư, tôi thắc mắc: hoặc là giống Man Di?

Xin nhắc lại Kinh Thư (đã trình bày bên trên) Khổng Tử nhiều lần xác định rõ rệt:

1- Phía nam tộc Hán (nhà Chu và các chư hầu) là các bộ tộc Man Di (không phải tộc Hán).

2- Rõ ràng hơn: Tộc Hán chỉ ở lưu vực sông Hoàng Hà (Hoa Bắc). Tộc Man Di sinh sống từ lưu vực sông Hoài đến phía nam núi Ngũ Lĩnh (Hoa Nam). Có nghĩa 2 lưu vực Trường Giang (sông Dương Tử) chảy ngang hướng đông tây ở ngay giữa địa phận người Man Di gồm các bộ tộc Giao Chỉ, Bách Việt, Việt Thường, Mân Việt... Hai xác định cùng một ý.

Theo các học giả Trung Hoa: Chu Nam là các chư hầu phía nam nhà Chu. Còn Thiệu Nam: các chư hầu phía nam nước Thiệu và cũng có thể nước Thiệu ở phía nam nhà Chu. Ca dao thơ phú 2 chư hầu này được đề cập khá nhiều trong Kinh.

Trước khi tìm hiểu vị trí địa dư 2 chư hầu Chu Nam, Thiệu Nam và ca dao của họ, chúng ta nên tìm hiểu chữ “chư hầu” ở 3000 năm trước. Chư hầu, nước phụ thuộc đã đành, chư hầu cũng có nghĩa các bộ tộc Man Di chưa thành nước, cũng chịu triều cống Thiên Tử nhà Chu hùng mạnh. Các bộ tộc Man Di muốn nhờ nhà Chu làm cái khiên che chở họ khi bị các chư hầu, bộ tộc khác gây chiến. Nhà Chu chẳng bao giờ dại dột từ chối không nhận triều cống đóng thuế từ các bộ tộc Man Di, dù họ không phải Hán tộc. Đó là chính sách “liên minh thần phục”(21) để người giàu càng giàu mạnh nhiều uy thế và kẻ thấp cổ được sống còn mà vẫn không bị mất đất, miễn không vi phạm “luật thần phục”: Không triều cống, không đóng thuế.

Xin lạc đề vài dòng trước khi trở lại 2 chư hầu Chu Nam và Thiệu Nam.

Tất nhiên tôi phải tin Khổâng Phu Tử, vì 20 thế kỷ nhân dân nước Tàu và khoa bảng nước ta đã tôn vinh ông là Vạn Thế Sư Biểu. Tôi chân thành cám ơn ông, một sử gia, một hiền triết, một giáo chủ đã để lại nhiều sử liệu quý giá liên quan đến giống Man Di. Chẳng lẽ tôi tin các ông “con trời vô thần” (thiên tử cộng sản) chỉ hậu sanh, bá quyền nói ẩu, nói cho lấy được: các hải đảo Hoàng Sa, Trường Sa xa tít ngàn dặm ở biển Nam là của Trung Quốc? Thế mà ngày nay chính quyền Hà Nội vẫn “cắt đất dâng biển” thêm cho Trung Cộng.

Đúng ra chúng ta chưa cần biết vội vị trí địa dư Chu Nam, Thiệu Nam ở đâu, chỉ cần đọc các vần thơ Kinh Thi phần Chu Nam, Thiệu Nam; các địa danh sông ngòi núi rừng ... trong các bài thơ đó sẽ tình tự ngay thẳng nói lên xuất xứ từ tộc nào? Và tiện thể chúng ta hãy nghe vài lời ca hát thầm thì giống Man Di, tổ tiên Giao Chỉ, Bách Việt từ 3, 4000 năm trước

Một số ca dao điển hình của Chu Nam và Thiệu Nam sau đây, được trích từ bản dịch quốc ngữ “Kinh Thi Tập Truyện” của học giả giáo sư Tạ Quang Phát - Sàigòn 1969. Mặc dầu ông Phát dùng thơ ta diễn dịch, nhiều lần ông khẳng định: dịch rất sát nghĩa, sát ý từ chữ Hán cổ.

Bài: Nhữ Phần - Chu Nam 10. Vợ nhớ chồng và mừng biết chàng vẫn trung thành
Bờ đê sông Nhữ lần đi (sông Nhữ chi nhánh sông Hoài, lưu vực phía bắc sông Dương Tử).
Cây, nhành em đẳn, quảng gì nhọc công
Khi em chưa gặp được chồng
Như cơn đói nặng tấc lòng xót xa

Bài: Hán Quảng - Chu Nam 9. Khen người phụ nữ đoan trang được đời kính nể.
Bụi cây lộn xộn đẹp xinh
Tôi lo cắt loại cây kinh mà dùng
Nếu nàng nay đã theo chồng
Xin nuôi giùm ngựa cho lòng đẹp vui.

Rộng thay sông Hán cách vời (sông Hán, một chi nhánh lớn của sông Dương Tử )
Chớ toan lặn lội vượt khơi mà hòng
Trường giang xa tít muôn trùng (lại Trường giang! là sông Dương Tử)
Thả bè chẳng thể xuôi dòng mà đi

Bài nầy là lời trần tình của kẻ thất tình: Vẫn biết bạn lòng đã đi lấy chồng, chàng vẫn tiếp tục cắt cây nuôi ngựa nhà nàng để kiếm điểm. Nàng cho biết: Dù lòng nàng rộâng như sông Hán dài như Trường giang...khó lay chuyển. Khuyên chàng đừng mơ mộng phá đám.
Đùa theo lối giáo sư MC Nguyễn Ngọc Ngạn cho dễ hiểu: Khi nào ly dị nhớ đừng quên anh

Bài: Quan Thư - Chu Nam 1. Chồng nhớ vợ - Từ phương xa chàng tưởng tượng nàng đang cô đơn làm việc đồng áng để kiếm sống.
So le rau hạnh lơ thơ (rau hạnh có cọng dài cọng ngắn)
Hái theo dòng nước ven bờ đôi bên (hái phải thuận theo dòng nước bên này rồi bên kia)
U nhàn thục nữ chính chuyên
Nhớ khi thứùc ngủ triền miên chẳng rời (dù thức ngủ đều nhớ đến vợ)
Nếu cầu mà chẳng gặp người
Khi mơ khi tỉnh bồi hồi nhớ thương
Xa xôi trông nhớ đêm trường
Chiếc thân trằn trọc trên giường nào yên

Bài: Giang Hữu Tự - Thiệu Nam 2. Tục xưa: Lấy chồng, nàng dâu dẫn cả em gái, đầy tớ gái theo hầu chồng mình là một vinh dự cho các cô, vẫn biết sau đó các cô đều sẽ trở thành hầu thiếp cả. Sau đây lời trách của các cô em và nữ tì vì không được chị dẫn họ theo.

Trường giang còn nổi cồn lên (lại Trường giang!)
Lấy chồng chẳng dắt, chị quên em rồi
Bỏ em chẳng dắt thì thôi
Về sau em ở yên nơi chung cùng

Một bài dịch khác với Giang Hữu Tự - Thiệu Nam 2.

Trường giang còn có sông Đà (tất nhiên không phải sông Đà chi nhánh Hồng Hà ở VN)
Vu quy chẳng dắt em qua ở cùng
Tuy qua chẳng dắt đi chung
Mai sau chép miệng hận lòng vội ca

Đã đan cử vài bài thơ, ca dao đầy tình người, tình chồng vợ của giống Man Di Chu Nam và Thiệu Nam được Khổng Tử trang trọng gộp chung là Nhị Nam thuộc loại Chính Phong. Mụïc đích các bộ tộc đó dùng văn thơ để giáo dục gia đình, cảm hóa xóm làng, hướng dẫn quần chúng làm điều thiện (đúng ý Khổng Tử). Phân biệt với ca dao 13 nước kia gọi Biến Phong hầu hết là nhạc cung đình lễ hội, chỉ một số rất ít bài thơ, ca dao tâm tình dành cho làng xóm và lòng người (giống Nhị Nam). Nếu chỉ đọc vài bài thơ rời rạc trên đây hoặc chỉ đọc Kinh Thi, không đọc Kinh Thư để biết lịch sử, địa dư tộc Man Di; có thể nói một cách dè dặt khó ai nghĩ đây là những bài ca dao thi nhạc, di sản tinh thần của người Giao Chỉ Bách Việt.

Các ông Nghè VN thuộc nằm lòng sử liệu ghi trên từ Kinh Thư Kinh Thi. Bởi thế sau khi thắng Mãn Thanh, năm 1792 Nguyễn Huệ sai 2 ông Nghè Ngô Thời Nhiệm, Phan Huy Ích và Tướng Vũ Văn Dũng đi sứ TrungHoa gặp vua Càn Long. Các ông đã dùng bằng chứng từ Kinh Thư, Kinh Thi, sử Tư Mã Thiên (22) cùng 3 tấc lưỡi để chỉ xin lại “tượng trưng” 2 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và xin cưới 1 công chúa Tàu cho chủ soái Nguyễn Huệ. Vua Càn Long, một ông vua thông minh sáng suốt nhất nhà Thanh chấp nhận 2/3 yêu cầu là gã 1 công chúa và “cho” Nguyễn Huệ tỉnh Quảng Tây. Tiếc rằng chỉ 2 ngày sau Nguyễn Huệ mất sớm (40 tuổi), Càn Long lờ luôn lời hứa (Trích Quang Trung Nguyễn Huệ của Hoa Bằng trang 331, xuất bản Hà Nội năm 1941). Người Việt ngày nay thường tiếc nuối vua Quang Trung mất sớm. Nếu ông sống thêm 10 năm nữa chắc chắn cục diện VN nhiều thay đổi tốt.

Các thi nhân cổ VN Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm... cũng thường dùng thi hứng từ Kinh Thi

Thí dụ: Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt
Khói Cam Tuyền (23) mờ mịt thức mây
Chín tầng gươm báu trao tay
Nửa đêm truyền hịch đợi ngày xuất chinh

Nước thanh bình ba trăm năm cũ
Áo nhung trao quan vũ từ đây
Sứ trời sớm dục đường mây
Phép công là trọng niềm tây sá nào

....

4 câu đầu xuất xứ Kinh Thi , 4 câu sau trở đi mới là của Đoàn Thị Điểm, Đặng Trần Côn.

Kinh Thi cũng bị Tần Thủy Hoàng đốt. Sau đó được viết lại từ những trang chưa cháy và trí nhớ của các nhà Nho Tàu thuở ấy.

3 - Kinh Lễ còn gọi Lễ Ký: Là một sách giáo dục, nói về trật tự thứ bậc trong gia đình xã hội và trình bày các nghi lễ quan hôn tang tế trong gia đình, đình làng và triều đình, phần cuối Kinh Lễ có thêm 1 chương cuối Kinh Nhạc. Như đã nói ở trên, Kinh Nhạc bị Tần Thủy Hoàng đốt cháy gần hết, chỉ còn 1 chương cuối. Có người lấy lại được cất giấu, các thế hệ sau ghép chung vào cuối Kinh Lễ.

4 - Kinh Xuân Thu: Khổng Tử ghi chép lịch sử nước Lỗ (nước ông) từ năm 722bc đến 480bc, tổng cộng 242 năm. Về sau, sử gia Trung Quốc dựa theo tên Xuân Thu do sử ông viết, họ đặt tên thời khoảng lịch sử nầy là thời Xuân Thu, kế đến là thời Chiến Quốc 480 bc - 250 bc. Mặc dầu Khổng Tử viết 2 cuốn sử Kinh Thư, Kinh Xuân Thu, nhiều sử liệu dày cộm thời Trung Hoa cổ đại; 4 thế kỷ sau, đệ nhất sử gia Trung Hoa Tư Mã Thiên (140 bc) còn phải dùng sử liệu từ 2 bộ Kinh nầy để viết sử. Nhưng sử của Khổng Tử không tránh khỏi cái tật “xấu che tốt khoe” và nặng phần đạo lý nên giá trị lịch sử chỉ tương đối. Hậu thế ít gọi Khổng Tử là sử gia. Tuy nhiên căn cứ minh triết của ông, người đời kính trọng ông hơn sử gia, triết gia. Họ coi Khổng Tử là giáo chủ Khổng giáo. Ở Á châu ông đứng ngang hàng Phật Thích Ca, Đức Giêsu nếu không muốn nói còn hơn nữa. Trong khi ông chưa bao giờ nhận đạo lý do ông cổ võ là tôn giáo. Ông phát biểu ở Luận Ngữ: “Đời sống tương lai còn chưa biết? Nói chi chuyệân chết”. Nhưng đạo lý của ông vẫn cổ súy con cháu kính thờ tổ tiên.

5 - Kinh Dịch: “Bộ sách” độc đáo cổ xưa nhất Trung Hoa, có từ thời vua Phục Hy, Tam Hoàng hơn 25 thế kỷ trước tây lịch (trước khi Trung Hoa có chữ viết). Tất nhiên “sách” có trước Khổng Tử (550bc - 480bc) 2 ngàn năm. Không biết tác giả là ai, nhưng chắc phải do nhiều người viết vì ý sách rất phong phú và đối kháng nhau. Tất cả được biểu thị trên thân tre, mảnh gỗ, mai rùa (từ đời nhà Thương), mỗi lần chở “sách” phải cần vài xe tứ mã. Sách được khắc bằng 2 ký hiệu gạch dài, gạch ngắt ( _ - - ) với 8 quẻ. Tám quẻ ấy đặt chồng lên nhau thành 64 quẻ đôi. Tàu gọi là Trùng Quái. Từ đó muốn diễn tả ý nghĩa gì người Trung Hoa cổ dùng căn bản “64 chữ cái” vừa trình bày. Ngày nay các ký hiệu đó vẫn còn thể hiện ở hình Bát Quái thường gắn trước cửa nhà. Nhờ Khổng Tử diễn dịch, hậu thế hiểâu được ý sách gồm 2 phần “Kinh” và “Dịch” nói về trật tự vũ trụ và con người, là nguồn gốc hầu hết các tư tưởng triết học Trung Hoa duy vật, duy tâm, duy lý như đã sơ lược bên trên. Kinh Dịch là bằng chứng từ thời tiền sử cổ xưa loài người còn ăn lông ở lỗ, Trung Hoa đã có nhân sinh quan, triết học độc đáo. Người Tàu rất hãnh diện về Kinh Dịch. Khổng Tử chỉ hệ thống hóa, diễn dịch ý sách bằng tiếng Hán cổ, ông vẫn giữ lại ý và tựa sách: Kinh Dịch.

Kinh Dịch còn chứa đựng thuyết Âm Dương, Ngũ Hành, Bói Toán.

- Thuyết âm dương hòa hợp: Âm dương vừa đối kháng vừa cần nhau. Thí dụ: nam nữ, ngày đêm, mặt trời mặt trăng, cực thịnh sẽ suy, cực suy sẽ thịnh, có suy mới hiểu được thịnh, có thịnh mới nhớ khi suy. Có giàu mới hiểu khi nghèo và ngược lại.

- Thuyết ngũ hành: Bằng những vật chất đơn giản hiện hữu có trước mắt: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ; từ tiền sử (chưa chữ viết) Trung Hoa đã gói ghém một triết lý sâu xa về sự thành lập vũ trụ bằng vật chất, mà các vật chất ấy cũng đối kháng nhau. Thí dụ: Lửa là hỏa thiêu rụi mọi thứ thành than sinh ra đất là thổ, nhưng hỏa thì kỵ thủy. Có khác chi các nhà khoa học ngay nay tin rằng: Bốn tỷ năm trước, trái đất là quả cầu lửa nhờ mưa tạo ra sông biển làm trái đất nguội dần. Nhưng nay có cũng có thuyết: đại dương có là do sựï va chạm giữa trái đất và một tinh cầu chứa nước muối (chỉ là giả thuyết). Từ đó người xưa nghĩ đến những khía cạnh khác, ngũ vị: mặn, đắng, chua, cay, ngọt. Ngũ giác: tay, lưỡi, mắt, tai, mũi. Qua các triết lý về sau cho biết, lúc ấy họ cũng đã biết giác quan thứ 6 trực giác.

Kinh Dịch cũng là nguồn gốc bói toán. Bói có tính toán suy luận không phải loại bói toán mê tín dị đoan.

D - Tứ Thư: Bởi nhiều Nho gia sau thời Khổng Tử viết. Đến 10 thế kỷ sau, Chu Hy (1130 -1200) hiệu đính Tứ Thư và thêm vài điều mới lạ. Chu Hy sống thời chiến tranh Kim, Tống có Nhạc Phi, Tần Cối (trước khi Mông Cổ thôn tính nhà Tống năm 1255). Để dân Trung Hoa đỡ lầm than vì nội chiến, ông dùng uy tín cá nhân một triết gia nổi tiếng đương thời lồng vào đạo lý Khổng Mạnh kêu gọi vua quan 2 nước Tống Kim ngưng chiến, nhưng không hiệu quả. Chu Hy từ chức về quê viết nhiều sách. Tất nhiên Chu Hy cũng học phái Nho gia Khổng Mạnh, nhưng ông thêm chủ trương: Tri hành hợp nhất trong sách Trung Dung. Có nghĩa Biết mà không làm, cái biết đó vô dụng và Hành chưa hẳn là hành động (sẽ phân tích sau). Tương tự Ngũ Kinh Khổng Tử; khi Chu Hy còn sống, tư tưởng của ông bị coi là “ngụy học”, nhưng Tứ Thư (bản gốc) vẫn được dạy ở các trường cao đẳng từ đời nhà Đường. Sau khi Chu Hy chết, đến đời nhà Minh mới dùng Tứ Thư do Chu Hy hiệu đính. Nhà Thanh thấy Tứ Thư có lợi lớn cho xã hội, nhất là bảo vệ chế độ quân chủ tập quyền, Mãn Thanh chú trọng đặc biệt, vua Khang Hy ngưỡng mộ, vinh danh Chu Hy. Như đã nói quân quyền Đại Việt dùng Tứ Thư tăng cường vào chương trình giáo dục cao đẳng từ thời nhà Trần và sao lại 90% nguyên bản. Sẽ trình bày 10% khác biệt độc đáo về tri thức các ông Nghèø Đại Việt để giữ nước ở phần Lời kết (cuối bài viết). Số bách phân trên đây chỉ là tượng trưng, không căn cứ vào đâu cả.

Tứ Thư gồm 4 sách: Đại học, Luận Ngữ, Mạnh Tử và Trung Dung

1 - Đại học: Gồm 2 phần, phần 1 chỉ một chương viết về những lời nói của Khổng Tử; phần 2 gồm mười chương do Tăng Sâm luận thuyết. Ông là học trò giỏi nhất trong 3000 học trò, đệ nhất hiền nhân trong 72 “ thất thập nhị hiền nhân quân tử” của Khổng Tử.

Để hiểu ý nghĩa chữ Đại Học của Trung Hoa ngày xưa rộng rãi và khác biệt ngày nay như thế nào, chúng ta nên biết thêm: Từ 3 đời Hạ, Thương, Chu (2000 năm trước tây lịch) ngành giáo dục Trung Hoa đã có 2 cấp: Tiểu học từ 8 tuổi đến 14 tuổi học luân lý, đạo đức. Và Đại học: 15 tuổi đến 20 học lễ, nhạc, thi, thư, chiến thuật, võ thuật, cỡi ngựa, bắn cung...

Sách Đại Học: Để trở thành người quân tử, con người phải sống theo đức hạnh có sẵn “Nhân chi sơ tính bổn thiện” và học lễ nhạc thi thư thì mới được vào cõi Thiện, đó là giới Đại Học. “Tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ” xuất xứ từ sách này. Chỉ 2 chữ “tu thân” viết một sách dày cui cũng chưa hết ý Nho gia vì Tu Thân là trung tâm học thuyết Khổng Mạnh.

Tu thân gồm 3 đức: Nhân, Trí, Dũng. Chỉ nói sơ đức Nhân theo Khổâng Tử: Phải biết thương người đáng thương và ghét kẻ đáng ghét. Kẻ đáng ghét vẫn thương, xã hội sẽ loạn. Tâm thiện cần hơn làm việc thiện, việc thiện thường đều quy về tư lợi, nhiều người tranh giành nhau làm việc thiện, xã hội loạn. Nhân không phải là thương người, Nhân là: Đạo làm người.

Hai chữ Trị quốc, không hẳn là làm vua, ý chính là dấn thân phục vụ xã hội, tổ quốc ở bất kỳ chức vụ lớn nhỏ nào. Bình thiên hạ: mới là làm vua, vẫn biết chữ “thiên hạ” của Trung Hoa ám chỉ nhiều nước chư hầu. Do đó ý nghĩa Đại Học: Tài + Đức, ở bất kỳ cấp bậc nào.

Vậy: Sau khi tu thân, gương mẫu đủ tư cách làm chủ gia đình, mới có thể phục vụ quốc gia.

2 - Luận ngữ: Do học trò ghi chép lời bàn luận đối thoại về luân lý, triết lý, văn học, chính trị giữa Khổng Tử với các nhà khoa bảng đương thời ở nước Lổ (nay là bán đảo Sơn Đông).

Như đã nói: Đạo lý, lẽ phải điều trái đã có từ trước khi Khổng Tử sinh ra. Ông chỉ là người lập lại và thuyết giảng đạo lý đóù, học trò ghi chép lại thành một bộ, đặt tên Luận Ngữ. Đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng... nói chung đạo làm người. Những gì chúng ta thường nghe: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Hiếu, Khiêm, Thứ, Dũng Trung, Liêm Sĩ. Công Minh Chính Đại... Đạo người quân tử hầu hết tập trung ở Luận Ngữ.

Thuyết Chính Danh: Nghĩa đen nên dùng chữ nghĩa đơn giản rõ ràng mọi giới đều hiểu, đừng chơi chữ cao xa, giải thích kiểu nào cũng được. Tối kỵ dùng chữ lập lờ đánh lận con đen có hậu ý. Từ đó sinh ra: “Danh chính thì ngôn thuận”, nói ngắn gọn: Chính Danh.

Ý nghĩa quan trọng hơn của thuyết Chính Danh: Vua thay mặt ông Trời để trị muôn dân, dân quan tướng phải nghe lệnh vua. Để tránh biến loạn giành giựt ngôi vua, Khổng Tử đành “tạm chấp nhận”: Cha truyền con nối. Thật sự Khổng Tử KHÔNG bao giờ muốn: ngôi vua cha truyền con nối. Để hiểu ý chính trị gia Khổng Tử từ 25 thế kỷ trước: Vua nên có từ đâu?

Chúng ta dựa Kinh Thư, tìm hiểu tóm tắc lịch sử Trung Hoa trước tây lịch: Sau khi chế độ bộ lạc thị tộc tan rã, Trung Hoa lập thành nước.

Đầu tiên ông Nghiêu làm vua từ năm 2356 BC (có lẽ ông Nghiêu đứng đầu các bộ lạc) diện tích Trung Hoa lúc ấy chỉ bằng khoảng 2,3 tỉnh ở ngã 3 sông Vị và sông Hoàng Hà. Ông Nghiêu làm vua 100 năm? (2356bc-2255bc) không truyền ngôi cho con mà truyền ngôi cho người có tài là Thuấn.

2255bc - 2205bc vua Thuấn làm vua 50 năm, cũng không truyền ngôi cho con, mà truyền ngôi cho ngươì có tài là Vũ.

Trong 3 đời Nghiêu, Thuấn, Vũ: Vua sống bình dân giản dị, xã hội Trung Hoa thịnh trị không tội ác. Ban đêm ngủ không cần đóng cửa. Kẻ đi đường lượm được của rơi trả lại cho người đánh mất. (Xin nhớ đây là những sự kiện do Khổng Tử viết lại vào thời không chữ viết).

Hết thời vua Vũ, ông cũng muốn truyền ngôi cho người có tài, nhưng không ai nhận, chẳng đặng đừng ông Vũ “đành truyền ngôi cho con” là Khải (2205bc).

Từ thế kỷ 23 bc đến thế kỷ 18 bc: Khởi đầu việc ngôi vua ở Trung Hoa cha truyền con nối. Ông Vũ có họ là Hạ, nên con cháu ông làm vua được xếp là nhà Hạ(2205-1767). Truyền cho nhau được 18 đời đến vua Kiệt cuối cùng thì bị mất ngôi năm 1767 bc về tay nhà Thương.

1766-1112 Nhà Thương làm vua, truyền 30 đời, vua cuối là Trụ bị mất ngôi về tay nhà Chu.

1111bc - 221bc. Nhà Chu có 2 thời Tây Chu và Đông Chu (đã nói ở phần Kinh Thư ).

Hạ,Thương, Chu. Sử gọi là thời Tam Đại. Khổng Tử sinh ra năm 550 bc thời Đông Chu.

220bc - 206bc. Tần Thủy Hoàng diệt nhà Chu và các chư hầu, thống nhất Hán tộc. Đây là biến cố lịch sử quan trọng nhất của nước Tầu. Từ đấy Trung Hoa không còn chế độ phong kiến nữa (24), uy quyền tập trung tại kinh đô cho đến nay.

Nhà Tần chỉ làm vua 15 năm có 3 đời vua thì bị nhà Hán cướp ngôi năm 206 bc.

206 bc-220 ad (tây lịch): Nhà Hán.

(Số năm trên đây chỉ tương đối, các sử gia ghi lại cũng không đồng nhất, chênh lệch chút ít).

Tóm lại lịch sử Trung Hoa 25 thế kỷ trước tây lịch chỉ cần nhớ 8 chữ cũng đủ tóm lược:

Nghiêu, Thuấn, Vũ, Hạ, Thương, Chu, Tần, Hán.

Nghiêu Thuấn Vu õ(3 đời vua đầu tiên) Hạ Thương Chu Tần Hán (5 dòng họ kế tiếp làm vua).

Đời 3 vua Nghiêu Thuấn Vũ, xã hội Trung Hoa an bình là điều có thật (qua nhiều sử sách và khảo cổ các di chỉ tìm được trong lòng đất). Nhưng 2 vua Nghiêu Thuấn không truyền ngôi cho con, lại truyền cho người có tài, khó tin? Thời ấy (khoảng 2500 bc) Trung Hoa chưa có chữ viết, chữ viết có vào thời nhà Thương khoảng 1600 bc. Người ta ngờ Khổng Tử bịa để khuyên các vua thời ông đừng truyền ngôi cho con hãy truyền ngôi cho người có tài; vì trong học thuyết Khổng Tử, thấy rãi rác ông nhấn mạnh: Ngôi vua phải “truyền hiền không truyền tử ”. Từ thời ấy Khổng Tử đã có một tư tưởng cách mạng, lợi lớn cho xã hội! Nhưng sức ông không thể đánh đổ được “hiến pháp bất thành văn” cha truyền con nối đã có từ các nhà Hạ Thương Chu, đành chấp nhận coi như “con nối ngôi vua cha” là Chính Danh.

Vua bất tài, Khổng Tử không chấp nhận “lật vua”; kẻ nào giết vua, lên làm vua là kẻ bất trung, không “Chính Danh”. Bầy tôi chỉ khuyên can vua, khuyên không được. . .thì thôi.

“Trung quân ái quốc”. Trung thành với vua tức là yêu nước. Đây, điểm mấu chốt các chế độ quân chủ phong kiến (25) Việt Hoa rất hả hê hài lòng. Thời Cách Mạng Văn Hóa Trung Quốc (1965-1969) chữ nghĩa nhà Nho đều bị Cộng Sản Trung Hoa, Việt Nam đấu tố ráo nạo. Ngoại trừ “Trung quân ái quốc” đổi thành “Trung với đảng Cộng Sản là ái quốc”. Lập lờ đánh lận con đen để giống độc tài phong kiến: “Yêu nước là yêu Xã Hội Chủ Nghĩa” và ngược lại: “Yêu” Xã Hội Chủ Nghĩa là yêu nước. Đạo lý Nho học có biết bao tinh hoa, Cộng sản không học các điều tốt, lại bắt chước điều tệ hại nhất, ngược trào lưu văn minh nhân loại:

Yêu nước nhưng vẫn chống Cộng Sản (độc tài tham nhũng) vẫn là kẻ phản quốc.

Khác chi phong kiến: Yêu nước, nhưng chống đối dòng họ (thối nát) đang làm vua vẫn là giặc. Cộng Sản mạt sát phong kiến tận tình, nhưng học phong kiến những chuyện tào lao.

Khi sinh tiền Trung Tướng Cộng Sản Trần Độ nhiều lần đặt câu hỏi với chính phủ Hà Nội nhiều tham nhũng: Năm 1989 nhân dân Romania can đảm lật đổ chính quyền xã hội chủ nghĩa Nicolas Ceausescu là bọn phản quốc ư? Còn vợ chồng Tổng Thống Nicolas Ceausescu của xã hội chủ nghĩa Romania độc tài tham nhũng, bị nhân dân Romania trừng trị kéo lê xác trên kinh đô Bucarest năm 1989 là kẻ yêu nước?ø

Ông lớn tiếng chỉ trích chính quyền Hà Nội: Đừng lẫn lộn yêu nước là phải yêu đảng Cộng Sản. Dù là công thần chế độ, thẳng thắn với lương tâm, tướng Trần Độ vẫn bị chính quyền Hà Nội trù dập những tháng năm ông hưu trí...cho đến ngày qua đời. Nay đến lượt Tiến sĩ Hoàng Minh Chính, Viện trưởng Viện triết học Mác Lê / Hà Nội, bậc thầy hầu hết đảng viên Cộng Sản VN. Vì “chào thua đảng nhà” đành bị học trò đầy “đạo đức cách mạng” mắng rủa ông, gia đình ông. Còn nhiều anh hùng yêu nước nhưng “không yêu” xã hội chủ nghĩa, bị chính quyền Hà Nội trù dập. Tiếc, không liệt kê được vì đi xa chủ đích Tứ Thư Ngũ Kinh.

Nếu đảng Cộng Sản VN thật lòng yêu nước, nên nói: “Yêu nước là yêu dân tộc” và ngược lại: “Yêu dân tộc là yêu nước” giống quan điểm 7 ông Nghè bỏ nhà Lê phù Tây Sơn hoặc Tôn Văn linh hồn Cách Mang Tân Hợi chỉ phục vụ dân tộc, các ông không phục vụ cho bất kỳ “dòng họ” hay “đảng phái” nào. Bởi thế ngày nay Tôn Văn được cả 2 đảng Cộng Sản Trung Hoa lẫn Quốc Dân Đảng Đài Loan tôn vinh là Quốc Phụ. Đảng phái, nếu đã lãnh đạo thành công giai đoạn khó khăn nào của đất nước cũng chỉ là phương tiện phục vụ dân tộc.

Sách Luận Ngữ mô tả đức độ Khổng Tử và đặt tiêu chuẩn mẫu người phục vụ quốc gia. Nếu còn sống có lẽ Khổng Tử hài lòng Luận Ngữõ nhất, vì sách nói đầy đủ quan niệm đạo lý và quan điểm chính trị của ông.

3 - Mạnh Tử: Tất nhiên là tư tưởng ông Mạnh Tử. Hơn 2000 năm trước, ông viết: “Lòng trắc ẩn là nguồn gốc của nhân từ, là cản bản của các đức thiện ” trong khi Khổng Tử quan niệm: “Hiếu đễ với cha mẹ là căn bản của các đức thiện”. Hai ông mang 2 căn bản Thiện khác nhau. Không hiểu cụ Khổng hay cụ Mạnh đúng hơn? Huống chi đông tây kim cổ nguồn gốc và mục đích lòng nhân từ càng khác nhau xa.

Mạnh Tử là học trò của Tử Tư sống sau Khổng Tử hơn 100 năm. Sau khi học thành tài suốt đời MạnhTử đi dạy. Sách của ông do học trò ghi chép lại. Mạnh Tử có chung quan niệm đạo đức, hành xử giống Khổng Tử, bởi thế người Việt ghép chung Khổng Mạnh để biểu tượng giới sáng lập Nho gia. Xin nhớ quan niệm của 2 ông Khổng, Mạnh chỉ giống nhau phương diện đạo đức. Nhưng quan niệm chính trị Mạnh Tử “mạnh bạo, dân chủ” hơn Khổng Tử nhiều. Nếu không muốn nói “đối lập” hoàn toàn với Khổng Tử như nước với lửa.

Mạnh Tử: Đất nước là của mọi người dân, không phải của riêng dòng họ hay đảng phái nào. Cần giáo dục nhân dân để dân trí cao, họ sẽ biết quyền lợi và bổn phận với đất nước.

Khổng Tử: Để đỡ tốn kém (tiền bạc, kế hoạch phức tạp), chỉ cần giáo dục 1 ông vua trở thành minh quân là đủ, mọi người dân nghe lệnh vua, đất nước sẽ thanh bình tiến bộ. Toàn dân phải: Trung quân ái quốc, trung thành với vua là ái quốc. Vua là hôn quân bề tôi chỉ nên khuyên lơn can gián. Không can được ... đi chỗ khác chơi (từ chức).

Khổng Tử không đồng ý bề tôi “lật vua” khi làm vua kẻ đó không có Chính Danh.

Mạnh Tử: “Vua là thuyền, dân là nước. Thuyền nhờ nước trôi nổi nhưng nước cũng có thể tạo thành sóng lớn làm lật thuyền”. Tư tưởng này bị quân quyền thời ấy kiểm duyệt ngay; chẳng thày giáo nào dám dạy, nếu còn muốn cái đầu không rời khỏi cổ. Với quan niệm nầy, các học giả thế giới đã xem Mạnh Tử là triết gia đông phương có tư tưởng dân chủ đầu tiên.

Bẵng đi 2000 năm đến cuối thế kỷ 19 mới có Tôn Trung Sơn, nhờ ông ở Mỹ (Hawai) lâu năm học hỏi được nhiều định chế dân chủ Hoa Kỳ; ông chủ trương thuyết Tam Dân chủ nghĩa: dân chủ, dân sinh, dân quyền. Năm 1945 bị Việt Minh ép buộc, vua Bảo Đại thoái vị, vua lập lại câu: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” từ sách Mạnh Tử.

Nho gia hầu như thống nhất về đạo lý nhưng tư tưởng chính trị có phần khác biệt nhau.

4 - Trung Dung: của Tử Tư (cháu nội Khổng Tử, là thầy của Mạnh Tử). Bộ sách quan trọng nhất của các ông Nghè VN ngày xưa tụng để giữ nước. Ýù nghĩa sâu sắc của sách vẫn còn giá trị đến ngày nay cho bất cứ hạng người, nhất là người làm chính trị chánh đạo, vương đạo (ngược lại là chính trị bá đạo, tà đạo). Hạng ở giữa “trung dung”, báo chí miền Nam thường dùng cụm từ “chánh khách salon”(26).

Sách dạy: “Điều gì không muốn người ta làm cho mình thì...đừng làm cho người ta”. Đừng ý kiến cực đoan sinh bất đồng, bạo động. Mọi người bình tỉnh, bão hòa, quân bình. Thận trọng trong lời nói việc làm. Bất đồng nhưng đừng bất hòa. Đừng quá khích kể cả yêu nước. Đừng yêu nước mình đến mức đi xâm lăng nước khác, đó là đế quốc, hình thức ăn cướp. Thơm quá hóa thối, khôn quá hóa dại. Đừng lấy chiến tranh giải quyết bất đồng. “Anh xâm lăng nước tôi, kẻ khác xâm lăng nước anh”. Thiên hạ loạn.

Từ đó sinh ra thuyết Tương Đối (luận lý) theo quan niệm Á Đông. Kẻ quá khích thường hay cãi cọ, nên đọc Trung Dung. Đừng để bị người khác tiếp tục “làm phiền”, phải đoàn kết bảo vệ lẽ phải; trước tiên dùng Khiêm, Thứ, không hiệu quả mới dùng Trí, Dũng. Đừng khiếp nhược chấp nhận ý kiến kẻ cực đoan đế quốc; đó là hèn yếu không phải cao thượng. Đế quốc được đằng chân sẽ lấn đằng đầu. Bình thản yên lặng đọc Trung Dung sẽ thấy Đạo, Đạo Trung Dung gồm 4 điều: Nhân, Nhẫân, Trí, Dũng; Dũng là nghị lực, tôn trọng lẽ phải. Trí: Hãy chú trọng lợi hại lớn, đừng để ý lợi hại nhỏ. Với nước Tàu khổng lồ, các ông Nghè quan niệm: Chẳng thà ta triều cống còn hơn gây cớ chiến tranh bị mất đất. Kinh nghiệm trước mắt: Thời Lý Trần, nước Chiêm Thành mỗi lần không triều cống, Đại Việt có cớ gây chiến chiếm thêm đất. Các ông đã thấy trước: “Biết người biết ta trăm trận trăm thắng”.

Ngày nay triết lý Pháp Luân Công là Nhân Nhẫân Trí, biến thái từ đạo Trung Dung và Trung Dung cũng là nguồn gốc đạo Thiền nhưng Trung Dung vẫn dạy con ngươi đừng nghĩ đến chính mình, hãy nhập thế giúp đời, giúp nước.

Các bậc thâm Nho: Trung Dung chưa hẳn đơn giản như nêu trên! Sách cao sâu hơn nhiều. Muốn trở thành người Trung Dung phải đọc xong Tứ Thư. Đọc xong Tứ Thư sẽ hiểu được đạo Trung Dung là “Tri hành hợp nhất”. Các cụ nói không sai. Tri là biết; hành không phải hành động mà là suy luận (luận). Hành động quá dễ, chỉ là sự tất yếu sau khi suy luận.

Kết quả hành động tốt, xấu tùy thuộc suy luận hay hoặc dở. Muốn luận hay, đúng phải Tri (biết) nhiều dữ kiện tốt. Tri và luận là 2 điều khác biệt. Do đó các cụ yêu cầu phải tụng hết Tứ Thư mới đủ tri để luận, lập đề án dâng vua, vua sai quan tướng thi hành đề án kế hoạch. Quan tướng chỉ là kẻ thừa hành theo lệnh vua, còn soạn thảo kế hoạch đề án là từ các ông Nghè. Đóù là ý nghĩa“Tri hành hợp nhất ”, nhiệm vụ người có học, kẻ trí thức.

Thí dụ: Năm 1789 vua Càn Long sai Tôn Sĩ Nghị đem 290 ngàn quân tiến chiếm Thăng Long xâm lăng nước ta. Tướng Ngô Văn Sở tư lệnh tiền phương Tây Sơn ở miền Bắc, nghe lời khuyên của ông Nghè Ngô Thì Nhậm: Để bảo toàn lực lượng nên rút về núi Tam Điệp, sau đó phi báo về Phú Xuân (Huế). Nguyễn Huệ nhà quân sự bách chiến bách thắng, trước khi xuất quân, ông Huệ khen ngợi kế hoạch lui quân thông minh. Sau khi đại thắng quân Thanh, Tây Sơn có biết bao tướng tài, vua Quang Trung sắc phong ông Nghè Nhậm (quan văn) làm binh bộ thượng thư - bộ trưởng bộ quốc phòng - Vua Quang Trung nhìn không lầm người. Khi đang tại chức, ông Nhậm vạch kế hoạch 10 năm tổ chức lại quân đội Tây Sơn đánh Mãn Thanh để lấy lại Quảng Đông Quảng Tây của tổ tiên là giống Bách Việt, Giao Chỉ đã bị mất từ 2000 năm trước. Bốn năm sau, năm 1792 trước khi tuyên chiến đánh Tàu, để tiết kiệm xương máu nhân dân và dò đường, ông Nhậm đề nghị dùng ngoại giao “Xin lại đất tổ tiên” với triều đình Mãn Thanh. Quả nhiên sau chuyến đi sứ của ông Nhậm, vua Càn Long đồng ý “cho” Quảng Tây và hứa gả 1 công chúa cho Nguyễn Huệ (như đã trình bày ở Kinh Thi). Không chỉ Ngô Thì Nhậm, QTG đã đào tạo gần 3000 nhân tài, hầu hết các ông khai thác triệt để bài học “tri hành hợp nhất” như: Nguyễn Trãi, Lương Thế Vinh, Chu Văn An

E - Vài ưu điểm độc đáo và vài khuyết điểm nặng nề

Những ưu khuyết điểm sau đây là những lời bình phẩm của đa số quần chúng, nhất là từ các đại lão tiền bối cao kiến từng sống qua các chế độ phong kiến, thực dân, dân chủ, cộng sản.

Minh triết độc đáo nhất của Tứ Thư Ngũ Kinh: Cảm hóa con người bằng cái tâm tự tại, người với người đối xử hợp đạo hợp lý, không cần tới luật pháp, cũng không cần sự thưởng phạt thần thánh sau khi chết. Hầu hết mọi khiếu kiện chỉ cần phán quyết của tộc trưởng là đủ.

Tuy chấp nhận: Ngôi vua cha truyền con nối, Nho gia muốn vua cũng phải là kẻ sĩ và luôn khuyến khích mạnh kẻ sĩ khác ở bất kỳ học vị cao thấp nào cũng phải phục vụ, là làm quan lớn nhỏ từ triều đình, đến địa phương để trị an nhân dân gọi là chế độ Sĩ Trị (27). Dưới chế độ sĩ trị nhân, nghĩa, lễ, trí, tín là các đức tính cần thiết cho mỗi công dân. Xã hội xưa: Người tin và trọng người, hiếm xẩy ra mánh mung lường gạt như xã hội VN hiện nay. Hơn 2000 năm tại Trung Hoa VN với chế độ sĩ trị chưa bao giờ đạo lý tỏ ra giáo điều sắt máu gây chết chóc nhân dân như 100 năm Cộng Sản cầm quyền làm chết 100 triệu người trên thế giới (28)

Chỉ tổng quát cũng thấy: sĩ trị ngày xưa, đảng trị ngày nay: Ai văn minh? Ai man rợ?

Nho đạo cũng chưa bao giờ làø nguyên nhân chiến tranh tôn giáo như ở Âu châu, Á châu.

Tuy chương trình giáo dục của Quốc Tử Giám rất hiếm hoi môn khoa học thuần túy. Nhưng nếu chúng ta quan niệm luận lý cũng là môn khoa học xã hội nhân văn, thì hầu hết các chương của 9 bộ sách đã dùng luận lý trên căn bản đạo đức để răn dạy kẻ đi học phải gìn giữ gia phong lễ nghĩa, trước là làm gương trong gia đình, sau để an bình xã hội. Họ quan niệm “Mọi người đều tốt, thì xã hội tốt”. Từ cơ bản đó các ông Nghè dùng suy luận để làm việc hiệu quả trong mọi lãnh vực cao cấp về hành chánh, luật lệ, chính trị, quân sự, ngoại giao...

Nhờ minh triết nầy, toàn dân Việt thuở xưa từ vua quan đến dân, tuy nghèo nhưng coi trọng đạo đức học vấn, coi nhẹ tiền bạc vật chất:

Chẳng tham ruộng cả ao liền.
Ham vì cái bút cái nghiên anh đồ (ông thầy giáo)

Hoặc: Dốc 1 lòng lấy chồng hay chữ.
Để ra vào kinh sử mà nghe

Hay: Đêm nằm nghĩ lại mà coi .
Lấy chồng hay chữ như soi gương Tàu.(Ca dao tục ngữ)

Xin đừng bao giờ nói lộn: Lấy chồng hay chữ như coi phim Tàu.

Bởi thế hằng chục thế kỷ nước ta chia nhân dân làm 4 hạng: Sĩ Nông Công Thương. Sĩ là giới đi học được coi trọng nhất. Thương, giới buôn bán làm giàu bị coi nhẹ nhất.

Tước hữu ngũ Sĩ cư kỳ liệt
Dân hữu tứ Sĩ vi chi tiên
Có giang sơn thì Sĩ đã có tên.
Từ Chu Hán vốn Sĩ này là qúy (thời Chu, Hán xa xưa, đã đề cập đôi dòng ở Kinh Thư)

Nguyễn công Trứ

Đó là giá trị văn minh “Trọng Sĩ” với chế độ “Sĩ Trị” ở xã hội nước ta thuở xưa. Ảnh hưởng sâu xa đến ngày nay. Hầu hết cha mẹ VN quốc nội hải ngoại, ai cũng muốn con cái học giỏi, học càng cao càng tốt, để cha mẹ được tiếng thơm ây: “Biết dạy con”.

Khuyết điểm nặng nề nhất: Tín điều “Trung quân ái quốc” rất phiền. Lỡ gặp vua bất xứng làm các anh hùng cách mạng muốn lật đổ, thay đổi một hôn quân tội phạm, một triều đình mục nát ... phải chùng tay. Thành công, chưa chắc đã chiếm được lòng dân. Thất bại không những sẽ bị triều đình xử tru di tam tộc, bị nhân dân phê phán là đảng cướp, còn bị lịch sử (phong kiến) chê bất trung, phản quốc...các tội nặng nề nhất của học thuyết Nho gia.

Thí dụ: Hồ Quý Ly lật nhà Trần, Mặc Đăng Dung lật nhà Lê, Tây Sơn lật Chúa Nguyễn

Thêm khuyết điểm rõ nét của học thuyết Nho gia: Làm cho đời sống phụ nữ, trẻ con, giới buôn bán ở “thế yếu”. Xin nhớ thế yếu không phải là nô lệ, nô tì. Chế độ nô tì đã đựơc bãi bỏ dưới đời vua Lê Thánh Tôn từ thế kỷ 15 trong bộ luật Hồng Đức. Ngay học thuyết Nho gia đã có phần thiệt thòi cho phụ nữ; dân ta ít học lại bị giải thích không đồng nhất, tam sao thất bổn, hậu quả phụï nữ thuở xưa bị xã hội và gia đình đàn áp “không nhẹ” trong đời sống.

Tứ đức, tam tòng cho phụ nữ. Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử (29)

Hay: Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô.
Hoặc: Trai năm thê bảy thiếp
Gái chính chuyên một chồng
Các bà hoàn thành việc dạy dỗ con cái hiếm được ghi công, nhưng trách nhiệm luôn bị đè nặng đôi vai:

Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà.
Nên thân nhờ đức ông bà
Giàu, giỏi nhờ bố, hên may nhờ Trời .

Tệ hơn, vì hiểu lầm học thuyết Khổng Tử, nên một số đàn ông cứ tưởng đi làm dư dã tiền bạc nuôi gia đình, tức đã làm tròn bổn phận tề gia. Các ông có “quyền gia trưởng” như các vua độc tài, hưởng lạc đèo bồng. Vợ, con phản đối! Bợp tai. Điều đáng nói: họ không coi đó cái tội, mà là cái quyền của đàn ông trong xã hội coi nhẹ thân phận phụ nữ. Nhất là hiện nay để thỏa mãn túi tham tiền của giới cầm quyền, phụ nữ VN đang bị rao bán ở Đài Loan, Singapore; việc này chưa bao giờ xảy ra thời VNCH kể cả thời phong kiến, thực dân.

Đời cha ăn mặn đời con khác nước, nên:
Thuở xưa “phu xướng phụ tùy ”
Ngày nay phu xướng phụ xù liên tua.

Trích từ bài học thuộc lòng đồng ấu: “ ... Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra ... ”

Bài thơ xuất hiện thời thựïc dân Pháp. Sau mấy ngàn năm công lao phụ nữ ít được xã hội cổ xưa vinh danh, nay mới được dùng làm bài học giáo dục căn bản cho tuổi ấu niên thời VNCH

Mặc dầu thuở xưa luật nước chỉ cho phép phụ nữ đi học, cấm các bà đi thi, nhưng người sáng lập QTG Thăng Long là một phụ nữ xuất thân thôn nữ hái dâu. Quý vị ngẩn ngơ nghi ngờ?

Xin thưa: Đó là Thái Phi Ỷ Lan, ái thiếp vua Lý Thánh Tôn. Vua băng hà năm 1072, bà là mẹ thái tử Càn Đức lên ngôi vua lúc 7 tuổi. Bà nhiếp chính cạnh ấu vương Lý Nhân Tôn và điều hành việc nước trong giai đoạn này. Năm 1075 nhà Lý thành lập Quốc Tử Giám, lúc ấy vua mới 10 tuổi. Năm 1076 bà là thành viên trong ban tham mưu cùng Lý Thường Kiệt, Tôn Đản đánh Quảng Đông, Quảng Tây. Có thể chính bà là người chỉ huy trực tiếp 2 ông tướng viễn chinh này (sử không nói rõ, chỉ suy luận) vì vua Lý Nhân Tôn lúc nầy là đứa trẻ 11 tuổi.

Cái học ngày xưa dĩ nhiên còn nhiều ưu khuyết điểm như: nặng về bắt chước nghèo sáng tạo, nặng văn thơ nhẹ khoa học, nặng bề ngoài chuộng hình thức thiếu thực tế. Phân tách tới nơi tới chốn không dễ dàng, cần kiến thức cao nhiều kinh nghiệm.

Nhờ chế độ quân chủ, học thuyết Khổng Tử sống dai 2000 năm. Dĩ nhiên học thuyết chính trị nào cũng có cái đúng cái sai, không thể sử dụng nó mãi được, kể cả chế độ “dân chủ phân quyền” Âu Mỹ ngày nay sẽ có lúc bị đào thải. Một học thuyết có thể phù hợp cho 2000 năm trước, làm sao thích hợp cho 2000 năm sau, cần thay đổi. Đó là tiến bộ văn minh loài người.

F - Lời Kết: (Hiệu quả tất yếu của 10% đã đề cập bên trên).

Nhiều bạn trẻ trăn trở với vận mệnh dân tộc thường thắc mắc: Nước ta bé tí ti, sống gần anh khổng lồ Trung Hoa tự cao tự đại luôn nuôi mộng đế quốc bành trướng, 1000 năm dân ta bị đô hộ, thêm 850 năm tổ tiên học sách Tàu, văn hóa Tàu.

Tại sao nước ta không bị Tàu xâm lăng đồng hóa?

Xin mạo muội trả lời: Để không bị xâm lăng đồng hóa, các ông Nghè sáng suốt áp dụng một cách tài tình bài học “Tri hành hợp nhất ” từ Tứ Thư của Chu Hy trong bộ Trung Dung:

Các cụ biết “Cương, Nhu, Đánh, Đàm, Triều cống”(30) với anh khổng lồ phương Bắc đúng lúc. Các cụ không tự ái xằng, không hèn nhát.

Trong quan hệ chính trị ngoại giao với đế quốc Trung Hoa, các chư hầu láng giềng như nước ta, tuy được độc lập mọi phương diện hành chánh, quân sự, chánh trị... nhưng thế “liên minh thần phục” hỗ trợ nhau sinh tồn trong thế giới Á Đông thuở xưa, chữ “Trung quân ái quốc” có nghĩa: dùø là dân tộc các nước chư hầu triều cống (không phải dân của mẫu quốc Trung Hoa) cũng phải “trung” với Thiên Tử Trung Hoa và “yêu” nước Tàu (31). Trong khi sách Trung Dung cũng dạy “Chống đế quốc”: Anh không muốn tôi là đế quốc anh thì anh đừng mơ làm đế quốc tôi. Bằng trí dũng các cụ thi hành bài học “Chống đế quốc”. Các cụ trung với vua ta yêu nước Việt và luôn dạy lại con cháu tinh thần yêu nước Việt. Điển hình:

- Ông Nghè sử gia Lê Văn Hưu đổ Thái học sinh (Tiến sĩ) năm 1247 đời Trần. Trong “Đại Việt Sử Ký” đã tức giận trách cứ: “Các nam nhi từ thời Hai Bà Trưng đến Ngô Quyền, không biết noi gương yêu nước như hai anh thư Trưng Trắc Trưng Nhị, để cho nước ta phải bị Bắc thuộc Tàu gần ngàn năm”. Thật sự lời trách hơi oan. Vì ngàn năm đó cũng nhiều cuộc khởi nghĩa của nhiều nam nhi yêu nước, như Phùng Hưng, Lý Nam Đế, Triệu Quang Phục... Chỉ tiếc, không thành công lâu dài.

Rõ nét nhất việc làm 2 ông nghè Nhiệm Ích đi sứ nhà Thanh (đã trình bày chi tiết bên trên).

Không phải chuyến đi sứ nào cũng thành công. Cũng có những chuyến đi thất bại hậu quả thê thảm các sứ thần phải gánh chịu đầu tiên. Các ông đơn độc đối diện trước hoàng đế và triều thần Trung Hoa, bình tĩnh khôn khéo uốn 3 tấc lưỡi giải bầy lý luận điển tích từ Ngũ Kinh, Tứ Thư đểå bảo vệ quyền lợi nước nhà hay hạn chế thiệt thòi cho dân ta. Năm 1637 đời vua Lê chúa Trịnh Tráng, ông Nghè Giang Văn Minh đi sứ Tàu tranh đấu cho nước ta không cống người vàng (kim nhân) có từ đời vua Lê Thái Tổ. Ông Minh bị nhà Minh bắt giam 2 năm, rồi bị giết trong tù năm 1639. Vua quan dân nước Nam nghe tin buồn! Chỉ biết ngậm ngùi thương tiếc. Ông nghè Nguyễn Biểu đời vua Trần Quý Khoách đi sứ phải ung dung móc mắt ăn cổ đầu người do nhà Minh dọn, trước khi bị giết.

Năm 1413 ông Nghè Nguyễn Phi Khanh, Tư Nghiệp QTG (hiệu phó kiêm giám học) bị quân Minh xâm lược bắt sống cùng vua và triều đình nhà Hồ đem về Tàu. Khi vua tôi bị điều ngang Ải Nam Quan, là tù nhân bị mang gông cùm ông Khanh trách Nguyễn Trãi đang theo cha khóc lóc than thở: Hãy về lo rửa hờn cho nước theo khóc lóc làm gì? Sau đó Nguyễn Trãi trở về, hết lòng tham mưu cho Lê Lợi 10 năm để đánh đuổi giặc Minh. Lúc ấy ông Trãi 25 tuổi cũng đã là ông Nghè.

Đầu thế kỷ 20, cơn bão cộng sản, dân chủ thổi vào Á châu; không ít hủ dốt, bần cố nông VN lợi dụng xã hội phong kiến bất bình đẳng, chê các cụ hủ nho, nguyên nhân làm nước nhà nhược tiểu để thực dân Pháp dễ dàng xâm lăng đô hộ.

Xin thưa: Tại thời cuộc! Không do các cụ. Thế kỷ 19 ngoại trừ Nhật Bản hùng cường Thái Lan may mắn được làm trái độn cho 2 thực dân Anh Pháp, hầu hết hơn 50 quốc gia nghèo nàn Á châu, Phi châu kể cả Trung Hoa là miếng mồi ngon cho 2 đế quốc Pháp Anh.

Xin hỏi hơn 48 nước kia, có hủ nho Khổng Mạnh chi cũng bị các thực dân xâm lăng đô hộ?

Các cụ ta chỉ học đạo lýù, cái thiện, cái mỹ, truyền lại cho con cháu giữ gìn giềng mối đạo đức, không quên khuyên: Uống nước nhớ nguồn, nhớ ơn các hiền triết bậc thầy Trung Hoa, tôn vinh Khổng Tử là Vạn Thế Sư Biểu, Mạnh Tử là Á thánh. Nhưng với đế quốc bá quyền Trung Hoa, các cụ vẫn đem mạng sống bảo vệ từng tấc đất tổ tiên. Chuyện đâu ra đó.

Ví như đường đời bằng phẳng cả
Anh hùng hào kiệt có hơn ai

Qua các kinh nghiệm lịch sử “cá lớn nuốt cá bé” các cụ thấy rõ: Sống cạnh nước lớn chỉ có lòng yêu nước sáng suốt, CƯƠNG NHU đúng lúc mới tự bảo vệ để con cháu được sống còn

Các cụ là bậc Thánh đã đóng góp phần lớn cho sự trường tồn và văn hóa độc đáo dân tộc.

Hồ Quý Chương

Chú Thích (1) Kỳ thi Hội đầu tiên “Minh Kinh Bác học” được tổ chức năm 1075 đời vua Lý Nhân Tôn, lúc QTG mới thành lập, trường dạy để thi Hương (đã có từ lâu) và lần đầu tiên dạy cao hơn để thi Hội, đỗ thi Hội chưa được gọi Tiến sĩ, nhưng là kỳ thi cao cấp nhất thời bấy giờ. Gần 200 năm sau, triều đình nhà Trần tăng thêm Tứ Thư vào chương trình học, sau thi Hội là thi Đình, thi ngay sân đình vua. Đỗ thi Đình mới gọi Tiến Sĩ, Thái Học Sinh, ông Nghè và còn nhiều danh vị khác để chỉ học vị Tiến sĩ tùy các triều đại.

Giáng Sinh 2002, tôi hân hạnh được thăm viếng Quốc Tử Giám Thăng Long ở Hà Nội. Xin thắp chút hương lòng ngưỡng mộ tiền nhân, khi trở về Mỹ, nhờ một số tài liệu hình ảnh đã ghi chép tôi viết 1 bài tóm lược sử liệu phổ biến đến giới trẻ hải ngoại “Lịch sử trường Quốc Tử Giám Thăng Long” hân hạnh được VNNB chọn đăng vài số báo trước. Để biết chi tiết hơn về đại học đầu tiên và ý nghĩa các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình thuở xưa; quý vị có thể tìm đọc thêm VN Văn Học Sử của nhiều tác giả bậc Thầy ở các nhà sách.

(2) Dù trường dạy cao cấp cỡ nào, không được chính quyền công nhận học vị, trường đó chỉ là lớp dạy thêm hoặc lớp luyện thi, không được công nhận là đại học. Thí dụ trường ông Nghè Trạng lường (đo lường) Lương thế Vinh, đời vua Lê Thánh Tôn thế kỷ15. Ngoài Tứ Thư Ngũ Kinh dạy học trò thi Hương, thi Hội, ông Vinh còn dạy cả toán, môn sở trường của ông Trạng, triều đình không cấp học vị, tất nhiên lịch sử không công nhận đó là trường đại học. Suốt đời ông đã dạy hằng ngàn học trò. Ông Nghè Vinh, Tiến sĩ độc nhất nước ta để nhiều tâm sức tìm hiểu toán học. Sau giờ dạy học trò, ông dạy nông dân biết căn bản tính toán để đo đạc ruộng vườn, buôn bán nhỏ, xây cất nhà cửa. Ông Vinh viết nhiều sách, trong số ông để lại “Đại Thành Toán Pháp”. Cuối thế kỷ 19, thời nhà Nguyễn đang bị bảo hộ bởi thực dân Pháp, Phápï muốn QTG-Huế dạy thêm toán pháp. Sách toán bằng tiếng Pháp giám sinh đọc không hiểu, triều đình Huế phải lôi “Đại Thành Toán Pháp” của ông Vinh thế kỷ 15 từ tàng cổ viện tái bản để dạy học trò thi Hương.

Thời nhà Nguyễn, QTG- Huế. Ngoài việc dạy giám sinh thi Hội, thi Đình, lúc ấy trường cũng dạy giám sinh thi Hương. Từ xưa đến lúc ấy, cử nhân tú tài thi cùng 1 đề, đỗ cao cử nhân, đỗ thấp tú tài. Toán pháp được dạy trong giai đoạn này, một trong vài lần hiếm hoi của lịch sử trường QTG dạy môn khoa học thuần túy.

(3) Năm 1789 sau khi Nguyễn Huệ thắng quân Thanh, ông đóng cửa QTG Thăng Long, mở tại Huế trường cao cấp tương tự đặt tên Viện Sùng Chính. Do lời đề nghị của 7 ông Nghè Bắc Hà (sẽ giải thích thêm ở số 5) và các quan đại thần Tây Sơn, Nguyễn Huệ cho vời La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp quê ở Hà Tĩnh làm Viện Trưởng. Vì chỉ đỗ cử nhân, 2 lần Nguyễn Thiếp từ chối, đến lần mời thứ 3 do đích thân Nguyễn Huệ, ông mới dè dặt nhận lời. Nguyễn Huệ muốn dùng Nguyễn Thiếp vào ngành giáo dục vì cả 2 đồng chuộng chữ Nôm. Khi làm Viện Trưởng ngoài việc dạy học, chấm thi Hương, ông đã dịch toàn bộ Tứ Thư sang chữ Nôm, ông sửa soạn dịch tiếp Ngũ Kinh thì Nguyễn Huệ băng hà và cũng là lúc chiến tranh 2 họ Nguyễn khốc liệt, viện Sùng Chính đóng cửa, La Sơn đành từ chức về ở ẩn. Theo các nhà Khổng học VN: Lúc ấy, các văn thư phúc đáp với La Sơn, Nguyễn Huệ thường kính trọng thân mật dùng chữ Thầy... Kính Thầy... Thưa Thầy... nên một số hiểu lầm La Sơn là thầy Nguyễn Huệ. Thật sự thầy giáo lâu năm của 3 anh em và hầu hết tướng lãnh Tây Sơn là ông Trương Văn Hiến vừa dạy võ lẫn văn ở ấp Tây Sơn huyện Bình Khê tỉnh Bình Định.

(4) Đỗ đầu thi Hương là Giải Nguyên. Người đỗ đầu thi Đình, cấp Tiến sĩ mới được gọi Trạng Nguyên. Thí dụ: Trạng nguyên Lương Thế Vinh đỗ thủ khoa năm 1463, ông thích toán học nên người đời gọi Trạng Lường

Nguyễn Bỉnh Khiêm đỗ thủ khoa Đình năm 1535 được làm chức Trình Quốc Công, được gọi là Trạng Trình.

Phùng Khắc Khoan đỗ thủ khoa Đình năm 1580, ông ở làng Bùng Xá tỉnh Hà Tây, được gọi là Trạng Bùng

Nguyễn Khuyến đỗ thủ khoa 3 kỳ thi Hương thi Hội thi Đình đời vua Tự Đức. Ông được vua sắc phong Tam Nguyên Yên Đổ (Yên Đổ tên làng ông sinh sống). Hai ông Khiêm và Khoan là anh em cùng mẹ khác cha.

(5) Vua Lê Chiêu Thống ra lệnh đục bể bia đá 7 ông Nghè Tiến sĩ bỏ nhà Lê về phục vụ dưới cờ Tây Sơn, trong số có 2 ông nổi tiếng nhất: Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm. Hai chữ Thì và Nhậm là tên thật. Sau đó 2 vua Minh Mạng, Tự Đức cũng có tên là Nhậm, Thì; kỵ húy nên sử sách nhà Nguyễn tự thị đổi thành Ngô Thời Nhiệm. Chúng ta sẽ thấy một số công lao tượng trưng, điển hình của 2 ông với đất nước ở các đoạn sau.

(6) Đạo đức của Lão gia không có ý nghĩa đạo đức luân lý bình thường như chúng ta nghĩ. Theo Lão Tử: Từ ban đầu, đạo sinh ra 1, ra 2, ra 3 ... rồi sinh ra tất cả. Có nghĩa: Từ hư vô, đạo sinh ra đất trời vũ trụ...rồi sinh ra con người. Cái “hư vô” đó gọi làVÔ hay ĐẠO. Con người được thừa hưởng vũ trụ vạn vật, có bổn phận gìn giữ trật tự chung. Ông gọi “gìn giữ trật tự chung” là VI hay ĐỨC. Chữ VÔ VI xuất xứ từ ý nghĩa này và trong “ Đạo Đức Kinh ” Lão Tử giảng về ĐẠO, ĐỨC đó. Vậy Lão gia cũng xuất xứ từ Kinh Dịch, sẽ sơ lược Kinh Dịch ở phần Ngũ Kinh. Theo các nhà phê bình văn học Trung Quốc: Chưa hẳn “Đạo đức kinh” của Lão Tử như một số người thường nghĩ, nhưng chắc chắn tác phẩm này thể hiện nhân sinh quan Lão Tử.

Tiểu sử Lão Tử mang nhiều bí ẩn, chẳng ai biết chính xác tên, năm sinh lẫn năm mất của ông. Đời sau ngưới ta thường thấy hình vẽ ông trong sách vở là một ông già, nên quần chúng đặt tên Lão Tử. Hình như tên thật là Lý Nhĩ, sinh năm 570 bc ở nước Sở cùng thời với Khổng Tử (550 bc) và lớn hơn Khổng Tử 20 tuổi. Cũng có sách nói: ông được sinh sau Khổng Tử vài chục năm.

(7) Số là sau khi Tần Thủy Hoàng chết (210 bc), ông muốn truyền ngôi vua cho Thái tử Phù Tô. Lúc ấy Phù Tô đang bị cha đày lên Vạn Lý Trường Thành vì ngăn cản cha đừng đốt sách, đừng chôn sống học trò. Không cùng phe nhóm, nên Phù Tô bị Triệu Cao và Lý Tư thông đồng bức tử. Sau đó Lý Tư giết Hàn Phi, Triệu Cao giết Lý Tư. Cuối cùng Triệu Cao bị giết bởi Tử Anh (con của Phù Tô). Chế độ Pháp gia đời Tần thật thê thảm, nhưng họ có công thống nhất và dùng pháp luật nghiêm minh ổn định Trung Hoa thời ly loạn.

(8) Tiểu sử Khổng Tử, người sáng lập Nho gia. Hầu hết người Việt đều biết ít nhiều về Khổng Tử, chỉ xin nhắc lại. Khổng Tử tên là Khâu, tự Trọng Ni, sinh năm 550 trước tây lịch, nước Lỗ (ngày nay là bán đảo Sơn Đông giữa Bắc Kinh và Thượng Hải) . Ông mất năm 479 (cuối thời Xuân Thu 770 - 470 bc) sắp bước vào thời Chiến Quốc (470 - 220 bc). Khổng Tử được sinh ra khi thân phụ 70 tuổi, mồ côi cha khi lên 3. Thuở thiếu thời hàn vi, ông tự học đọc sách nghiền ngẫm tư tưởng, nhất là Kinh Dịch, Kinh Thi. Đạo lý, triết lý do ông cổ võ hầu hết xuất phát từ 2 Kinh này. Ông lấy vợ sớm có 1 con trai và cũng bỏ vợ sớm. Từ 30 tuổi chỉ làm quan chức địa phương nhưng khi nào ông cũng mang hoài bão: “Không cần dùng võ lực cũng làm được việc ích quốc lợi dân; đó là giáo dục nhân tâm”. Ông quan niệm: Bất kỳ ai cũng có thể giáo dục được, kể cả vua quan và cũng chính vua quan là những người cần giáo dục nhất trước khi hành xử việc nước .

Ông đi chu du nhiều nước chư hầu tìm tri kỷ, có nghĩa tìm minh chúa để phò. Thời ấy Trung Hoa có rất nhiều tiểu quốc. Chẳng vua nào dùng ông và ông cũng chẳng tìm được ai. Các vua chỉ thích ông cung cấp võ khí, không thích ông “dạy đời”. Hơn 60 tuổi ông trở về quê cũ là nước Lỗ viết sách dạy học trò.

Khi sinh tiền, đạo của ông ngoài vài ngàn học trò, chẳng mấy người biết, nhưng sau khi ông chết hằng trăm năm, hệ thống “giáo dục nhân tâm” của Khổng Tử càng được các thế hệ sau quảng bá làm tăng giá trị người phục vụ quốc gia. Giới quan quyền, nhất là các vua chúa phát hiện đạo lý của ông là phương tiện đắc lực để ổn cố trật tự xã hội. Nên hầu hết các triều đại phong kiến Trung Hoa Việt Nam dùng đạo Khổng làm nền tảng đạo đức xã hội và phục vụ chế độ quân chủ. Đến đầu thế kỷ 20 cơn bão cộng sản, dân chủ thổi vào Á Đông, đạo Khổng do ông chủ xướng bị đốn ngã nặng nềõ. Nhưng cũng còn hàng triệu triệu gia đình Á Đông tiếc nuối, họ chỉ loại bỏ những hủ tục tiêu cực, vẫn giữ lại các tinh hoa của đạo lý.

(9) Mặc dầu nhà Nho cũng đề cập “phu thê tương kính như tân” nhưng thực tế đời sống gia đình không đòi hỏi “chồng kính vợ”. Cho phù hợp với Kinh Dịch một nước không có 2 vua, tất nhiên mỗi gia đình chỉ có 1 “gia trưởng”. Mãi đến thế kỷ 20, ảnh hưởng Thiên Chúa Giáo 1 vợ 1 chồng và quan niệm dân chủ nhân quyền, mới bắt đầu làm cho vợ chồng Trung Hoa Việt Nam tương kính nhau, tức “mỗi gia đình có 2 gia trưởng”

(10) Cũng năm 111 bc, chính Hán Vũ Đế sai Lộ Bát Đức xâm lăng vùng Hoa Nam và Bắc phần VN, khởi đầu nước ta bị bắc thuộc lần thứ 1 sau hàng chục thế kỷ chưa bao giờ bị Tàu đô hộ. Lúc ấy vùng này là nước Nam Việt gồm Quảng Đông Quảng Tây, đảo Hải Nam và Bắc phần VN do nhà Triệu làm vua (con cháu Triệu Đà), kinh đô Phiên Ngung (Quảng Châu). Quân Hán diệt nhà Triệu, giết thái phó Lữ Gia.

Đúng ra, trước đó gần 100 năm, năm 207 bc Triệu Đà người Tàu tướng của Tần Thủy Hoàng, theo lệnh nhà Tần tiến chiếm Âu Lạc của An Dương Vương. Nên sử Việt có người coi nước ta bị Bắc thuộc từ Triệu Đà năm 207 bc. Sau đó ở bên Tàu, nhà Tần bị diệt bởi nhà Hán. Triệu Đà muốn dùng nước ta để xây dựng đế nghiệp riêng cho dòng họ, ông tuyên bố ly khai chống cả Tần lẫn Hán, tức Triệu Đà chống Tàu. Ông đã làm theo ý muốn dân Việt thuở ấy và cũng từ đó ông dạy dân kỹ thuật nông nghiệp, nâng cao văn hóa, duy trì phong tục xã hội ta, nên cũng có Sử Việt coi ông là anh hùng dân Việt, chính danh. Sàigon trước 1975 có đường dài lớn Triệu Đà ở Chợ Lớn, gần trường đua ngựa Phú Thọ có đường Lữ Gia. Hiện nay dân Quảng Đông, Quảng Tây có nhiều đền thờ thờ ông như Thần, Thánh. Tương tự Triệu Đà, vua Thục Phán An Dương Vương, sử Việt cũng chẳng biết ông là người Tàu hay Việt, nhưng vua Thục Phán luôn lo cho đời sống nhân dân Âu Lạc và chống Tàu nên sử ta vẫn coi An Dương Vương là chính danh, là anh hùng dân tộc.

(11) Quốc hiệu Đại Việt nước ta, bắt đầu có từ vua Lý Thánh Tôn (1054) phụ hoàng của vua Lý Nhân Tôn. Theo chiều dài lịch sử tên nước cũng được thay đổi vài lần. Sau khi đánh đuổi được nhà Minh, Lê Lợi tức vua Lê Thái Tổ (1428) lấy lại tên nước Đại Việt. Thời Trịnh Nguyễn phân tranh quốc hiệu Đại Việt ít dùng. Quốc hiệu Việt Nam bắt đầu có năm 1802, khi vua Gia Long đánh bại Tây Sơn thống nhất 2 miền nam bắc.

(12) Đời nhà Chu, có sách gọi Nhà Châu (Đông Châu liệt quốc): Gồm 2 thời kỳ Tây Chu và Đông Chu

Tây Chu: Từ thế kỷ 11 bc đến 770 bc, kinh đô ở tỉnh Thiểm Tây (ở phía Tây) sử gọi Tây Chu. Suốt triều đại Tây Chu, nhà Chu là Thiên Tử, vua nước mạnh nhất chung quanh có hàng trăm nước chư hầu triều cống đóng thuế. Sau 8 thế kỷ đến lúc suy vi, để tránh áp lực chư hầu phía Tây và rợ phía Bắc, năm 770 bc Chu Bình Vương dời đô về phía Đông, kinh đô Lạc Dương, sử gọi Đông Chu (chỉ dời kinh đô, lãnh thổ vẫn vậy).

Hình như chỉ có trường hợp này chữ Châu và chữ Chu ý nghĩa giống nhau. Các trường hợp khác, 2 chữ Châu Chu ý nghĩa khác nhau hoàn toàn. Thí dụ sông Châu giang, Trân Châu Cảng; không ai gọi sông Chu giang, Trân Chu Cảng và Chu Dung Cơ, Chu Hy, Chu Ân Lai; không ai gọi Châu Dung Cơ, Châu Hy, Châu Ân Lai,

(13) Sử cổ Trung Hoa và Kinh Thư thường gọi Trường giang tứùc là sông Dương Tử dài hơn 5000 km, một trong vài con sông dài và có lưu luợng lớn nhì ba của thế giới, sông chảy giữa Trung Hoa, từ hướng tây ra bể Đông. Thuyền bè lớn nhỏ có thể giao thông dễ dàng từ biển ngược vào từ 2000 km đến 3000 km.

(14) Việt Thường nơi đây không dính dáng nước Việt Thường (Quảng Bình Quảng Trị) tên cũ của Chiêm Thành mà sử gia Trần Trọng Kim đề cập trong Việt Nam Sử Lược.

(15) Sử liệu Kinh Thư: Chữ “Giao Chỉ” có nghĩa 2 ngón chân cái giao nhau. Vẫn tốt! Nhưng ta không cần đặt nặng, vì lúc ấy nhiều bộ tộc khác cũng có 2 ngón chân cái giao nhau và ngày nay chẳng mấy người Việt còn có 2 chân cái giao nhau. Điểm quan trọng ở Kinh Thư: a - Giao Chỉ là bộ tộc sinh sống từ sông Hoài xuôi nam đến 2 bên lưu vực sông Dương Tử. b - Người Giao Chỉ và Man Di thường xâm mình hình thủy quái giao long để lặn xuống sông biển, thuồng luồng cá sấu tưởng đồng loại không ăn thịt; phù hợp với các đời vua Hùng khuyên dân nước Văn Lang: Những ai làm nghề chài lưới nên xâm mình.

(16) “Man di”, Khổng Tử chỉ lập lại thói quen chung của Hán tộc. Lúc bấy giờ tộc Hán thường xem các tộc khác là man di, là rợ. Phía bắc Vạn Lý Trường Thành là rợ Hồ. Các tộc phía nam Trung Hoa là “nam man” . Ngay Tây phương cũng bị Hán tộc gọi “tây di”. Qua các văn thư gởi triều đình Trung Hoa, chính các tộc đó lẫn tây phương cũng tự nhận mình man di. Có thể đó là “phép lịch sự” của người xưa khi giao tế, cũng có thể họ công nhận không văn minh bằng Hán tộc.

Không ít người Việt trước 75 cũng thế: Kẻ nào nói tiếng Việt không rành có da ngăm đen, bị gọi mán mọi, chàvà. Tàu bị ta gọi chú chệt, tây bị gọi bạch quỷ, ngay Mỹ cũng bị gọi thằng mẽo.

Khi người Trung Hoa dùng chữ “man di” để chỉ những bộ tộc không phải tộc Hán. Có sử gia nổi tiếng VN cho rằng: “Người Hán ngạo mạn”, nhưng khi đề cập công chúa Huyền Trân được Trần Khắc Chung cứu thoát không bị lên giàn hỏa ở kinh đô Đồ Bàn, sử gia đó viết: “ngẩn ngơ một lũ hời” làm người Chiêm “giận” lắm. Âu, tất cả chỉ là cảm xúc, lòng yêu nước của một công dân khi viết sử hoặc phục vụ chế độ hiện hữu. Khổng Tử cũng thế, ông viết Kinh Xuân Thu sử nước Lỗ (nước ông) cũng “xấu che tốt khoe”. Do đó sử của Khổng Tử chỉ giá trị tương đối không bằng sử của Tư Mã Thiên, mặc dầu ông Thiên dùng sử liệu Khổng Tử. Sử gia Cộng Sản cũng “xấu che tốt khoe”. Ai cũng biết: Sử chỉ là tương đối, kể cả tập văn sử nầy.

(17) Vua Thần Nông chỉ là truyền thuyết của Tàu lẫn Việt (thời chưa có chữ viết, sống trước cả thời Nghiêu Thuấn) chẳng có gì vững chắc. Theo các học giả: Thần Nông còn có nghĩa ông Thần làm nghề nông.

(18) Đừng lầm với An Dương Vương Thục Phán ở 20 thế kỷ sau đã đề cập sơ ở (10). Thế kỷ thứ 3 bc Thục Phán lật ngôi vua Hùng 18, lập nước Âu Lạc, có một phần đất Quảng Đông, nhiều nhất là Quảng Tây (vì biên giới chung với Bắc phần VN). Ông xây thành Cổ Loa hình trôn ốc (còn di tích) với nỏ Thần Kim Quy. Sau đó bị rể Trọng Thủy (con Triệu Đà)ø đánh tráo nỏ Thần nên Âu Lạc bị mất về Triệu Đà. Thời Triệu Đà ông chiếm trọn Quảng Đông, Quảng Tây và tiến chiếm thành phố Trường Sa tỉnh Hồ Nam của Trung Hoa.

(19) Theo 2 học giả về cổ sử Đông Nam Á Henry Maspéro và Leonard Anrousseau: Người Việt ngày nay có nguồn gốc nước Việt nầy, có Tây Thi , Phạm Lãi, Câu Tiễn; đa số sử gia VN không đồng ý.

(20) “Người Vượn Bắc Kinh” được tìm thấy năm 1925 ở Chu Khẩu Điếm gần Bắc Kinh. Đây là bộ xương hóa thạch người vượn cổ nhất còn gần đầy đủ, đo đồng vị có niên đại khoảng 500 ngàn năm. Bộ xương là 1 trong vài di sản vô giá của nhân loại. Năm 1927 chính quyền Trung Hoa Dân Quốc 16 (Dân quốc 1 là năm Cách Mạng Tân Hợi 1911) chưa ổn định, đành “nhờ” người ngoại quốc Đức, Nhật, Mỹ “bảo vệ nghiên cứu”. Việc nghiên cứu chưa đi đến đâu, bộ xương bị mất tích năm 1941, lúc khởi đầu chiến tranh Trân Châu Cảng. Bây giờ không ai biết Người Vượn Bắc Kinh nơi đâu? Đáng tiếc! Nếu Người Vượn “còn sống” là chìa khóa mở cửa hiểu biết về người tiền sử cho nhân loại, cho Trung Hoa và cả dân tộc ta rất nhiều.

(21) Cụm chữ “Liên minh thần phục” chưa thấy có trong sử, xin tạm dùng để dễ hiểu.

(22) Đòi Tàu trả lại đất tổ tiên bằng sử ta, chẳng khác chi đi đòi nợ bằng mảnh giấy ông nội viết ta ký tên. Trước khi các ông Nghè đi sứ, Nguyễn Huệ nói với quần thần ở Phú Xuân: Đòi nợ Tàu phải bằng Sử Tàu.

(23) Quận Cam Tuyền tỉnh Cam Túc ở tây bắc Trung Hoa giữa sa mạc Goby, có Vạn Lý Trường Thành trải ngang. Trống Tràng Thành: Mỗi lần có giặc phía bắc xâm lăng, các chòi gác ở thượng tầng Trường Thành đánh trống đốt lửa bốc khói báo hiệu. Địa danh nầy hiện diện nhiều lần trong sử sách Trung Hoa, nhất là thời chiến tranh các chư hầu và về sau chiến tranh với Mông Cổ. Ngày nay đầu thế kỷ 21, Cam Tuyền nơi đặt bệ phóng phi thuyền Thần Châu 5 với phi hành gia đầu tiên Trung Quốc Trung tá Dương Lợi Vĩ. Thành công này, sau Nga Mỹ; Trung Hoa là quốc gia thứ 3 đã đưa được người vào quỹ đạo trái đất. Mới đây tháng 9 / 2005 cũng từ Cam Tuyền, Trung Quốc phóng phi thuyền đưa 2 phi hành gia vào quỷ đạo thành công.

(24) Ý nghĩa chữ “phong kiến” của ta và Tàu khác xa nhau hoàn toàn. Theo Tàu: Phong là phong chức tước, kiến là cắt đất. Trước thời Tần Thủy Hoàng (nhà Thương, nhà Chu) Thiên tử là vua trung ương có uy quyền mạnh mẽ nhất, có quyền phong chức, cắt đất (tất nhiên có dân trên mảnh đất đó) cho các quan văn võ triều đình, gọi là nước chư hầu. Nước chư hầu là vua một cõi, có triều đình riêng, “99% độc lập”, chỉ triều cống hoặc đóng thuế hoặc cả 2. Chư hầu vẫn có thể phản loạn tuyên chiến với Thiên Tử trung ương. Thí dụ: Đời nhà Chu: Trung Hoa có hàng trăm chư hầu lớn nhỏ do các vua Chu ban cho hoặc họ tự xưng. Các chư hầu đánh đấm nhau nhiều trăm năm, rồi liên kết nhau đánh luôn nhà Chu, cuối thời Chiến Quốc nhà Chu chỉ còn Ngũ Bá, Thất Hùng, Lục Quốc. Đến năm 220 trước tây lịch Tần Thủy Hoàng đánh thắng tất cả chư hầu lẫn Thiên Tử là Đông Chu, thống nhất Trung Hoa. Qua kinh nghiệm Nhà Chu bị tiêu diệt bởi chư hầu (chế độ phong kiến). Tần Thủy Hoàng “bãi bỏ chế độ phong kiến” có nghĩa bãi bỏ chư hầu. Hoàng Đế thu lại quyền hành về trung ương và chia nước Tàu thành 40 quận trực thuộc. Điều này ông hy vọng tránh không bị các chư hầu hợp tác phản loạn. Thực tế lịch sử tái diễn: Sau 15 năm nhà Tần vẫn bị diệt bởi nhà Hán.

(25) Theo ta: Phong kiến là chế độ quân chủ chuyên chế, cha truyền con nối. Vua càng tập quyền càng phong kiến. Song song đạo lý Khổng Mạnh cũng có phần bất bình đẳng, thêm thông tin thiếu chính xác, giáo dục đạo lý không đúng mức, càng ngày tam sao thất bổn làm quần chúng ít học càng hiểu lầm. Qua nhiều thế hệ trở thành “phong tục”: Ức chế phụ nữ , trẻ con và người nam làm việc lao động với thu nhập thấp.

Năm 1954 Cố Tổng thống Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh, thành lập Đệ Nhất Cộng Hòa. Ông chủ trương: Bài Phong, Đã Thực, Diệt Cộng. Bài Phong: Bài trừ các tệ đoan phong kiến nêu trên .

(26) Cụm từ “Chánh khách salon” xuất xứ từ ông Ngô Đình Nhu, chỉ nhóm hơn 10 chính trị gia đối lập họp ở khách sạn Caravelle sang trọng bậc nhất Sài gòn năm 1962 phản đối chính quyền NĐD, trong số có các ông Phan Quang Đán, Phan Khắc Sửu, Phan Huy Quát, linh mục Hồ Văn Vui .... Từ đó cụm từ đi vào làng báo VN.

(27) Chế độ Sĩ trị: Làm quan để phục vụ, bình trị nhân dân được tuyển chọn từ giới đi học, tức các vị ấy đã gia nhập hàng ngũ quý tộc. Chế độ Sĩ Trị văn minh hơn nhiều chế độ cùng thời khắp thế giới. kể cả Âu châu. Giới quý tộc tây phương thuở xưa được chọn từ giới nhà giàu và cha truyền con nối. Do đó ý nghĩa “giới quý tộc” của đông phương và tây phương khác nhau. Một bên có học, một bên có tiền.

(28) Các cộng đồng tị nạn đang xây Đài Tưởng Niệm 100 triệu Nạn Nhân Cộng Sản tại thủ đô Washington.

(29) Tứ đức cho phụ nữ: Công dung ngôn hạnh. Không riêng phụ nữ, đàn ông có luật: Tam cương ngũ thường (tổng cộng nam có8 điều ghi nhớ, Khổng Tử đã xử ép các ông “nặng” hơn các bà 1 điều, các bà chỉ có 7)

(30) Triều cống! Ta triều cống Tàu hàng ngàn năm...đến thế kỷ 19 đời vua Tự Đức, khi thực dân Pháp xâm lăng VN chiếm 3 tỉnh miền đông. Bằng hoà ước năm 1862 Tự Đức 16, về ngoại giao “VN chỉ liên hệ với Pháp”. Lúc ấy ta mới hết triều cống Tàu. Tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa, cuộc đời nước nhược tiểu là thế đấy.

(31) Theo “Quang Trung Nguyễn Huệ” của Hoa Bằng: Sau khi đại thắng Mãn Thanh. Vua Quang Trung sai 2 ông nghè Nhiệm, Ích và tướng Võ Văn Dũng đi sứ Tàu xin lại đất Lưỡng Quãng. Sứ bộ nêu rõ mục đích của vua Quang Trung: Tự nhận nước nhỏ kiếm đất tốt lập kinh đô để được “gần” Thiên Tử Trung Hoa, không đâu tốt bằng Quảng Đông Quảng Tây. Nguyễn Huệ muốn phô bày lòng “trung thành” với hoàng đế Trung Hoa trong thế “liên minh thần phục”. Ai dám bảo Quang Trung hèn? Thực chất ai cũng biết kể cả vua Càn Long: Vua Quang Trung muốn mượn cớ để lấy lại phần nào đất tổ tiên đã bị mất từ 20 thế kỷ trước.

Khâm phục thay thâm thúy người xưa.

Các nước Lão qua (Lào), Chiêm Thành, Chân Lạp (thời nhà Nguyễn) cũng là các “Liên minh thần phục” Đại Việt. Vua Đại Việt nhận triều cống, nên khi họ có nội loạn, chiến tranh, các vua ta thường xen vào nội bộ chính trị của họ và nhất là kiếm cớ gây chiến khi họ không triều cống.

Hồ Quí Chương
Cựu học sinh Trung học Petrus Ký Sài gòn