Home Đời Sống Tài Liệu Vài nét đặc thù trong cú pháp tiếng Việt

Vài nét đặc thù trong cú pháp tiếng Việt PDF Print E-mail
Tác Giả: Ðàm Trung Pháp   
Thứ Năm, 28 Tháng 7 Năm 2011 19:55

 
Ðây là bài tóm lược phần thuyết trình của tác giả trong Hội Thảo Văn Hóa Việt Nam ngày 11 tháng 9, 2010 tại San Jose State University, California.

 Các chủ ngữ vô hình
Nhiều câu trong tuyệt tác Truyện Kiều của thi bá Nguyễn Du chứa đựng những chủ ngữ vô hình, thiếu minh xác mà theo Ðoàn Phú Tứ (1949) như “ẩn hình ngay trong động từ, ta không vạch được nó ra một cách rành rọt mà chỉ hội được nó, theo cái nghĩa của đoạn văn mà thôi.” Ông Ðoàn đưa ra thí dụ dưới đây:
 
 

 Bóng hồng nhác thấy nẻo xa
Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai.
Người quốc sắc kẻ thiên tài
Tình trong như đã mặt ngoài còn e
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê
Rốn ngồi chẳng tiện rứt về chỉn khôn.
Bóng tà như giục cơn buồn,
Khách đà lên ngựa người còn nghé theo.
Dưới cầu nước chảy trong veo,
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
 
Rồi ông Ðoàn đặt câu hỏi và tự trả lời, để chứng minh cho “cái lợi của tính chất thiếu minh xác trong ngôn ngữ văn chương của ta”:

“Ai nhác thấy? Ðành là Kim Trọng, nhưng không nói rõ, thì sao lại không có thể là cả chàng độc giả thư sinh nọ, cảm thông với chàng Kim một cái liếc nhìn? Chập chờn cơn tỉnh cơn mê là ai? Là người quốc sắc hay kẻ thiên tài? Hay cả hai? Luận ra thì biết, song trước khi lý luận, tại sao ta không có quyền nghĩ đến cả hai người? Bóng tà như giục cơn buồn: Nỗi buồn của ai vậy? Của Kim Trọng hay của Thúy Kiều, hay của hai người? Hay cũng là nỗi buồn của ta chăng? Và hai câu cuối: Dưới cầu... thướt tha có phải chỉ là cái tình của Thúy Kiều gửi vào trong cảnh ấy, hay còn phảng phất cả cái tình của người đọc sách nữa?”

Nhưng khi được dịch sang tiếng Pháp và tiếng Anh thì các chủ ngữ vô hình bắt buộc phải xuất hiện. Nguyễn Văn Vĩnh (1943) thì cho rằng chủ ngữ của chập chờn cơn tỉnh cơn mê chính là nàng Kiều cho nên đã dịch câu ấy sang Pháp văn thành “Kiều flottait entre le rêve et la réalité” và cũng cho rằng bóng tà như giục cơn buồn chỉ áp dụng cho nàng mà thôi, qua câu dịch “La descente du soleil vers l'horizon semblait provoquer chez elle un accès de mélancolie.” Bốn mươi năm sau (1983), Huỳnh Sanh Thông trong bản dịch sang tiếng Anh đã nghĩ khác ông Nguyễn trong hai ngữ cảnh nêu trên. Ông Huỳnh dùng chủ ngữ số nhiều để gồm cả nàng Kiều và chàng Kim vào trong cơn tỉnh cơn mê ấy: “They hovered, rapture-bound, 'tween wake and dream” và không cho nàng Kiều độc quyền thấy cơn buồn đang bị bóng tà giục giã: “The dusk of sunset prompted thoughts of gloom.” Ông Ðoàn chắc hẳn tán đồng lối dịch của ông Huỳnh hơn lối dịch của ông Nguyễn, vì ông Ðoàn cho rằng ông Nguyễn “đã hiểu vội vàng, và cũng bị lầm vì cái thiếu minh xác của ngôn ngữ.”

Ðó là chuyện cũ. Hôm nay, tôi cũng xin chia sẻ cùng quý vị một chút văn chương của người bạn đồng môn tài hoa của tôi, nhà thơ Lưu Văn Vịnh*, trong đó chủ ngữ vắng mặt, nhưng tôi vẫn hiểu văn và thơ bạn tôi rất rõ, vì bạn tôi và tôi đều là người Việt. Thử hỏi trong hai câu lục-bát êm tai được trình bày thành ba dòng sau đây trích từ thi tập Oang Oang Lòng Chén Rỗng (2007): “Kề vai ở chốn phong sương/Nhìn nhau đáy mắt/Ðoạn trường hiện ra” thì ai và ai kề vai và nhìn nhau đáy mắt? Và trong tuyển tập Bốn Lần Leo Núi Tản (2000), có câu bạn tôi viết về chuyến thăm Bích Câu lưu loát trong sáng mà chẳng cần đến một đại từ nhân xưng (personal pronoun) đóng vai chủ ngữ nào cả: “Cuối thế kỷ, một ngày cuối năm, viếng Bích Câu như tới thăm giấc mơ của người xưa, tuy chẳng là cánh bướm, nhưng cứ bay vào những giấc mộng lớn giấc mộng nhỏ, thì giấc mộng lũy thừa nhân lên sẽ mông lung bằng cả cõi tiên vô tận &” Khi đọc đoạn này tôi thấy như tôi đang được cùng nhà văn họ Lưu viếng Bích Câu, như thể chính bạn tôi và tôi đóng vai chủ ngữ cho các động từ “là”, “viếng”, và “bay” vậy.

Nói một cách chung chung, chủ ngữ tiếng Việt thường vắng mặt trong các trường hợp dưới đây:

- Khi câu bắt đầu bằng một động từ hiện hữu như có hoặc còn: Có vấn đề rồi! Còn nước còn tát. Có người khách ở viễn phương (Truyện Kiều). Còn về còn nhớ đến người hôm nay (Truyện Kiều).

- Khi câu là một tục ngữ: Ði một ngày đàng học một sàng khôn.

- Khi câu là một độc thoại: Mệt quá rồi, nghỉ một chút. Lát nữa làm tiếp.

- Khi câu là một trao đổi giữa hai cá nhân mà chỉ ngữ cảnh mới có thể xác định ai là ai: Ðang làm gì đấy? -Ðọc sách. Lãnh lương chưa? -Lãnh sáng nay rồi.

- Khi câu là một trao đổi giữa hai cá nhân chưa xác định được mối liên hệ xưng hô phù hợp: Ði đâu đấy mà đẹp thế kia? Cho hỏi thăm một chút được không?

-Khi câu là một trả lời cho một câu hỏi thuộc dạng có/không (yes/no question): Anh có muốn nghỉ không? -Muốn! Bạn đã hiểu chưa? -Hiểu rồi. Bồ chịu điều kiện đó không? -

Chịu mạnh đi chứ!

- Khi câu là một lời ra lệnh: Hãy dựa tóc vào vai cho thuyền ghé bến. Hãy nhìn nhau mà sưởi ấm trời mưa (Nguyên Sa).
 
Mối liên hệ lỏng lẻo giữa các mệnh đề
 
Một số mệnh đề độc lập có thể được viết kề cận nhau mà không thấy có những liên từ nối những mệnh đề ấy cho thêm rõ nghĩa, như trong các thí dụ sau đây: Trời mưa to quá, chúng tôi quyết định ở nhà.Chúng tôi đến nơi, họ đang cãi nhau to tiếng, chúng tôi hết sức can ngăn nhưng chẳng ăn thua gì, chúng tôi bỏ về, lòng buồn vô hạn.

Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc
Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường
(Nguyên Sa)

[Viết tiếng Anh theo kiểu Việt này thì sẽ bị các giáo sư người Anh người Mỹ sổ toẹt, vì phạm lỗi run-on sentences trong hai thí dụ đầu và incoherence hoặc dangling modifiers trong thí dụ trót lấy từ thơ Nguyên Sa. Tất cả là do có sự khác biệt tu từ (rhetorical difference) khá lớn giữa tiếng Việt và tiếng Anh].

Tiếng Việt có đầy đủ các liên từ diễn tả các mối liên hệ giữa mệnh đề chính và phụ, như vì, bởi vì để chỉ lý do; để, để cho để chỉ mục đích; giá, giá mà để chỉ giả thiết; nếu, nếu như để chỉ điều kiện, vân vân. Khác chăng thì tiếng Việt có khuynh hướng ít dùng liên từ hơn là các ngoại ngữ như tiếng Pháp, tiếng Anh. Nhưng, đây mới là một nghịch lý thú vị của tiếng Việt: Khi một liên từ được dùng cho mệnh đề phụ thì mệnh đề chính cũng có khuynh hướng sử dụng một tiểu từ để giữ quân bình cho cấu trúc - tức là còn kỹ lưỡng hơn tiếng Pháp, tiếng Anh. Quả vậy, khi một câu phức tạp tiếng Việt bắt đầu bằng mệnh đề phụ sử dụng một trong các liên từ vì/tuy/nếu thì mệnh đề chính thường bắt đầu bằng một trong các “từ quân bình”(balance words) nên/nhưng/thì, như trong các thí dụ sau đây: (1a) Vì nó kiêu ngạo, nên nó không có bạn. (2a) Tuy họ nghèo, nhưng họ rất hạnh phúc. (3a) Nếu anh yêu em, thì anh phải cưới em ngay!

Khuynh hướng kỹ lưỡng nêu trên cũng thấy trong văn chương bác học: Dẫu chẳng phải ngọc ngà kỳ dị. Nhưng cũng trong ý nhị thanh tân. (Bần Nữ Thán) Nếu thi gan với anh hùng thì thua. (Phan Trần)

[Nếu vô tình để khía cạnh cú pháp này của tiếng Việt ảnh hưởng lối viết tiếng Anh, người Việt chúng ta có khuynh hướng viết ra các câu bất cập sau đây: (1b) Because he is arrogant, so he has no friends. (2b) Although they are poor, but they are very happy. (3b) If you love me, then you must marry me at once!].

Tới đây tôi cần nói lên nhận xét là những người Việt chúng ta thông thạo tiếng Pháp hoặc tiếng Anh thường cho ảnh hưởng văn pháp hai thứ tiếng ấy vào tiếng Việt khiến cho câu văn tiếng Việt của họ đỡ bị chê là không có chủ từ, hoặc chủ từ mù mờ, hoặc thiếu phần mạch lạc vì tránh dùng liên từ trong câu phức tạp. Họ sẽ chuyển câu Trời mưa to quá, chúng tôi quyết định ở nhà thành ra Vì trời mưa to quá, (cho nên) chúng tôi quyết định ở nhà và câu Các anh cười khúc khích làm em ngượng quá thành ra Cái cười khúc khích của các anh làm em ngượng quá.
 
Cấu trúc đề/thuyết (topic/comment)
 
Cấu trúc của một câu tối thiểu trong ngôn ngữ nào cũng gồm hai yếu tố là chủ ngữ (subject) và vị ngữ (predicate). Chủ ngữ thông báo một đề (topic) và vị ngữ cung cấp một thuyết (comment) tức là một nhận định về đề ấy.Mối liên hệ chủ ngữ/vị ngữ và đề/thuyết được thấy rõ rệt trong các câu Trời/mưa và Anh Tám/mới lấy vợ hôm qua./ em. Nhưng không phải lúc nào chủ ngữ cũng trùng hợp với đề đâu. Chẳng hạn trong câu (1) Chiếc xe này/chạy ngon lắm và (2) Chiếc xe này/tôi mua lâu rồi thì Chiếc xe này vừa là chủ ngữ vừa là đề trong câu (1), nhưng chỉ là đề và đóng vai túc từ cho động từ mua trong yếu tố thuyết của câu(2).

Hơn nữa, đề luôn luôn xuất hiện ở đầu câu, trong khi chủ ngữ có thể xuất hiện ở đầu hoặc cuối câu (thí dụ, trong câu này thì chủ ngữ nằm ở cuối câu: Giữa rừng già xuất hiện một bầy voi).

Ðề cũng có thể được coi như một “chủ ngữ tâm lý” trong câu vì nó sửa soạn trí tuệ cho sự đón nhận thông điệp của phần thuyết. Tiếng Nhật luôn luôn đánh dấu chủ ngữ và đề bằng các tiểu từ (particles) ga và wa, thí dụ: Neko ga sakana o tabemashita.[ Mèo (chủ ngữ) cá (túc từ) đã ăn = Mèo đã ăn cá.] John wa san-nen-sei desu.[ John (đề) tam-niên-sinh là = Còn về John, thì anh ấy là sinh viên năm thứ ba.]

Tiếng Việt cũng có khuynh hướng dùng cấu trúc đề/thuyết, với tiểu từ thì đánh dấu cấu trúc này, như thí dụ dưới đây: Chị Ba luôn buồn bã.

Chồng chị thì / ngược lại, lúc nào cũng vui. Ngoài ra cũng có các cách giới thiệu cấu trúc đề/thuyết sử dụng các phương tiện từ vựng và cú pháp đặc thù như trong các câu thí dụ sau đây: Cái anh chàng ấy hả / trời ơi, keo kiệt lắm đấy! Tám Mập và Út Sẹo có lấy nhau không / xem hồi sau sẽ rõ. Riêng tôi / tôi rất mê những bài ca vọng cổ.
 
Nỗi nàng / tai nạn đã đầy
Nỗi chàng Kim Trọng / bấy chầy mới thương. (Truyện Kiều)
 
Áo nàng vàng / tôi về yêu hoa cúc
Áo nàng xanh / tôi mến lá sân trường. (Nguyên Sa)
 
Có lẽ vai trò “chủ ngữ tâm lý” của yếu tố đề trong cấu trúc đề/thuyết đã giúp tiếng Việt vẫn dễ hiểu bất kể các nhược điểm như chủ ngữ thiếu vắng hoặc mù mờ và sự lỏng lẻo trong mối liên hệ giữa các mệnh đề như đã giải thích ở trên. Riêng trong thể lục-bát của thi ca Việt Nam, câu lục thường đóng vai đề và câu bát đóng vai thuyết, như trong các câu thơ sau đây:
 
Trăm năm trong cõi người ta (đề)
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau (thuyết) (Truyện Kiều)
 
Trước đèn xem truyện Tây Minh (đề)
Gẫm cười hai chữ nhân tình éo le (thuyết)
Hỡi ai lẳng lặng mà nghe (đề)
Dữ răn việc trước, lành dè thân sau (thuyết) (Lục Vân Tiên)
 
Và qua nhận định này, đồng môn Lưu Văn Vịnh* của tôi cũng đã vô hình trung sử dụng cú pháp đề/thuyết khi viết câu hai câu lục-bát êm tai nhưng cũng đượm mầu bi quan của anh:
 
Kề vai ở chốn phong sương (đề)
Nhìn nhau đáy mắt đoạn trường hiện ra (thuyết)
 
* Chú thích
-Nhà thơ Lưu Văn Vịnh và tác giả bài này ngồi cạnh nhau trong lớp Ðệ Tam C (ban văn chương) tại Trung Học Chu Văn An suốt niên học 1957-1958.
Ông cũng là một diễn giả trong hội thảo văn hóa này mà ông và một số văn hữu đứng ra tổ chức.
 
Tài liệu tham khảo
-Ðoàn Phú Tứ (1949). “Ði Tìm Chủ Từ Trong Vài Ðoạn Văn Ðoạn Trường Tân Thanh.” In trong sách Nguyễn Du: Về Tác Giả Và Tác Phẩm (1999). Nhà Xuất Bản Giáo Dục, Việt Nam.
-Hà Như Chi (1970). Việt Nam Thi Văn Giảng Luận. Nhà Xuất Bản Sống Mới, Saigon.
-Huỳnh Sanh Thông (1983). The Tale of Kiều. Yale University Press, New Haven and London.- Nguyễn Ðình Hòa (1997). Vietnamese - Tiếng Việt Không Son Phấn. John Benjamins Publishing Company, Amsterdam and Philadelphia.
-Nguyên Sa (2000). Thơ Nguyên Sa Toàn Tập. Nhà Xuất Bản Ðời, Irvine, California.
-Lưu Văn Vịnh (2000). Bốn Lần Leo Núi Tản. Hạ Long Thư Các, Elridge, California.
-Lưu Văn Vịnh (2007). Oang Oang Lòng Chén Rỗng. Ổ Văn Hạ Long, Elridge, California.