Home Đời Sống Tài Liệu Trâu Trong Văn Chương Và Điển Tích

Trâu Trong Văn Chương Và Điển Tích PDF Print E-mail
Tác Giả: Mường Giang   
Thứ Bảy, 17 Tháng 1 Năm 2009 09:04

Trong hàng gia súc sống kề cận bên người, trâu-bò cũng là loài vật có nghĩa tình nên được đưa vào ca dao tục ngữ, điển tích và trở thành những đề tài quan trọng trong nền thi ca VN.

+ Trâu Trong Ca Dao Tục Ngữ :

- Con trâu là đầu cơ nghiệp

- Lộn con toán, bán con trâu.

Hai câu trên nói tới sự quan trọng của con trâu trong mọi gia đình VN tại nông thôn. Bởi vậy khi đi tậu trâu, mọi người rất cẩn trọng vì nếu sơ ý tin lời bọn lái trâu bất lương, mua nhằm trâu xấu thì tán gia bại sản là cái chắc  

- Ngưu lực đại, năng canh điền, năng vãn xa : nói tới sức mạnh của trâu.

- Nhà anh chín đụm mười trâu

Lại thêm ao cá, bắt cầu rửa chân

Lời khoe khoan giàu có của các chàng trai đồng quê khi tỏ tình với bạn gái.  

- Ruộng sâu, trâu nái : Chỉ sự giàu có trong làng.
- Làm ruộng mạnh có trâu
- Làm dâu mạnh có chồng.

- Tậu trâu lấy vợ làm nhà,

Trong ba việc ấy, lọ là khó thay

Nói tới sự quan trọng của trâu trong công việc đồng áng.

- Phùng phình lớn giữa lớn ra

Mẹ ơi con chẳng ở nhà được đâu

Ở nhà làng bắt mất trâu : cũng có ý nghĩa giống như trên.

- Muốn giàu thì nuôi trâu nái

muốn lụn bại thì nuôi bồ câu

Trâu cái vừa giúp người vừa sinh nghé có lợi cho chủ nhà.nông.

- Trâu ơi ta bảo trâu này

trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta
cấy cày vốn nghiệp nông gia
ta đâu trâu đáy ai mà quản công..
chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa..

Diển tả sự quan hệ mật thiết giữa trâu và người.
- đàn gảy tai trâu : nghĩa bóng diển tả sự lì lợm của người đời
- Ngưu đầu, mã viện : nghĩa bóng chỉ bọn người chuyên làm chuyện xấu.
- Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã : chỉ bọn người xấu tìm tới nhau để lập bè nhóm.

+ Trâu trong thành ngữ, điển tích :
- NGƯU ĐỈNH, PHANH KÊ : Dùng cái vạc to có thể luộc cả con trâu để nấu con gà , ám chỉ người có tài trí lớn lại không được sử dụng đúng chổ.  

- NGÔ NGƯU SUYỂN NGUYỆT : Điển tích này được chép từ tân thư nói chuyện Mản Phấn làm quan dưới thời Tấn Võ Đế (Tư Mã Viêm) có tật sợ gió bấc như cọp. Một hôm Phấn vào cung chầu vua, vì cửa sổ phía bắc làm bằng pha lê trong suốt nên ông ta tưởng cửa mở, vì vậy sợ quá tới nổi phát run bần bật khiến nhà vua cũng tức cười. . Để chửa thẹn, Mản Phấn tâu ‘ thần cũng như loài trâu ở đất Ngô nhìn thấy trăng là lên cơn suyển ‘.Từ điển tích trên, người Ngô khi diễn tả sự sợ hải quá đáng thì nói ‘ ngưu Ngô suyển nguyệt ‘.Thành ngữ trên còn có dụng ý khuyên ta khi gặp phải bất cứ chuyện gì, trước khi hành động phải xem xét và suy nghĩ cẩn thận để khỏi bị thất bại và làm trò cười cho thiên hạ.  

- KÊ KHẨU NGƯU HẬU : Ý nóí cái miệng con gà tuy nhỏ nhưng dùng để ăn các món ngon lạ, còn hậu môn của loài trâu tuy rất to nhưng lại là chỗ để bài tiết những chất cặn bã dơ dáy trong người trâu.Thành ngữ trên được rút từ điển tích Tô Tần đi du thuyết vua nước Hàn trong kế hoạch liên minh 6 nước chống Tần. Ông ta tâu với Hàn vương ‘ nước Tần tuy mạnh nhưng Hàn có thể chống cự được bằng cách liên minh với 6 nước thù địch của Tần . Bằng nếu chưa đánh mà đầu hàng Tần một cách nhục nhã thì Hàn đâu khác gì một thứ ngưu hậu. Cùng nghĩa với thành ngữ trên, tục ngữ VN cũng có câu ‘ thà làm đầu ruồi còn hơn làm đuôi con chuột ‘.Cả hai câu trên đều có chung ý nghĩa nhắc tới phong cách sống của con người ‘ nghèo cho sạch rách cho thơm ‘ để không bị đời khinh miệt cười chê.

- PHONG MÃ NGƯU BẤT TƯƠNG CẬP : Tả truyện có chép việc Tề Hoàn Công đem quân chinh phục nước Thái nhân đó muốn tấn công luôn Sở nên vua nước này sai sứ mang thư sang trách vua Tề ‘ quân xử Bắc Hải, quả nhân xử Nam Hải, dung thi phong mã ngưu bất tương cập dã ‘.Ý nói ‘ ông ở phương bắc, tôi ở phương nam, không có liên hệ và đụng chạm gì, tại sao lại phải đem quân xâm lấn ? ‘ Từ điển tích mới rút ra câu thành ngữ trên.  

- CỬU NGƯU NHẤT MAO : Đời Hán Vũ Đế (Lưu Triết) sai Lý Lăng đem quân đánh Hung Nô. Lúc đầu quân Hán thắng trận nên được vua quan ngợi khen hết lời. Nhưng sau đó Lý Lăng vì khinh địch nên trúng kế và bị Hung Nô bắt . Lý Lăng vì muốn bảo toàn mạng sống quân sĩ dưới quyền nên giả đầu hàng giặc. Được hung tin, vua Hán vì nghe theo lời xiểm ninh của bọn triều thần nên phán tội Lăng là phản quốc.

Trong buổi chầu có mặt Tư Mã Thiên nên Hán Vũ Đế hỏi ý kiến thì được Thiên tâu rằng ‘ Lý Lăng chỉ có 5 ngàn binh sĩ trong lúc Hung Nô có tới 8 vạn kỵ binh nên Lăng phải trá hàng nên nếu xét công tội, thì công của Lăng nhiều hơn tội, mong nhà vua châm chế. Lời tâu trên đã làm cho Hán Đế càng thêm giận dữ, kết tội Lăng và Thiên là đồng lỏa, đem Thiên ra thiến còn toàn bộ gia đình Lý Lăng bị tru di. Trong ngục, Tư Mã Thiên uất ức muốn tự tử chết nhưng nghĩ lại mình làm vậy đối với nhà vua và bọn nịnh thần, cũng giống như chín con trâu chỉ mất có một sợi lông. Bởi vậy ông cố nén đau nhục để moi tim óc hoàn thành một tác phẩm vô tiền khoáng hậu lưu truyền tới ngày nay. Đó là bộ ‘ sử ký Tư Mã Thiên ‘ . Ngoài ra lúc còn trong ngục, ông có viết thư cho người bạn tên Nhiêu Thiếu Khanh có câu ‘ cửu ngưu vong nhất mao ‘ diễn tả tâm trạng mình, quyết quên cái tiểu tiết để hoàn thành đại nghiệp, lưu danh thiên cổ, mới không uổng kiếp người.  

- HỎA NGƯU TRẬN : Tướng Yên là Nhạc Nghị chỉ trong 6 tháng đã chiếm của Tề 70 thành trì và sắp dứt điểm hai cứ điểm cuối cùng là Cử Châu cùng với Tức Mặc do Điền Đan chỉ huy. Để giữ thành, ông ngày đêm hòa mình với dân chúng và binh sĩ tại đây nên dù bị vây khổn, thành vẫn được bình an suốt 3 năm. Không làm gì được nên Nhạc Nghị đành rút quân khỏi Tức Mặc 9 dặm và lập đồn lủy ngăn chặn. Thừa cơ hội trên, Điền Đơn cho gián điệp sang Yên phao tin Nhạc Nghị vì muốn làm vua nước Tề nên không tấn công Tức Mặc. Vua Yên vì đã có lòng nghi kỵ lại bị gian thần dèm pha sàm tấu nên ra lênh bãi chức Nhạc Nghị rồi cử Kỵ Kiếp cầm quân tấn công Tức Mặc.
Đưọc tin trên, Điền Đơn cho người giả làm thần nhơn nữa đêm tới dinh Yên phao tin ‘ tướng trời sẽ xuống giúp Tề tiêu diệt Yên vì tội xâm lấn nước người ‘.Kế này đã làm giao động quân địch. Để nung thêm lòng quyết tử của quân dân trong thành Tức Mặc, Điền Đơn lại phao tin Kỵ Kiếp sẽ tàn sát cả thành này khi chiếm được, làm cho nguời Tề rất căm hận nên quyết lòng tử chiến với quân Yên. Điền Đơn còn dùng vàng bạc hôi lộ cho Kỵ Kiếp và các tướng lảnh khác không đề phòng, chỉ lo mở tiệc ăn mừng chờ ngày Tề đầu hàng  

Thấy thời cơ đã đến, Đơn tập trung tất cả số trâu đang có trong thành hơn ngàn con, cho chúng mặc áo giáp đỏ vẽ thêm các màu loè loẹt , buộc gươm giáo mác bén nhọn trên hai sừng còn phía sau đuôi trâu cột cỏ khô tẩm dầu chai. Lại chọn 500 quân cường tráng can đảm , mặc quần áo đỏ mặt mày vẽ dử tợn, tay cầm trường thương chạy theo sau trâu. Thế rồi màn đêm vừa buông xuống, trong lúc đại quân Yên đang say sưa trong giấc điệp sau một ngày tiệc tùng, thì Điền Đan ra lệnh mở đại tiệc thiết đãi tam quân, thề đuổi Yên ra khỏi bờ cỏi. Sau đó cho lùa bầy trâu ra khỏi thành đốt lửa, trâu bị nóng rống lên khủng khiếp và cắm đầu chạy tông vào trại Yên, 500 quân cảm tử chạy theo sau còn quân dân trong thành thì nổi chiên trống trợ oai.

Cảnh tượng lúc đó chẳng khác gì trời long đất lở trong lúc quân Yên đang ngủ say không trở tay kịp bị 1000 con trâu điên và 500 quân cảm tử tàn sát gần hết, Kỵ Kiếp cũng bị Điền Đơn chém chết. Thừa thắng quân Tề đánh đuổi quân Yên tới tận bờ nam sông Hoàng Hà, Điền Đơn chỉ trong một đêm thu hồi lại được 70 thành đã mất. Hỏa ngưu trận còn được Hô Diên Chước ở Lương Sơn Bạc và Nhạc Phi đời Tống dùng rất có hiệu quả.

+ Trâu Trong Thi Văn VN :

Trong LỤC SÚC TRANH CÔNG : Đây là một tác phẩm văn vần cổ, khuyết danh gồm 453 câu, diển tả sự tranh chấp giữa 6 con vật nuôi trong nhà là trâu, chó, ngựa,gà,dê và heo. Hiện vẫn chưa biết ai thực sự là tác giả, đã ra đời vào lúc nào nhưng không phải vì thế mà nó mất đi giá trị.

  Tác phẩm được viết theo lối tuồng, biền ngẩu với nhiều cặp đối nhau, bên cạnh các câu văn bình dân giản dị lại được xen kẻ các câu văn bác học, điển tích và thành ngữ. Riêng Trâu được đề cập tới trong truyện từ câu 13-122 mà phần mở đầu là lời kể công với chủ :

‘ Lúc canh gà vừa mới gáy tan

Chủ đã gọi thằng trâu vội vã

Dạy rằng đuổi trâu ra thảo dã

Cho nó ăn ba miếng đở lòng.. ’ ’

Rồi khi mặt trời vừa mới mọc cho tới lúc chuông chùa điểm tiếng thu không, trâu phải :

‘ Cày ruộng sâu ruộng cạn cho no

Lại vườn đậu vườn mè khiến trở

Lúa gặt cắt lên đã có xe trâu

Lúa chất trở lại để dành trâu đạp

Lại xe gổ dân công liên khói

Bắt luôn xe rào, xe củi.. ’ ’

Và cũng nhờ có sức trâu cáng đáng nên chủ mới dựng nên cơ nghiệp đồ sộ hôm nay : ‘ trâu dựng nên nông nọ nồi kia, trâu làm đặng lăn trên bồ dưới.. ’ ’ Nhưng vì thói đời quen ‘ ăn chén đá bát, đặng cá quên nôm.. ’ ’ nên chẳng ao thèm để ý tới trâu. Đã vậy khi trâu già yếu chết đi thì chủ lại nhẩn tâm phanh thây trâu để chia thịt : ‘ khi thác lại đoạn tình siêu độ, bảo nhau sắm con dao cái rổ, khiến nhau vơ nắm củi cáo mè .. ’ 

Trong Tác Phẩm CON TRÂU của TRẦN TIÊU (1900-1945) : cũng là tên thật và bút hiệu, ông sinh tại làng Cổ Am huyện Vĩnh Bảo tỉnh Hải Dương, em một cha khác mẹ của Khái Hưng Trần Khánh Giư, có chân trong Tự Lực Văn Đoàn, chuyên viết về đồng quê miền Bắc với văn phong giản dị chân thực nên rất được nhiều người ưa chuộng. Đã để lại các tác phẩm như Năm Hạn (1939), Con Trâu (1940), Chồng Con (1941), Truyện Quê (1942) và Sau Lủy Tre (1943).. trong các tác phẩm trên, truyện dài ‘ Con Trâu ‘ được xem là tiêu biểu nhất.

Qua nhân vật bác xã Chính trong tác phẩm, ta biết được cuộc sống cực khổ lầm than của người dân quê miền Bắc, ngày đêm đầu tắt mặt tối nhưng rốt cục vẫn phải trắng tay vì thiên tai bảo lụt, các tệ đoan hủ tục của làng xã phong kiến. Thảm nhất là lúc lìa đời, con trâu mà cả gia đình bác đã đổi lấy bằng mồ hôi máu mắt kiếm được, cũng lăn chết vì bệnh dịch. Tóm lại toàn bộ tác phẩm ‘ con trâu ‘ của Trần Tiêu đã nói lên đời sống lầm than của nông dân miền Bắc trong suốt thời Pháp thuộc.

+ Trâu Trong truyện Vỏ Hiệp Của Kim Dung :
Các tác phẩm vỏ hiệp của Kim Dung đều được hư cấu với mục đích phản ảnh về thế giới của các kiếm khách. Tuy nhiên vì các câu chuyện đều lấy đất nước Trung Hoa làm bối cảnh nên tác giả cũng đã ghi lại một phần hình ảnh nông thôn trong đó có nhắc tới con trâu.
Trong ‘ Thần điêu hiệp lữ ‘ Kim Dung có viết đoạn Dương Quá cởi trâu bị đốt đuốc phía sau, phóng thục mạng vào vòng vây quân Mông Cổ để nhắc lại cuộc khởi nghĩa của người dân thành Tương Dương vào các năm 1281-1282. Trước đó Quách Tĩnh trong ‘ Anh hùng Xạ Điêu ‘ cũng đuợc thầy là Hồng Thất Công đặt cho biệt danh ‘ Trâu Nước (thủy ngưu) ‘ vì tính tình cục mịch, quê mùa chậm hiểu biết. Còn ‘ Lục mạch thần kiếm ‘ thì nói bọn quần tiên tại 36 động 72 đảo, trước khi tấn công lên cung Linh Thứu trên núi Phiêu Diêu, đã ‘ ăn như ngựa, uống như trâu (mã thực, ngưu ẩm).

Kim Dung cũng nhắc tới thứ trống được bịt bằng da trâu, được Lệnh Hồ Xung trong ‘ Tiếu Ngạo Giang Hồ ‘ sử dụng làm tín hiệu khi cùng với quần ma tấn công chùa Thiếu Lâm để cứu Nhậm Doanh Doanh. Lại còn có roi làm bằng đuôi trâu, chum uống rượu bằng sừng trâu vì nó có chất tanh tanh có thể chế ngự được độ nồng của rượu trắng. Sau cùng ai cũng nói dơ, ngu như trâu nhưng Kim Dung thì ngược lại vì hầu hết trong các tác phẩm của ông, những gì tốy đẹp hay ho đều dành cho trâu như các nhân vật Hồ Thanh Ngưu (ngoại hiệu của Diệp Cốc Y Tiên), Tăng A Ngưu (Trương Vô Kỵ) trong ‘ Đồ Long Ỷ Thiên Kiếm’.. đều ngoại hạng.

Kết Luận

Tóm lại người Việt nuôi trâu mục đích để lo việc đồng áng, kéo xe, tải gổ . Nó cũng là hình ảnh thân thương đặc biệt trong tâm thức mọi người, một con vật hiền lành có tình nghĩa nên xưa nay chưa thấy ai nói trâu phản bội con người. Trong kho tàng văn học dân gian VN, có 2 câu chuyện được đánh giá hay nhất là truyện ‘ Trâu Nhà Trâu Rừng và Trâu Cày Trâu Cột ‘ đã phản ảnh sự trung thành của trâu với người chủ, qua các lời đối thoại, đồng thời để nói lên cái nhân sinh quan muôn đời của dân tộc Việt : ‘ Sống sao cho đáng sống, sống phải có trước có sau, đừng bắt chước thói đời đốn mạt ăn chén đá bát, vong ơn bội nghĩa .. ’ ’

Bổng dưng nhớ lại thật nhiều những ngày xưa thân ái thời tuổi nhỏ nơi chốn học đường, ngày ngày cắp sách tới trường cùng bạn bè nghêu ngao ca hát bài ‘ Ai bảo chăn trâu là khổ , chăn trâu sướng lắm chứ ‘.Nhưng sự thật chỉ là tưởng tượng mà thôi vì sau tháng 5-1975, qua cuộc đổi đời khiến cho người khôn kẻ dại của Miền Nam hầu hết đều trở thành mục tử nơi chốn tù ngục, vùng kinh tế mới và những chốn dung thân bắt đắc dĩ ở nông thôn.. mới thấm thía về thân phận kéo xe, kéo cày của kiếp ‘ trâu bò ‘

‘..Đem sức người đi phá núi dời non

đem mạng sống để gỡ mìn tháo đạn

thay trời dẫn nước vào sông đã cạn

thay trâu kéo cày phá vở ruộng hoang.. ’ ’