Home Đời Sống Tài Liệu Trâu Qua Phong Tục và huyền thoại

Trâu Qua Phong Tục và huyền thoại PDF Print E-mail
Tác Giả: Mường Giang   
Thứ Bảy, 17 Tháng 1 Năm 2009 09:12

Trâu cũng như bò là những gia súc được thuần hóa sớm nhất, sống gần gũi với con người và rất hửu dụng tại các quốc gia nông nghiệp như VN. Ở đồng bằng, trâu giúp nông gia cày bừa, kéo xe, kéo mật, đạp lúa. Tại vùng ngược, trâu được sử dụng trong việc tải gổ, chuyển vận. Đối với chủ, trâu là con vật ngoan ngoản dể dạy lại ăn uớng giản dị sau một ngày làm lụng vất vã cực nhọc. Thit trâu tuy dai nhưng cũng bổ dượng như thịt bò. Bởi vậy tại VNCH trước tháng 4-1975, cục mậu dịch đã cho phép nhà thầu, cung cấp thịt trâu già làm thức ăn cho các tân binh tại hầu hết quân trường, trung tâm huấn luyện cả miền Nam hay đóng họp làm thức ăn trong khẩu phần lương khô cho các đơn vị tác chiến.  

Nước ta từ ngày các Tổ Hùng dựng nước tới nay vẫn là một quốc gia nông nghiệp chuyên trồng lúa nước. Vì vậy hình ảnh của con trâu luôn luôn gắn liền với đời sống của quê hương nơi làng quê thôn dã. Tóm lại trâu được nhân gian phản ảnh như một biểu hiện thân thương tốt đẹp, một hình ảnh tượng trưng cho sức sống và tạm hồn VN bao đời, nên trong tâm thức của mọi nhà, luôn coi trâu như là một người bạn đường một đời đồng chung gian khổ, hơn là một con vật được nuôi để làm việc trả nợ. Không có trâu, nhà nông sẽ vô cùng khổ sở vì họ phải thế nó để kéo cày:  

‘ Trời xám thấp, rặng tre già trút lá
Đầy ngõ thuôn hun hút gió chiều đông
Sương mù bay phơi phơí tỏa đầy đồng
Hơi lạnh cắn vào làn da cóng buốt
Trong thửa ruộng chân đê tràn ngập nươc
Đôi bóng người đang chậm bước đi đi
Người đàn ông cúi rạp bước lầm lì

Người vợ cố đẩy bừa theo sát gót

Họ là những nông dân nghèo bậc nhất

Không có trâu nên người phải làm trâu.. ’ ’ 

(Thơ TVĐ Người Trâu). 

Do đó trâu là một đề tài rất được phổ biến trong hầu hết ca dao tục ngữ, thi ca bình dân lẫn bác học, điển tích kể cả truyện ngắn truyện dài. Trong cuộc sống hằng ngày của người VN nhất là tại nông thôn, trâu được coi như là một gia tài lớn. Vì thế trâu chẳng những là ‘ đầu cơ nghiệp ‘ mà còn là một hảnh diện để chưng diện khoe khoang, nên ‘ tậu trâu lấy vợ làm nhà, trong ba việc ấy lọ là khó thay ‘ 

Còn gì đẹp hơn cái cảnh ‘ mục đồng ngồi trên mình trâu thổi sáo ‘ nơi dòng tranh dân gian Đông Hồ, hay hình ảnh của trâu được nhắc qua tiếng thơ của Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến.. nói lên cảnh sống êm đềm hạnh phúc nơi thôn dã, tuy rất bình dân mộc mạc nhưng lại là niềm mơ ước ngàn đời của dân tộc Việt.. tiếc thay tới nay vẫn chưa toại nguyện :  

Rũ nhau đi cấy đi cày
bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu
trên đồng cạn, dưới đồng sâu
chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa 

(ca dao)

 Quả thật trâu-bò đã đi vào tâm thức của người Việt bao đời, nên không có gì phải ngạc nhiên khi ta thấy trong hầu hết mọi tác phẩm về thi ca, nghệ thuật, điêu khắc.. kể cả những pho truyện kiếm hiệp Trung Hoa nổi tiếng của Kim Dung .. mỗi lần nhắc tới cảnh thôn quê, lủy tre xanh, bờ dậu cỏ, luống mạ non đồng lúa vàng, bác nông phu, chàng mục tử.. thì không thể nào không nói tới trâu bên cạnh vì nó là con vật luôn hiện diện bên người, qua nhiều lãnh vực với một chổ đứng trân trọng và đầy thiện cảm.  

HUYỀN THOẠI VÀ TẬP QUÁN LIÊN HỆ TỚI TRÂU : 

+ Nguồn gốc và phân loại Trâu :
Trâu VN có cùng xuất xứ với loài trâu Đông Nam Á thuộc nhóm trâu đầm lầy (Swamp Buffalo) có vóc dáng vạm vở, bụng to chân ngắn, lông màu xám đen, sừng dài nhưng cong ngược về phía sau như hình bán nguyệt. Đặc biệt có một miếng vá xám trắng gần góc trong của mỗi con mắt và luôn luôn có hai đai trắng (chevron), một ở dưới cổ gần cuống họng, còn cái kia ở ngực. Trâu cái mang thai từ 11-11,5 tháng mỗi lứa 1 tới 2 nghé. Từ các di chí tìm được tại Phú Lộc,Hậu Lộc tỉnh Thanh Hóa, cho thấy trâu đã được dân Lạc Việt thuần dưỡng từ thời các vua Hùng trị nước Văn Lang.  

Theo nhà động vật học K.Kenler (1920) thì trâu là con vật cổ xưa thuộc nhóm thú có sừng đầu tiên trở thành gia súc. Trâu thuộc bộ Bò (Bos) loài nhai lại có sừng rổng chân mang móng guốc chẳn. Tuy cùng họ với bò, linh dương, sơn dương, dê.. nhưng trâu có những sự khác biệt về cấu tạo sinh học với nhóm thú tương cận trên. Loài trâu hiện có 3 nhóm : trâu Anom, trâu Châu Á và trâu Châu Phi.

 + Trâu trong lãnh vực tín ngưỡng, huyền thoại và quân sự :
- Trong Lãnh Vực Tín Ngưỡng :  

Theo lòng tin của các tín đồ Phật Giáo đồ Ấn Độ, Tích Lan và các nước Đông Nam Á, thì ngay từ buổi khai sinh lập địa, Ngọc Hoàng Thượng Đế phái Kim Quang Bồ Tát đem hai loại hạt giống ‘ cỏ và lúa’ xuống trần gian tạo thức ăn cho người và súc vật với số lượng 5 lúa 1 cỏ. Nhưng Bồ Tát lại làm trái lời Thượng Đế, gieo 5 lần cỏ trước và lúa thì gieo sau chỉ một lần. Bởi vậy khắp trần gian cỏ mọc tràn lan làm cho con người thiếu thực phẩm để sống nên phải làmviệc cực nhọc khi đốn cỏ cây dọn sạch đất mới trồng lúa đuợc. Vua trời biết giận dữ nên đày Kim Quang xuống trần làm trâu để ăn hết cỏ. Từ huyền thoại trên, ta thấy loài trâu-bò ngoài việc phải làm việc rất cực nhọc ban ngày, đêm tới còn phải nhai cỏ bõm bẻm như muốn chuộc lại lầm lỗi đã gây ra. Đó cũng là lý do tín đồ Phật Giáo cử không ăn thịt trâu. Thật ra người VN dù theo bất cứ tôn giáo nào, cũng đều không thích giết trâu ăn thịt vì thương con vật có nghĩa tình lại giúp họ làm nên cơ nghiệp, ngoại trừ đồng bào Thượng sống trên cao nguyên Trung Phần.  

Đại Việt ngay từ thời Lý Trần (thế kỷ XI-XIV) lấy nông nghiệp làm nguồn kinh tế chính cả nước, do đó đã ban hành chính sách phân chia ruộng đất cho nông gia để khuyến khích việc đồng áng tăng gia sản xuất. Đồng thời chính quyền cũng rất quan tâm tới ‘ con trâu ‘ vì nó là động lực giúp nhà nông trong mọi nông vụ. Bởi vậy năm 1123 vua Lý Nhân Tôn đã xuống lệnh ‘ Cấm Giết Trâu Ăn Thịt ‘ ai vi phạm sẽ bị phạt nặng theo luật pháp.

Tiếp đến thời Nhà Trần cũng noi theo Luật Hình Thư (đời Lý) mà sửa đổi thành Hình Luật , trong đó qui định hình phạt về các tội ăn trộm và giết hại trâu bò. Hàng xóm hay bất cứ ai biết mà che chở không tố giác cũng bị xử đánh Trương rất nặng.  

Vào những ngày đầu xuân, nhà vua thân chính tới lễ đàn để tế Thần Nông và cũng tự mình cầm cương dắt trâu làm lễ cày ruộng tịch điền, tuy chỉ là một hình thức tượng trưng nhưng lại vô cùng ý nghĩa về sự quan tâm của chính quyền đối với nên nông nghiệp của nước nhà. Tịch điền là một thửa ruộng dành riêng để nhà vua cử hành nghi thức cày ruộng đầu năm. Riêng con trâu cày ruộng tịch điền, cũng được nuôi dưỡng đặc biệt và là loài trâu đực thiến. Ngày làm lễ, trâu được tắm rữa sạch sẽ, mặc gấm vóc. Vua sau khi tế thần xong, thì bước xuống ruộng cày một đường tượng trưng, mở đầu cho vụ mùa năm mới cầu cho cả nước được ‘ phong đăng, hòa cốc ‘ làng nước thanh bình, muôn dân an cư lạc nghiệp.  

Một giáo sĩ người Ý tên AdrianoDi Santa Tecla thuộc giòng Augustin truyền đạo Thiên Chúa tại Đàng Ngoài từ năm 1738-1765, kể chuyện ‘ Đám Rước Trâu Đất Trong Lễ Lập Xuân ‘ dưới thời Vua Lê Chúa Trịnh ‘ cách đây 300 năm. Tài liệu quý giá này là một bản viết tay, hiện được lưu trữ tại thư viện quốc gia Pháp (Bibliothèque Nationale) bằng tiếng Latin dưới tựa đề ‘ Opusculum de sectic apud Sinenseset Tunkinenses ‘, được tham khảo từ hai bức thư của vị linh mục Tây Ban Nha tên Francisco Gil de Frderich có tên Việt là Tế, đã ghi lại những phong tục tập quán ngày xưa ở Bắc Hà, khi ông bị giam trong ngục từ năm 1737-1745.  

Phan Huy Chú cũng ghi lại đám rước Trâu và Mục Đồng trong dịp lễ tế Lập Xuân hàng năm vào dịp Tết Nguyên Đán gần giống như tài liệu của các vị giáo sĩ Thiên Chúa Giáo từng truyền đạo tại Đàng Ngoài. Cũng liên quan tới Trâu trong lãnh vực tôn giáo và tín ngưỡng, ngoài việc các dân tộc Trung Á và đồng bào thiểu số ở cao nguyên Trung Phần tới nay vẫn giữ nguyên tục lệ giết trâu để tế thần linh hay tổ chức lễ lat. Nhà toán học Ấn Độ là Pythagore cách đây gần 25 thế kỷ, đã tìm được định lý mang tên ông để tính các cạnh trong một tam giác vuông ‘ bình phương cạnh huyền bằng tổng bình phương của hai cạnh góc vuông : a2 + b2 = c2. Đồng lúc nhà Chu bên Tàu cũng tìm được công thức số học tương đương với định lý hình học trên ‘ 3x3 + 4x4 = 5x5. Để ăn mừng phát minh trên, nhà Chu đã giết trâu theo công thức trên vào các dịp tế lễ nếu nhỏ thì 25 con còn lớn thì dùng tới 100 con cũng dưa theo công thức số học : 6x6 + 8x8 = 10x10.  

THẬP MỤC NGƯU ĐỒ : Tám trăm năm trước, một vị thiền sư người Nhật đã vẽ 10 bức tranh Trâu gọi là ‘ Thập Trận Ngưu Đồ ‘ dùng làm tài liệu Phật học để các đệ tử chiêm ngưỡng phá Công Án. Sau đó nhưng búc tranh trên được vẽ lại và truyền sang Trung Hoa, phổ biến trong các thiền viện qua cái tên mới là ‘ Thập Mục Ngưu Đồ ‘.Đây là mười bức tranh ‘ chăn trâu’ duợc giới Phật Học Tàu dùng để tượng trưng cho cái tâm của con người, rất khó điều ngự (tâm viên ý mật) ý nói tâm con người luôn nhảy nhót như con vượn, vì vậy cần phải tu dưỡng để đưa nó trở lại con đường chính đạo.  

Được biết các bộ tranh Chăn Trâu của Phật Giáo Đại Thừa và Thiền Tông Trung Hoa đều xuất hiện vào đời Nhà Tống (thế kỷ XII), nội dung nói chung chỉ khác biệt chút ít về quá trình đốn ngộ (giác ngộ tức thì) và tiệm ngộ (giác ngộ từ từ) . Yếu điểm cách tu trì của Thiền Tông là những công án được đề xướng như nhát búa cuối cùng đập vỡ những suy tưởng mà con người dựa vào đó để biện luận cho nhân sinh quan của cuộc đời. Đó là lý do tranh chăn trâu của Thiền Tông đã không dừng lại ở giai đoạn ‘ quên cả vật và ta’ mà lại quay về cái bản thể chân thật, để rồi rong chơi trong cõi thực tại này.

Các bộ tranh chăn trâu trên được du nhập vào VN từ lâu nhưng tới thời Lê Dụ Tông niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 15 (1719) mới xuất hiện một bộ tranh chăn trâu do thiền sư Quảng Trí ở chùa Trấn Hải sáng tạo, dựa theo 10 bức tranh chăn trâu của Phật Giáo Đại Thừa, ngoài ra ông còn vẽ thêm những cảnh giới để đạt tới tâm thức gọi là phép luyện tâm. Đây là một công trình quý báu của Phật Giáo VN, đã được khắc in vào thời Vua Tự Đức nhà Nguyễn. Tóm lại dù có xuất xứ từ Nhật Bổn, Trung Hoa hay VN, 10 bức tranh chăn trâu hay Thập Mục Ngưu Đồ trước sau vẫn là một công trình tu tập của Phật tử, đi từ giới tới định và huệ, từ thanh vân, duyên giác đền Bồ Tát, Phật và cuối cùng đạt tới đỉnh của hửu tâm trở thành vô tâm, tất cả là không và đó là cõi niết bàn.. như bài kệ của một thiền sư đời Lý đã đốn ngộ :  

‘ Có thì có tự mảy may,
Không thì cả thế gian này cũng không
Vừa xem bóng nguyệt lòng sông
Ai hay không có, có không là gì ? 

Đó mới chính là mục đích mà các vị chân tu khi sáng tạo ‘ Thập Mục Ngưu Đồ Tụng ‘ chỉ mong Phật tử tu tập để biến Trâu Đen (ô trọc) thành Trâu Trắng (Ngộ) thế thôi.

- Huyền Thoại về Mục Tử VN :  

Trong dòng Việt Sử từ buổi bình minh lập quốc tới ngày nay, đã có không biết bao nhiêu danh nhân xuất thân từ mục tử, làm nên sự nghiệp an dân giúp nước rất hiển hách, lưu danh thiên cổ, ai đọc tới cũng cúi đầu ngưỡng mộ.

ĐINH TIÊN HOÀNG ĐẾ : Tên thật Đinh Bộ Lĩnh người Động Hoa Lư, thuộc huyện Gia Viễn tỉnh Ninh Bình (Bắc Phần). Lúc bé cha mất sớm nên ông sống với mẹ ở nông thôn, ngày ngày cùng lũ trẻ chăn trâu, thường bắt chúng khoanh tay làm kiệu rước mình . Lại lấy hoa lau làm cờ lệnh, chia phe dàn trận đánh nhau ngoài đồng. Lớn lên ông theo Trần Minh Công dẹp yên loạn sứ quân trong nước, nên được xưng tụng là Vạn Thắng Quân. Năm 968 lên ngôi hoàng đế , lập nhà Đinh xưng hiệu Đinh Tiên Hoàng đóng đô tại Hoa Lư (Ninh Bình).  

QUỐC TRIỀU TÁ MỆNH CÔNG NGUYỄN CHÍCH : Tá Mệnh Công tên thật là Nguyễn Chích, người Mã Trạch Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa (Trung Phần) . Mồ côi cha mẹ rất sớm lại phải nuôi nấng hai em còn thơ dại nên phải bán mình làm kẻ chăn trâu trong làng. Từ thuở nhỏ, ông đã có biệt tài nuôi và dạy chim bồ câu đưa tin trong chiến trận. Lớn lên theo Bình Định Dương Lê Lợi suốt 10 năm kháng chiến đánh đuổi giặc Minh, lập được nhiều chiến công hiển hách nên được vua ban quốc tính và phong tới chức Tá Mệnh Công . Ông mất ngày 26/11/1449 được an táng tại quê nhà.  

LƯỞNG QUỐC TRẠNG NGUYÊN NGUYÊN TRỰC : Ông là con cháu công thần đời Trần nhưng vì loạn lạc nên gia đình lui về sống ẩn dật tại quê nhà ở Phủ Quốc Oai tỉnh Sơn Tây. Thuở nhỏ phải chăn trâu giúp cha mẹ nhưng bản tính thông minh hiếu học nên ông thường dùi mài kinh sử trên lưng trâu. Năm 26 tuổi thi đổ trạng nguyên dưới triều vua Lê Thái Tông (1442) . Năm 1445 ông đi sứ sang Tàu, gặp lúc nước này đang mở khoa thi nên xin ứng thí và đổ trạng nguyên, mới được gọi là ‘ lưởng quốc trạng nguyên ‘.  

NHÀ QUÂN SỰ LỪNG DANH ĐÀO DUY TỪ : Ông người Thanh Hóa, vì thuộc gia đình ‘ xướng ca’ nên không được phép dự thi, vì vậy phải bỏ vào Nam Hà để lập thân. Là người thông suốt kinh sử, giỏi thuật số và sáng tạo nhưng sống nơi xứ lạ không có người tiến dẫn phải xin vào chăn trâu cho một phú ông ở xã Tùng Châu, phủ Hoài Nhơn tỉnh Bình Định. Tại đây ông được phú ông mến tài nên gã con gái và tiến cử với Sải Vương Nguyễn Phúc Nguyên. Từ đó ông được chúa trọng vọng giao hết binh quyền nên một lòng giúp Nam Hà ổn định chính trị, kinh tế, quân sự, đắp luy Trường Dục (Quảng Bình) ngăn giặc Trịnh phương Bắc, đồng thời mở đầu cho cuộc nam tiến, nhờ vậy bờ cỏi nước ta mới được rộng lớn như hiện nay.

 + Trâu Trong Phong Tục Tập Quán :
Trước đây ở mỗi phủ huyện miền xuôi thường có chợ trâu là nơi họp mặt để mua bán trâu. Một số chợ nổi tiếng như chợ Gồi (Nam Định), chợ Thủy Nguyên, Thủy Tú, Thủy Tề (Hải Phòng), chợ Thanh Hà (Hải Dương) . Tại đây nghề lái trâu ra đời đúng như thành ngữ ‘ miệng lưỡi lái trâu ‘ mà đa so giới này là những kẻ lừa đảo , khiến cho thiên hạ tin theo phải tán gia bại sản, khi nghe theo lời đường mật nên mua lầm, vì con trâu là đầu sự nghiệp.  

Người Thái Trắng ở vùng lòng chảo Mường Lò (Tây Bắc) mừng Tết Xíp Xí vào tháng 7 Âm lịch, có liên quan tới vụ mùa. Dịp này người ta tổ chức cho Trâu ăn Tết. Hôm đó trâu được tắm rữa sach sẽ, dắt tới buộc ở chân cầu thang nhà sàn, chủ nhà sau khi nói đôi lời cám ơn trâu, rồi mang xôi thịt cả rượu đãi trâu. Hôm đó cũng là ngày Tết Mục Đồng, bọn trẻ chăn trâu được tự do dắt trâu và mang thit xôi tìm tới một nơi ưa thích để nô đùa, ăn uống, ca hát.  

Tét trâu cũng là một phong tục cổ truyền ở các vùng nông thôn VN. Tại Hoằng Hoá, Nga Sơn (Thanh Hóa), Vĩnh Linh (Quảng Trị), vài ngày trước Tết , người ta tìm thứ cỏ thật ngon và mớ rơm khô để thưởng trâu ăn tết. Trâu được tắm rữa sạch sẽ, chuồng cũng quét dọn kỹ càng. Sáng mùng một Tết, mỗi con trâu đều được dán trước trán một lá bùa đỏ để trừ tà, xua đuổi vận rũi trong năm cũ cũng như chúc cho trâu năm mới sức khoẻ dồi dào, ăn no cày mạnh. Sau khi cúng thần chuồng, trâu cũng được ăn cổ với các món bánh chưng, thịt cá, xôi chè.. Đồng thời chủ cũng chọn ngày tốt dắt trâu thưởng xuân và cày thử để lấy hên.  

Với người Chàm ở Ninh-Bình Thuận, con trâu là loài vật có liên hệ tới các lễ nghi phong tục đồng thời cũng là lễ vật dâng cúng thần linh, ông bà, cha mẹ.. Theo phong tục tập quán từ xưa truyền lại, cứ 7 năm một lần, vào tháng 7 lịch Chàm, dân làng cúng thần linh tại núi đá trắng (Giang Patao) thuộc làng Như Bình, Phước Thái, Ninh Phước (Ninh Thuận) một con trâu trắng. Riêng lễ đâm trâu vẫn còn tồn tại với người Chàm theo đạo Bà La môn và BàNi vào dịp có tang lễ.  

Người Việt gốc Miên ở Nam Phần từ xưa đã có tục rước trâu bò nhân ngày Tết đến. Theo tập quán cũ, cứ vào đầu năm mới, nông dân nặn tượng trâu bò và lực điền bằng đất sét. Những tượng đất này được đặt vào kiệu để du hành trong cuộc rước lễ, do vị chức sắc đứng đầu trong sóc gọi là A-Cha chủ xướng. Đoàn kiệu có giàn nhạc tháp tùng, khởi hành từ làng ra ruộng và đặt tất cả những tượng đất ở đó với ngụ ý là các tượng sẽ gánh hết bệnh tật và sự xui sẽo trong năm cho dân làng. Cuối cùng là xẽ thịt trâu bò để mừng năm mới.  

Về tục chọi trâu, trước khi xãy ra cuộc kháng chiến chống Pháp của toàn dân Việt (1946-1954) nhiều làng xã ở Bắc Phần đã có và được cử hành vào dịp Tết. Nổi tiếng nhất vẫn ở Đồ Sơn (Kiến An) và vùng Vĩnh-Phúc Yên. Tại đây Hội Chọi Trâu khai diễn 2 lần vào ngày 28 tháng Chạp và 17 tháng Giêng Âm lịch với 8 cặp trâu tham ự. Càng về sau do tình trạng chiến tranh, loạn lạc và đoí kém nên chỉ còn 4 cặp trâu hay it hơn tuỳ thuộc tình hình kinh tế.  

Theo truyền thống thì trước ngày khai hội một năm, làng xã chọn các chàng trai nuôi trâu qua bốc thăm. Người trúng tuyển được nhận 50 đồng bạc Đông Dương để tự mua trâu về nuôi. Thời gian chăm sóc trâu cũng vô cùng vất vã cực nhọc, từ ăn uống tới chuồng trại và canh chừng không cho trâu đực sút chuồng nhảy cái. Riêng người nuôi trâu cũng bị cấm cử gắt gao từ việc ăn uống (cấm thịt chó, hành tỏi sống) và sự gần gũi đàn bà. Rồi ngày Hội Chọi Trâu cũng tới, thu hút dân chúng trong vùng và các tỉnh lân cận tham dự rất đông vui. Với những con trâu đực sung sức bị nhốt lâu ngày, nay được thả ra tha hồ chém húc chí mạng, giữa tiếng hoan hô cổ võ của con người. Thật là sung sướng vô cùng cho những chàng trai có trâu thắng cuộc nhưng cũng vô cùng bất hạnh cho ai có trâu làm biếng không chịu đấu. Chàng trai đó ngoài việc phải trả lại 50 đồng cho làng xã, mà còn bị mang tiếng là không chịu giữ trai giới nên bị thần thánh quở phạt.
Trên cao nguyên Trung Phần, từ trước tới nay người Thương chỉ đốt rừng làm rẩy trồng lúa khô, nên trâu bò nuôi phần lớn chỉ dùng vào việc cúng tế lễ lạc vào các dịp Tết và lễ mừng mùa gặt mới. Trong ngày Hội Đâm Trâu, một cây nêu cao từ 5-6m đuợc trồng, phía trên thiết một bàn thờ nhỏ để cúng thần núi và ông bà bản địa. Quanh thân cột được chạm trổ tinh vi cắm nhiều lưởi dao. Con trâu tế thần bị cột ở đó.

Sau khi pháp sư hành lễ xong, một chàng trai lực lưởng ra sân chém trâu. Mọi người trong thôn bảng đều có mặt hôm đó và vây kín sân lễ, giữa tiếng chiêng trống nổi lên phá tan sự im vắng hằng ngày của núi rừng, như để cổ võ tinh thần của người trong cuộc. Đầu tiên chàng ta chạy vòng theo con trâu, thừa dịp dùng dao bén chém vào bốn gót chân con vật. Trâu bị thương té quị giữa sân lễ, để rồi hứng chịu thêm nhiều mũi giáo nhọn đâm lũng tim tới chết. Sau cùng đám thanh niên khác a vào phanh thây trâu, đem nướng trên đống lửa đang bùng cháy dữ dội, miệng tu rượu cần và ca hát vui vẽ.  

Nam Dương là một quốc gia hải đảo sống về nông nghiệp trồng lúa nước. Tuy vấn đề chủng tộc rất phức tạp tại đây nhưng dù là người Batak, Minang Kabaus hay Toradjas.. đều tôn trọng trâu sau sự thờ cúng tổ tiên, vì chinh con vật tại đất nước này được xem như là một biểu tượng giúp họ đắc lực trong đời sống hàng ngày. Ngoài ra trâu còn được nhắc nhớ từ truyền thuyết của người Minang Kabaus ở tây bắc đảo Sumatra, đã nhờ một con trâu giỏi, phá đuợc dã tâm sáp nhập vùng này vào Mã Lai. Tên bộ tộc này đuợc đặt theo tên của con trâu đã chiến thắng từ đó (Minang ốKabaus) có nghĩa là trâu chiến thắng. Người địa phương đã lấy sừng trâu để trang trí các mái nhà. Còn người Batak thì có tục chọi trâu với ý nghĩa nhờ đức tính của trâu sẽ truyền sang những đôi trai gái vừa mới cưới.  

Trâu cũng được dự phần trong thực đơn của vua chúa Trung Hoa từ trước tới nay vẫn nổi tiếng ăn uống rất cầu kỳ tốn kém. Món ‘ Da Tây Ngưu (Trâu Tây Tạng)’ được xếp trong thập trân gồm : gan rồng, chả phụng, bao tử cọp, vi cá gáy, thịt cú, môi đuời ươi , bàn tay gấu, nem cóc và da tây ngưu.

Tây ngưu hay Tê ngưu (Seaigan) thuộc bộ bò, nhóm phụ tây ngưu rất giống trâu về vóc dáng nhưng đặc biệt chỉ có một sừng mọc trên sóng mũi, bén nhọn như mũi mác làm bằng thép cứng dài khoảng 0, 70m, là vũ khí lợi hại dùng để tấn công kẻ thù như voi, cọp, sư tử.. Nó rất hung dữ, đa tình, sống thành từng đàn tại vùng tây nam Trung Hoa, trong những khu rừng thưa sình lầy có khí hậu ẩm thấp. Trên cao nguyên Tây Tạng có nhiều loại tây ngưu như hắc tây ngưu da đen một sừng, bạch tây ngưu lông trắng hai sừng và sơn tây ngưu chỉ sống trên núi cao. Loài tây ngưu chân có ba móng như heo, đặc biệt là da rất dày trên một tât (10 cm) lại dai như gân, cứng như sắt thép nên không có thứ vũ khí nào kể cả đạn xuyên thủng được.  

Tây ngưu săn mồi vào ban đêm, ăn cây cỏ thực vật, uống nước bùn và ngủ li bì ban ngày. Sừng tây ngưu là thuốc quý chửa các loại bệnh ung nhọt nhưng chính da mới là một trong mười món thập trân cao lương mỹ vị của vua chúa và giới hào phú Tàu. Nhưng hạ con vật này là một công việc hiểm nguy đầy khó khăn không thua gì sự chế biến da tây ngưu thành món thập trân cho vua chúa. Da tươi trước hết đem cạo hết lông, lóc bỏ phần mỡ rồi đem phơi nắng ban ngày, tối sấy khô liên tục trong 200 ngày. Sau đó đem da tẩm rượu mai quéạ lộ loại thượng hạng trong một tháng, vớt ra phơi khô và cất kỹ trong một chiếc hộp làm bằng vàng hay bạc, để giữ mùi thơm. Lúc ăn đem da ngâm trong nước tro thảo mộc loại quý suốt 7 đêm ngày mới vớt ra, rữa sạch rồi đem chưng cách thủy cho chín. Cuối cùng thái thành từng lát mỏng, nấu với các vị thuốc bổ thêm vào các gia vị hảo hạng. Lúc này da tây ngưu trở thành giòn như thạch, có mùi thơm ngát tựa hoa hồng. Da tây ngưu chữa dứt được hôi nách và nhiều loại bệnh thời khí.