Home Đời Sống Tài Liệu Lịch sử Dân tộc nhạc học

Lịch sử Dân tộc nhạc học PDF Print E-mail
Tác Giả: Vietsciences- Gs. Trần Quang Hải   
Thứ Bảy, 23 Tháng 5 Năm 2009 23:15

Thưa các bạn,

vừa qua GS Trần Quang Hải có gửi đến nhiều bài khảo cứu quí giá về âm nhạc. Trong đó, có nhiều bài viết về âm Nhạc dân tộc. Vietsciences xin lần lượt đăng lại. Hy vọng đây sẽ là những tài liệu bổ ích cho các bạn muốn tìm hiểu, nghiên cứu, và học hỏi về ngành này. -- Trân trọng

Dân tộc nhạc học là gì?

Đối với người Tây Phương, bộ môn học này cũng chưa thu hút đông người như môn nhạc học (musicology) . Dân tộc nhạc học (Ethnomusicologie / Pháp, Ethnomusicology / Anh-Mỹ, Musikethnologie / Đức) có thể nói là một bộ môn nghiên cứu âm nhạc hoàn toàn mới lạ đối với Việt Nam. Bộ môn này khởi thủy từ thế kỷ thứ 19, tượng hình từ đầu thế kỷ thứ 20 và phát triển mạnh ở các quốc gia Tây phương từ sau thế chiến thứ hai (1939-1945).

Vì lý do nào đã thúc đẩy phong trào nghiên cứu âm nhạc truyền thống bác học và dân gian càng ngày càng mạnh như thế ? Tại sao các nhà dân tộc nhạc học (ethnomusicologist) , dân tộc học (anthropologist) , ngôn ngữ học (linguist), xã hội học (sociologist) "tranh giành" từng mảnh đất nghiên cứu, từng sắc tộc, từng loại nhạc, từng tiếng nói để ghi lại trên băng nhựa, trên phim ảnh, trên giấy trắng, trên khuôn nhạc, những bài hát cổ xưa do các cụ gần đất xa trời hát lại, những huyền thoại cổ tích bằng thổ ngữ sắp bị mất đi vì sắc tộc đó chỉ còn vài người sống sót trên thế gian. Sự hấp tấp vội vàng này có lý do của nó, nhứt là từ lúc các cường quốc Âu Mỹ bắt đầu thôn tính các quốc gia nhược tiểu của mấy châu khác làm thuộc địa. Sự hiện diện của người da trắng với phong tục và tôn giáo của họ đã làm đảo lộn tất cả đời sống tinh thần, bóp méo một số phong tục nghìn xưa của các xứ bị trị. Sự phát sinh kỹ nghệ đã làm biến mất một số lớn bài hát và nhạc dính liền với việc cày cấy, gặt lúa, đạp nước, dệt vải, trong khi máy móc hóa đời sống nông quê, và biến nơi này thành những tỉnh lỵ nhỏ. Sự thay đổi này có ảnh hưỏng lớn đối với sự sống còn của âm nhạc và phong tục cổ truyền của những quốc gia bị thống trị.

Vấn đề nghiên cứu dân tộc nhạc học đòi hỏi rất nhiều hiểu biết về dân tộc học (Ethnologie / Pháp, Cultural Anthropology / Anh Mỹ), ngôn ngữ học (linguistique / Pháp, linguistics / Anh), nhạc học (musicologie / Pháp, musicology / Anh), sinh ngữ (langues vivantes / Pháp, foreign languages / Anh), xã hội học (sociologie / Pháp, sociology / Anh), tâm lý học (psychologie / Pháp, psychology / Anh), khảo cổ học (archeologie / Pháp, archeology / Anh), âm thanh học (acoustique / Pháp, acoustics / Anh) và luôn cả tin học (informatique / Pháp, information science / Anh) và dĩ nhiên phải biết nhạc pháp hay nhạc lý (solfège / Pháp, solfeggio / Anh).

Đây chỉ là một bài sơ khảo về dân tộc nhạc học với mục đích giới thiệu bộ môn nghiên cứu mới mẻ này đến với các bạn, chứ không đi sâu vào chi tiết. Bài này gồm có ba phần: lịch trình quá khứ của dân tộc nhạc học sẽ đưa các bạn trở về quá khứ để tìm nguồn cội của ngành chuyên khoa âm nhạc cổ truyền này; định nghĩa dân tộc nhạc học theo nhiều quan điểm khác nhau để cho thấy sự thay đổi đường lối nghiên cứu theo từng giai đoạn diễn tiến, cũng như những trường phái Âu châu và Mỹ châu, và sau cùng là sự phát triển của dân tộc nhạc học hiện nay.

LỊCH TRÌNH QUÁ KHỨ CỦA DÂN TỘC NHẠC HỌC

1. Giai đoạn một (1779-1850)

Những tài liệu đầu tiên được dùng sau này cho việc nghiên cứu dân tộc nhạc học bao gồm các bài du ký, hồi ký, hay ức ký của nhà văn du lịch, nhà thám hiểm, hay các ông cố đạo thiên chúa giáo. Những tác phẩm đầu tiên về "nhạc ngoài Âu châu" (musique extra-européenne - extra-european music) phải kể đến quyển "Le Mémoire sur la musique chinoise" (Tiểu luận về nhạc Trung quốc) do ông cố đạo Joseph Marie Amiot viết vào năm 1779 và tiếp đó là quyển "La description historique, technique et littéraire des instruments de musique des Orientaux" (Miêu tả lịch sử, kỹ thuật và văn chương những nhạc khí Đông Phương) được viết vào năm 1813. Ông Guillaume Villoteau, dưới thời Nã phá Luân đệ nhất, đã đi khảo sát nền văn minh Ai cập để sau đó vào năm 1816, cho phát hành cuốn "Mémoire sur la musique de l'Antique Egypte" (Tiểu luận về âm nhạc Cổ Ai cập). Phải chờ đến năm 1832, ông Francois Joseph Fétis, nhà nhạc học đầu tiên đã đưa những điểm mới mẻ vào trong hệ thống ý tưởng đại cương về âm nhạc trong một quyển sách "Résumé philosophique de l'histoire de la musique" (Khái niệm triết lý về lịch sử âm nhạc). Quyển "Histoire gérérale de la musique" (Lịch sử âm nhạc toàn thư) chưa viết xong thì ông Fétis từ trần. Quyển này trình bày quan điểm cho rằng nhạc Tây phương bác học không phải là nhạc duy nhất trên quả địa cầu này mà còn có nhiều nền văn minh âm nhạc khác trên thế giới cũng đáng kể lắm.
 
2. Giai đoạn 2 (1859-1914)

               George Sand

Trong giai đoạn này, một số lớn sách vở ghi chép nhạc dân gian ở Âu châu đã được xuất bản khá nhiều. Phong trào lãng mạn bên Âu châu đã chứng tỏ sự lưu ý đến nhạc dân gian Âu châu qua một số bài vở của vài văn sĩ Pháp như Th. Hersart de la Villemarque ở Bretagne (miền Tây xứ Pháp), bà George Sand ở vùng Berry (miền Trung Tây xứ Pháp). Trong khi đó, Frédéric Chopin (Ba Lan) và Franz Liszt (Hung Gia Lợi), hai nhạc sĩ nổi tiếng thời đó, đã dùng nhạc cổ truyền của xứ họ làm nguồn hứng cho sáng tác của hai ông.
 
Ðộng cơ quan trọng nhứt trong việc bảo vệ nhạc cổ truyền là máy hát (phonographe - phonograph) lại được phát minh vào thời kỳ này. Năm 1869, ông Charles Cros, người Pháp, đã sáng chế máy "paléophone" cùng nguyên tắc với máy "phonographe à cylindre " (máy hát ghi âm bằng ống dĩa) do ông Thomas Edison, người Mỹ, thực hiện năm 1878. Từ năm 1877 tới 1892, ông Emile Berliner đã tưởng tượng và thực hiện hệ thống dĩa hát thay vì ống dĩa nhưng phải đợi tới sau thế chiến thứ nhứt (1914-18), dĩa hát 78 vòng mới được tung ra trên thị trường. Sự phát minh máy hát ống dĩa đã góp phần rất lớn trong việc tàng trữ nhạc dân tộc.

Năm 1890 nhà nghiên cứu nhạc dân tộc Mỹ, Walter Fewkes, đã sử dụng máy hát ống dĩa để ghi một số bài hát của dân da đỏ Zuni. Nhờ vậy phần ghi nốt nhạc các bài hát này có phần chính xác hơn nhiều nhờnghe nhạc thu trên ống dĩa (cylindre - cylinder) nhiều lần để có đủ thời giở kiểm chứng và sửa đổi phần ký âm.

Franz Liszt

Ở Âu châu, ông Bela Vikar, thuộc xứ Hung Gia Lợi, dùng máy hát để ghi lại các ca khúc vào năm 1894. Những ống dĩa được đem trưng bày ở Paris nhân dịp hội chợ triển lãm hoàn vũ năm 1900 (Exposition Universelle - World Fair). Ở Đức, nhà bác học Carl Stumpf (1848-1936) đề xướng trong quyển "Tonpsychologie" (Âm thanh tâm lý học), xuất bản năm 1883, một phương pháp mới để nghiên cứu âm giai : khảo sát âm giai bằn đơn vị âm trình "savart". Một "savart" bằng 1/25 của đơn vị bán cung. Hai năm sau đó, bên Anh quốc, nhà bác học Alexander John Ellis (1814-1890) đã làm chấn động thế giới nhạc học trong một bài nghiên cứu "On the Musical Scales of Various Nations" (Về các thang âm của các quốc gia khác nhau) in vào năm 1885. Ông Ellis đã đặt ra một đơn vị đo âm trình mới lấy tên là CENT (một CENT bằng 1/100 của một bán cung). Với cách đo này, ông Alexander Ellis đã chia âm giai bát độ 12 bán cung làm 1200 cents. Với phương pháp này, có thể ghi chính xác khoảng cách giữa các quãng của bất cứ âm giai nào thuộc bất cứ truyền thống âm nhạc nào trên thế gian này. Giới nghiên cứu nhạc dân tộc xem ông Ellis như là nhà tiền phong trong ngành dân tộc nhạc học.

Những đóng góp đáng kể khác như hai cuộc triển lãm hoàn vũ 1889 và 1900 ở Paris (Pháp), và việc thành lập âm thanh viện sơ khai (archives de musique primitive - archives of primitive music) trước hết ở Mỹ, rồi ở Wien (Áo quốc) và ở Berlin (Đức). Âm thanh viện Berlin (Phonogrammarchiv) được hai ông Carl Stumpf và Erich Von Hornbostel sáng lập vào đầu thế kỷ 20 tàng trữ tài liệu âm thanh vô giá. Người ta tưởng tài liệu chứa trong âm thanh viện Berlin bị thiêu hủy trong kỳ đại chiến thứ hai vừa quạ Nhưng sau khi xứ Đức được thống nhứt, các nhà nghiên cứu nhạc học Đông Đức cũ đã tuyên bố rằng những tài liệu âm thanh của Phonogrammarchiv được rải rác khắp nơi ở cựu Đông Đức. Hiện nay kho tàng âm thanh này đang được chính quyền Đức giao cho một nhà nghiên cứu Đức, TS Susan Ziegler phân loại và làm thành phiếu điện tử để có thể phổ biến sau khi mang về Berlin để tái lập viện âm thanh như xưa vì Berlin được chọn làm thủ đô của xứ Đức thống nhứt (tháng 10, 1991). Năm 2000, vào tháng 9, Berlin đã tổ chức hội nghị quốc tế về âm thanh viện và một tài liệu gồm 4 CD và hơn 200 trang được xuất bản để đánh dấu một trăm năm lịch sử âm thanh và nhạc cổ truyền tàng trữ tại Berlin. Điều vui mừng là trong số tài liệu trong bộ dĩa lịch sử lại có một tài liệu về nhạc Việt Nam. Đó là tài liệu thu vào năm 1985 tại Viện bảo tàng Berlin với tiếng đàn tranh độc tấu của nhạc sĩ Trần Quang Hải qua bài Lưu thủy, Bình bán, Kim Tiền.

Ở Pháp, bác sĩ Azoulay đã thu thanh một số dĩa ống nhạc của các quốc gia như Pháp (vùng Bretagne), Nhựt Bổn, Trung Quốc, Việt Nam, Sénégal (Phi Châu) và Caucase (Nga). Dĩa ống này được tàng trữ trước kia tại một nơi gọi là Musée Phonographique de la Société d'Anthropologie (viện bảo tàng âm thanh của hội nhân chủng học) và hiện nay được bảo lưu tại Département d'ethnomusicologie, Musée de l'Homme, Paris (viện dân tộc nhạc học, viện bảo tàng Con Người). Trong số tài liệu âm thanh này có một số dĩa ống về tiếng nói và nhạc điệu Việt Nam được thu thanh vào năm 1900. Chỉ hơi tiếc là tài liệu nghe rè quá, người hát lại không phải là nghệ sĩ chuyên nghiệp mà là những người nông dân quê mùa được gởi sang Pháp nhân kỳ triển lãm hoàn vũ nên nghệ thuật hát không diễn tả được những luyến láy tinh vi của các điệu ngâm cũng như cách hát dân ca Quan Họ.

Năm 1911, Musée de la Parole et du Geste (Viện bảo tàng tiếng nói và động tác) được thành lập ở Paris.
3. Giai đoạn 3 (1914-1945)

Đại chiến thứ nhứt làm gián đoạn sự thu thập nhạc dân gian. Ở Anh quốc, Henry Balfour thu nhặt một số nhạc khí cổ truyền hiện được tàng trữ tại viện bảo tàng Pitt Rivers ở tỉnh Oxford. Tại Gia nã đại, Marius Barbeau thu vào dĩa ống hàng nghìn bài dân ca mọi da đỏ, dân ca Pháp và Anh. Với tài liệu này, ông Marius Barbeau đã cùng nhà ngôn ngữ học Edward Sapir đồ ng viết quyển "Folksongs of French Canada" (Dân ca Gia nã đại vùng nói tiếng Pháp).

Cùng lúc đó, tại Pháp, M. và R. d'Harcourt xuất bản quyển "La musique des Incas et ses survivants" (Nhạc dân ca Anh-ca và sự tàn dư của âm nhạc sắc tộc này). Hai ông Lavignac và Lionel de La Laurencie đã tổng hợp những bài nghiên cứu nhạc ngoài Âu châu (musiques extra-européennes - extra european musics) trong quyển bách khoa tự điển âm nhạc (Encyclopédie de la musique et Dictionnaire du Conservatoire - 1912-1924).

Ở Hòa Lan, nhà dân tộc nhạc học trứ danh, cha đẻ của danh tử ETHNOMUSICOLOGY, Jaap Kunst, sưu tầm nhạc xứ Nam Dương từ nhiều năm qua. Trong khi đó, tại Anh quốc, ông Henry G. Farmer khởi sự công trình nghiên cứu nhạc Ả rạp. Tại Hung Gia Lợi, nhà soạn nhạc trứ danh Bela Bartok đã ký âm rất nhiều bản dân ca không những của Hung Gia Lợi mà còn luôn cả các xứ Lỗ Ma Ni, Thỗ Nhĩ Kỳ, và Algeria.

Giữa 1920 và1930, các ông George Herzog, Charles Seeger, và Marius Schneider đã ký âm trong một số dân ca phối hợp phương pháp nhân chủng học và nhạc học được Milton Metfessel phát hành năm 1928. Curt Sachs đã viết một số sách quan trọng có ảnh hưởng sâu đậm đối với lịch sử nhạc học. Năm 1928 ở Mỹ nhiều viện nhạc học mọc lên như nấm.

Ở xứ Lỗ Ma Ni (Roumanie - Rumania), nhà bác học trứ danh Constantin Brailoiu (1893-1958) bắt đầu nghiên cứu thu thập nhạc dân gian và thành lập Archives du Folklore (Sở lưu trữ văn học dân gian) vào năm 1928 tại Bucarest. Cùng một năm, ở Paris, tiếp đón sự chào đời của Département d'organologie musicale (viện nghiên cứu nhạc khí dân tộc) ở Musée d'ethnographie du Trocadéro (Musée de l'Homme bây giờ) được đổi tên lại là Département d' Ethnologie musicale vào năm 1937 khi ông André Schaeffner (1895-1980), tác giả quyển "Les Origines des Instruments de Musique" (Nguồn gốc các nhạc khí) xuất bản năm 1936 và là người đã khai sáng phương pháp xếp loại nhạc khí rất đặc biệt và lổ'c, đến nhậm chức. Tên sau cùng được đổi lại và được giữ luôn cho tới bây giờ là Département d' Ethomusicologie (viện dân tộc nhạc học) từ năm 1965 trở đi.

Năm 1931, hội chợ triển lãm thuộc địa (Exposition Coloniale / Colonial Fair) ở Paris đã được Musée de la Parole et du Geste ghi âm trên một số dĩa 78 vòng về nhạc cổ truyền của các quốc gia thuộc địa của Pháp thời đó. Trong số dĩa hát tôi códịp nghe những điệu cải lương, dân ca ba miền của Việt Nam tại Musée de l'Homme (nơi tôi làm việc từ năm 1968). Ngoài ra Musée Guimet ở Paris cũng có một số dĩa hát quan trọng về nhạc Á châu và trong số đó có nhạc Việt Nam.

Từ năm 1931 tới 1933, dưới sự điều khiển của nhà dân tộc nhạc học tài ba của Pháp, André Schaeffner, trong một chuyến đi nghiên cứu ngữ học và nhạc học bên Phi châu đã mang về Pháp một tài liệu âm thanh rất phong phú và quí giá về nhạc Phi Châu.

Năm 1933, nhà bác học Đức Erich Von Hornbostel đã xuất bản bộ dĩa "Musik des Orients" (Nhạc Đông Phương) gồm hơn 10 dĩa hát 78 vòng về nhạc Á châu nói chung (sau này có tái bản bằng dĩa 33 vòng). Năm 1933, hội nghị về nhạc ả rạp ở Le Caire (thủ đô xứ Ai cập - Egypte/Egypt) đã được ghi trên dĩa hát 78 vòng với gần 200 dĩa. Tài liệu này hiện được tàng trữ tại Musée Guimet và tại Phonothèque Nationale (National Sound Library - Âm thanh viện quốc gia) ở Paris. Musée de l' Homme có một bản sao tài liệu nhạc ả rạp này trên băng nhựa. Một phần tài liệu này đã được Phonothèque Nationale xuất bản bằng dĩa laser (compact disc) vào năm 1988 tại Pháp.

Trong thời gian này, bên Nhựt Bổn, giáo sư Tanabe Hisiao đã nghiên cứu nhạc cổ truyền Nhựt Bổn. Bên Ấn độ cũng có một số nhạc học gia như Arnold Bake bắt đầu thâu trên dĩa các bài dân ca và nhạc cổ điển xứ Ấn độ. Năm 1939, chuyến đi nghiên cứu nhạc dân tộc vùng Basse Bretagne (Pháp) mang về một số tài liệu quan trọng đầu tiên về dân ca Pháp cho âm thanh viện ở Musée de l' Homme. Tài liệu này được chuyển giao lại cho Musée National des Arts et Traditions Populaires ở Paris (Viện bảo tàng quốc gia nghệ thuật và truyền thống dân gian ).

Ở Việt Nam, khoảng từ 1925 tới 1938, có hãng dĩa Pathé và Beka của Pháp đã thâu nhiều dĩa hát 78 vòng các điệu hát tài tử miền Nam do các nghệ sĩ của gánh hát của Thầy Năm Tú ở Mỹ tho và một số dĩa thâu Ca Huế miền Trung.

Giai đoạn này biểu tượng sự hình thành của môn dân tộc nhạc học trên thế giới. Những âm thanh viện, những chuyến đi nghiên cứu dân tộc học, dân tộc nhạc học đã đặt nền tảng vững chắc cho giai đoạn sau thế chiến thứ hai.

4. Giai đoạn 4 (1945 trở đi)

Vừa khi chấm dứt chiến tranh, sự tái thiết tình hữu nghị quốc tế, sự tiếp tục nghiên cứu khoa học, sự trao đổi nghiên cứu qua các hội nghị, các buổi tham luận quốc tế đã thúc đẩy một cách mãnh liệt sự phát triển nhanh chóng trong việc thu thập tài liệu âm nhạc của các quốc gia chậm tiến.

Giai đoạn quan trọng bắt đầu từ năm 1950 bằng sự phát triển việc khảo cứu tại chỗ qua sự tìm tòi nhạc cổ truyền thế giới của các nghiên cứu gia Tây phương, sự có mặt của những nhà nghiên cứu thuộc đệ tam thế giới, sự hình thành của nhiều viện nghiên cứu dân tộc nhạc học tại Âu Mỹ, và sự chào đời của hai tập san nghiên cứu nhạc dân tộc : "Journal of the International Folk Music Council (IFMC) năm 1949 tại Gia nã đại (từ năm 1981 đời về New York đổi thành "Yearbook of the International Council for Traditional Music - ICTM, và từ năm 2001, lại dời về trường đại học UCLA ở Los Angeles, California, Mỹ), và "Ethnomusicology" năm 1955 tại Mỹ. Nhiều sách về lý thuyết, phương pháp dân tộc nhạc học bắt đầu được xuất bản.

Từ năm 1970 trở đi, ảnh hưởng lớn mạnh của phương pháp các khoa nhân chủng học (anthropologie - anthropology) , ngôn ngữ học (linguistique - linguistics) , và tín hiệu học (sémiologie - semiotics), càng ngày càng thấy rõ đối với ngành dân tộc nhạc học. Phương pháp nghiên cứu được chia ra làm hai nhóm :

1. Nghiên cứu từ bên trong truyền thống (étude interne - internal study hay cultural insider) có nghĩ a là người đi nghiên cứu âm nhạc phải sống ở nơi phát sinh ra loại nhạc đó ít nhứt là một năm để có một cái nhìn toàn diện về sinh hoạt âm nhạc, biết hát hay biết đàn và nói được tiếng nói của dân tộc mình nghiên cứu.

2. Nghiên cứu từ bên ngoài truyền thống (étude externe - external study hay cultural outsider) nghĩa là nghiên cứu không cần phải biết nói tiếng của dân tộc mình nghiên cứu, không cần phải biết đàn hay hát và không cần phải lưu trú dài hạn. Những người này chỉ cần biết phương pháp nghiên cứu tận tường, biết ký âm, phân tích và làm việc nghiên cứu lý thuyết nhiều hơn và có tính cách đối chiếu.

Khoảng năm 1950 mở màn một kỷ nguyên mới trong lĩnh vực nghiên cứu: sự phát triển máy thu thanh (magnétophone / tape recorder). Với máy thu thanh ngày càng nhẹ về trọng lượng, kỹ xảo về máy móc, hoàn hảo về âm thanh, với dĩa hát 33 vòng có thể nghe nửa giờ một mặt dĩa, rồi tới dĩa laser (disque compact / compact disc) có thể nghe trên một giờ đồng hồ, dĩa laser videodisque (laser videodisc) vừa xem hình, vừa nghe tiếng, và gần đây nhứt là CD Rom vừa có thể xem hình, nghe nhạc và đọc chữ. Một dĩa CD ROM thay thế cho cả một cuốn sách, nhiểu CD và nhiều phim videọ Những máy thu thanh như DAT, hay Minidisc thâu âm thanh bằng số (enregistrement numérique hay digital / numeric hay digital recording), thay đổi hoàn toàn phương pháp đi nghiên cứu điền dã (recherche sur le terrain / field research). Máy quay phim từ phim 8mm câm, tới super 8, rồi phim 16 ly với số phút quay phim giới hạn vài phút cho tới các máy quay video (caméscope / camcorder) là loại máy thu hình video đủ loại (Umatic, Betamax, VHS, Super VHS, 8mm, Hi-8 Pro, DVD,vv...) với hình thật rõ theo hệ thống haute définition 400 đường và lên tới 700 đường (700 lignes - 700 lines), nhẹ cân, và âm thanh số (son numérique - numeric sound / enregistrement digital - digital recording), dân tộc nhạc học đã đi một bước rất dài.

Chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi 50 năm (1951-2001), kết quả và số lượng sản xuất về sách vở, báo chí, dĩa hát băng nhựa, phim ảnh đã vượt xa cả trăm lần tổng số lượng sản xuất của gần 200 năm trước (1779-1950). Bao nhiêu đó đủ cho thấy sự tiến bộ khoa học và kỹ thuật đã giúp đỡ rất nhiều trong công cuộc bảo vệ vốn cổ.

Giai đoạn thứ tư này có thể tóm tắt bằng bốn điểm quan trọng:

1. Dĩa hát nhạc cổ truyền được phổ biến rộng rãi, và từ năm 1983 trở đi đã có trên 15.000 dĩa laser về nhạc cổ truyền đã được phát hành trên thế giới. Ddó là nhờ sự nổ lực của một số nhà sản xuất dĩa như Folkways Records (đã nhập vào Smithsonian Institute, Washington DC từ khi ông Moses Asch, sáng lập viên của Folkways từ trần vào giữa thập niên 80, Library of Congress, Lyrichord, Nonesuch bên Mỹ, Musée de l'Homme, Ocora, Le Chant du Monde, Playasound, Arion, Auvidis, Maison des Cultures du Monde, Buda bên Pháp, Philips bên Hòa Lan, Barenreiter Musicaphon, Museum Collection Berlin bên Đức, Topic, Argo, Leader, Tangent Records bên Anh, Victor, Columbia, Toshiba, JVC bên Nhựt, Albatros bên Ý, Melodia bên Nga, vv....

2. Thiết lập phương pháp mới trong cách làm việc khi đi nghiên cứu tại chỗ.

3. Những nguyên tắc làm việc trong phòng thí nghiệm, vì tài liệu thu vào băng nhựa sẽ được các nhà nghiên cứu ở các trung tâm nghiên cứu nghe và phân tách trong các căn phòng được trang bị đầy đủ máy móc tối tân hiện đại

4. Kỹ xảo hóa các bộ máy đo âm thanh, chẳng hạn như các máy hiện giờ được dùng tại Pháp như Sonagraph (máy cho ta hình ảnh của bất cứ âm thanh nào, vừa có màu sắc cho thấy rõ chỗ nào hát mạnh nhẹ ra sao ), Oscilloscope (máy ghi tất cả cao độ các nốt nhạc một cách tinh vi vã sẽ giúp ta biết thêm các quãng bất thường), melograph (máy ghi bằng các lằn về cao độ các làn điệu), stroboconn (máy đo chính xác cao độ các âm thanh mà lỗ tai con người đôi khi không nghe nỗi) spectograph (máy cho ta thấy bồi âm mà giọng hát có thể tạo ra được), và luôn cả máy vi tinh (micro-ordinateur PC computer), loại Macintosh và IBM mới nhứt hiện nay có thể giải quyết nhiều vấn đề về chép nhạc, chuyển thể, chuyển hệ, chuyển cung với các bộ ghi chép nhạc như ENCORE, NOTEWRITER, PROFESSIONAL COMPOSER, vv... Gần đây nhứt, có một vài chương trình đo âm thanh như Frequency analyzer, GRAM cho IBM, hay Soundscope cho Macintosh giúp cho các nhà nghiên cứu có thể tự phân tách các làn điệu, kỹ thuật giọng, tiết tấu một cách dễ dàng và ít lệ thuộc vào các máy đo khổng lồ tại các phòng thí nghiệm.

Sự tiến bộ vượt bực này đã đóng góp một phần rất lớn trong việc phân tách làn điệu và tiết tấu, giúp cho những nhà nghiên cứu nhạc học giải quyết nhanh chóng những khúc chiết trong nhạc ngữ cổ truyền dân tộc mà cách đây gần một thế kỷ phải mất nhiều thì giờ để ký âm, vận dụng trí nhớ và nhiều khi còn viết sai làn điệu khi ký âm.

ĐỊNH NGHĨA DÂN TỘC NHẠC HỌC

Những ai học về dân tộc nhạc học đều biết từ vựng này được dùng hiện nay ETHNOMUSICOLOGY (dân tộc nhạc học) là do nhà nhạc học Hòa Lan Jaap Kunst (từ trần năm 1958) đề nghị

Năm 1950, Jaap Kunst, trong một bài về nhạc học, có đề nghị danh từ "ethno-musicology" (với dấu gạch nối ngang) để thay thế danh từ "comparative musicology" (đối chiếu nhạc học). Ông định nghĩa dân tộc nhạc học như sau : "nghiên cứu nhạc của các giống dân loài người ngoại trừnhạc cổ điển Tây phương và dân nhạc Âu châu " (study of the music of the races of man, except Western classical music and European folk music). Đến năm 1958, Jaap Kunst mới thêm vào định nghĩa trên phần nghiên cứu về khía cạnh xã hội trong âm nhạc.
Khoảng đầu thế kỷ thứ 20, các nhà nhạc học dùng chữ "musicologie comparée / Comparative Musicology" (đối chiếu nhạc học) do chữ Đức là "Vergleichende Musikwissenschaft" mà ra. Sau đó, một số từ vựng khác được thấy xuất hiện đầu tiên trên các bài nghiên cứu nhạc học. Tôi chỉ lựa hai sinh ngữ tiêu biểu nhứt cho môn nghiên cứu này là Pháp và Anh ngữ để giản tiện hóa trong phần trình bày. Chẳng hạn như :

    * "musique populaire" (Pháp) / dân nhạc
    * "musique folklorique" (Pháp)/ "folk music" (Anh) / dân nhạc
    * "musique exotique" (Pháp) / exotic music" (Anh )/ nhạc nước ngoài
    * "folklore musical" (Pháp )/ dân nhạc
    * "ethnographie musicale" (Pháp) / dân tộc nhạc ký âm học
    * "musique ethnique (Pháp/ ethnic music" (Anh) / nhạc sắc tộc
    * " musique non-européenne (Pháp) / non european music" (Anh)/ nhạc không Âu châu
    * "musique extra-européenne (Pháp) / extra european music" (Anh) / nhạc ngoại Âu châu
    * "ethnologie musicale"(Pháp )/ dân tộc nhạc học
    * "musique primitive (Pháp)/ primitive music" (Anh)/ nhạc sơ khai

Danh từ đối chiếu nhạc học sống tới năm 1950 rồi được thay thế bằng một danh từ khác "ethno-musicology" (với gạch ngang). Sau đó chữ "ethnomusicology" được ghép chung lại thành một chữ từ năm 1957. Trong tương lai, trên đà phát triển có thể đi tới chỗ tách rời chữ này ra làm hai và có thể sẽ trở thành "ethnomusic-ology" không chừng ?

Dân tộc nhạc học, theo nghĩa rộng tối đa, gồm tất cả biểu lộ âm thanh có tổ chức (manifestation sonore organisée / organized sound manifestation) . Trong thực tế, vì sự cắt xén cần thiết của khoa học làm thành nhiều bộ môn khác nhau, nhạc cổ điển Tây phương được đưa sang lĩnh vực nhạc cổ điển (musicologie classique / classical musicology). Tại sao chỉ "biểu lộ âm thanh" (manifestion sonore / sound manifestation) mà không là "âm nhạc" (musique / music) ? Khi nói tới "nhạc bác học" (musique savante / learned music) tức là có sự hiện hữu của "nhạc không bác học" (musique non savante / non learned music). Thế nào là nhạc bác học và thế nào là nhạc không bác học ? Dựa trên quan điểm và cơ sở nào để chỉ định như thế ?

Nhạc bác học, theo định nghĩa chung, là loại nhạc có một truyền thống, một lý thuyết, một cách viết nhạc với tên nốt nhạc, một lịch sử. Tất cả loại nhạc nào không hội đủ những điều kiện trên sẽ thuộc vào loại nhạc không bác học và được gọi bằng nhiều từ vựng khác nhau : "musique populaire / folk music" (nhạc bình dân), "musique ethnique/ethnic music" (nhạc sắc tộc), "musique folklorique / folk music" (nhạc dân gian), "musique traditionnelle / traditional music" (nhạc truyền thống).

Theo định nghĩa nhạc bình dân (musique populaire / folk music) rõ ràng là loại nhạc phát xuất từ dân chúng. Nhưng nhạc bình dân cũng có thể chỉ định một loại nhạc nổi tiếng trong quần chúng. Thí dụ những ca khúc của Ngô Thụy Miên hay của Phạm Duy là nhạc bình dân có nghĩa là nhạc được dân chúng ưa chuộng (les chansons de Ngô Thụy Miên ou celles de Phạm Duy sont "populaires" trong nghĩa popsongs / pop music). Nghiên cứu các ca khúc tân nhạc có tác giả không thuộc phạm vi của dân tộc nhạc học. Nhạc sắc tộc (musique ethnique / ethnic music) là cách gọi có tính cách giới hạn. Chữ sắc tộc bị một số nhà nghiên cứu tranh cãi và không được nhất trí chấ p nhận. Nhạc dân gian (musique folklorique / folk music) chỉ định những loại nhạc được nghe trong dân gian. Danh từ "folklore" (khoa học dân gian ) và tĩnh từ "folklorique" đã được giới nghiên cứu nhạc dân gian ở Đông Âu (Hung gia lợi, Lỗ Ma Ni) dùng luôn cho tới ngày nay. Danh từ có thay đổi ý nghĩa sau thế chiến thứ hai. Nghĩa thứ nhứt là để chỉ định phong trào "musique folk / folk music" tức là loại nhạc dân gian do thế hệ trẻ ở thành thị học nhạc dân gian và hát lại với nhạc khí và hòa âm mới để phù hợp với tính cách trẻ trung của thế hệ mình đang sống. Nghĩa thứ hai là nhạc do những nhóm địa phương (groupes locaux / local groups) hay quốc gia (ensembles nationaux / national ensembles) muốn bảo lưu truyền thống ca vũ nhạc bằng cách tham gia những đại nhạc hội quốc tế qua những màn múa dân tộc hay ca nhạc dân gian. Vì lý do thiếu tính cách thuần túy và hay thích làm màu mè có vẻ "tài tử" hơn là chuyên nghiệp, cho nên trong tiếng Pháp, khi nói "c'est du folklore" để ám chỉ một chuyện không quan trọng, không thuần túy, hơi có ý khinh miệt.

Hiện nay danh từ "musique traditionnelle / traditional music" (nhạc truyền thống) được quảng bá rộng rãi hơn. Ở Pháp, năm 1987, bộ văn hóa Pháp có tạo một bằng cấp trình độ cao học để tuyển chọn giáo sư dạy nhạc truyền thống trong các trường quốc gia âm nhạc (professeur de musique traditionnelle aux Conservatoires nationaux de musique / Professor of traditional music at National Conservatories of Music). Ngay cả một cơ quan nghiên cứu nhạc dân gian quốc tế (IFMC - International Folk Music Council - Hội Đồng quốc tế nhạc dân gian) đã quyết định kể từ năm 1981 được đổi thành tên mới là ICTM - International Council for Traditional Music - Hội đồng quốc tế nhạc truyền thống. Năm 1988, ở Geneva bên Thụy Sĩ, Laurent Aubert chủ trương một tập san nghiên cứu nhạc dân tộc bằng tiếng Pháp mang tên là "Cahiers de Musiques Traditionnelles" (Tập san nhạc truyền thống).

Gần đây hơn, có một số người sử dụng các từ vựng khác như "sociomusicologie / sociomusicology" (xã hội nhạc học) để chỉ định môn nghiên cứu âm nhạc đi liền với sự biến chuyển của xã hội, nói một cách khác là có thể xuyên qua nhạc ngữ của một thời đại nào đó, có thể đoán được một phần nào xã hội lúc đó ra sao : hòa bình, chiến tranh, hung bạo, thiền tịnh vv.... Có người dùng từ vựng "anthropomusicologie / anthropoloy of music" (nhân chủng nhạc học) để nghiên cứu nhạc thời cổ xưa của mỗi dân tộc, mỗi sắc tộc. Một danh từ khác là "archéomusicologie/ archeomusicology" (khảo cổ nhạc học) để nghiên cứu nhạc thời cổ xưa qua các nhạc khí tìm thấy trong các cuộc thám hiểm, khai quật những di tích lịch sử như trường hợp tìm thấy đàn đá, trống đồng ở Việt Nam thuộc lĩnh vực của môn nghiên cứu này. Đến môn "psychomusicologie / psychomusicology" (tâm lý nhạc học), "musicothérapie / music therapy" (âm nhạc điều trị học), "sémiologie de la musique / semioloy of music" (tín hiệu nhạc học - nghiên cứu dấ u và ký hiệu trong âm nhạc), các nhà nghiên cứu càng ngày càng đi sâu vào chi tiết và tách rời nhiều lĩnh vực nghiên cứu ra khỏi dân tộc nhạc học để đi đến chỗ chuyên môn hóa.

Chỉ có danh từ "ethnomusicologie / ethnomusicology "(dân tộc nhạc học) là được đa số các nhà dân tộc nhạc học thích dùng nhứt và đã được chánh thức hóa qua các quyển tự điển có tiếng trên thế giới như New Grove Dictionary of Music and Musicians (Anh), New Harvard Dictionary of Music (Mỹ), Garland Dictionary of Music (Mỹ), Dictionnaire de la musique/Larousse (Pháp), vv..

Tóm lại, dù dưới hình thức nào đi nữa, từ vựng "ethnomusicologie" (dân tộc nhạc học) có một định nghĩa ra sao ?

Bà Claudie Marcel-Dubois (từ trần vào tháng 2, 1989 tại Pháp ), người tiền phong của bộ môn dân tộc nhạc học ở Pháp, cho rằng " dân tộc nhạc học là bộ môn nghiên cứu theo truyền thống truyền khẩu tất cả những hiện tượng âm thanh liên quan đến đời sống xã hội và văn hóa và kỹ thuật của các nhóm sắc tộc khác nhau (étude selon la tradition orale des phénomènes sonores en relation avec la vie sociale, culturelle et technique de diverses ethnies).|

Theo GS Mantle Hood, cựu giám đốc viện dân tộc nhạc học ở UCLA, University of Maryland (Mỹ), định nghĩa môn dân tộc nhạc học là "bộ môn nghiên cứu bất cứ loại nhạc nào có liên hệ tới môi trường văn hóa" (the study of any music in relation to its cultural context).

Theo GS Trần Văn Khê, giáo sư dân tộc nhạc học tại trường đại học Sorbonne (Paris, Pháp) từ 1960 tới 1987 và hiện về hưu nhưng vẫn tích cực hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu qua nhiều chuyến viễn du khắp năm châu, "một bộ môn nghiên cứu vô tư và khoa học những âm thanh thuộc truyền thống truyền khẩu của các sắc tộc trên thế giới qua nhiều điểm khác nhau về lịch sử, dân tộc học, xã hội học và nhạc học".

GS Gilbert Rouget, chuyên gia vềnhạc Phi châu và tác giả cuốn sách giá trị "Musique et Transe" (Âm nhạc và Lên đồng), cho rằng "dân tộc nhạc học là nhạc học của những nền văn minh được cấu tạo bằng lình vực truyền thống của dân tộc học" (ethnomusicologie est musicologie des civilisations dont l'étude constitue le domaine traditionnel de l'ethnologie)

Nhà nhạc học Hòa Lan Jaap Kunst, cha đẻ của từ vựng "ethnomusicology" đề nghị rằng dân tộc nhạc học là "bộ môn nghiên cứu nhạc cổ truyền và nhạc khí của tất cả mọi tầng lớp văn hóa của nhân loại " (the traditional music and musical instruments of all cultural strata of mankind, from the so-called primitive peoples to the civilized nations).

GS Bruno Nettl, một nhà nghiên cứu nhạc học đã viết rất nhiều sách vềlý thuyết dân tộc nhạc học, đã đưa ra một định nghĩa như sau : " nghiên cứu nhạc của các xã hội mù chữ, nhạc bác học Á châu và Bắc Phi, nhạc truyền khẩu của các vùng bị văn hóa bác học chế ngự và nhạc bình dân các xứ Âu Mỹ) (la musique des sociétés illettrées, les musiques de Haute Culture de l'Asie et de l'Afrique du Nord, la musique folklorique de tradition orale des régions qui sont dominées par les hautes cultures et la musique de tradition populaire des pays occidentaux) .

Bà Monique Brandily (Pháp) chuyên môn về nhạc Phi Châu, đặc biệt xứ Tchad (Phi Châu), nhận định rằng dân tộc nhạc học là "nhạc học các xã hội thuộc thẩm quyền dân tộc học" (la musicologie des sociétés qui relèvent de l'ethnologie) .
Trong khi đó, nhà dân tộc nhạc học Pháp, Bernard Lortat-Jacob, nêu ra hai nhận định về vai trò của "nhạc học gia của sắc tộc" (musicologues de l'ethnique) và phân tách nhạc ngữ qua ký âm và vai trò của "dân tộc học gia của âm nhạc " (ethnologues du musical) là nghiên cứu truyền thống âm nhạc tại chỗ, đời sống âm nhạc dính liền với phong tục tập quán của sắc tộc được nghiên cứu.

Ngoài ra còn có Alan P. Merriam (từ trần trong một tai nạn phi cơ), Miewyslaw Kolinski, Willard Rhodes (từ trần 1992), David P. McAllester, George List, Ludwik Bielawski, Charles Seeger (từ trần năm 1979), Elisabeth Helser bên Mỹ, Jean Jacques Nattiez bên Gia nã đại, Kishibe Shigeo bên Nhựt bổn, Kwabena J.H. Nketia bên Ghana (Phi châu) cũng có đề cập tới định nghĩa danh từ "dân tộc nhạc học".

Năm1989, trong quyển "Âm nhạc Việt Nam" do tôi biên soạn, nơi trang 298, tôi có định nghĩa dân tộc nhạc học như sau: "dân tộc nhạc học là một bộ môn nghiên cứu tất cả những loại nhạc được nghe trong một quốc gia trong hiện tại (nhạc địa phương cũng như nhạc ngoại quốc, cổ nhạc cũng như tân nhạc) đồng thời nghiên cứu gia tài âm nhạc của lịch sử văn hóa âm nhạc từthời lập quốc đến trước giai đoạn hiện tại, và lịch trình tiến triển của lịch sử văn hóa âm nhạc trên thế giới từ thời thượng cổ tới ngày nay". Nhưng bốn năm sau (1993) tôi có thay đổi chút ít về định nghĩa môn dân tộc nhạc học. Trước hết tôi thấy cần phải định nghĩa hai chữ "nhạc học" và "dân tộc học".

Đối với người Việt Nam, và đối với ngành giảng dạy âm nhạc ở Việt Nam, theo thiển ý của tôi, môn nhạc học (musicologie/ musicology) là bộ môn nghiên cứu có tính cách đối chiếu lịch sử âm nhạc Việt Nam qua các thể loại (nhạc triều đình, tôn giáo, nhạc thính phòng, nhạc tuồng, dân nhạc, tân nhạc, vv..), nhạc khí, nhạc ngữ, điệu thức, tiết tấu, cũng như lịch sử nhạc bác học Á châu ngang hàng với lịch sử nhạc cổ điển Tây phương.

Còn dân tộc nhạc học là "bộ môn nghiên cứu các thanh nhạc (son/sound), hay tiếng động (bruit/noise) có cấu trúc âm điệu hay tiết tấu của các xã hội không có chữ viết (sociétés sans écriture / societies without writing) hay theo truyền thống truyền miệng (tradition orale / oral tradition), và cũng là bộ môn nghiên cứu đối chiếu tất cả truyền thống âm nhạc thế giới (étude comparée des traditions de musiques du monde / comparative study of world musics' traditions) từ thời lập quốc đến giai đoạn hiện tại ".

Mặc dù có sự bất đồng về định nghĩa chính xác, việc hiển nhiên là hầu hết các nhà dân tộc nhạc học đều nghiên cứu nhạc ngoài thế giới nhạc cổ điển Tây Phương, chú trọng nhiều về dân nhạc thế giới, vai trò âm nhạc trong một văn hóa nào đó, tiếp xúc trực tiếp với âm nhạc xứ mình nghiên cứu bằng cách sống tại chỗ trong một thời gian ngắn hay dài tùy theo chủ đích nghiên cứu, và áp dụng những khái niệm từ nhân chủng học và ngôn ngữ học phát triển ra. Tài liệu nhạc được thu tại chỗ được đem ra phân tích, đối chiếu vì đa số nhà nghiên cứu đều không phát xuất từ văn hóa âm nhạc đó ra. Nói tóm lại, lĩnh vực nghiên cứu dân tộc nhạc học cho chúng ta thấy một viễn tượng khá đồng nhứt.

Dân tộc nhạc học có hai chiều hướng khác biệt: một là đi về mặt nghiên cứu để đưa đến lý thuyết qua những bài viết và công cụ hòa lý thuyết trong ngành dạy học; hai là trình diễn cho thật đúng truyền thống, bổ túc bằng những kỹ thuật mới và phát triển thêm với óc sáng tạo. Trong khung cảnh lý thuyết, người nghiên cứu nhạc dân tộc phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu có liên hệ đến những khuôn mẫu (modèles - models), hệ biến hóa (paradigmes - paradigms), khoa học sắc tộc (ethnosciences - ethnosciences) , quá trình nhận thức (processus cognitif - cognitive process), tín hiệu học (sémiotiques - semiotics), tín hiệu nhạc học (sémiomusicologie - semiomusicology) .

SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DÂN TỘC NHẠC HỌC

Đà tiến triển của dân tộc nhạc học không cho phép nhà học giả chỉ nghiên cứu nhạc qua sách vở như xưa nữa, mà giờđây nhà nhạc học gia phải đi nghiên cứu tại chỗ, làm quen với các loại máy thu thanh (từ máy lớn chuyên nghiệp như NAGRA, STELLAVOX đến các loại máy thu thanh (từ loại máy cassette như SONY, UHER đến các máy Walkman Professional, hay cận đại nhứt như loại máy thu thanh cassette DAT chỉ thu bằng số. DAT có nghĩa là"digital audio tape" một loại máy thu thanh tốt và tối tân trong thập niên 90 do hãng SONY, và CASIO của Nhựt chế rạ Gần đây có máy thu thanh Minidisc của hãng SONY loại thu bằng số như DAT. Người đi nghiên cứu còn phải biết chụp hình, quay phim loại 16ly, hay sử dụng các loại máy quay phim video 8mm hay Hi 8 hay Super VHS, hay loại máy video Digital Handycam của Sony với thu hình bằng số. Ngoài ra phải biết rõ tường tận loại nhạc mình nghiên cứu để tránh tách cách quá chủ quan khi phân tách, đồng thời phải hiểu sơ qua các loại nhạc của mấy xứ láng giềng để có thể đối chiếu, phải biết dân tộc học, ngữ học, xã hội học, âm nhạc học, sử địa, tâm lý học. Rồi lại còn phải thông thạo Anh ngữ, Pháp ngữ, và Đức ngữ để có thể đọc sách báo chuyên môn hầu theo dõi những công trình nghiên cứu trên thế giới. Và cần hơn nữa là phải hiểu thổ ngữ của vùng mình nghiên cứu.

Với bộ môn đa diện như vậy, việc nghiên cứu bây giờ không phải đơn thương độc mã mà phải nghiên cứu tập thể. Ở Pháp đã có nhiều ban nghiên cứu tập thể như "Recherches coopératives sur programme" (tác hợp nghiên cứu theo chương trình), hoặc như "équipe de recherche" (đội nghiên cứu) hay "unité propre de recherche" (đơn vị nghiên cứu), hay như "laboratoire associé, propre" (ban nghiên cứu có tầm vóc rộng lớn). Tất cả nhóm, ban, đội, đơn vị nghiên cứu này đều do trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học (Centre National de la Recherche Scientifique / National Center for Scientific Research) của Pháp cho ngân quỹ nhứt định mỗi năm để được hoàn toàn thoải mái mà nghiên cứu. Ở Mỹ, các giáo sư nghiên cứu trong khung cảnh của viện đại học. Mỗi giáo sư phải dạy hai năm thì được 6 tháng rảnh rang để nghiên cứu chuyện mình thích. Ddó là tình trạng chung của các quốc gia khác như Gia nã đại, Đức, Anh, Hòa Lan, Ý đại lợi, Úc châu, Nhật Bổn, Nam Phi, Ba Tây, vv....

Tính đến năm 2001, đã có tới 5000 tiểu luận án vàluận án tiến sĩ về dân tộc nhạc học do gần 200 trường đại học trên thế giới cấp phát (xem quyển "Ethnomusicology and folk music. An International Bibliography of Dissertations and Theses" (Dân tộc nhạc học và dân nhạc : sách tổng hợp quốc tế về tiểu luận án và tiến sĩ ) do Frank J. Gillis và Alan P. Merriam thâu thập do Society for Ethnomusicology (Mỹ) xuất bản, 160 trang, năm 1966 và tất cả các số báo "ETHNOMUSICOLOGY" phát hành ba số một năm từ năm 1957 trở đi, xuất bản tại Mỹ. Jaap Kunst đã có kê khai một số lý lịch một số lớn trường đại học có dạy môn dân tộc ở Âu Mỹ nhưng chỉ tới năm 1959 mà thôi.

Ở Pháp bà Claudie Marcel Dubois (mất hồi tháng 2, 1989) bắt đầu dạy môn dân tộc nhạc học ở Paris từ năm 1959. Hầu hết các nhà nghiên cứu dân tộc nhạc học ở Pháp hiện nay đa số đều có theo học lớp dân tộc nhạc học của Bà. Sau đó, trường đại học Sorbonne, Paris IV có mở lớp dạy dân tộc nhạc học Đông Phương do giáo sư Trần Văn Khê phụ trách (về hưu từ tháng 10, 1987). Sau đó giáo sư Manfred Kelkel thay thế. Và từ năm 1998 giáo sư Francois Picard điều khiển môn dạy dân tộc nhạc tại trường đại học Sorbonne. Trường đại học Paris VIII-Saint Denis, trường đại học Paris X - Nanterre, trường Cao đẳng khoa học xã hội (Ecole des Hautes Etudes en Sciences Sociales/ School of High Studies for Social Sciences) cũng có dạy môn dân tộc nhạc học. Một số tỉnh ở Pháp như Strasbourg, Poitiers, Montpellier, Toulouse, Rennes, Lille, Lyon, ngành dân tộc nhạc học cũng được bành tr ướng mạnh mẽ.

Ở Mỹ, phải nói làcó nhiều trường đại học dạy về môn dân tộc nhạc học. Có thể kể như UCLA (University of California, Los Angeles) do giáo sư Nazir Ali Jairazbhoy điều khiển cho tới giữa thập niên 90. Hiện nay giáo sư Anthony Seeger phụ trách môn này. Ngoài ra có một số trường đại học nổi tiếng về môn dân tộc nhạc học như University of Hawaii ở Honolulu, University of Maryland, Berkerly University, UCSD (University of California, San Diego), University of Washington, (tiểu bang Washington), Columbia University, New York, University of Bloomington, University of Michigan, Indiana University, Southern Illinois University, vv...

Ở Gia nã Ðại, có trường đại học Université de Montreal ở Montreal, rồi ở Quebec, Toronto, Vancouver đều có dạy môn dân tộc nhạc học. Ở Úc châu, ngành dân tộc nhạc học được dạy ở University of Sydney, Melbourne College of Advanced Education, Monash University. Ở Nhật Bổn có trường Tokyo National University, và ở một số trường ở Osaka, Hiroshima. Ở Đại Hàn có trường Seoul National Universitỵ

Không những ở Âu Mỹ mà ở các nước Á châu, Phi Châu, Châu mỹ la tinh cũng có viện nghiên cứu âm nhạc. Ở Nhật Bổn có giáo sư Kishibe Shigeo (về hưu), Koizumi Fumio (từ trần), Tokumaru Yoshihiko, Tsuge Gennichi, Yamaguti Osamụ Ở Đại Hàn có giáo sư Lee Hye Ku (về hưu), Hahn Man Yung,Lee Byong Kyu, Song Bang Song. Ở Đài Loan có giáo sư Chuang Pen Li (về hưu), Liang Tsai Ping (từ trần), Hsu Tsang Houei (từ trần năm 2000), Wu Rung Shun, Gao Ya Li. Ở Hong Kong có Yip Ming Mei. Ở Ấn độ có giáo sư P. Sambamoorthy, Nazi Jairasbhoy, Anand Coomaseswami. Ở Phi Luật Tân có giáo sư Jose Maceda (về hưu). Ở Trung quốc ngành dân tộc nhạc được phát triển nhanh chóng từ năm 1980 và hiện nay có trên 50 nhà nghiên cứu nhạc Trung quốc và nhạc sắc tộc.

Ở Việt Nam, trong xứ có Giáo sư Nguyễn Hữu Ba (từ trần), Lê Thương (từ trần), Lưu Hữu Phước (từ trần năm 1989), Phạm Phúc Minh, Hùng Lân (từ trần năm 1987), Đắc Nhẫn, Lê Huy, Huy Trân, Tú Ngọc, Đỗ Minh, Vũ Nhật Thăng, Tô Ngọc Thanh, Kiều Tấn, Tô Vũ, vv... Còn ở ngoài xứ Việt Nam, tại Pháp có giáo sư Trần Văn Khê, Trần Quang Hảị Tại Mỹ có Nguyễn Thuyết Phong. Tại Úc có Lê Tuấn Hùng, Hoàng Ngọc Tuấn.

Bên Phi châu có giáo sư Kwabena Nketia (xứ Ghana), bà Deirdre Hansen, GS Dave Dargie, Andrew Tracey ở Nam Phi. Ở Ba Tây có giáo sư L. Azevedo (từ trần), Flavio Silva, Carlos Sandroni.

Ngày nay, đa số các sinh viên học môn nghiên cứu dân tộc nhạc học đều là nhạc sĩ, và biết sử dụng ít nhất là một cây đàn, biết đọc nhạc, ký âm, vv... và biết sử dụng máy vi tinh (micro ordinateur / computer) để xếp loại phiếu nhạc khí, hay bài ca, thể ca, và để đánh máy quyển luận án của mình.

Hiện tượng thu thập tài liệu, chia sẻ đất nghiên cứu bên Âu châu chỉ là kết quả của một sự lo ngại không thể tránh trước viễn ảnh đau lòng của nền văn minh sơ khai. Công nghiệp đã, đang và sắp bị nền văn minh khoa học kỹ nghệ Âu Mỹ quét sạch. Các nghiên cứu gia muốn ghi lại bằng hình ảnh sống động, bằng âm thanh, tiếng nói trên băng nhựa, dĩa hát để sau này có thể nghiên cứu, đối chiếu thiết thực, cụ thể hơn. Việc của họ làm có ích lợi một phần, nhưng nếu các cường quốc đừng có thi đua thôn tính thuộc địa, tìm cách thọc gậy bánh xe cho xứ láng giềng đánh nhau để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh tế và kỹ nghệ của họ, thì có lẽ các truyền thống cổ sơ khó bị mai một quá nhanh chóng như ngày hôm nay. Rất nhiều bài dân ca dính liền với nông nghiệp đã không còn nghe hát nữa vỉ đã bị kỹ nghệ hóa hết. Đại đa số các nước chậm tiến lại có tính tự ti mặc cảm thích hướng ngoại, cho cái gì từ phương trời Tây là nhứt. Thành ra ngày nay, nhạc cổ truyền của Á châu và Phi Châu đang sa vào cơn hấp hối. Thanh niên nam nữ chỉ ưa nghe nhạc Jazz hay nhạc cổ điển Âu châu, và nhất là loại nhạc pop, disco của Madonna, Prince, Michael Jackson, The Cure, vv... trình diễn. Ðứng trước thảm trạng đó, việc học môn dân tộc nhạc học rất cần được khuyến khích và việc khích lệ giới trẻ tìm hiểu nhạc cổ truyền cũng đáng được quan tâm.

Ở Việt Nam còn biết bao nhiêu loại nhạc chưa được khai thác và chưa được nghiên cứu tận tường. Có bao nhiêu người hiểu được múa rối nước, hát bài chòi, hay thể thức lề lối của một buổi hát quan họ, trống quân, chứ đừng nói tới các loại hát phường vải, hát giặm Nghệ Tĩnh, hát xoan Phú thọ,vv... Ai làngười biết về nhạc đồng bào Tây nguyên, nhạc các thiểu tộc ở miền Bắc ? Hiện nay đã có một số nhà nghiên cứu trẻ như Phạm Đức Lộc (nhạc Mường), Hinh Phước Long (nhạc Chàm), Lê Thị Kim Quý (nhạc Ê-đê), và những nhả nghiên cứu sắc tộ như Kpa Ylang (nhạc Ba-na), Romah del (nhạc Jarai),vv...

Hàng triệu người Việt hiện nay sống ở hải ngoại, nhưng có bao nhiêu người tìm tòi để hiểu về nhạc Việt ? Ngày hôm nay, tại Hà nội đã có Viện Âm nhạc tàng trữ tài liệu thu thanh nhạc dân tộc Việt Nam, có một phòng triển lãm nhạc khí dân tộc, có một ban nghiên cứu điễn dã với trên 20 người đi thu thập nhiều loại nhạc Kinh và sắc tộc. Nhưng việc nghiên cứu chỉ là bước đầu của việc đi tới sự thành lập môn dân tộc nhạc học trong một tương lai gần đây. Ngày nào có nhiều người Việt nghĩ tới và ưa thích nhạc cổ truyền của Việt Nam, và ngày nào có người chịu khó đi nghe các buổi hòa nhạc cổ truyền của Việt Nam, và ngày nào có người chịu khó mua các dĩa hát nhạc Việt cổ truyền, tìm kiếm sách, báo để đọc, và khuyến khích con cháu của mình trở về nguồn, bằng cách giáo dục chúng qua ngôn ngữ, âm nhạc, văn hóa thì lúc đó tôi mới có hy vọng về sự sống mạnh của truyền thống âm nhạc Việt Nam.

Sách tham khảo (BIBLIOGRAPHY)

BLUM, Stephen
1975 :  Towards a Social History of Musicological Technique ? (Về lịch sử xã hội của kỹ thuật nhạc học), ETHNOMUSICOLOGY 19 (2) : 207-231, Ann Arbor, Hoa Kỳ.
BLUM, Stephen & BOHLMAN, Philip V. & NEUMAN, D.M. (xb)
1991 : ETHNOMUSICOLOGY AND MODERN MUSIC HISTORY (Dân tộc nhạc học và lịch sử nhạc mới), Urbana, Illinois, Hoa Kỳ.

BOILES, Charles & NATTIEZ, Jean Jacques :
1977 : xem J.J.Nattiez

BOHLMAN, Philip V. & al
1992 :  Ethnomusicology' s Challenge to the Canon : the Canon's Challenge to Ethnomusicology ? (Sự thách đố của Dân tộc nhạc học đối vơi Luật lệ : sự thách thức của luật lệ đối với dân tộc nhạc nhạc học?, DISCIPLING MUSIC : MUSICOLOGY AND ITS CANONS : trang 116-136, K.Bergeron & P.V. Bohlman (xb), Chicago, Hoa Kỳ.
2001 :  Ethnomusicology  (Dân tộc nhạc học), NEW GROVE DICTIONARY vol.8 : 367-403, ấn bản thứ nhì, London, Anh Quốc.

BRAILOIU, Constantin :
1958 :  Ethnomusicologiẹ Etude interne  (Dân tộc nhạc học. Nghiên cứu bên trong), PRECIS DE MUSICOLOGIE : 41-52, Paris, Pha?p.

BROWN, Donald N.
1971 :  Ethnomusicology and the rehistoric Southwest ? (Dân tộc nhạc học và miền Tây tiền sử), ETHNOMUSICOLOGY 15 (3) : 363-378, Ann Arbor, Hoa Kỳ.

FELD, Steve :
1974 :  Linguistic Models in Ethnomusicology  (Kiểu mẫu ngôn ngữ học trong Dân tộc nhạc học), ETHNOMUSICOLOGY 18 (2) :197-217, Ann Arbor, Hoa Kỳ.
1976 :  Ethnomusicology and Visual Communication  (Dân tộc nhạc học và Truyền thống thị giác), ETHNOMUSICOLOGY 20 (2) : 293-325, Ann Arbor, Hoa Kỳ.

GOURLAY, K.Ạ :
1978 :  Towards a Reassessment of the Ethnomusicologist? s Role in Research  (Định lại vai trò của nhà dân tộc nhạc học trong lĩnh vực nghiên cứu), ETHNOMUSICOLOGY 22 (1) : 1-35, Ann Arbor, Hoa Kỳ.
1982 :  Towards a Humanizing Ethnomusicology  (Về một dân tộc nhạc học văn minh hơn), ETHNOMUSICOLOGY 26 (3) : 411-420, Ann Arbor, Hoa Kỳ.

HOOD, Mantle :
1957 : Training and Research Method in Ethnomusicology ? (Huấn luyện và phương pháp nghiên cứu trong dân tộc nhạc học), ETHNOMUSICOLOGY Newsletter 11 : 2-8, Ann Arbor, Hoa Kỳ.
1971 : THE ETHNOMUSICOLOGIST (Nhà Dân Tộc Nhạc Học), McGraw Hill ( nhà xuất bản), New York, Hoa Kỳ.

KOLINSKI, Miecsyslaw :
1967 :  Recent Trends in Ethnomusicology  (Những khuynh hướng gần đây trong dân tộc nhạc học), ETHNOMUSICOLOGY 11 (1) : 1-24, Ann Arbor, Hoa Kỳ.

KUNST, Jaap :
1959 : ETHNOMUSICOLY : A Study of Its Nature, Its Problems, Methods and Representative Personalities (Dân tộc nhạc học : nghiên cứu về bản chất, vấn đề, phương pháp và những nhân vật tiêu biểu), tái bản lần thứ ba, 303 trang, La Haye, Hòa Lan.

LIST, George :
1979 :  Ethnomusicology : A Discipline Redefined (Dân tộc nhạc học : một bộ môn cần được định nghĩa ), ETHNOMUSICOLOGY 23 (1) : 1-4, Ann Arbor, Hoa Kỳ.

MARCEL-DUBOIS, Claudie :
1984 : Histoire de l?ethnomusicologie  (Lịch sử dân tộc nhạc học), PRECIS DE MUSICOLOGIE, chương 2 : 52-62, Presses Universitaires de France (xb), Paris, Pha?p.

MERRIAM, Alan P.
1969 :  Ethnomusicology revisited  (Khảo sát lại môn dân tộc nhạc học, ETHNOMUSICOLOGY 13 (2) : 213-229, Ann Arbor, Hoa Kỳ.
1977 :  Definitions of Comparative Musicology and Ethnomusicology : An Historical and Theoretical Perspective ? (Định nghĩa về nhạc học đối chiếu và dân tộc nhạc học : quan điểm quá trình lịch sử và lý thuyết), ETHNOMUSICOLOGY 21 (2) : 189 - 204, Ann Arbor, Hoa Kỳ.

MEYERS, Helen & al.
2001 :  Ethnomusicology  (Dân tộc nhạc học), NEW GROVE DICTIONARY vol.8 : 367-403, ấn bản thứ nhì, London, Anh Quốc.

NATTIEZ, Jean Jacques & BOILES, Charles :
1977 :  Petite Histoire critique de l'ethnomusicologie (tiểu sử phẩm bình của dân tộc nhạc học), MUSIQUE EN JEU, 28 :26-53, Editions du Seuil (xb), Paris, Pháp.

NETTL, Bruno :
1956 : MUSIC IN PRIMITIVE CULTURE (Âm nhạc trong văn háa nguyên thủy), Harvard University Press (xb), 182 trang, Hoa Kỳ.
1964 : THEORY AND METHOD IN ETHNOMUSICOLOGY (Lý thuyết và Phương pháp trong dân tộc nhạc học), Free Press of Glencoe (xb), 306 trang, New York, Hoa Kỳ.

NKETIA, J.H. Kwabena :
1967 :  Musicology and African Music : A Review of Problems and Areas of Research  (Nhạc học và nhạc châu Phi : kiếm lại vấn đề và những vùng nghiên cứu) THE WIDER WORLD : 12-35, Oxford, Anh Quốc.

PEGG, Carol & MEYERS, Helen & BOHLMAN, Philip V. & STOKES, Martin :
2001 :  Ethnomusicology  (Dân tộc nhạc học), NEW GROVE DICTIONARY vol.8 : 367-403, ấn bản thứ nhì, London, Anh Quốc.

RHODES, Willard :
1956 :  Towards a Definition of Ethnomusicology  (Về một định nghĩa của dân tộc nhạc học), THE AMERICAN ANTHROPOLOGIST, 58 : 457-463, Hoa Kỳ.

RICE, Timothy
1987 :  Towards the Rethinking of Ethnomusicology (Về sự định lại môn dân tộc nhạc học), ETHNOMUSICOLOGY 31 (2) :469-488, Ann Arbor, Hoa Kỳ.

ROUGET, Gilbert :
1968 :  L'ethnomusicologie  (Dân tộc nhạc học), ETHNOLOGIE GENERALE, collection Encyclopedie de la Pleiade (xb) : 1339-1365, Paris, Pháp.

SADIE, Stanley
1979 :  Ethnomusicology and the New Grove  (Dân tộc nhạc học và bộ tự điển New Grove), ETHNOMUSICOLOGY 13 (1) : 95-102, Ann Arbor, Hoa Kỳ.

SCHUURMA, Ann B.
1992 :  ETHNOMUSICOLOGY RESEARCH : A SELECT ANNOTATED BIBLIOGRAPHY (Nghiên cứu dân tộc nhạc học : tuyển chọn sách biên khảo chú thích), New York, Hoa Kỳ.

SEEGER, Anthony
1991 :  Styles of Musical Ethnography (Những phương pháp dân tộc nhạc học), COMPARATIVE MUSICOLOGY & ANTHROPOLOGY OF MUSIC : trang 342- 355, B.Nettl & P.V. Bohlman (xb), Chicago, Hoa Kỳ.

STOKES, Martin & al.
2001 :  Ethnomusicology  (Dân tộc nhạc học), NEW GROVE DICTIONARY vol.8 : 367-403, ấn bản thứ nhì, London, Anh Quốc.

TRAN QUANG HAI
1989 : Hành trình đi vào dân tộc nhạc học , ÂM NHẠC VIET NAM : BIÊN KHẢO (xb) : 200-212, Paris, Pháp.

TRAN VAN KHE
1970 :  Les Tendances actuelles de l?ethnomusicologie  (Những xu hướng hiện tại của dân tộc nhạc học), CAHIERS DE L'HISTOIRE MONDIALE 12 (4) : 682-690, Neuchatel, Thụy Sĩ.
1984 :  Ethnomusicologie : Objet, Techniques et Methodes  (Dân tộc nhạc học : đối tượng, kỹ thuật và phương pháp), PRECIS DE MUSICOLOGIE, chương 2 : 62-70, Presses Universitaires de France (xb), Paris, Pháp.

ZEMP, Hugo
1996 :  The/an Ethnomusicologist and the Rercord Business  (Nhà dân tộc nhạc học và sự buôn bán dĩa hát), YEARBOOK OF THE ICTM 28 : 36-56, New York, Hoa Kỳ.

Các tập san chuyên môn :
ETHNOMUSICOLOGY, 3 số một năm, Indiana University, Hoa Kỳ (từ 1957)

YEARBOOK OF THE INTERNATIONAL COUNCIL FOR TRADITIONAL MUSIC, 1 số mỗi năm, New York, Hoa Kỳ (từ 1981)

THE WORLD OF MUSIC, 3 số mỗi năm, UNESCO, Đức (từ 1961)

CAHIERS D'ETHNOMUSICOLOGIE, 1 số mỗi năm, Geneva, Thụy Sĩ (từ 1987)

Các tự điển âm nhạc căn bản
NEW GROVE DICTIONARY OF MUSIC, ấn bản lần thứ 2, 29 quyển (mỗi quyển 900 trang), MACMILLAN Publishers Ltd, London, Anh quốc, 2001

NEW GROVE DICTIONARY OF MUSICAL INSTRUMENTS (Tự điển nhạc khí), ấn bản lần thứ nhứt, 3 quyển, 2800 trang, MacMillan Publishers Ltd, London, Anh quốc, 1984.

GARLAND MUSIC DICTIONARY, ấn bản lần thứ nhứt, 10 quyển (mỗi quyển khoảng 1.000 trang với 1 CD), Hoa Kỳ. 1999 cho tới năm 2001.

Trang nhà về dân tộc nhạc học: www.research. umbc.edu/ eol/eol.html

© http://vietsciences .free.fr  Gs Trần Quang Hải