Ba mươi lăm năm nhìn lại con đường thời gian dài tưởng chừng rất ngắn,
hầu như mới xẩy ra gần đây lắm, còn hồ nghi lẩm nhẩm số “băm lăm” dấu vẫn in chưa phai nhạt vết hằn cháy nám lòng người, thịt da dân tộc, ba mươi lăm năm, nhiều lần tôi bật khóc cho nước mắt mồ hôi, thân xác đồng bào tôi đã loảng tan dưới cây cỏ, trên biển khơi, giữa rừng sâu, trong trại tù lao cải, người thoát thân và người còn ở lại cùng đắng cay với cuộc đảo điên, ba mươi lăm năm nhìn lại một đoạn đường bằng nước mắt nghẹn ngào và cả nụ cười chưa trọn vẹn, những người về mang lời thề non hẹn biển, những người đi tìm ánh sáng tự do, quê hương còn một mảnh rách cơ đồ đang nhàu nát với mưu mô toàn trị.
Ba mươi lăm năm biết bắt đầu từ đâu cho đủ từ dạo cuối tháng Tư mặt trời đổ, khi người chiến sĩ tuyến đầu thế giới tự do bị đồng minh bỏ, bởi trót ngậm miếng mồi béo bở ngon hơn, những văn từ và cả những tuyên ngôn quăng vào sọt rác như tờ giấy lộn, chữ tín giữa đời nghe mà khinh tởm !
Cường quốc ơi ! ngượng miệng gọi đồng minh, bàn cân nào đánh giá trọng khinh lương tâm nào có con tim gõ nhịp, quê hương tôi, tiếng kêu gào thảm thiết linh hồn người đã chết bị lãng quên, người lính trận oai hùng bổng đổi tên thành tù nhân, triền miên không bản án. Biết bắt đầu từ đâu cho đủ khi xe tăng xô ngã cổng dinh thành, khi lệnh đầu hàng vội vã soạn nhanh, bởi bàn tay đàn anh đâm sau lưng chiến sĩ. Những phát súng người hùng bắn vào mình đầy sĩ khí những vì sao rơi nhằm buổi bình minh: Nam, Hai, Hưng, Vỹ, Phú những cánh thiên thần. “Sinh vi Tướng, tử vi Thần” hồn thiêng linh hiển. Biết bắt đầu từ đâu cho đủ khi xe cần trục kéo ngã tượng tiếc thương, anh nằm trơ chổng ngỗng bên vệ đường, anh về đâu sau lần tôi được gặp ! dù anh còn hay anh đã mất, dù người ta có đập anh thành cát bụi đi, anh vẫn trở về với nguyên ủy bất di, anh vẫn sống trong lòng người còn sống, anh sẽ sống, thiên thu bất tận, khi nghĩa trang còn chút đất gọi tên khi những nấm mồ chưa bị lãng quên những nấm mồ ngủ yên; con yêu Tổ Quốc. Biết bắt đầu từ đâu cho đủ khi những chiếc thuyền con dám vượt biển, như những chiếc lá bềnh bồng trôi dạt đại dương, dân tôi phải đi vì đã cùng đường hết chịu nổi gông cùm kềm kẹp, tiếng kẽng sớm chiều, tiếng loa bốc phét, bụng đói meo, nghe lãi nhãi tiến lên, đổi tiền, đánh tư sản đời đão điên, chốn khỉ ho dành cho kinh tế mới, nỗi khổ đau còn lời đâu để nói ! Biết bắt đầu từ đâu cho đủ nếu không nói về bia đá ở Galang nếu không nói về bia đá ở Bidong, những tấm bia vô tri để ghi ơn, nghĩa ơn cưu mang và nghĩa tử, kẻ không còn những tấm bia bị đục trống trơn hòng chạy tội nguyên lai kẻ ác, còn đó hay không, lòng người là chuyện khác văn từ sách sử để ngàn sau. Biết bắt đầu từ đâu cho đủ bắt đầu ở đâu rồi chấm dứt ở đâu. Chuyện tôi kể hết, sẽ trường thiên, dài bất tận làm sao nói cho cùng !
Và đây, ba mươi lăm năm nhìn lại về những người hải ngoại gốc Việt Nam, họ khởi đi: từ giã chốn lầm than từng dẩm qua bao gian nan khổ nhọc, lời vô tri, những ngôn từ sỉ nhục : nào tội đồ, nào ôm chân đế quốc, nào phản động, đĩ…điếm …loài mất gốc, nay hiển nhiên thành khúc ruột ngàn xa… là vựa tiền nơi đổ tỉ đô la.. nuôi đất nước qua lầm than xã nghĩa.
Họ, trở thành tài nguyên vô giá, công cũng thành, danh cũng toại, quí hóa thay lý tưởng tự do cho họ có ngày nay, nhân tài Việt trãi từ Úc, Âu, Mỹ, Á.
Ba mươi lăm năm nhìn lại con đường nỗi đau vẫn còn, niềm vui không ít bấm bàn tay nhẩm đốt nhớ thương quê, ba mươi lăm năm không phải chuyện nồi kê, anh lính trẻ thành người già bạc tóc nước mắt khô rồi, bởi nhiều lần đã khóc, còn bàng hoàng như chuyện mới hôm qua, ba mươi lăm năm cuộc dâu bể diễn ra, cỏ hoa vẫn tươi nở trong xót xa căy đắng như khóm lục bình vừa trôi dạt vừa trổ bông. |