Home Lịch Sử VN Chiến Tranh VN Chiến Tranh VN nhìn từ hai người lính Nam Bắc

Chiến Tranh VN nhìn từ hai người lính Nam Bắc PDF Print E-mail
Tác Giả: Trần Việt Đại Hưng   
Thứ Năm, 24 Tháng 12 Năm 2009 10:14

Chiến tranh Việt Nam chấm dứt đã 34  năm. Có nhiều nhà sử học, nhà nghiên cứu chính trị, nhà báo đã đặt nhiều tên cho cuộc chiến VN.

Có người cho đó là cuộc chiến ý thức hệ; kẻ khác gọi là cuộc chiến ủy nhiệm; lại có dư luận đặt tên cuộc chiến Việt Nam là nội chiến, nồi da xáo thịt. Thật ra tất cả những tên gọi đều đúng. Cuộc chiến Việt Nam là một cuộc chiến ý thức hệ, ủy nhiệm, nội chiến. Gọi tên thế nào thì gọi chứ thực chất cuộc chiến là người Việt hai miền đánh nhau, giết nhau bằng những vũ khí hiện đại nhất.

Sự căm thù nhau là cũng do ý thức hệ gây ra, bên nào cũng cho mình đang nắm lẽ phải, chính nghĩa. Bài viết này trình bày 2 bài thơ của hai người lính thi sĩ của hai miền Nam, Bắc nói lên cảm nghĩ của họ khi phải ra trận giết người anh em cùng chung máu đỏ da vàng. Đó là thi sĩ Nguyễn Bắc Sơn của miền Nam và thi sĩ Lưu quang Vũ của miền Bắc.

Hơn xa tất cả những nhà chính trị lãnh đạo của hai miền, hai người lính đã thấy được sự dã man và vô lý cùng cực của cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt. Máu người Việt đổ ra một cách oan uổng, đau dớn cho một trận banh giữa các cường quốc tư bản và Cộng sản trong đó người Việt Nam không nắm phần chủ động mà chỉ làm thân phận tay sai, chiến đấu hung hãn, tàn bạo cho phe phái của mình.

Chính nghĩa dân tộc được cả hai bên đề cao với hy vong mang lại lẽ phải cho phe mình nhưng kết quả là cả triệu người Việt cả hai phe chết oan uổng cho bọn đầu nậu ngoại bang. Nước Việt Nam tan hoang, nhà Việt Nam tan đổ, người Việt nhìn nhau với sự hận thù tưởng như không bao giờ có thể nguôi ngoai.

Sau thế chiến thứ 2, Mỹ và thế giới các nước Cộng sản sống trong không khí chiến tranh lạnh. Mỹ không ký vào Hiệp định Geneve năm 1954 là muốn có tư thế danh chính ngôn thuận để nhảy vào miền Nam Việt Nam làm tiền đồn ngăn làn sóng đỏ.

 Chuyện đầu tiên Mỹ làm là xúi dục Thủ tướng Ngô đình Diệm “phản chủ“ là vua Bảo Đại, qua cái trò hề “trưng cầu dân ý“ do Mỹ đạo diễn từ đầu đến cuối. Ai cũng biết Ngô đình Diệm phải sang Pháp quỳ dưới chân vua Bảo Đại để nhận chức thủ tướng do vua Bảo Đại ban cho. Mỹ viện trợ và tô bồi cho chính quyền Ngô đình Diệm thành một tiền đồn chống cộng theo ý Mỹ muốn,, Người ta chưa quên câu nói của Tổng thống Ngô đình Diệm tỏ bày ý nguyện trung thành với Mỹ trên mặt trận chống làn sóng đỏ xâm lăng như sau “Biên giới của thế giới tự do kéo dài từ Alaska đến vĩ tuyến 17”.

Ngô đình Diệm được Mỹ dựng lên và chống Cộng theo yêu cầu của Mỹ để giữ vững miền Nam trước sự xâm lăng của miền Bắc. Nhưng rồi Ngô đình Diệm phạm nhiều khuyết điểm làm cho chuyện chống Cộng thiếu phần kết quả và những giây phút cuối tính chuyện bắt tay với miền Bắc để hóa giải áp lực của Mỹ nên cuối cùng bị các tướng lãnh đứng lên lật đổ với sự nhúng tay của Mỹ vào năm 1963. Sau Ngô đình Diệm, Mỹ đưa Nguyễn văn Thiệu và Nguyễn cao Kỳ lên lãnh đạo miền Nam để tiếp tục công cuộc chống Cộng theo chủ trương của Mỹ cho đến ngày tan hàng 30 tháng 4 năm 1975.

Phải thấy rõ nguyên ủy sâu xa của lý do Mỹ nhảy vào Việt Nam chống cộng là tạo dựng cho miền Nam một con đê ngăn chặn làn sóng đỏ. Mỹ đổ viện trợ và xương máu của cả lính Mỹ vì quyền lợi  chiến lược của nước Mỹ chứ không vì  lo bảo vệ tư do cho nhân dân Miền Nam. Trong thời kỳ này Mỹ theo đuổi chủ thuyết Domino, tìm mọi cách để dùng miền Nam Việt Nam ngăn làn sóng đỏ Cộng sản, vì nếu miền Nam sụp đổ thì những nước lân cận như Lào, Kampuchia, Thái  Lan sẽ đổ nhào theo như nhưng quân cờ Domino và như  thế là làm tổn hại đến chiến lược toàn cầu của Mỹ.

 Nhưng rồi sau Hiệp Định Paris 1973, Mỹ không cần miền Nam nữa vì đã bắt tay được với Trung Cộng nên quyết định bỏ rơi một cách tàn nhẫn thẳng tay. Trong những ngày miền Nam hấp hối trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, Tổng thống Ford xin viện trợ quân sự khẩn cấp 300 triệu để cứu miền Nam khỏi sụp đổ. Quốc hội Mỹ thẳng tay bác bỏ vì lúc ấy Mỹ không cần đến miền Nam Việt Nam nữa nên Mỹ quyết định phủi tay bỏ rơi miền Nam sau những năm đổ bao nhiêu nhân lực, vật lực và cả máu lính Mỹ chiến đấu chống Cộng sản miền Bắc.

Người dân miền Nam thất vọng vì chuyện bị Mỹ bỏ rơi đã đành, thế mà ở miền Băc có một thi sĩ tỏ bày sự chê trách chuyện Mỹ phủi tay bỏ chạy để cho Cộng sản miền Bắc nhuộm đỏ cả miền Nam. Người thi sĩ đó là Nguyễn chí Thiện, dù ở miền Bắc bị bưng bít mọi thông tin, ông vẫn nhìn ra chuyện cuốn cờ bỏ chạy ô nhục của người Mỹ
 
KHI    MỸ    CHẠY
Khi  Mỹ  chạy   bỏ  miền  Nam  cho  Cộng sản
Sức  mạnh  toàn  cầu  nhục  nhã  kêu  than
Giữa  tù  lao,  bệnh  hoạn  cơ hàn
Thơ  vẫn  bắn  và  thừa  dư  sức  đạn!
Vì  thơ  biết  một  ngày  mai  xa  xôi  nhưng  sáng  lạn
Không  giành  cho  thế  lực  yêu  gian
Tuyệt  vọng  dẫu  lan  tràn
Hy  vọng  dẫu   tiêu  tan
Dân  nước  dẫu  đêm  dài  ai  oán
Thơ  vẫn  đó,  gông  cùm  trên  ván
Âm  thầm,  thâm  tím,  kiên  gan
Biến  trái  tim thành  “chiếu  yêu kính”  giúp  nhân  gian
Nhận  rõ  nguyên  hình   Cộng   sản
Tất  cả  suy  tàn,  sức  thơ  vô hạn
Thắng  không  gian   và  thắng  cả  thời  gian
Sắt  thép  quân  thù  năm  tháng  rỉ  han!
                                    ( 1975)
                             
Mỹ không chống Cộng cũng không thân Cộng, Mỹ lúc nào cũng theo chủ nghĩa “duy lợi“, có nghĩa theo cái lợi mà làm, bất chấp tình nghĩa, liêm sỉ. Trong chiến tranh với Việt Cộng, Mỹ luôn trình bày Việt Cộng là hiện thân của những gì độc ác, xấu xa nhất.

Ngày nay Mỹ giung giăng giung giẻ làm ăn buôn bán vui vẻ với Việt Cộng vì chuyện này có lợi cho Mỹ. Cộng sản vẫn tiếp tục đàn áp bách hại tôn giáo và Mỹ vẫn không đưa Cộng sản vào danh sách CPC dành cho những quốc gia đàn áp tôn giáo là chuyện dễ hiểu thôi. Mỹ đang có những mối quan hệ kinh tế quân sự tốt đẹp với Cộng sản Việt Nam thì những chuyện vi phạm nhân quyền của Cộng sản Việt Nam là chuyện nhỏ nhặt Mỹ không muốn để ý tới và có biện pháp chế tài trừng trị.

Khi thương thì quả ấu cũng  tròn mà!. Những người Việt quốc gia nên nhớ đến điều này để đừng bao giờ đặt quá nhiều hy vọng vào người bạn Mỹ trên con đường quang phục quê hương. Đừng bao giờ mơ tưởng đến chuyện Mỹ bật “đèn xanh, đèn đỏ“ khai thông đường về lại quê hương.

Trong 21 năm tồn tại của miền Nam (1954- 1975) Mỹ hỗ trợ cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa chống cộng hung hãn, điên cuồng cũng chỉ để giải quyết  nhu cầu chiến lược toàn cầu của Mỹ mà thôi. Người lính miền Nam được Mỹ huấn luyện căm thù sâu sắc để chiến đấu tiêu diệt bọn giặc Cộng miền Bắc xâm lăng miền Nam. Điều này cũng đúng với phe miền Bắc là người lính miền Bắc được Đảng tuyên truyền nhồi sọ phải coi Mỹ là kẻ thù xâm lược và người lính miền Nam là tay sai của Mỹ và là kẻ thù không đội trời chung  phải tiêu diệt bằng mọi giá.

Hồ chí Minh khi tìm đến Quốc tế thứ ba và thế giới các nước vô sản để xin vũ khí và viện trợ phục vụ cho chuyện đánh Mỹ, đánh Pháp hầu mang lại độc lập cho dân tộc Việt Nam. Các nước đàn anh Cộng sản như Nga, Tàu viện trợ vũ khí cho Hồ chí Minh đánh Pháp và sau này là đánh Mỹ không với mục đích là mong muốn cho Hồ chí Minh giành lại độc lập cho dân tộc Việt Nam mà với mục đích là trang bị cho miền Bắc phương tiện để chống lại đế quốc theo phương hướng vô sản phải chống lại tư sản đế quốc để làm suy yếu phe tư bản đế quốc trên toàn cầu.

Hồ chí Minh chỉ là một tên lính đánh thuê của chủ nghĩa Cộng sản không hơn không kém. Trong dịp xuân 1963, Hồ chí Minh có gửi hai cành đào tặng Tổng thống Ngô đình Diệm kèm theo lá thư mong mỏi hai miền sẽ phát triển theo chiều hướng chính trị riêng của từng miền. Đó là ước mong chung sống hòa bình với miền Nam của Hồ chí Minh. Khi chuyện này lộ ra, Quốc tế Cộng sản cho đàn em tước hết quyền lực của Hồ chí Minh ngay vì chuyện làm này đi ngược với đường lối làm suy yếu và tiêu diệt đế quốc tư bản đứng đầu là Mỹ của Quốc tế Cộng sản. (Xin vào www.nsvietnam.com rồi bấm vào tên Trần Viết Đại Hưng để đọc bài “Một cách lý giải về chuyện Hồ chí Minh bị mất quyền lực trong nhưng năm cuối đời“ để hiểu rõ thêm về ước muốn bắt tay miền Nam của Hồ chí Minh). Ông Cao xuân Vỹ, vốn là thủ lãnh Thanh niên Cộng Hòa dưới chế độ Ngô đình Diệm mới đây (năm 2009) đã lên đài truyền hình SET (57.4) để xác nhận chuyện Hồ chí Minh gửi cành đào cho Ngô đình Diệm xuân năm 1963 trong chương trình tìm hiểu lịch sử của cô Kim Nhung.

Hai miền Nam Bắc phải đánh nhau theo sự điều động của hai thế lực Tư bản và Cộng sản đứng đằng sau hổ trợ. Hai miền Nam Bắc không có quyền nói chuyện sống chung hòa bình, thân ái với nhau. Ngô đình Diệm bị giết và Hồ chí Minh bị thất sủng khi tính chuyện hòa hợp hòa giải với nhau đã cho thấy cái gọng kềm của hai thế lực quốc tế đứng đằng sau hai ông cương quyết và tàn nhẫn như thế nào.

Những tên cai thầu chính trị  quốc tế gian ác này muôán người dân, người lính hai miền phải căm thù nhau, phải giết nhau bằng những phương tiện dã man nhất để thỏa mãn cho nhu cầu chính trị quốc tế của chúng. Cho nên không có chuyện chính nghĩa thuộc về phe nào trong chuyện người Việt giết nhau cả mà anh em cùng dòng máu đỏ da vàng hăng say giết nhau theo sự thúc dục bắt buộc của ngoại bang vì ván cờ chính trị chiến lược của chúng.

Thật đau lòng và chua xót cho dân tộc Việt Nam, một dân tộc chưa bao giờ có đủ điều kiện để làm chủ lấy đất nước mình mà luôn chịu sự lệ thuộc và chi phối của nhưng thế lực quốc tế gian ác và xấu xa nhất trên đời.
Không phải tới thời kỳ 1954- 1975 nước Việt Nam mới có nội chiến. Trước đó hàng trăm năm đã có tranh chấp Trịnh – Nguyễn và sau đó là cuộc nội chiến của Nguyễn Ánh và phe Tây Sơn (1771- 1802).

Ngay trong phe Tây Sơn thì hai anh em Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ cũng kình chống nhau rồi. Nếu trong lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước, máu của người Việt Nam đổ ra khi chống ngoại xâm là một sự hy sinh đẹp đẽ và cao quý bao nhiêu thì trong những thời kỳ nội chiến, máu người Việt đổ ra là một sự hoang phí và đáng nguyền rủa bấy nhiêu.

Máu người Việt đổ ra trong cuộc nội chiến dĩ nhiên không phải để giữ gìn, bảo vệ giang sơn gấm vóc mà để tranh giành ngôi báu cho dòng họ cá nhân. Những dòng họ cá nhân này không bao giờ biết đặt quyền lợi của dân tộc tổ quốc lên trên dòng họ của mình. Riêng về giai đoạn nội chiến 1954- 1975 thì cuộc nội chiến này đã nhuốm màu ý thức hệ chứ không còn chuyện tranh giành ngôi báu cho gia đình riêng tư như những cuộc nội chiến trong quá khứ.

Dù sao, máu người Việt đổ ra trong cuộc nội chiến đấu thế kỷ 20 này cũng phung phí và đau lòng vì chuyện “gà nhà bôi mặt” đá nhau, giết nhau một cách tận tình không thương tiếc. Lãnh tụ của cả hai miền đều không đủ sự tỉnh thức để nhìn thấy thân phận tay sai cho các thế lực quốc tế của mình, mà chỉ hăng say, ngu xuẩn, mù quáng theo đuổi con đường thúc đẩy người Việt hai miền chém giết lẫn nhau. Dĩ nhiên chuyện anh em chém giết được hai chế độ đối nghịch của hai miền tô vẽ đẹp đẽ như một chuyện làm cao cả, cúu nước cứu dân, giải phóng, độc lập, tự do.

Và khi bàn cờ chiến tranh đã sắp xếp xong thì người lính miền Bắc Lưu quang Vũ theo lệnh Đảng vào chiến trường miền Nam để bắn giết người lính miền Nam mà chế độ miền Bắc nhục mạ gọi là “lính ngụy”. Và người lính miền Nam Nguyễn bắc Sơn cũng được lệnh ra chiến trường để nả đạn vào người lính miền Bắc bị miền Nam gọi là “quân Cộng sản xâm lăng Bắc việt.”.

 Giống như nhà văn Phan nhật Nam, nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn có người cha phục vụ cho phía bên kia. Đây là chuyện oan trái xảy ra trong một số gia đình người Việt bị cuộc chiến phân chia thành hai phe đối nghịch nhau. Nhà văn Võ Phiến và Nhật Tiến ở miền Nam đều  có em là người cầm bút trong chế độ Cộng sản. Thơ Nguyễn bắc Sơn thường có giọng điệu ngang tàng, bất cần đời, khinh bạc.

Trong bài thơ “Chiến tranh Việt Nam và tôi” được trích dẫn dưới đây, ông đã nói lên nếp sống ăn chơi không nề nếp của ông dù ông đang ở trong quân đội. Đặc biệt là ông nói lên cái tâm trạng khi ra trận phải bắn đối phương vì đứng trong tư thế bất khả kháng “không bắn người thì người bắn mình”. Ông biết người lính đối phương từ miền Bắc cũng là người Việt máu đỏ da vàng như ông. Ông bắn mà lòng không thù hận, oán thù. Có lẽ trong tâm tư ông dâng lên niềm chua xót khi ông là người Việt mà phải bắn một người Việt vì cuộc chiến oan nghiệt đã phân chia hai miền thành kẻ thù không đội trời chung của nhau. Ông đánh giá chiến tranh này cũng chỉ là một trò chơi chứ không phải là một cuộc chiến bảo vệ chính nghĩa hay giải phóng dân tộc như guồng máy chiến tranh chính trị của hai miền thường rêu rao, tuyên truyền. Cái nhìn của ông về cuộc chiến Việt Nam được đánh giá là tỉnh  táo và trung thực.

 Những nhận xét của ông về chuyện chém giết nói chung là nhân bản và hiểu biết. Một người lính như ông cũng đã nhìn thấy bản chất phi lý và chết chóc lãng nhách của cuộc chiến Việt Nam mà những kẻ lãnh đạo hai miền chưa chắc đã có được. Ông thực sự là một người có trí tuệ và lòng thương bao la đến đồng bào ruột thịt của mình.
 
CHIẾN  TRANH  VIỆT  NAM  VÀ  TÔI

Lòng  suối  cạn  phơi  một bầy  đá  cuội
Rừng  giáp  rừng  gió  thổi  cỏ  lông  măng
Đoàn  quân  anh  đi  những  bóng  cọp  vằn
Gân  mắt  đỏ  lạnh  như  tiền  sắc  mặt
Bốn  chuyến  di  hành  một  ngày  mệt  ngất
Dừng  chân  nơi  đây  nói  chuyện  tiếu  lâm  chơi
Hãy  tựa  gốc  cây  hãy  ngắm  mây  trời
Hãy  tưởng   tượng  mình  đang  đi picnic
Kẻ  thù  ta  ơi  các  ngài  du  kích
Hãy  tránh xa   ra  đừng  chơi  bắn  nheo
Hãy  tránh  xa  ra  ta  xin  xí  điều
Lúc  này  đây  ta  không  thèm  đánh  giặc
Thèm  uống  chai  bia  thèm  châm  điếu  thuốc
Thèm  ngọt  ngào  giọng  hát  em  chim  xanh
Kẻ  thù  ta  ơi  những  đứa  xăm  mình
Ăn  muối  đá  mà  hăng  say chiến  đấu
Ta  vốn  hiền  khô  ta  là  lính  cậu
Đi  hành  quân  rượu  đế  vẫn   mang  theo
Mang  trong  đầu  những  ý  nghĩ  trong  veo
Xem  cuộc  chiến  như  tai  trời  ách  nước
Ta  bắn  trúng  ngươi  vì  ngươi  bạc  phước
Vì  căn  phần  ngươi  xui  khiến  đó  thôi
Chiến  tranh  này  cũng  chỉ  một  trò  chơi
Suy  nghĩ  làm  gì  lao  tâm  khổ  trí
Lũ  chúng  ta sống  một  đời  vô  vị
Nên  chọn  rừng  sâu  núi  cả  đánh  nhau
Mượn  trời  đất  làm  nơi  đốt  hỏa  châu
Những  cột  khói  giả  rồng  thiêng  uốn  khúc
Mang  bom  đạn  chơi  trò  pháo  tết
Và  máu  xương  làm  phân  bón  rừng  hoang.
                                  NGUYỄN BẮC SƠN ( 1972)
 
Từ đầu những năm của thập niên 1960, Miền Bắc phát động cuộc chiến tranh xâm lăng miền Nam, được mệnh danh là cuộc chiến “chống đế quốc Mỹ và ngụy quyền tay sai.”

 Đảng và nhà nước đã tô vẽ cuộc chiến tranh xâm lăng bằng những lời lẽ tuyên truyền hào hùng, đẹp dẽ với mục đích làm phấn chấn tinh thần bộ đội trẻ lên đường
Cộng sản Việt Nam viện dẫn đến lịch sử chống ngoại xâm dài 4000 năm (40 thế kỷ) để khêu gợi tinh thần yêu nước vốn lúc nào cũng tiềm tàng trong con người Việt Nam. Những câu thơ sau có tác dụng khuyến khích mạnh mẽ tinh thần thanh niên thiếu nữ lên đường ra trận
 
Bốn  mươi  thế  kỷ  cùng  ra  trận
Có  Đảng  ta  đây  có  Bác  Hồ
 
(Trích trong tập thơ “Theo chân Bác” xuất bản năm 1970 của Tố Hữu)
Tố Hữu, ngọn cờ đầu của nền thi ca xã hội chủ nghĩa, còn có những vần  thơ lạc quan, phấn khởi cho chuyện gửi quân vào Nam như sau
 
Xẻ  dọc  Trường  sơn  đi  cứu  nước
Mà  lòng  phơi  phới   dậy  tương  lai
 
Tố Hữu viết mấy câu thơ sau vào tháng 1 năm 1966, vẽ ra hình ảnh đẹp của những cô gái chống chiến tranh phá hoại của Mỹ
 
Ôi   những  nàng  xuân  rất  dịu  dàng
Hát  câu  quan  họ  chuyến  đò  ngang
Nhẹ  nhàng tay  cấy  bên  sông  ấy
Súng  khoác  trên  lưng  chẳng  ngỡ  ngàng
                                                (Xuân Sớm)
      
Bài hát nổi tiếng “Trường sơn đông, Trường sơn tây” do nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ từ bài thơ của Phạm tiến Duật sáng tác năm 1969 cũng tô hồng, vẽ vời lên cái tâm trạng phơi phới, hăng say của những thanh niên, thiếu nữ miền Bắc ra trận:
 
..Đường  ra  trận mùa  này  đẹp  lắm
Trường  sơn  đông  nhớ  Trường  sơn  tây
Từ  nơi  em  đưa  sang  bên  nơi  anh
Những  binh  đoàn  nối  nhau  ra  trận  tuyến
Như   tình  yêu  nối  lời  vô  tận
Đông  Trường  sơn  nối  tây  Trường  sơn.      
 
Nhưng có một người bộ đội trẻ không hăng say nhập cuộc chuyện vào Nam chiến đấu mà lòng anh luôn nặng trĩu ưu tư về chiến tranh. Người bộ đội trẻ đó là nhà thơ Lưu quang Vũ, sinh năm 1948. Anh đã bộc lộ sự bi quan buồn nản về cuộc chiến mà anh là một người lính trực tiếp tham gia chiến đấu.

Nên nhớ những lời thơ này anh viết dể bộc bạch tâm sự và không được nhà nước Cộng sản xuất bản thời bấy giờ vì nó không có lợi cho cuộc chiến đấu. Lưu quang Vũ mỉa mai, dè bĩu gọi những thanh niên nối nhau ra trận tuyến là “Những đứa trẻ buồn ướt  lạnh”. Có thể coi những lời thơ này thuộc loại “phản chiến” không thể in vào thời chiến tranh còn khốc liệt. Lưu quang Vũ viết những lời thơ thống thiết này vì không thể không viết chứ không có hy vọng được xuất bản. Chúng chỉ mới xuất bản gần đây sau khi cuộc chiến đã chấm dứt mấy mươi năm.
 
Giữa   chiến  tranh  hiểu  đời  thực  hơn  nhiều
Rách  tan  cả  những  làn  sương  đẹp  phủ
….. ..  Những  đứa  trẻ  buồn  ướt  lạnh
Lòng  chỉ  muốn  yêu  thương
Mà  cứ  phải  suốt  đời  căm  giận
…..  Giết  xong  quân  giặc
Chẳng  thấy  lòng  thảnh  thơi  nhẹ  nhõm
Chỉ  nỗi  buồn  trĩu  nặng
Dâng  như  đá  trên  mồ
 
Đã có sẳn trong lòng những ưu tư buồn phiền về cuộc chiến  trước khi lên đường, nên khi vào chiến trường chĩa súng bắn vào quân thù mà thực chất là những đồng bào cùng máu đỏ, da vàng, Lưu quang Vũ càng trăn trở, suy nghĩ nhiều hơn về cuộc chiến vô nghĩa lý này.

Cũng giống như người lính miền Nam Nguyễn bắc Sơn, Lưu quang Vũ thực sự đau lòng, bức xúc khi nhìn xác những người lính miền Nam mà ông quen gọi  là  lính Ngụy. Ông nói lên cái thế “chẳng đặng đừng” của người lính ngoài mặt trận là phải bắn vào đối phương dù không có một chút mảy may thù hận.
 
Xác  Ngụy  nằm  ruồi muỗi  bâu  đầy
Những  đôi  mắt  bệch  màu  hoa  dại
Những  gương  mặt   trẻ măng  xanh   tái
Những  bàn  tay  đen  đủi  chai  dầy
Các   anh  ơi,  đừng  trách  chúng  tôi
Các  bà  mẹ, tha  thứ   cho  chúng  tôi
Chúng  tôi  chẳng  thể  làm  khác  được
Quả  đồi   cháy  như  một  phần  quả  đất
Bao  đời  người  ta  đã  giết  nhau
Với   các  anh  tôi  oán  hận  gì   đâu
Nhưng còn  có  cách  nào  khác  được
 
Những lãnh tụ ở hai miền thường hân hoan loan tin chiến thắng bằng những con số địch quân gục ngã trên trận địa có khi nào băn khoăn ưu tư  về những người lính ngã  gục trên chiến trường, có bao giờ có cảm giác bất nhẫn của người lính miền Nam Nguyễn bắc Sơn và người lính miền Bắc Lưu quang Vũ khi nhìn thấy xác lính  chết trên chiến trường.

Phải nhớ một viên đạn M16 hay một viên Ak47 đốn gục một người lính trên trận địa là nước mắt của một người mẹ Việt Nam chảy ra vì mất con, vành khăn tang sẽ được buộc lên đầu người vợ xấu số và đàn con thơ ngại vẫn ngày đêm trông mong người lính trở về nhà sum họp với gia đình. Chinh chiến đã thực sự cướp đi mạng sống của người lính và đem tang tóc cho gia đình người thân của người lính.

 Khi lãnh tụ hai miền xua hai quân Nam, Bắc đánh nhau, có bao giờ họ nghĩ cuộc chiến Việt Nam chỉ là trận đấu banh giữa các cường quốc tư bản và Cộng sản. Việt Nam chỉ là con chốt thí trên bàn cờ quốc tế. Anh em hung hãn hận thù giết nhau chỉ vì thi hành nhiệm vụ do nước ngoài giao phó.

Sinh lực của cả dân tộc bị suy kiệt vì hai miền đui mù làm nghĩa vụ lính đánh thuê không hơn không kém. Thật đau lòng và tủi nhục cho con người Việt Nam. Một đất nước có 4000 năm văn hiến sao cứ sống trong u mê thù hận?
Mùa hè 1972, một mùa hè đỏ lửa kinh hoàng với những trận thư hùng đẫm máu của hai quân đội Bắc, Nam. Người lính miền Bắc Lưu quang Vũ có mặt trong mùa hè chiến trận kinh khiếp đó và ghi lại sự chết chóc, dổ vỡ tan hoang do bom đạn gây nên.

Cả dân tộc biến thành một lò xay thịt vĩ đại. Mạng người Việt Nam tan tành thành mảnh vụn trên những chiến trường, người Việt hăng say chém giết nhau để thỏa mãn cho những tính toán chiến lược của bọn ngoại bang. Lưu quang Vũ nhìn thấy dân tộc Việt Nam đang nướng xác trong một lò sát sinh vĩ đại. Ông ghi lại cảm xúc của mình như sau:
 
Những  siêu  nhân  vĩ  đại
Những  tư  tưởng  lớn  lao  nghe  đến  kinh  người
Những  thần  tượng  tiêu  vong, những  đứa  trẻ  ra  đời
Bóng  tối  nắm  tay  nhau, tình  yêu chưa  hợp  lại
Thế  giới  lo  âu  đầy  xấu  xa,  phản  bội
Ngày  càng  ít  những  điều  đáng  để  ta tôn  trọng
Nền  văn   minh  lạ  lùng  của  những  trái  bom
Những  đám  mây  gây  mưa, những  mìn  nổ  từ  trường
Dân  tộc  mấy  mươi  năm  giết  và  bị  giết
Mỗi  phút  sống  của  tôi  đều  có  người  đang  chết.
                                                ( Hồ sơ mùa hạ 1972)
 
Từ những ưu tư về sự chẳng đặng đừng và vô nghĩa lý chuyện bắn người lính đối  phương cùng chung máu đỏ da vàng, Lưu quang Vũ trăn trở, lo âu về thân phận đau thương của nước Việt và tương lai của đất nước không biết sẽ di về đâu khi tiếp tục ở trong tình trạng nghèo đói và khốn khổ.
 
Nước  Việt  thân  yêu
Nước  Việt  của  ta
Sao  người  phải  chịu  nhiều  đau  đớn  thế
Thân  quằn  quại  mọi  tai ương  rách  xé
…..  Tất   cả  sẽ  ra  sao
Mảnh  đất  nghèo  máu  ứa?
Người  sẽ  đi  đến  đâu
Hả  Việt  Nam  khốn  khổ ?
Đến  bao  giờ   bông   lúa
Là  tình  yêu  của  người?
 
Sau 1975, nhà thơ bộ đội Lưu quang Vũ giải ngũ và chuyển sang viết kịch. Ông trở thành một kịch tác gia nổi tiếng viết những vở kịch lừng danh như “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Kịch cùa ông nói lên những chuyện tiêu cực xấu xa đầy da trong chế độ Cộng sản sau 1975.

Bất thình lình, năm 1988 khi ông vừa tròn 40 tuổi, ông cùng bà vợ là nhà thơ Xuân Quỳnh và một con nhỏ bị tử nạn trong một tai nạn xe cộ có nhiều bí ẩn mà người ta nghi ngờ chế độ Cộng sản dàn dựng ra để giết ông vì những vở kịch do ông viết phê phán xã hội đã có những chấn động sâu xa trong quần chúng. Thật đáng tiếc cho một tài năng thơ ca và kịch đầy hứa hẹn như Lưu quang Vũ  đã chấm dứt cuộc đời ở khi tuổi đời mới 40. Nhân dân sẽ nhớ đến Lưu quang Vũ là một người yêu thiết tha con người và đất nước Việt Nam và mạnh dạn nói ra cảm  nghĩ của mình trên mực đen giấy trắng những tâm tư đau buồn của mình trước một quê hương đau thương và khốn khổ. Ông đã vượt ra ngoài cái nhìn  độc đoán một chiều của chế độ Cộng sản về cuộc chiến tranh khi đối diện với những chết chóc trên chiến trường lửa đạn để có những suy tư trăn trở có nhiều tình người về con người đau thương và đất nước Việt Nam tiêu điều trong cảnh chinh chiến điêu linh. Ông sẽ được tưởng  nhớ như một người con yêu của đất nước Việt Nam trưởng thành trong khói lửa chiến tranh của thời ly loạn.
Một người nhạc sĩ ở miền Nam đã từng gọi cuộc chiến tranh Việt Nam là “nội chiến“ trong một ca khúc của ông. Đó là Nhạc sĩ Trịnh công Sơn với bài hát “Gia tài của mẹ”. Ông đã viết trong bài hát như sau:
 
“Một  ngàn  năm  nô  lệ  giặc Tàu
Một  trăm  năm  đô  hộ  giặc Tây
Hai  mươi  năm  nội  chiến  từng  ngày
Gia  tài  của  mẹ  để  lại cho  con
Gia  tài  của   mẹ là  nước  Việt  buồn”
 
Đây là một bài hát trong “Ca khúc da vàng” của Trịnh công Sơn. Miền Nam cấm những bài hát trong ca khúc da vàng vì nó phản chiến, không có lợi cho cuộc chiến đấu chống Cộng sản của miền Nam. Nhưng miền Bắc cũng không chấp nhận cách đánh giá cuộc chiến Việt Nam là “nội chiến” của Trịnh công Sơn.

Sau 1975 ở Huế có mở ra cuộc hội thảo đấu tố Trịnh công Sơn trong đó có kiểm thảo, phê phán chuyện Trịnh công Sơn làm bài hát “Cho một người nằm xuống” để tưởng nhớ đến Đại tá miền Nam là Lưu kim Cương tử trận trong trận Mậu Thân 1968, vốn là một ân nhân của Trịnh công Sơn và quan điểm gọi cuộc chiến Việt Nam là “nội chiến” trong bài hát “Gia tài của mẹ”. Đối với Cộng sản miền Bắc, cuộc chiến tranh Việt Nam phải là cuộc chiến thần thánh chống Mỹ xâm lược và ngụy quyền tay sai, không thể  nói  là nội chiến được.

Cho dù có công vói Cộng sản trong chuyện vào đài phát thanh Sài gòn hát bài “Nối vòng tay lớn” vào trưa ngày 30 tháng 4 để  cổ võ cho chuyện tiến vào Sài gòn của bộ đội Cộng sản và sáng tác những “Ca khúc da vàng” làm suy yếu tinh thần chống Cộng của binh sĩ miền Nam nhưng vì phạm những khuyết điểm nói trên nên Trịnh công Sơn bị thất sủng sau 1975. Cộng sản đày Trịnh công Sơn ve à Huế đi trồng sắn trên những bãi đất có chứa mìn còn sót lại. Có chuyện kể lại cho biết có một con trâu dẵm phải mìn nổ chết banh xác trên vùng đất trồng sắn nơi Trịnh công Sơn đang lao động.

Trịnh công Sơn đã nhìn đúng thực chất cuộc chiến tranh Việt Nam là nội chiến, một cuộc chiến nồi  da xáo thịt trong đó anh em huynh đệ tàn sát lẫn nhau vì sắc màu chủ nghĩa. Ai cũng nghĩ  là chuyện chém giết Bắc Nam sẽ chấm dứt hoàn toàn sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 vì chiến tranh đã chấm dứt.

Tội nghiệp cho Trịnh công Sơn khi ông viết bài hát  mơ ngày trẻ em sẽ hát đồng dao ngoài  đường khi quê hương thống nhất. Miền Bắc thắng trận tiếp tục gieo đau thương chết chóc cho miền Nam thua trận sau ngày 30 tháng 4 năm 1975  bằng những cách trả thù độc ác và đê tiện chứ hoàn toàn không có những cảnh hòa hợp, hòa giải đẹp đẽ thương yêu như nhạc sĩ họ Trịnh đã ngây thơ mơ ước trong nhưng ca khúc da vàng của ông. Miền Bắc không tắm máu những người bại trận miền Nam trong ngày 30 tháng 4 nhưng đã tắm máu họ trong những tháng năm sau đó trong những trại tù cải  tạo khắc nghiệt.

Tiếc rằng những cảnh địa ngục trần gian do Cộng sản miền Bắc gây ra cho miền Nam sau 1975 đã không được Trịnh công Sơn ghi lại trong bất cứ bài hát nào của ông sáng tác sau 1975. Trái  lại ông còn viết những bài  ca ca ngợi thanh niên xung phong (Em ở nông trường, em ra biên giới) hay ca ngợi thủ đô Liên xô (Ánh sáng Mạc tư khoa) sau khi được Cộng sản cho đi tham quan cái nôi của chủ nghĩa Cộng sản. Đó là lý do tại sao người Việt hải ngoại tỵ nạn Cộng sản vẫn có ác cảm với Trịnh công Sơn, một người nghệ sĩ ngây thơ về chính trị  và đã làm những chuyện có lợi cho Cộng sản trước và sau 1985.

Trịnh công Sơn có cái đau chân thành trước sự đổ vỡ tang thương do chiến tranh mang lại nhưng không có đủ tầm nhìn tỉnh táo và khôn ngoan để nhìn  thấy thủ phạm tàn ác gây ra cuộc nội chiến oan trái và tủi nhục này.
Không bao giờ có thể nói chuyện hòa hợp hòa giải với bọn Cộng sản Việt Nam được vì chúng là bọn thú đội lốt người, không có sự tỉnh thức và tình yêu thương đồng loại. Cho nên chúng là thủ phạm gây ra sự chết chóc oán thù giữa những người Việt trong chiến tranh cũng như sau chiến tranh. Một sự hòa hợp hòa giải thật sự giữa hai miền Nam Bắc sẽ có khi chế độ Cộng sản sụp đổ.

Làm sao nói chuyện tha thứ, hòa giải với bọn người độc ác Cộng sản khi cách đây không lâu chúng liên lạc với chính phủ Nam Dương yêu cầu đập phá bức tượng mà thuyền nhân dựng lên ở trại tỵ nạn Galang để tưởng nhớ chuyện vượt biển? Từ trong những trại cải tạo sau 1975 có những câu thơ đưa ra ngoài của người lính miền Nam bại trận đang sống cảnh “cá chậu chim lồng”  nói lên sự uất ức của kiếp tù đày dưới chế độ Cộng sản sau 1975: “Bao năm chinh chiến ta gần gũi. Giờ đã thanh bình lại biệt ly.”

 Trong thời chinh chiến thế mà vợ chồng vẫn có cơ hội sống chung gần gũi nhau. Sau biến cố đổi đời 30 tháng 4 năm 1975 người quân nhân miền Nam phải vào tù để hứng chịu những đòn thù độc ác dã man của Cộng sản và phải xa lìa, cách biệt vợ con. Một số không may rũ xác trong tù và vĩnh viễn không còn ngày trở về đoàn tụ với gia đình vợ con.

Nói chung, Nguyễn bắc Sơn và Lưu quang Vũ đã nhìn thấy cuộc chiến tranh vô nghĩa diễn ra trên quê hương Việt Nam trong đó người Việt tận tình giết người Việt vì chủ nghĩa đã khoác tấm áo ý thức hệ lên hai miền. Máu người Việt Nam đổ xuống, làng xóm Việt Nam nát tan vì bom đạn do lãnh tụ hai miền không ý thức được vai trò tay sai của mình, suốt ngày tìm đủ trăm phương ngàn kế và những phương tiện cùng vũ khí quân sự giết hại anh em đồng bào ruột thịt của mình mà cứ coi đó là chính nghĩa tất thắng. Thật là đau buồn và tủi hổ cho những người mang dòng máu Việt Nam mà không ý thức được thân phận nhược tiểu của đất nước mình, chỉ biết đánh dấm giết hại đồng bào theo chiến lược toàn cầu của ngoại bang.

Máu của người Việt đổ ra trong chiến tranh chống ngoại xâm đẹp đẽ và xứng dáng bao nhiêu thì máu người Việt đổ ra vì nội chiến nồi da xáo thịt oan uổng và đau đớn bấy nhiêu. Hy vọng người Việt từ nay sẽ có sự tỉnh thức để anh em một nhà từ nay không còn chém giết nhau một cách ngu xuẩn và u mê nữa. Cầu mong mẹ Việt Nam sẽ phù hộ cho các con của mẹ có được sự tỉnh thức đó từ nay. Ai  là người dân Việt cũng đều nên  có nhận thức và lòng yêu thương về con người và đất nước Việt Nam như hai người lính Nam, Bắc Nguyễn bắc Sơn và Lưu quang Vũ.

Xin kết thúc bài viết bằng những lời thơ của Hòa thượng Quảng Độ, một vị cao tăng mấy mươi năm qua đã hết lòng tranh đấu cho đất nước và con người Việt Nam. Những dòng thơ truyền cảm của thầy sẽ là những dòng nước Cam lộ thiêng liêng tưới mát những hận thù, mất mát của một thời kỳ mất mát và đau thương do sự vô minh, thù hận của bọn tay sai ngoại bang gây ra cho đất nước và con người Việt Nam.
 
TRỜI  Đà SÁNG
Vào  một  buổi  chiều  mưa
Trời  nhà  tù  buồn  thảm
Như  ngày  ba  mươi  tháng  tư
Năm  bảy  lăm  lịch sử  qua  rồi
Bên  cửa  sắt  xà  lim  tăm  tối
Tôi  đứng  nhìn  những  giọt  mưa  rơi
Từ  mái  nhà  đổ  xuống
Lênh  láng  chan   hòa
Trông  như  những  dòng  nước  mắt
Của  muôn  vạn  người  dân  vô  tội
Đã   chảy  ra
Khi  trải  qua  một cuộc  đổi  đời
Gió  rít  từng  cơn
Mưa  tuôn  càng  mạnh
Lòng  trống  lạnh  bồi  hồi
Tôi  nhìn  quanh  tôi
Bốn  bức  tường  dày  đặc
Bóng  tối  phủ  đầy
Rồi  đưa  mắt  nhìn  ra  phía  chân  trời
Tôi  tìm  trong  tưởng  tượng
Một  nơi  trú  ẩn  sáng  tươi
Nhưng  hoàn  toàn  mờ  mịt
Cũng  như   xà  lim  tăm  tối  của  tôi
Miền   Nam ôi!
Tôi  thầm  gọi
Đây  là  Miền  Nam  trong  căn  phòng  giam  chật  hẹp  âm  u
Ngoài  kia  là  Miền  Nam  trong  một  nhà  tù  rộng  lớn
Còn  có  nơi  nào  yên  ổn
Xin  chỉ  cho  tôi  lẩn  trốn
Hỡi  Miền  Nam  thương  mến  của  tôi  ơi!
Đêm  xuống  rồi  và  mưa  đã  ngừng  rơi
Sau  hồi  kiểng  hiệu  vang  lên
Toàn  khu  nhà  tù  chìm  vào  yên  lặng
Yên  lặng  như  một  nấm  mồ  hoang  vắng
Giữa  miền cát  trắng  bao  la
Và  nằm  trong  căn  nhà  mồ
Tôi  không  thấy  gì  nữa  cả
Trừ  những  bóng  ma
(vai  mang  khẩu  súng  AK)
Thỉnh  thoảng  chập  chờn  qua  gang  cửa  gió
Đêm  khuya  đã  đưa  tôi  vào  giấc  ngủ
Một  giấc  ngủ  thật ngon
Thời  gian  lặng  lẽ
Trôi  theo  định  luật  vô  thường
Và  mơ  màng
Tôi  nghe   đâu  đây  tiếng  chim  hót  véo  von
Tôi  choàng  dậy
Ô  kìa!
Thì  ra  trời  đã  sáng
Từ  phương  Đông
Vầng  thái  dương  hiện  lên  chói  rạng
Mở  đầu  một  ngày  rực  rỡ  ánh  hào  quang
                       (Nhà xuất bản Quê mẹ- Pháp)
 
Ánh hào quang rực rỡ phát ra từ những tia nắng chói lọi buổi sớm mai mà Hòa thượng Quảng Độ nhìn thấy sau một đêm tăm tối trong nhà tù chính là tương lai tươi sáng của một nước Việt Nam giàu mạnh, độc lập, hạnh phúc sau bao nhiêu năm hận thù đen tối, giết chóc bạo tàn. Mong sao ngày ấy sẽ tới với bao nhiêu rộn rã vui mừng của người dân Việt trước viễn  ảnh một nước Việt Nam thương yêu, no ấm, huy hoàng.
 
Los Angeles, một sớm mai mát mẻ, trong sáng giữa tháng 12 năm 2009