Trao đổi ý kiến về “Ải Nam Quan trong hiện tại” |
Tác Giả: Mai Thái Lĩnh | |||
Thứ Bảy, 17 Tháng 4 Năm 2010 18:10 | |||
Trong tình hình mà tự do tư tưởng và tự do ngôn luận vẫn còn là một ước mơ chưa có thực của nhân dân ta – nhất là của giới trí thức, sinh viên và học sinh quốc nội, việc phổ biến rộng rãi những bài viết thuộc các đề tài “nhạy cảm” (bị cấm kỵ) đến độc giả ở khắp nơi là một thành quả đáng mừng. Nó chứng tỏ sức mạnh của Internet trong thời đại mà Tự do Internet (Internet Freedom) đang dần dần trở thành mục tiêu hàng đầu không chỉ của nhân dân ta mà của cả thế giới – kể cả nhân dân Trung Quốc. Như tôi đã nói trong lời phi lộ, do gặp khó khăn trong việc sưu tầm và đánh giá tư liệu, bài viết này chưa thể trở thành một công trình nghiên cứu khoa học mà chỉ có thể được coi như một bài viết thuộc thể loại báo chí. Những kết luận nêu ra trong bài viết chỉ là những kết luận tạm thời, thậm chí là những phỏng đoán, mặc dù là phỏng đoán có chứng cứ. Cần bổ sung thêm nhiều tư liệu, nhiều chứng cứ để biến chúng thành những kết luận, những khẳng định mang tính khoa học. Tôi đã cố gắng tìm đọc những ý kiến phản hồi xung quanh bài viết. Trong bài này, chỉ xin nói rõ thêm về một số vấn đề mà anh Trương Nhân Tuấn đã nêu ra trong một bài viết khá chi tiết đăng trên trang mạng talawas vào ngày 22.3.2010 . Do khuôn khổ của một bài báo, chỉ có thể đề cập đến một số vấn đề, những điểm còn lại sẽ dành lại cho những dịp khác. 1) Về cột mốc số 19: Ảnh 1: Trích biên bản ngày 21.4.1891 của Uỷ ban Phân định Biên giới Việt-Trung, Ảnh 2: Ảnh cột mốc 19 do Bộ Ngoại giao VN công bố Tạm dịch: trên đỉnh, trước mặt đồn (hay công sự) Kouei Tao của Trung Hoa. Như vậy, cột mốc 19 nằm trên đỉnh đồi chứ không phải ở dưới thấp. Khi Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố bức ảnh chụp cột mốc số 19 (ảnh 2), họ đã vô tình chứng minh cho việc cột mốc biên giới đó đã bị dời đi so với đường biên giới pháp lý cuối thế kỷ 19. Qua sự kiện này, có thể nói những tài liệu quý giá mà anh Trương Nhân Tuấn bỏ công sưu tầm đã góp phần rất lớn cho việc nghiên cứu chủ đề “Ải Nam Quan”, nhất là trong tình trạng thông tin về chủ đề này bị che giấu, bưng bít hay xuyên tạc. Vấn đề đặt ra cho chúng ta là: cột mốc này nằm trên đỉnh của quả đồi nào? Căn cứ vào ảnh 3 và ảnh 4, ta thấy cột mốc đó phải nằm trên đỉnh của quả đồi ở phía đông của Ải Nam Quan (phía bên phải của hai tấm ảnh): Ảnh 3 : Ải Nam Quan nhìn từ phía Việt Nam Ảnh 4 : Ải Nam Quan nhìn từ phía Việt Nam Trong tấm ảnh số 5 sau đây, quả đồi này nằm ở phía tay trái (vì đây là ảnh chụp từ phía Trung Quốc): Ảnh 5 : Ải Nam Quan nhìn từ phía Trung Quốc Ảnh 6 : Quả đồi phía đông của Hữu Nghị Quan ngày nay Ảnh 7 : Quân Pháp đầu hàng quân Nhật (1940) Ảnh 8 : Tòa nhà kiểu Pháp tại Hữu Nghị Quan hiện nay Điều cần nhấn mạnh là: cho dù hai tòa nhà đó không phải là một, lập luận tôi nêu trên đây vẫn có thể đứng vững. Tại Long Châu, tòa lãnh sự của Pháp được xây theo lối Pháp. Ở vùng nhượng địa Quảng Châu Loan (bán đáo Quỳnh Châu, Quảng Đông), cả một khu phố lớn được xây cất theo lối Pháp. Ở Thượng Hải, mỗi khu phố là một nét kiến trúc khác nhau, có nơi giống Anh vì là tô giới Anh, có nơi giống Pháp vì thuộc tô giới Pháp v.v…Ta không thể dựa vào lý do tòa nhà xây theo lối Pháp mà kết luận rằng nhà đó của Pháp.” Điều chúng ta có thể đồng ý với nhau là: trên lãnh thổ Trung Hoa, có thể có rất nhiều ngôi nhà xây theo kiểu Pháp. Nhưng nếu là nhà xây trong tô giới Pháp hoặc là tòa lãnh sự của Pháp thì không thành vấn đề, vì người Pháp xây nhà kiểu Pháp trên lãnh thổ một quốc gia khác là chuyện bình thường. Ở các vùng tô giới hay nhượng địa, việc nhà cửa được xây theo kiểu Pháp hay kiểu Anh cũng là điều hoàn toàn dễ hiểu. Vấn đề là tại sao chính phủ Trung Quốc (nhà Thanh hay Quốc dân Đảng?) lại xây trụ sở của một cơ quan công quyền ngay tại biên giới mà lại xây theo kiểu Pháp thay vì theo kiểu Trung Hoa? Hơn nữa, cho dù chính phủ Trung Hoa ngày xưa có làm cái công việc đáng gọi là kỳ cục đó thì chính phủ Trung Quốc ngày nay chắc hẳn phải có vô số bằng chứng để chứng minh lai lịch của Pháp Quốc Lầu; tại sao lại phải bịa đặt chuyện tòa nhà đó được xây dưới thời vua Quang Tự? Đó mới là lý do khiến chúng ta đặt nghi vấn. Xin lưu ý rằng khu vực ải Nam Quan thuộc tỉnh Quảng Tây, là địa phương mà chính quyền Trung Quốc gọi là Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây (Zhuang Autonomous Region of Guangxi) . Đó là một vùng kém phát triển về kinh tế và văn hóa so với tỉnh Quảng Đông – một trong những tỉnh giàu có và văn minh nhất của Trung Quốc ngay từ thời trung cố. Ảnh 9 : Lạng Sơn – Các trại lính Nguyên văn lời chú thích: “Liên quân Pháp-Việt (trường Sĩ quan Đồng Đăng). Những người bảo vệ Ải Nam Quan thất thủ trước quân Nhật (25.09.1940)”. Về việc có hay không có “trường sĩ quan Đồng Đăng”, tôi xin dành câu trả lời cho tác giả Chân Mây hoặc những người am hiểu về tình hình quân sự dưới thời Pháp thuộc. Tuy nhiên nếu bỏ cụm từ “trường Sĩ quan Đồng Đăng” thì câu chú thích sau đây: “Liên quân Pháp-Việt – Những người bảo vệ Ải Nam Quan thất thủ trước quân Nhật” vẫn hoàn toàn có ý nghĩa, bởi vì “bảo vệ ải Nam Quan” là bảo vệ phòng tuyến biên giới mà trung tâm là ải Nam Quan, chứ không phải là “bảo vệ Nam Quan cho người Trung Hoa”. Anh Trương Nhân Tuấn nhận xét về Đồng Đăng như sau: “Đồng Đăng là một huyện nhỏ, nếu không nói là một làng nhỏ gần biên giới, cách Nam Quan 2km5. Dưới thời Pháp thuộc, Đồng Đăng có một đồn binh gồm vài chục lính biên phòng. Đây là một vùng còn rất nghèo của Việt Nam, huê lợi chính ngày xưa là cây hồi (đinh hương). Dân số phần lớn là người dân tộc gốc Tày, Nùng. (…) Người ta không thể dựng một trường đào tạo sĩ quan, những người chỉ huy tương lai, ở một vùng biên giới cực bắc, đèo heo hút gió, việc tiếp liệu khó khăn, thường xuyên bị thổ phỉ quấy nhiễu.” Đây là một suy luận hoàn toàn mang tính chủ quan. Mặc dù Đồng Đăng chỉ là một làng nhỏ, nhưng ở đó không phải chỉ có “vài chục lính biên phòng”. Làng Đồng Đăng thì nhỏ, nhưng ở đó người Pháp vẫn bố trí một (hay nhiều) trại lính (casernes) rất lớn. Chỉ cần nhìn vào tấm bưu ảnh số 791 của P. Dieulefils (ảnh 10) là có thể thấy điều đó. Cần chú ý là trên bưu thiếp ghi casernes (những trại lính) chứ không phải caserne (một trại lính). Ảnh 10 : Đồng Đăng – Các trại lính và Làng Tầm quan trọng của Đồng Đăng là do chỗ nó nằm ở giao điểm của hai trục đường bộ: từ Lạng Sơn đi Thất Khê, Cao Bằng (trong ảnh là đường 4A) và đường từ Lạng Sơn đi Bằng Tường (Quảng Tây – Trung Quốc) qua ngõ ải Nam Quan (xem ảnh 11). Người Pháp coi Lạng Sơn là cái chốt của cánh cửa mở ra phía đồng bằng Bắc Bộ (le verrou du delta tonkinois), do đó cần thiết phải bảo vệ Lạng Sơn. Tầm quan trọng của Đồng Đăng chính là ở chỗ nó án ngữ con đường đi đến Lạng Sơn, và là nơi có thể tiếp ứng cho phòng tuyến bảo vệ biên giới – mà trung tâm là ải Nam Quan. Có thể nói mất Đồng Đăng tất sẽ mất Lạng Sơn, mà mất Lạng Sơn thì đe dọa đến Hà Nội. Ảnh 11 : Trích bản đồ giao thông đường bộ 2004 Nói cách khác, một khi chưa chứng minh được lai lịch của Pháp Quốc Lầu phía sau Hữu Nghị Quan (mà tôi cho là bất minh), thì chúng ta vẫn có quyền nghi ngờ rằng tòa nhà đó trước đây là của người Pháp, nằm trong lãnh thổ của nước ta và bị phía Trung Quốc chiếm dụng. Chiếm dụng vào lúc nào, do chính phủ thời kỳ nào, đó là vấn đề chúng ta cần tiếp tục tìm hiểu. Nhưng giải thích theo kiểu của Đảng Cộng sản Trung Quốc hiện nay là một sự bịa đặt. Ảnh 12 : Lang Bian Palace thập niên 1930 Ảnh 13 : Khách sạn Sofitel Dalat Palace hiện nay Chỉ xin đơn cử trường hợp của khách sạn Lang Bian Palace ở Dalat (về sau được gọi tên là khách sạn Dalat Palace, nay đổi tên là Sofitel Dalat Palace). Quan sát hai tấm ảnh (ảnh 12 và ảnh 13), ta thấy diện mạo bên ngoài rất khác nhau, tưởng chừng như hai toà nhà khác nhau. Trong thực tế, đó chỉ là một tòa nhà được trùng tu, cải tạo chứ không phải đập bỏ để xây lại. 3) Hữu Nghị Quan và Ải Nam Quan: Mặc dù chưa thể chứng minh được một cách thật sự khoa học rằng vị trí của Nam Quan đã thay đổi khi cửa ải được xây lại, nhưng ngược lại cũng không có đủ bằng chứng khoa học để chứng minh rằng Hữu Nghị Quan đã được xây dựng ngay tại vị trí cũ của ải Nam Quan. Tôi đã nêu 5 lý do để hoài nghi về vị trí của hai cửa quan. Nếu có ai bác bỏ được cả 5 lý do đó, mới có thể khẳng định: vị trí của Ải Nam Quan và vị trí của Hữu Nghị Quan là một. Sự hoài nghi này là hoài nghi khoa học, hoài nghi có phương pháp, không phải hoài nghi do thành kiến, tình cảm hay do tự ái dân tộc. Ngoài những lý do đó, còn có rất nhiều dấu hiệu khiến chúng ta phải nghi ngờ. Trước hết là hai bức tường thành hai bên Ải Nam Quan. Tại Hữu Nghị Quan hiện nay, du khách đã chụp được ảnh của một trong hai bức tường thành (ảnh 14). Bức tường trong tấm ảnh này rõ ràng là bức tường ở phía tây của Hữu Nghị Quan. Nhìn từ phía Trung Quốc, bức tường này nằm phía bên phải của cửa quan. Tôi đã cố tìm xem có tấm ảnh nào chụp bức tường ở phía đông hay không, nhưng không tìm thấy. Không rõ có độc giả nào chụp được ảnh của bức tường ở phía đông của Hữu Nghị Quan hiện nay? Ngoài bức tường được bảo quản tốt như trong tấm ảnh nói trên, trong vùng phụ cận Hữu Nghị Quan còn có bức tường hoang phế như trong tấm ảnh 15. Ảnh 14 : Tường thành tại Hữu Nghị Quan hiện nay; Ảnh 15 : Tường thành cổ bỏ hoang Ảnh 16 : Vòm cổng bị bỏ hoang; Ảnh 17 : Trấn Nam Quan đầu thập niên 1950 Về phía người Việt chúng ta, có lẽ không ai có thể đặt chân được đến những nơi đó. Ảnh 18 : Ải Nam Quan tháng 12 năm 1949 Như tôi đã từng nhận xét ngay trong bài viết “Ải Nam quan trong lịch sử”, chiến tranh có thể làm cho ải Nam Quan bị hư hại nhưng không thể phá hủy hoàn toàn cửa ải này và hai bức tường hai bên. Hư hại do chiến tranh có thể chỉ là cái cớ để phía Trung Quốc tìm cách bỏ cửa ải cũ, tường cũ để xây dựng lại cửa ải mới, tường mới nhằm thực hiện âm mưu chiếm đất. Ảnh 19 : Sơ đồ hướng dẫn du lịch lại Hữu Nghị Quan Nhưng đây chỉ là mong muốn của những người Việt yêu nước mà thôi – một mong muốn rất khó trở thành hiện thực. Xem bản sơ đồ hướng dẫn du lịch (ảnh 19), chúng ta thấy trong phạm vi của Hữu Nghị Quan có rất nhiều doanh trại quân đội và các pháo đài; do đó du khách không thể tự do đi lại và chụp ảnh như trong một công viên bình thường được. 4) Về những tài liệu được gọi là “lịch sử” của phía Trung Quốc: Ảnh 20 : Bảng quảng cáo lầu thành kiểu Pháp; Ảnh 21 : Nước Âu Lạc thời thuộc Hán Hãy thử trích một đoạn trong tấm bia gỗ mà anh Trương Nhân Tuấn giới thiệu: Không rõ căn cứ vào đâu mà phía Trung Quốc cho rằng “Hữu Nghị Quan” xây vào đời nhà Hán”? Bởi lẽ vào thời đó, ranh giới giữa Việt Nam và Trung Quốc chưa lùi đến tận vùng biên giới như sau này, làm sao lại có cái-gọi-là Ung Kê Quan tại nơi đó? Theo Đào Duy Anh trong cuốn Đất nước Việt Nam qua các đời, địa bàn của nước Âu Lạc bao gồm “cả dải đất miền Bắc Việt Nam từ Hoành Sơn cho đến miền Nam tỉnh Quảng Tây”. Về sau, Triệu Đà chiếm Âu Lạc, chia thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Khi nhà Hán diệt nhà Triệu (năm 111 trước công nguyên), họ chiếm đất Âu Lạc, nhưng vẫn giữ nguyên hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Nhà Hán chiếm thêm đất ở phía Nam hai quận của nước ta, đặt làm quận Nhật Nam, sau đó đem ba quận mới chiếm gộp với bốn quận ở miền nam Trung Quốc là Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố và hai quận ở đảo Hải Nam là Châu Nhai và Đạm Nhĩ để hình thành bộ Giao Chỉ. Quận Giao Chỉ là một trong 9 quận của bộ Giao Chỉ. Phạm vi của quận Giao Chỉ – quận phía bắc của nước ta thời đó, rộng đến đâu? Học giả Đào Duy Anh viết: “Như thế thì đất quận Giao Chỉ ở thời Hán là đất Bắc Bộ ngày nay, trừ miền tây-bắc còn ở ngoài phạm vi thống trị của nhà Hán, một góc tây-nam tỉnh Ninh Bình bấy giờ là địa đầu của quận Cửu Chân và một dải bờ biển từ Thái Bình đến huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình, bấy giờ chưa được bồi đắp; lại phải thêm vào đấy một vùng về phía tây-nam tỉnh Quảng Tây.” Tóm lại, quận Giao Chỉ bao gồm cả một phần đất của Quảng Tây ngày nay. Như vậy, Ung Kê thuộc quận Uất Lâm chứ không thuộc quận Giao Chỉ. Ung Kê Quan (nếu có) phải nằm rất xa Lạng Sơn, ở tận lưu vực của sông Tả giang, trong địa phận của tỉnh Quảng Tây, chứ làm sao có thể nằm ở vị trí của Hữu Nghị Quan ngày nay? Nhìn vào tấm bản đồ in kèm trong cuốn sách nói trên, chúng ta có thể thấy ranh giới của Giao Chỉ nằm ở tận Quảng Tây, ở lưu vực của sông Tả Giang (ảnh 21). Để có thể kết luận “Ải Nam Quan được xây dựng cách đây vào khoảng 2 ngàn năm”, các nhà sử học và địa lý học Trung Quốc phải bác bỏ được lập luận của học giả Đào Duy Anh mà tôi vừa trình bày tóm tắt. Nói chung, phần lớn các tài liệu về lịch sử của Trung Quốc hiện nay đều lẫn lộn thực hư, nhất là khi chúng được dùng để phục vụ cho mục tiêu chính trị, vì thế chúng ta phải cảnh giác, không thể tin hoàn toàn. Điều tôi muốn nhấn mạnh là: không những ghi nhiều điều bịa đặt trong các tấm bia bằng gỗ, đá, xi-măng ở Hữu Nghị Quan, phía Trung Quốc còn đưa lên mạng để tuyên truyền cho người Việt chúng ta. Trong phần chú thích, anh Trương Nhân Tuấn viết như sau: “Về trích dẫn từ trang www.sinoviet.com: “Năm Quang Tự đời Thanh, tri phủ Thái Bình Cam Nhữ Lai tái dựng lại lầu ải bằng một kiến trúc lâu đài kiểu Pháp (Pháp Quốc Lầu), dỡ bỏ Miếu Quan Đế và Đền Chiêu Trung. Sau này tuy có tiến hành nhiều lần tu bổ, nhưng vẫn giữ nguyên mạo diện Pháp Quốc Lầu. Trong thời kỳ chiến tranh chống Nhật, thành lầu lại bị phá hủy, nay chỉ còn lại tầng dưới tức là cổng thành hình vòm.” Theo tôi, chúng ta không nên dẫn những nguồn không kiểm chứng được. Nguồn dẫn trên là một nguồn không thể kiểm chứng. Dữ kiện đưa ra có nhiều điểm sai ấu trĩ mà mọi người đều biết như nhân vật Cam Nhữ Lai. Làm thế nào ông Cam Nhữ Lai một đại thần nhà Minh triều Ung Chính, làm án sát tỉnh Quảng Tây, người sửa chữa cổng Nam Quan năm 1725, lại tái sinh vào làm quan lại thời Quang Tự nhà Thanh? Họ đưa những nguồn tin sai lạc này ra để làm chi?” Trái với ý kiến của anh Trương Nhân Tuấn, nguồn tin trên là một nguồn tin hoàn toàn có thể kiểm chứng, vì nó nằm ngay trên trang mạng SINOVIET (gồm ba ngôn ngữ: Hoa, Anh và Việt). Đoạn dẫn chứng của tôi nằm trong bản tiếng Việt, ở mục Mậu dịch biên giới, bài giới thiệu về “Cửa khẩu Hữu Nghị Quan” Theo lời tự giới thiệu của trang mạng Sinoviet (bản tiếng Việt) thì Mạng Khoa học Công nghệ và Thương mại Trung-Việt là một trong những mạng thứ cấp (sub-network) của Mạng Thông tin Khoa học Công nghệ Quảng Tây; phiên bản Trung văn của trang mạng này vận hành từ tháng 7 năm 2002 “đã gây ảnh hưởng rộng lớn trong đất nước Trung Quốc”. Trong số các đối tác Việt Nam được giới thiệu, chúng ta thấy có: Trung tâm Thông tin Bộ KH&CN Việt Nam, Trường Đại học Nông nghiệp I Việt Nam và Trung tâm Xúc tiến Thương mại Nông nghiệp và Nông thôn Việt Nam. Trang mạng Sinoviet là một trang mạng “hợp tác”, được xây dựng và bảo trì bởi hai cơ quan GXSTI (Trung Quốc) và VISTA (Việt Nam) GXSTI là chữ viết tắt của Guangxi Science and Technology Information Network Center (Trung tâm mạng thông tin khoa học và công nghệ Quảng Tây). Địa chỉ của Trung tâm này là số 55 đường Tân Dân, Thành phố Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc; trang mạng tiếng Việt của Trung tâm có địa chỉ: http://vn.gxsti.net. VISTA là chữ viết tắt của Mạng Thông tin Khoa học và Công nghệ Việt Nam (Vietnam Information for Science and Technology Advance); mạng này do Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NACESTI) thiết kế, xây dựng, quản lý và phát triển. Địa chỉ: số 24, Lý Thường Kiệt, Q. Hoàn Kiếm, Hà Nội, ĐT: 04-9349126. Fax: 04-9349127. Anh Trương Nhân Tuấn viết: “Dữ kiện đưa ra có nhiều điểm sai ấu trĩ mà mọi người đều biết như nhân vật Cam Nhữ Lai. Làm thế nào ông Cam Nhữ Lai một đại thần nhà Minh triều Ung Chính, làm án sát tỉnh Quảng Tây, người sửa chữa cổng Nam Quan năm 1725, lại tái sinh vào làm quan lại thời Quang Tự nhà Thanh? Họ đưa những nguồn tin sai lạc này ra để làm chi?” Về điểm này, tôi cũng xin đính chính: Cam Nhữ Lai nguyên là án sát của tỉnh Quảng Tây dưới thời vua Ung Chính nhà Thanh (chứ không phải nhà Minh như anh Trương Nhân Tuấn đã viết). Năm 1725, ông này đã tham gia vào việc trùng tu lại Trấn Nam Quan. Nếu ông ta sống được đến năm 1896 để xây dựng Pháp Quốc Lầu thì ít nhất ông ta cũng phải được 200 tuổi. Đây quả là một chi tiết bịa đặt có tính khôi hài. Cũng nên nói thêm là gần đây, GXSTI và VISTA còn “hợp tác” để làm nên một trang mạng khác có tên là ChinAsean. Ngày 13.6.2009 vừa qua, bài giới thiệu cửa khẩu Hữu Nghị Quan nói trên của Sinoviet đã được chép nguyên văn (kể cả lỗi chính tả) để đăng trên trang mạng này . Như vậy, “dữ kiện… có nhiều điểm sai ấu trĩ” mà anh Trương Nhân Tuấn phản ứng gay gắt bây giờ lại có điều kiện nhân đôi để phổ biến rộng rãi trong những người đọc tiếng Việt. Sau cùng, câu hỏi mà anh Trương Nhân Tuấn đặt ra: “Họ đưa những nguồn tin sai lạc này ra để làm chi?” là một câu hỏi khá thú vị. Theo tôi, nên gửi câu hỏi này đến cho các cấp có thẩm quyền của Việt Nam – nhất là Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NACESTI), cơ quan đang hợp tác với Trung tâm mạng Thông tin Khoa học và Công nghệ Quảng Tây (GXSTI) để xây dựng và bảo trì trang mạng này. Điều kỳ lạ là những “điểm sai ấu trĩ” hay những sự xuyên tạc lịch sử, bóp méo thực tế như thế không phải là hiếm trên các trang mạng hoặc sách báo của Trung Quốc. Kể từ khi trang mạng Bauxite Việt Nam ra đời (tháng 4 năm 2009) đến nay, nhiều độc giả hay cộng tác viên đã phát hiện nhiều chuyện động trời tương tự. Nhưng trong khi nhân dân – nhất là giới trí thức và các sinh viên, học sinh yêu nước đã và đang ra sức cảnh báo về những điểm sai trái động trời đó thì một số nhà lãnh đạo từ địa phương cho đến trung ương vẫn bình chân như vại, vẫn tiếp tục “ôm hôn thắm thiết” hay bình thản “siết chặt tay hữu nghị” với các nhà lãnh đạo của đất nước Trung Quốc hay của tỉnh Quảng Tây. Thái độ coi thường dư luận, khinh rẻ nhân dân đó mới thật sự là điều khó hiểu. Người dân ngày càng thắc mắc: phải chăng việc các nhà lý luận và tuyên truyền của Đảng ra sức hô hoán về cái-gọi-là “nguy cơ diễn biến hòa bình” đến từ phương Tây chính là chiến thuật tung hỏa mù nhằm che giấu một quá trình “diễn biến không – hòa bình” đến từ một hướng khác? Chính quá trình “diễn biến không – hòa bình” này mới thật sự là nguy cơ lớn nhất của đất nước, bởi vì nó đã gặm nhấm đường biên giới trên bộ, nuốt mất quần đảo Hoàng Sa và đang lăm le nuốt trọn quần đảo Trường Sa, khống chế vùng tài nguyên ở Biển Đông, đồng thời từng bước tìm cách hủy hoại những giá trị tinh thần của dân tộc ta, nhằm đẩy nhân dân ta trở lại với thân phận nô lệ của thời kỳ “nghìn năm Bắc thuộc” – với những hình thức mới và trong hoàn cảnh mới.
|