Tâm Tư Tổng Thống Thiệu |
Tác Giả: Nguyễn Tiến Hưng | |||
Thứ Ba, 06 Tháng 10 Năm 2009 15:16 | |||
Thoát chết lúc ra đi Ðám đông đứng dọc đại lộ ngước lên nhìn những chiếc phản lực xé mây tung cánh sắt. Trên đài danh dự, quan khách chăm chú theo rõi cuộc duyệt binh vĩ đại. Các binh chủng trong những bộ quân phục đủ mầu theo nhau đi diễn hành. Từng lớp rồi lại từng lớp, xe tăng thiết giáp lừ lừ lăn bánh, trông thật oai hùng. Bất chợt, một chiếc xe dừng lại ngay trýớc khán ðài. Viên sĩ quan chỉ huy bước xuống, rồi ðứng vào thế nghiêm giơ tay chào. Người chủ tọa ngồi ghế giữa ðứng lên ðể chào lại. Nhưng ông vừa ðứng lên thì tiếng súng nổ đùng đùng, một loạt đạn bắn xả vào hàng ghế danh dự. Đó là quang cảnh tại Cairô vào ngày 6 tháng 10, 1981. Hôm ấy là ngày Ai Cập kỷ niệm chiến thắng Do Thái năm 1973. Tổng thống Anwar El Sadat hãnh diện chủ tọa cuộc diễn binh với những khí giới tối tân nhất. Khi ông đứng lên để chào người sĩ quan, những kẻ sát nhân từ trong xe nhảy bổ ra hô lên thật to "Death to Pharaoh," (Chết cho Pharaô) rồi bắn ông ngã gục. Cùng chịu số phận với ông là một số quan khách, gồm cả Đại sứ Cuba, một tướng lãnh, và một giám mục. Ngồi xem tivi chiếu cảnh này buổi sáng hôm ấy, chúng tôi giật mình nhớ lại câu chuyện Tổng thống Thiệu kể chỉ mới gần một năm trước đó. Ông kể rằng vào ngày Quân Lực năm 1974 (20 tháng 6), ông rất ưu tư về nguy hiểm bị hạ sát trong lúc duyệt binh. Mà cũng dễ thôi, vì phải ngồi ngay trên khán đài để duyệt từng đoàn quân với đầy đủ vũ khí các loại, trên không thì A-37, F5 bay rợp trời, làm sao mà kiểm soát cho hoàn toàn được là tất cả vũ khí đều không có nạp đạn như luật lệ về diễn binh quy định? Nếu có âm mưu ám sát thì chỉ cần gài một vài người ãn mặc quân phục ðeo súng có nạp ðạn ði lẫn vào ðoàn quân diễn hành là ðủ rồi. Trong Chương 21, chúng tôi có trích dẫn về dịp ông Thiệu ði duyệt binh một lực lưc lượng năm ngàn nhân dân tự vệ ðầy ðủ võ trang đứng dàn chào. Ông nói với nhà báo Oreana Fallaci: "Muốn giết tôi thì chỉ cần một viên đạn đến từ một khẩu súng là xong."Chúng tôi hỏi Tổng thống Thiệu là tại sao trong ngày 20 tháng 6 những năm trước cũng có duyệt binh mà ông không lo, chỉ có năm 1974? Ông giải thích rằng sau Hiệp định Paris là tới lúc phải thành lập một 'Hội Đồng Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc', một hình thức chính phủ liên hiệp với Mặt Trận Giải phóng. Tiến bộ về việc này thì hầu như không có gì, và cuộc đàm phán ở La Celle St. Cloud gần Paris thì đã bị ngừng lại từ ngày 16 tháng 4, 1974. Ông Kissinger rất bất mãn và đang làm áp lực cho ông Thiệu phải làm lẹ việc này. Lúc ấy thì ông Kissinger rất mạnh vì ông Nixon thì hầu như bị tê liệt vì vụ Watergate, sắp phải từ chức. Đó là hè 1974. Đến mùa xuân 1975 thì có vụ ném bom Dinh Độc Lập.Trong suốt thời gian lãnh đạo, ông Thiệu đã gặp nhiều nguy hiểm, nhýng vụ ném bom sáng ngày 8 tháng 4 là lần ðầu tiên hành ðộng sát hại trở nên rõ ràng và cụ thể. Lúc ấy tin đồn thổi về đảo chính âm ỷ từ ngày này sang ngày kia. Sau khi mất Đà Nẵng thì đêm đêm, chúng tôi cũng thấy có nhiều binh sĩ canh gác tại các hành lang Dinh Độc Lập. Dù sao, độ nguy hiểm của vụ ném bom tương đối cũng không cao lắm, vì khuôn viên tòa nhà này rất rộng, thả vài quả bom mà trúng đúng mục tiêu thì cũng khó: khi chiếc máy bay nhào xuống thả bom đợt đầu, hai quả đã rõi xuống khu sân vườn. Tuy nhiên, chỉ trên vài tuần sau ðó, âm mýu ám sát lần cuối cùng ðã có khả năng thành công rất cao. Xuýt nữa thì ông Thiệu đã ra đi về thế giới bên kia chứ không phải sang Đài Loan. Và nếu đã xảy ra như vậy thì hằng năm Lễ Tưởng Niệm ông là ngày 25 tháng 4 chứ không phải 29 tháng 9. Chuyện này thì cho tới ngày tạ thế, chính Tổng thống Thiệu cũng đã không biết rõ. Bản thân chúng tôi cũng chỉ mới biết gần đây.Đảo chính, đảo chính! Theo như những chuyện Tổng thống Thiệu kể lại và nghiên cứu thêm thì chúng tôi đếm ra cũng đã có tới ít nhất là sáu lần ông bị đe dọa, hoặc vì một lý do nào đó làm ông cảnh giác về đảo chính. Trước hết, để kiểm điểm lại những nguy hiểm trong thời gian ông lãnh đạo, chúng tôi xin nhắc lại vài trýờng hợp ðã ghi trong cuốn KĐMTC để cho có mạch lạc:Năm 1968 Nguy hiểm đầu tiên là vào dịp bầu cử Tổng thống Hoa kỳ năm 1968. Sau vụ ông tháu cáy với Tổng thống Johnson vào giây phút cuối cùng (tuyên bố ngay trước ngày tuyển cử là không tham gia Hòa đàm Paris ) để giúp ông Nixon thắng cử, chính phủ Johnson đã phẩn nộ và Bộ trýởng Quốc Phòng Clark Clifford đã tính lật đổ ông. Từ đảo chính tới sát hại thì cũng không bao xa, như ðã xảy ra cho vị tiền nhiệm của ông. Tác giả Seymour Hersh trong cuốn "The Price of Power," sau khi đúc kết các tài liệu về vụ này đã tiết lộ rằng sau cuộc bầu cử 1968, chính ông Kissinger đã báo động cho phía Nixon về mưu đồ của Bộ trưởng Quốc Phòng Clifford và cảnh cáo: "Nếu ông Thiệu chịu chung một số phận với ông Diệm thì tất cả các dân tộc trên thế giới sẽ nghĩ rằng làm kẻ thù của Mỹ có thể là nguy hiểm, chứ làm bạn với Mỹ chắc chắn là chết"[1] TT Thiệu kể lại rằng trên đường từ Dinh Độc Lập tới Quốc Hội, ông hết sức lo ngại, có thể ông sẽ bị CIA ám sát nếu như TT Johnson và Phó TT Humphrey biết trước ðược là ông sắp sửa phản phé và bác bỏ kế hoạch hòa bình của Hoa kỳ, ngầm phá hoại cõ hội thắng cử của Humphrey. “Và nếu họ muốn ám sát tôi thì cũng dễ thôi. Rồi sau đó cứ việc đổ cho Việt cộng hoặc là do ‘âm mưu ðảo chính.' ” Khi kể về chuyện này, ông Thiệu cho rằng chính vì ông đã cưỡng lại áp lực của Mỹ lúc ấy mà kéo dài thêm ðời sống của VNCH ðược gần 6 nãm.Nãm 1972 Vào mùa thu 1972, sau khi ông Thiệu cứ nhất ðịnh không chịu chấp nhận ký Hiệp Định Paris , TT Nixon đã áp đảo tinh thần ông bằng cách nhắn khéo về đảo chánh. Trong bức thư đề ngày 6 tháng 10, 1972, Nixon viết: "Tôi yêu cầu Ngài cố áp dụng mọi biện pháp để tránh sinh ra sau này một tình huống có thể đưa tới những biến cố tương tự như biến cố mà chúng tôi đã ghê tởm năm 1963 và chính bản thân tôi cũng đã kịch liệt phản đối năm 1968.”Richard Nixon. Biến cố năm 1963 là đảo chánh và ám sát Tổng Thống Diệm mà chính ông Thiệu đã tham dự. Còn biến cố 1968 thì đã đề cập trên đây: chính Nixon và Kissinger đã cực lực phản đối và cứu được ông Thiệu. Nhưng tới 1972 thì lại đến lần hai ông này đi theo con đường cũ.[2] Về đe dọa của các ông Nixon – Kissinger thì hai chuyên viên trong Hội Đồng An Ninh Quốc gia là Roger Morris và Tony Lake đã viết cho Kissinger một phúc trình (ngày 21 tháng 10, 1972) trong đó có nói tới các phương cách lật đổ ông Thiệu. Sau này Morris xác nhận: "Tôi bảo Tony rằng hai đứa mình phải cho Henry hiểu rõ là ta sẵn sàng thanh toán Thiệu"[3]. Chắc là có mặc cảm về những đe dọa ấy nên sau này ông Kissinger cũng đã viết cho ông Thiệu vào đầu năm 1980: “Giá như ý định của Tổng Thống Nixon và của tôi là phản bội Ngài, thì chúng tôi đã có thể làm như thế hồi ðầu năm 1969 rồi.”Nãm 1973 Mặc dù những lời ðe dọa ghê gớm ấy, ông Thiệu vẫn chống ðối không chịu chấp nhận bản hiệp ðịnh. Nhưng khi ngày ðăng quang nhiệm kỳ hai ðã gần kề, Tổng thống Nixon muốn cho hình ảnh hòa bình chiếu sáng, ông đã không ngần ngại nói rõ hơn về việc ðảo chánh. Ông viết cho ông Thiệu: “Tôi nhất quyết cho phê chuẩn bản Hiệp Ðịnh vào ngày 23 tháng 1, và sẽ ký vào ngày 27 tháng 1, 1973 tại Paris. Tôi sẽ làm việc này dù phải làm một mình…Kết quả không tránh khỏi sẽ là việc cắt viện trợ quân sự và kinh tế ngay lập tức, mà dù có sự thay đổi về nhân sự trong chính phủ của Ngài cũng không thể cứu vãn được…” (Thư ngày 14 tháng 5, 1973). Trong ngôn ngữ chuyên môn về mối bang giao Hoa Kỳ-VNCH, "thay đổi nhân sự” là câu nói nhẹ, đồng nghĩa với việc đảo chính. Năm 1963, khi việc chuẩn bị lật đổ TT Ngô Đình Diệm đang tiến hành ráo riết, TT Kennedy, trong một buổi phỏng vấn với Walter Cronkite trên đài CBS, đã nhắc tới nhu cầu "thay đổi nhân sự.” Thông điệp ấy đã là tín hiệu ‘bật đèn xanh’ từ cấp cao nhất để cho tướng lãnh đảo chính. Ngày Quân lực 1974 Về nguy hiểm vào ngày này như đã đề cập trên đây, ông Thiệu thêm rằng ông biết vào lúc ấy ông không phải là người lãnh đạo thích hợp với kế hoạch ‘hòa bình trong danh dự’ của hai ông Kissinger và Nixon, nên đã luôn đề cao cảnh giác về khả năng loại trừ ông. Sự việc này có thể cắt nghĩa được là tại sao sau Hiệp định Paris ông cho thiết kế một trung tâm chỉ huy dưới lầu hầm Dinh Độc Lập. Đây là nõi được trang bị ðầy ðủ với máy phát ðiện, ðường ðiện thoại riêng biệt, ðài phát thanh, raðiô liên lạc với tướng lãnh, một cái giường nhỏ và một cái gối mây. Tổng thống Thiệu rất cẩn thận, luôn luôn sẵn sàng ðể ðề phòng những trường hợp biến loạn có thể xẩy ra.Ngày 8 tháng 4, 1975 Một quả bom thật to chọc thủng bãi trực thăng trên nóc Dinh Độc lập, lọt xuống rồi nổ tung. Ông Thiệu vừa ngồi xuống bắt đầu ăn tô phở ở một bàn nhỏ ngoài hành lang trên lầu bốn, cận vệ vội tới đưa ông vào ngay thang máy để xuống lầu hầm. Đầu tháng 4 là thời gian có nhiều chống đối từ mọi phía đòi ông Thiệu phải từ chức. Chúng tôi nghe vậy cũng thật ái ngại, nhưng thấy ông vẫn bình tĩnh, chỉ hơi cáu kỉnh khi nghe báo cáo về một số quý vị thuộc đảng Dân Chủ tại Quốc Hội đã quay lại chống ông. Về biến cố ngày hôm ấy, bà Thiệu kể là trái bom lại rơi trúng ngay chỗ mỏng nhất của bãi trực thăng. Mùi khét tỏa ra khắp nõi khi những tấm thảm giầy bốc cháy dữ dội. Lúc ấy bà bị kẹt cứng trong phòng vì cháu bé người làm ðang lo sắp xếp quần áo ðã sợ quýnh lên, tay run lẩy bẩy, không tìm và mở được cái khóa vào cầu thang. Một lúc sau mới có sĩ quan đến giúp bà xuống hầm trú ẩn. Khói bay lên nghi ngút làm bà như ngạt thở.Ngày 21 tháng 4, 1975 “Tôi sẽ nói cho ông Thiệu rõ tôi đã đi đến một kết luận vô tư là nếu ông ta không chịu từ chức thì các týớng lãnh dýới quyền ông sẽ bắt buộc ông làm ðiều này,” ðại sứ Martin báo cáo (ngày 21 tháng 4) cho Ngoại trýởng Kissinger về việc ông sẽ cố thuyết phục TT Thiệu từ chức. Ý ông đại sứ muốn nói là sẽ có đảo chính.Thoát chết lúc ra đi Sau khi Tổng thống Thiệu từ chức, tân Tổng thống Hương vẫn để cho ông lưu lại trong Dinh Độc Lập. Nhưng rồi có nhiều áp lực đòi ông Thiệu phải rời khỏi Việt Nam, vì nếu không thì phía Cộng sản không chịu điều đình với "một chính phủ Thiệu không Thiệu." Nhân dịp có tang lễ Tổng thống Tưởng Giới Thạch ở Ðài Loan, Ðại sứ Martin báo cáo về Washington: "Ông Hương nói ông ta sẽ ðề cử cả hai ông Thiệu và Khiêm làm Ðại sứ Lưu động và gửi hai người sang Ðài Loan mệnh danh là một phái ðoàn ðại diện ông ðể phúng ðiếu tang lễ ông Týởng Giới Thạch. Tôi nghĩ rằng mọi chuyện ðã đuợc sắp xếp với phía Đài Loan." Thực ra thì ngoài việc ông Thiệu phải ra đi để dễ hơn cho việc đàm phán về một giải pháp chính trị, Tổng thống Hương còn lo ngại cho sự an toàn của ông. Ông Đại sứ thêm: "Tổng thống Hương nói với tôi là ông ta lo ngại cho sự an toàn của cựu Tổng Thống Thiệu…Bởi vậy ông Hýõng yêu cầu chúng ta giúp cho ông Thiệu ra ði thật kín ðáo và sớm nhất có thể." Ngoài những mưu toan nguy hiểm cho ông Thiệu từ các phe phái, Tổng thống Hương còn để ý tới một khía cạnh cá nhân nữa: đó là sự bất hòa giữa hai người tướng lãnh: Nguyễn Văn Thiệu và Dương Vãn Minh. Sự bất hòa này thì đã có mầm mống từ lâu và mọi người ðều biết. Như chúng tôi ðã đề cập tới trong Chương 11, chính ông Thiệu đã cố vấn Tổng thống Hương là chớ có ðề cử Tướng Minh làm Thủ tướng vì sẽ rất nguy hiểm. Việc ông Minh không ưa gì ông Thiệu thì cũng đã công khai. Bởi vậy vào giờ chót, Tổng thống Hương muốn ðưa ông Thiệu ra khỏi Việt Nam trước khi ông Minh lên nắm chính quyền. Ông Martin viết: "Tổng Thống Hương nhất quyết là ông Thiệu phải ra khỏi nước ðã rồi lúc đó ông ấy mới đi tới quyết định cuối cùng là trao quyền cho ông Big Minh."Đó là về sự cần thiết và thời điểm ra đi, nhưng còn cách ra đi thì làm sao cho được an toàn? Chi tiết chuyến đi của hai ông Thiệu và Khiêm từ Bộ Tổng Tham Mưu ra phi trường Tân Sõn Nhất thì nhân viên CIA là Frank Snepp đã kể lại và chúng tôi cũng có đề cập tới trong cuốn KĐMTC. Ông Snepp và một nhân viên khác là Joe đã giấu vũ khí dưới chỗ ngồi trong xe vì lo sợ tái diễn vụ sát hại như trường hợp hai anh em Tổng thống Diệm. [4] Mới ðây, câu chuyện từ lúc Tổng thống Thiệu rời bỏ Dinh Ðộc Lập tới Bộ TTM và ra phi trường được Thiếu tá Nguyễn Tấn Phận kể lại rất chi tiết. [5] Ông Phận là một trong ðoàn tùy tùng 8 người (cuối cùng chỉ có 7 người) của Tổng thống Thiệu và 4 người của Thủ tướng Khiêm ðược phép Tổng thống Hương cho ði tháp tùng theo như yêu cầu của ông Thiệu. Diễn biến có thể tóm tắt như sau: "Vào khoảng 7 giờ 30 tối, Tổng Thống Thiệu thay bộ ðồ bốn túi trong phòng ngủ rồi qua phòng nhỏ bên cạnh nghiêng đầu qua cửa sổ nhìn xuống. Dưới sân, bên cạnh thềm tam cấp một chiếc xe Mercedes mầu xanh ðậm ðã đậu sẵn. Người lái xe là Đại Tá Nhan Văn Thiệt. Thấy mọi việc đã sẵn sàng, Tổng thống Thiệu vội vã rút trong hộc tủ cây Browning đã lắp đầy đạn, ông khóa chốt an toàn rồi cho vào túi áo. Ông xuống tầng trệt bằng thang máy. Khi cánh cửa mở ra thì Đại Tá Trần Thanh Điền đã túc trực tại đó. Ông vừa bước xuống bậc tam cấp thì lại cũng vào lúc có hai binh sĩ (tên là Sanh và Khình) xuất hiện làm ông giật mình. Thực ra là họ chỉ đến để đổi gác. Ông và ông Điền lanh lẹ bước vào xe. Đại tá Điền ngồi bên phải của Tổng thống Thiệu ở băng sau. Như vậy là ông Điền đã ngồi vào chỗ chánh thức của Tổng thống – Trần Thanh Điền muốn làm Lê Lai cứu Chúa! Vừa ngồi vào xe, ông Thiệu hỏi ‘có mấy cây súng?’ Đại tá Điền đáp: ‘có hai cây, một cây dài, một cây ngắn.’"Theo như vậy thì vào lúc đó tổng thống Thiệu đã nhận thấy ông bị nguy hiểm trên đường tới Bộ Tổng Tham Mưu (ta nhớ lại là Tổng thống Diệm đã bị sát hại trên đường tới Bộ TTM). Việc ông Điền ngồi vào chỗ chính thức của Tổng thống thì cũng trùng hợp với câu chuyện ông Thiệu kể cho chúng tôi là khi đi xe tới dự nghi lễ bên Quốc Hội hay nói khác, ông thường ngồi ngay bên cạnh tài xế lái xe chứ không ngồi chỗ dành cho tổng thống ở băng sau. Khi ðoàn xe tới phi trường Tân Sõn Nhất, Thiếu tá Phận kể lại là đã "giật mình khi nhận ra cả khu vực phi trường tối om. Dường như hệ thống ðiện hoàn toàn bị cắt…Ðoàn xe chạy vòng qua khu dành riêng cho hãng Air America của cơ quan tình báo Mỹ. Khi sắp tới đường băng, tất cả xe đều tắt đèn, di chuyển trong bóng đêm. Sau đó một chiếc máy bay lù lù hiện ra dưới chân trời nhờ ðèn trong buồng máy cháy sáng, một loại máy bay giống như DC6. Khi tới gần chiếc máy bay, ðoàn xe bất thần thắng gấp vì thấy có bóng người…xe Tổng thống Thiệu bị bao vây bởi ba chiếc xe Chevrolet to lớn. Xa xa trong bóng ðêm, xung quanh chúng tôi xuất hiện có nhiều người Mỹ vạm vỡ, vận thường phục, súng M16 dựng ðứng bên hông, trong thế tác chiến. Rồi hình ảnh ông Đại sứ Graham Martin hiện ra tại chân cầu thang máy bay như một vị thần hộ mạng." Chuyện này làm cho chúng tôi mới hiểu được là tại sao khi nói về chuyến ra đi của Tổng thống Thiệu, Đại sứ Martin cứ nói úp úp mở mở là "Ông Thiệu đã ra đi trong điều kiện hết sức khó khăn," và "chúng tôi đã để ý và cố gắng sắp xếp mọi chi tiết.." Thì ra, mọi chi tiết được sắp xếp gồm cả việc cắt điện để phi trường tối om và việc đoàn xe phải di chuyển trong bóng đêm. Khi máy bay đáp xuống thì đã có sẵn một toán lính Mỹ canh gác để đề phòng những biến động có thể xẩy ra vào phút chót, thí dụ nhý việc ngãn chận không cho máy bay cất cánh. Vì sao như vậy? Vì việc này đã xẩy ra trước ðó mấy ngày. Vào lúc 10 giờ ðêm ngày Chủ nhật 20 tháng 4 có sự cố ở Tân Sơn Nhất: một nhóm binh sĩ với võ trang nặng bao vây, định ngăn chận chiếc C-141 của Mỹ chở người di tản không được cất cánh (xem Chương 7). Thiếu tá Phận cũng kể lại là "Trung tá Nguyễn Phú Hiệp, phi công chiếc máy bay Air Viet Nam 727 đã có lệnh ứng trực, chuẩn bị sẵn sàng, chỉ dành riêng cho Tổng thống Thiệu sử dụng…và cũng vào thời gian này thì một vài đơn vị trưởng các đơn vị phòng thủ thủ đô, và các đơn vị đóng quân gần khu vực phi trường Tân Sơn Nhất lại được nghe dư luận rỉ tai là 'ông Thiệu sẽ dùng Air Viet Nam để ra khỏi nước.' ” Việc ông Thiệu dùng chiếc máy bay của Hàng Không Việt Nam dành cho VIP để đi công tác là điều dĩ nhiên vì ông đã được chỉ định theo như sắc lệnh của Tổng thống Hương: "Nay đề cử cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và cựu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm ðại diện Tổng thống VNCH ðến Ðài Bắc ðể phân ýu cùng chánh phủ và nhân dân trung Hoa Dân Quốc nhân dịp Tổng thống Tưởng Giới Thạch tạ thế.” Sau ðó hai ông còn được phép đi thăm các quốc gia khác để vận động cho hòa bình Việt Nam trong vòng 6 tháng.[6] Nguyên tắc thì như vậy, nhưng trong thực tế ðã rõ ràng là lệnh cho phi công Hiệp ứng trực chiếc máy bay Air Viet Nam 727 và tin đồn về ‘ông Thiệu sẽ dùng Air Viet Nam ra khỏi nước’ là những sắp xếp ðể ðánh lạc hướng những kẻ sát nhân vì khi đó ông Martin đã nhận được nhiều thông tin tình báo về âm mưu sát hại ông Thiệu ở ngoài khơi. Theo kế hoạch này thì chiếc máy bay Air Vietnam mà ông Thiệu định dùng để ra đi sẽ bị bắn rơi khi ra khỏi không phận Việt Nam . Bởi vậy, trong vòng bí mật, ông Martin đã gọi ngay chiếc máy bay riêng của mình từ Thái Lan sang Tân Sơn Nhất ðể bốc ông Thiệu. Ðể bảo mật tối ða thì dù có dùng điện thoại đặc biệt an toàn của tòa đại sứ để báo cáo về Tòa Bạch Ốc, ông Martin cũng vẫn không tiết lộ chi tiết mà chỉ nói mập mờ. Tuy nhiên, lúc tới sát nút rồi thì ông phải nói cho rõ.Mời độc giả theo rõi vài đoạn trong thông điệp ngày 25 tháng 4 (in kèm theo chương này) của ðại sứ Graham Martin gửi về Washington . Ðộc giả lưu ý là ông đã không gửi mật điện này cho Ngoại trưởng Kissinger ở Bộ Ngoại Giao mà lại gửi cho Cố Vấn An Ninh Tổng thống ở Tòa Bạch Ốc: Tòa Bạch Ốc: Số 250420 – Chỉ mình ông xem và qua đường giây Martin Sàigòn số 0736 – FLASH (Cấp tốc)Chuyển Ngay Ngày 25 tháng 4, 1975 Gửi tới: Tướng Brent Scowcroft(Cố Vấn An Ninh Tổng Thống Ford) “Thông ðiệp này xác nhận câu chuyện tôi nói vòng vèo qua điện thoại vừa mới đây. Lúc muộn chiều hôm qua, Tổng thống Hương nói với tôi là ông ta lo ngại cho sự an toàn của cựu Tổng Thống Thiệu. Nói chung, dường như ông ta cũng ðã biết về một thông tin mà chúng tôi đã nhận được nhiều lần, đó là có một số phần tử của Không Quân việt Nam là những ngýời có ý kiến hết sức chống đối Thiệu và Khiêm, đã nói rằng hai ông này sẽ không rời khỏi Việt Nam mà còn sống nguyên vẹn (gạch dưới là do tác giả). Chúng tôi biết rằng những phần tử này ðang ðể ý chiếc máy bay thường dùng ðể chuyên chở các nhân vật cao cấp VIP của chính phủ ði ngoại quốc... “Tôi ðã xếp đặt với Tướng Hunt ở NKP (Nakhom Phanom, Thái Lan) để ông ta gửi một chiếc C-118 tới Sàigòn sẵn sàng chiều nay. Chúng tôi cũng sẽ sắp xếp hết sức kín đáo để đưa hai ông Thiệu và Khiêm lên máy bay và cất cánh thật nhanh. Chúng tôi đã suy nghĩ về việc này và chúng tôi chắc chắn rằng sẽ có thể làm hết sức nhanh để nếu có sự can thiệp nào thì chiếc máy bay đó cũng đã (cao bay xa chạy) ra quá tầm có thể truy kích được rồi.... "Bởi vậy, trừ phi có chỉ thị ngược lại và ngay tức khắc từ chính ông, tôi sẽ tiến hành theo như trình bày trên đây. Ông không cần phải có hành động nào vào lúc này, trừ khi có người ðặt vấn ðề (tại sao lại) dùng máy bay quân sự, một ðiều tôi nghĩ khó có thể xẩy ra.…Trân trọng Martin Về việc này chúng tôi có hỏi Ðại tá Nguyễn Quốc Hưng (hiện ở Salem, Oregon), Chỉ huy trưởng Hành quân Không quân thì ông xác nhận là có, và cho biết là có một nhóm trong Không Quân đã thực sự có âm mưu này và ðã theo sát chiếc máy bay Boeing 727 là chiếc lãnh đạo cao cấp thường dùng trong những chuyến đi xuất ngoại. Sau cùng thì họ giao cho một sĩ quan ở Cần Thõ thuộc Sý Ðoàn 4 Không Quân lo việc này. Ở phi trường Cần Thơ có loại máy bay khu trục A-37 và cả phản lực F5 nữa. Kế hoạch là tại Tân Sõn Nhất có những người ðược chỉ ðịnh theo rõi thật sát các chuyến bay, đặc biệt là chiếc Air Vietnam Boeing 727. Khi nào thấy hai ông Thiệu và Khiêm lên máy bay thì sẽ báo cho Cần thơ ngay ðể phản lực cất cánh bay thẳng ra khỏi, và sẽ bắn rơi chiếc máy bay chở ông Thiệu và ông Khiêm, ở khoảng 100 cây số cách bờ biển.Nếu như vậy thì cũng chẳng có tang tích, chẳng có chứng cớ gì về vụ sát hại. Trừ một số người rất nhỏ trực tiếp dính líu thì không ai biết tin tức gì về việc này. Lúc ấy là đêm 25 rạng ngày 26 tháng 4 rồi, khi dầu sôi lửa bỏng đã lên tới tuyệt đỉnh, mọi người chỉ còn có thể lo cho chính bản thân mình, cho nên cũng chẳng ai để ý tới chuyện gì xảy ra cho ông Thiệu. Đại tá Hưng cho biết lúc ấy ở ngoài khõi cũng có những máy bay luôn luôn thay nhau theo rõi. Chúng tôi hỏi ông xem nhóm ngýời nào ra lệnh cho phi công ở Cần Thơ? Ông trả lời là do một phe nhỏ chống ông Thiệu ở ngay Bộ Tư Lệnh Không Quân. Ðại tá Hưng thêm rằng: về vấn ðề ðảo chính nói chung thì chính hai Tướng Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Ngọc Loan ðều ðã không đồng ý và khuyên không được làm như vậy. Sau cùng thì hai ông Thiệu, Khiêm lại không đi chuyến Boeing 727 mà đi chiếc C-118 của Đại sứ Martin. Đại tá Hưng kể là vài ngày hôm ấy cứ thấy Đại sứ Martin ra ra vào vào phi trường Tân Sõn Nhất. Tối muộn cùng ngày 25 tháng 4, 1975, ông Martin báo cáo về Tòa Bạch Ốc: Số 251510Z – Chỉ mình ông xem và qua đường giây Martin Sàigòn – C738 – Cấp tốcChuyển ngay Ngày 25 tháng 4, 1975 Gửi tới: Tướng Brent ScowcroftNgười gửi: Ðại sứ Graham Martin Tham chiếu: Sàigòn 0736 1. Vào lúc 9 giờ 20 phút chiều nay, một chiếc C-118, có đuôi số 231 đã cất cánh từ Tân Sõn Nhất cùng với cựu Tổng thống Thiệu và cựu Thủ tướng Khiêm. Họ ðã bay sang Đài Loan nơi mà anh ông Thiệu làm ðại sứ VNCH. Công việc sắp xếp rất xuôi xẻ. Tôi ðã tháp tùng họ lên máy bay và tôi cho rằng sự vắng mặt của họ ở đây sẽ giảm bớt được sự xôn xao có thể xẩy ra. 2. Chúng tôi sẽ không bình luận gì về việc này ở đây. Phi hành đoàn từ NKP (Nakhon Phanom, Thái Lan) bay chiếc C-118 của tôi tới Davis-Montohn và tới nơi nghĩa trang. Tôi nghĩ rằng hai ông cũng sẽ không tuyên bố gì cả trừ phi và cho tới khi chuyện này lộ ra ở Đài Loan.Trân trọng, Martin Khi chiếc máy bay có đuôi số 231 sửa soạn cất cánh, Đại sứ Martin đã có mặt tận cửa máy bay để tiễn ông Thiệu. Dù buồn thảm và cam chịu số phận, ông Thiệu vẫn đi thủng thẳng, cố giữ phong độ. Ông quay lại cám ơn ông Martin đã dàn xếp chuyến đi. Với một giọng xúc động, ông Martin đáp lại: “Thưa tổng thống, đó là điều tối thiểu tôi có thể làm. Xin tạm biệt và chúc ngài may mắn." Nhìn lại lịch sử thì thấy ông Thiệu đã thật may mắn. Không những chính ông, ông Khiêm nhưng cả chuyến Air Vietnam 727 cũng ðã may mắn. Nếu như không có sự can thiệp của ông Martin thì cả những người khác cũng ðã cùng chịu chung một số phận. Đó là phi công Hiệp, các nhân viên khác trong phi hành đoàn, và 12 người trong phái ðoàn của cựu tổng thống và thủ tướng, họ ðều ðã bị chôn vùi dưới ðáy biển cùng với chiếc Boeing 727. Trong số này có Ðại tá Cầm, Chánh Vãn Phòng và là người chúng tôi làm việc gần gũi, Ðại tá Ðức, người ðã ôm hồ sơ mật Dinh Ðộc Lập ðưa ðến tư gia trao chúng tôi vào ðêm ngày 22 tháng 3. Rồi cả Thiếu tá Phận, người vừa kể lại câu chuyện về những ngày cuối của TT Thiệu ở Sàigòn. Những người khác gồm mấy sĩ quan gần gũi Tổng thống Thiệu (Ðại tá Ðiền, Thiệt; Trung tá Chiêu, Bác sĩ Minh, Ðại úy Hải, và binh sĩ Nghị); và phái ðoàn của Thủ tướng Khiêm (Trung tá Châu, Thiếu tá Thông, và ông Ðãng Vũ). Có lần ông Thiệu hỏi tôi là người Mỹ nghĩ thế nào về ông, tôi nói về một hai khía cạnh: khen có, chê có, rồi thêm là “tôi nghe có người nói là tổng thống nhu nhược.” Ông Thiệu hỏi tại sao? Tôi trả lời là họ nói ‘Tổng thống không cương quyết ðủ ðể ra lệnh tử hình khi cần thiết để làm gương.’ Ông yên lặng nhìn tôi giây lát rồi chậm rãi nói: "Suốt đời, tôi đã tránh không có cái nợ máu." Xét ra thì trong gần 10 năm ông lãnh đạo, thực sự đã không có tội nhân nào phải ra pháp trường. Nếu ta tin rằng mọi việc trên cõi đời này đều do Trời an bài xếp đặt, thì Trời cũng đã phù giúp cho ông Thiệu, vì lúc ‘mạt vận’ là lúc vô cùng nguy hiểm.Vĩnh biệt ông tổng thống.
|