Home Lịch Sử VN Chiến Tranh VN Các Nhân Vật Phó TT Nguyễn Cao Kỳ, Đại Tướng Dương Văn Minh và Sinh viên VC Huỳnh Tấn Mẫm

Phó TT Nguyễn Cao Kỳ, Đại Tướng Dương Văn Minh và Sinh viên VC Huỳnh Tấn Mẫm PDF Print E-mail
Tác Giả: Bạch Diện Thư Sinh   
Thứ Ba, 20 Tháng 10 Năm 2009 13:21
Ôi!  Phận nước sao điêu linh, khốn khổ đến nỗi vận mạng toàn dân, toàn quân miền Nam lại bị rơi vào tay những cấp lãnh đạo như thế đấy! 

CHUYỆN 1: LÀM THẾ NÀO PTT NGUYỄN CAO KỲ ĐÃ CỨU SINH VIÊN VIỆT CỘNG HUỲNH TẤN MẪM

VÀI HÀNG LỊCH SỬ ĐỂ HIỂU RÕ ĐỘNG CƠ

Cơ may đưa hai Tướng Thiệu, Kỳ lên nắm chính quyền
Chính phủ Phan Huy Quát chấp chính ngày 18 tháng 02 năm 1965.
Cuối tháng 5, đầu tháng 6, có sự bất đồng lớn giữa Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát. Cuối cùng ông Phan Huy Quát tuyên bố từ chức, giải tán chính phủ và giao quyền lãnh đạo đất nước vào tay giới quân nhân một lần nữa.
Ngày 12 tháng 6 năm 1965, Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia do Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ tịch (coi như Quốc trưởng) và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương do Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch (coi như Thủ tướng) được thành lập.
Ngày 19 tháng 6 năm 1965, Tướng Nguyễn Cao Kỳ ra mắt nội các chiến tranh.
Cuối tháng 2 năm 1966 nổ ra Biến động Miền Trung. Nguyên do là sự bất hòa giữa Tướng Nguyễn Chánh Thi và các tướng lãnh khác trong Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, phối hợp với sự chống đối của Phật giáo miền Trung do TT Thích Trí Quang cầm đầu đã bị Cộng Sản xâm nhập lèo lái. Họ phát động đấu tranh bạo loạn tại Huế và Đà Nẵng kéo theo cả một số quân nhân vô kỉ luật, quyết lật đổ chính quyền của hai ông Thiệu - Kỳ bằng mọi giá.                                                                                                           
Chính phủ trung ương phải đưa quân ra miền Trung để đối phó tình hình đã trở nên quá tồi tệ. Nhờ cuộc hành quân này, đến cuối tháng 5 năm 1966, trật tự an ninh được vãn hồi tại thành phố Đà Nẵng. Hết tháng 6 năm 1966, tình hình tại Huế mới yên.
VNCH đang dần dần đi vào ổn định.
Cuối tháng 2 năm 1967, Quốc Hội Lập Hiến soạn thảo xong và biểu quyết chấp thuận bản dự thảo Hiến Pháp mới còn gọi là Hiến Pháp Đệ Nhị Cộng Hòa.
Ngày 10 tháng 3 năm 1967, Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia duyệt bản dự thảo Hiến pháp lần chót và chấp thuận. Hiến pháp mới tôn trọng hơn nguyên tắc phân quyền.
Từ đây phải tuân thủ Hiến pháp cho nên sẽ tiến hành bấu cử Quốc hội Lập pháp và Tổng thống.

Liên danh Thiệu-Kỳ
Cuộc vận động bầu cử Tổng thống sẽ bắt đầu vào tháng 7 năm 1967. Bên ngoài đã biết cả hai ông Thiệu và ông Kỳ đều nhất quyết sẽ ra tranh cử chức vị Tổng thống.
Xét về khả năng đắc cử thì ông Kỳ là Thủ tướng đương nhiệm cho nên nắm được guồng máy chính quyền từ trung ương xuống tới xã ấp toàn quốc, đồng thời được nhóm tướng tá trẻ đang nắm giữ những vị trí quyền lực then chốt ủng hộ. Đang khi đó, ông Thiệu với cá tính chín chắn, thâm trầm nên được nhiều người cho là đáng tín cẩn hơn, vả lại dân miền Nam dễ thiên về ông Thiệu là người Phan Rang ở giáp ranh với Lục tỉnh ‘Nam Kì’ hơn là ông Kỳ là dân gốc ‘Bắc Kì’(1).
Dư luận lúc đó cho là phía dân sự sẽ có nhiều liên danh ứng cử tổng thống, chẳng hạn như liên danh Trần Văn Hương, liên danh Trương Đình Du…, nếu bên phía quân nhân, hai ông Thiệu và Kỳ mỗi người đều ra ứng cử tổng thống thì có thể bị phía dân sự đánh bại. Để có thể thắng, các tướng lãnh phải tìm cách để chỉ có một liên danh quân nhân. Giữa lúc dư luận đồn đoán về ưu thế của Tướng Kỳ trong cuộc tranh chấp này thì đột nhiên sau cuộc họp tướng lãnh vào ngày 30 tháng 6 năm 1967, chỉ một ngày trước khi hết hạn nộp đơn ứng cử, liên danh Thiệu - Kỳ ra đời. Chẳng những ông Thiệu không rút lui mà ông Kỳ còn phải đứng Phó trong liên danh của ông Thiệu. Theo tác giả Võ Long Triều trong hồi kí Cái Mốc Lịch Sử kể lại thì chính ông Nguyễn Cao Kỳ đã xác nhận với ông trong một bữa cơm tại nhà ông Kỳ ở Hacienda, Los Angeles, về biến cố này như sau:
‘Moa cho triệu tập tất cả tướng lãnh về Tổng Tham Mưu họp để bàn về việc của moa và ông Thiệu cùng tranh cử chức vị Tổng Thống. Mọi việc được sắp xếp trước hết rồi. Chiều hôm trước anh em thỏa thuận để cho ông Thiệu ra ứng cử với tư cách tư nhân và dân sự. Có nghĩa là phải giải ngũ để ra ứng cử Tổng Thống. Ðiều này chắc chắn đã lọt vào tai ông ta rồi. Ngày hôm sau các Tướng Lãnh họp tại Tổng Tham Mưu, moa ngồi ngoài không tham dự để cho anh em thảo luận không phải ngại ngùng vì sự có mặt của moa. Mục đích phiên họp là giao quyền Lãnh Ðạo Quốc Gia lại cho Cao Văn Viên Xử Lý Thường Vụ. Có biên bản đường hoàng. Vì biết trước kết quả rồi nên Nguyễn Văn Thiệu chần chừ không đến, đợi phải có người mời đến ghi nhận kết quả thì “lủy” mới chịu đến. (tiếng Pháp: Lui có nghĩa là nó, ổng). Trước mặt moa ông ta nói mà rơm rớm nước mắt, anh em quyết định sao thì ông ta chịu vậy. Ông ta xin anh em cho phép ở lại với quân đội.’
Cao Văn Viên sắp đọc biên bản, Kỳ ngang nhiên khoát tay bảo: ‘Không cần, tôi nhường cho anh Thiệu ứng cử lần này, kỳ sau sẽ đến lượt tôi. Nhưng tôi yêu cầu anh Thiệu phải duy trì Hội đồng Quân nhân. Mọi quyết định quan trọng yêu cầu anh phải tham khảo ý kiến của các Tướng Lãnh...’ 
Thiển nghĩ ông Thiệu có nằm mơ cũng không thể ngờ rằng ông Kỳ nhường vị trí ứng cử tổng thống cho ông dễ dàng đến thế, vì vậy bây giờ ông Kỳ có đưa ra bất cứ điều kiện gì thì ông Thiệu cũng chấp nhận ngay.
Thật ra ông Kỳ còn đưa ra một điều kiện nữa là Thủ tướng sẽ do ông chọn lựa. (Đó là Thủ tướng Nguyễn Văn Lộc sau này).
Khi kể lại chuyện này, ông Kỳ không dấu diếm: ‘Điều moa hối hận nhứt trong đời là nhường quyền ứng cử và chịu đứng phó cho Nguyễn Văn Thiệu’ (2).
Ông Kỳ nói ông ‘hối hận nhất trong đời’ là phải, bởi vì ông đã đem tình cảm vào để giải quyết chuyện chính trị hệ trọng tầm cỡ quốc gia đại sự. Khi ông ‘quân tử tầu’ chịu đứng phó cho ông Thiệu, ông đâu có ngờ những điều kiện ông đưa ra để ‘thủ thế’ sẽ không có cái nào thực hiện được hầu bảo vệ ông. Bởi vì từ khi đắc cử tổng thống, ông Thiệu đã dựa vào Hiến Pháp mà làm việc. Trong ‘mọi quyết định quan trọng’ ông không cần hỏi ý ‘Hội đồng Quân nhân’ nào cả, và rồi ra sẽ thấy ông Kỳ không đương nhiên được ‘đến lượt’ra ứng cử lần sau. Nếu ông Kỳ muốn ứng cử thì cứ chiếu theo luật pháp mà ứng cử. Còn vị thủ tướng do ông Kỳ tuyển chọn là Ls.Nguyễn Văn Lộc thì không thành tích, không đủ tài cán cho nên chỉ tồn tại được một thời gian ngắn.
Ngày 3 tháng 9 năm 1967, là ngày bầu cử. Có 6 triệu cử tri thì 5 triệu thực sự đi bỏ phiếu, đạt tỉ lệ 80% . Hai ngày sau, tổng kết số phiếu: liên danh Thiệu - Kỳ đắc cử với 35% tổng số phiếu, về nhì là liên danh Trương Đình Du được 17% số phiếu.
Rạn nứt lớn
Quyền hạn của một tổng thống do Hiến pháp quy định đã cho phép ông Thiệu dần dần củng cố đuợc quyền lực, loại bỏ tay chân của ông Kỳ và khi ở thế mạnh ông ta không ngần ngại chèn ép ông Kỳ. Cả miền Nam lúc đó biết rõ ràng có sự rạn nứt trầm trọng trong hàng ngũ lãnh đạo cao nhất.
Sự rạn nứt ấy làm suy yếu nội lực quốc gia. Theo Ks. Võ Long Triều, nhân vật từng có mối giao hảo đặc biệt với ông Kỳ, thì đã có tới 2 lần Tướng Kỳ muốn làm  đảo chánh lật đổ ông Thiệu: Một lần sau Tết Mậu Thân 1968, lần thứ hai sau khi Tướng Kỳ tham dự Hòa đàm Paris trở về (3).
Dĩ nhiên, ông Kỳ đã không làm được điều ông muốn. Những toan tính loại này chỉ biểu lộ cá tính hay ‘bốc’ của ông. Muốn lật ông Thiệu phải coi xem ông có bản lãnh hơn ông Thiệu không và phe ông có còn mạnh hơn phe ông Thiệu như trước nữa không; vả lại còn một yếu tố hết sức quan trọng, đó là người Mĩ muốn cái gì và chọn ai để có thể thực hiện kế hoạch của họ.
Tóm lược bối cảnh lịch sử trên đây sẽ giúp người đọc hiểu rõ nguyên do câu chuyện đau lòng có liên quan tới Phong trào Sinh viên đấu tranh xấy ra vào năm 1971. Đó là chuyện ông Kỳ, vì thù ghét ông Thiệu cho nên muốn lợi dụng bọn sinh viên Việt Cộng để ‘chơi’ ông Thiệu, đã ra tay giải thoát cán bộ thành đoàn Huỳnh Tấn Mẫm và cho bọn Mẫm dùng Dinh Quốc khách của Phó Tổng thống để làm trụ sở hoạt động chống phá bầu cử.

PHÓ TỔNG THỐNG NGUYỄN CAO KỲ ĐÃ CỨU SINH VIÊN VIỆT CỘNG HUỲNH TẤN MẪM NHƯ THẾ NÀO

Ngày 20 tháng 6 năm 1971, liên danh Lý Bửu Lâm (khuynh hướng quốc gia) đắc cử trong cuộc bầu cử Ban chấp hành Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn, đánh bại liên danh của nhóm sinh viên Việt Cộng, chấm dứt một thời gian dài tổ chức sinh viên này bị Thành Đoàn khống chế (4).
Bị thất bại trong cuộc bầu cử Tổng hội SVSG, ngày 28 tháng 7 năm 1971 tại Trụ sở Tổng vụ Thanh niên Phật tử số 294 đường Công Lý, Thành đoàn chỉ đạo lập ra cái gọi là Ban Chấp hành lâm thời Tổng Hội Sinh Viên Miền Nam Việt Nam (xưa nay chưa từng có tổ chức này), gồm có Huỳnh Tấn Mẫm làm Chủ tịch, Tổng thư kí là Nguyễn Thị Yến, Phó Chủ tịch ngoại vụ là Lê Văn Thuyên (Chủ tịch Tổng hội SV Huế), Phó Chủ tịch Nội vụ là Phạm Văn Xinh (Chủ tịch Tổng Hội SV Cần Thơ). Lễ ra mắt tổ chức tại Huế kết thúc bằng một cuộc biểu tình tuần hành phá phách, chống quân sự học đường, chống bầu cử độc diễn, đòi Mĩ rút về nước, đòi hòa bình cho VN.
Trong phần trình bầy sơ lược bối cảnh lịch sử trên đây, chúng ta đã thấy sự rạn nứt trầm trọng giữa hai ông Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và ông Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, đến nỗi ông Kỳ nuôi ý đồ lật đổ ông Thiệu.
Lẽ tất nhiên Thành đoàn biết rất rõ sự rạn nứt giữa ông Kỳ và ông Thiệu. Nhất là với sự hiện diện của Dân biểu thân Cộng Hồ Ngọc Nhuận trong buổi họp bàn chuyện đảo chánh của ông Kỳ tại trại Phi Long (Hồi kí Cái Mốc Lịch Sử của Võ Long Triều. Tập I, kỳ 6) thì chắc chắn qua ông dân biểu thân Cộng này, Thành đoàn càng biết rõ ông Kỳ thâm thù ông Thiệu đến đâu, hơn nữa họ còn biết cả những gì ông Kỳ đang âm mưu. Vì thế Thành đoàn chỉ đạo cho Huỳnh Tấn Mẫm ‘tranh thủ’ ông Kỳ. Họ không gặp khó khăn gì vì cũng chính dân biểu thân Cộng Hồ Ngọc Nhuận đã giúp cho họ được ông Kỳ tiếp kiến tại tư dinh trong trại Phi Long. Cuộc tiếp kiến diễn ra vào khoảng đầu tháng 9 năm 1971. Phái đoàn sinh viên học sinh Việt Cộng do Huỳnh Tấn Mẫm cầm đầu còn có Nguyễn Thị Yến (Văn khoa), Hạ Đình Nguyên (Văn khoa), Võ Như Lanh (Vạn Hạnh), Lê Văn Nuôi (học sinh Cao Thắng) (5), Phạm Văn Xinh và Trần Hoài.

Chắc chắn ông Kỳ đã từng được báo cáo về các hoạt động phá rối của bọn Huỳnh Tấn Mẫm, cho nên mở đầu ông hỏi ngay: ‘Các anh chị có phải là Việt Cộng không?’ Mẫm thấy khó trả lời cho nên y đặt ngược một câu hỏi thăm dò: ‘Thưa Phó Tổng thống, theo Phó tổng thống thì chúng tôi có phải là Việt Cộng không?’ Ông Kỳ hỏi chỉ là để hỏi, ông không cần câu trả lời. Lúc này đối với ông, bọn Huỳnh Tấn Mẫm là ai không quan trọng cho bằng bọn chúng có khả năng quậy phá đối thủ của ông là TT. Nguyễn Văn Thiệu.
Thấy ông Kỳ vui vẻ và không theo đuổi câu hỏi, Huỳnh Thấn Mẫm chớp thời cơ nêu kiến nghị bãi bỏ Chương trình Quân sự Học đường, viện cớ nay chiến sự đã lùi ra khỏi Thủ đô và sinh viên cần thời giờ học thi. Chương trình Quân sự Học đường do ông Kỳ thành lập cho nên ông không chấp nhận bãi bỏ, nhưng để lấy lòng bọn Huỳnh Thấn Mẫm, ông hứa sẽ cho hoãn quân sự học đường vào mùa Hè là mùa thi cử.
Mặc dù liên danh Lý Bửu Lâm đã đắc cử Ban Đại Diện Tổng hội SVSG mãi từ ngày 20/6/1971 nhưng ông Kỳ vẫn rút ra tờ truyền đơn tranh cử của liên danh Lý Bửu Lâm, Lê Khắc Sinh Nhật và nói ông không ủng hộ liên danh này vì là liên danh thân chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và không có thực lực bằng bọn Huỳnh Tấn Mẫm cho nên ông vẫn tiếp tục ủng hộ nhóm Huỳnh Tấn Mẫm.
Biết được thâm ý muốn lợi dụng của ông Kỳ, Mẫm đưa yêu sách xin ông Kỳ cấp cho bọn họ một trụ sở, bởi vì trụ sở Tổng hội SVSG số 207 đường Hồng Bàng, Chợ Lớn đã bị Cảnh Sát Quận 5 phong tỏa.
Ông Kỳ bảo ông không có nhà để cấp cho bọn Mẫm, nhưng ông có thể cho họ mượn một phần trong Dinh Quốc khách số 4 đường Tú Xương thuộc quyền xử dụng của Phó Tổng thống (ngày nay là Nhà Văn hoá Thiếu nhi thành phố) để họ dùng làm trụ sở. 
Thành đoàn đánh giá họ đã đạt được thắng lợi trong cuộc gặp gỡ với ông Kỳ.  Để chứng tỏ họ có sức mạnh, 2 ngày sau cuộc hội kiến, Thành đoàn chỉ thị cho bọn Mẫm tổ chức một cuộc xuống đường xô xát mạnh với Cảnh sát Dã chiến trên đường Cường Để. Nghe tin có biểu tình, ông Kỳ lái trực thăng tới ‘lược trận’. Ngay ngày hôm sau, ông Kỳ giao Dinh Quốc Khách cho bọn Mẫm, lại còn cung cấp máy đánh chữ, giấy in truyền đơn; nguy hiểm hơn nữa, theo yêu cầu của họ, ‘nhóm tham mưu của Kỳ’ còn cấp cho họ cả lựu đạn MK3 để phá các thùng phiếu (lựu đạn MK3 thường được dùng để huấn luyện, tiếng nổ lớn, không gây sát thương) (6).
Ngày 19 tháng 9 năm 1971, bọn Mẫm phối hợp với Tổng hội SV Vạn Hạnh và Tổng đoàn Học sinh Sài Gòn tổ chức cuộc biểu tình từ trong khuôn viên Đại học Vạn Hạnh đường Trương Minh Giảng. Toán xung kích ném lựu đạn MK3 vào địa điểm bầu phiếu, dùng bút lông sửa các bích chương liên danh ứng cử tổng thống Thiệu – Hương: liên danh ‘1’ thành liên danh ‘lì’, ‘dân chủ’ thành ‘dân chửi’ và ‘Thiệu’ thành ‘Thẹo’. Họ còn đốt vỏ xe, dựng lên những bàn chông, hình đầu lâu và lựu đạn với hàng chữ cảnh cáo ‘nguy hiểm chết người không vượt qua’ làm cho giao thông tắc nghẽn.
Để vãn hồi trật tự, Giám đốc Cảnh sát Đô Thành Trang Sĩ Tấn ra lệnh tấn công vào trường Vạn Hạnh dẹp tan cuộc biểu tình.
Tuy biết những trò chơi nguy hiểm của ông Kỳ nhưng vì gần tới ngày bầu cử, phía chính quyền không muốn gây thêm chuyện với ông. Cảnh Sát chỉ muốn bắt giữ tên đầu xỏ Huỳnh Tấn Mẫm. 
Cuối tháng 9/1971, Huỳnh Tấn Mẫm tới khách sạn Caravelle đường Tự Do để trả lời phóng vấn đài BBC. Sau đó Mẫm trở về Trụ sở Tổng vụ Thanh niên Phật tử số 294 đường Công Lí (nay là Nam Kì Khởi Nghĩa). Vì biết đang bị theo dõi, cho nên vừa về tới Trụ sở Tổng vụ, Mẫm chạy vội lên tầng cao nhất, nhưng Cảnh Sát đã kịp thời bao vây chung quanh trụ sở. Mẫm đang lúng túng tìm cách thoát thân thì Ngô Thế Lý, Đoàn trưởng Đoàn sinh viên Phật tử Đà Lạt, tới đưa Mẫm vào một căn phòng và khoá kín y ở trong đó.
Thấy nguy cho Mẫm, Nguyễn Thị Yến vội gọi điện thoại cầu cứu dân biểu Hồ Ngọc Nhuận và dân biểu Kiều Mộng Thu. Ông Nhuận gọi ngay cho Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ xin giúp giải vây cho Mẫm. Ông Kỳ liền phái 2 sĩ quan cấp tá lái 2 xe ‘jeep’ tức tốc tới Trụ sở Tổng vụ Thanh niên Phật tử. Hồ Ngọc Nhuận cũng đi xe LaDalat tới. Cảnh Sát không dám ngăn cản xe quân đội của 2 viên sĩ quan cấp tá và xe của một vị dân biểu cho nên cả 3 vào được bên trong Trụ sở Tổng vụ.
Hai sĩ quan lên lầu tìm Mẫm. Ngô Thế Lý mở khoá phòng nơi Mẫm đang trốn. Một sĩ quan khoác vội cho Mẫm một cái áo nhà binh rồi đưa y và một số sinh viên lên 2 chiếc xe ‘jeep’. Xe của dân biểu Hồ Ngọc Nhuận che kín làm ‘kế nghi binh’ để nhử Cảnh sát đuổi theo, kì thực trên xe không có sinh viên nào. Cả 3 chiếc xe vội vã ra đi. Xe ông Nhuận ra trước, kế là chiếc ‘jeep’chở Mẫm, cuối cùng là chiếc ‘jeep’thứ hai. Họ chạy về hướng phi trường Tân Sơn Nhất. Xe Cảnh Sát hụ còi bám sát. Tới ngã tư Trương Tấn Bửu (nay là Trần Huy Liệu, rồi Đỗ Tấn Phong), chỉ mình xe dân biểu Nhuận tiếp tục chạy về hướng Lăng Cha Cả, còn 2 xe ‘jeep’ghẹo trái về hướng Trương Minh Giảng (nay là Lê Văn Sỹ), rồi chạy thẳng về trung tâm thành phố. Đoàn xe Cảnh Sát cũng chia hai đuổi theo.
Trời sắp tối, chiếc ‘jeep’đi sau cố ý lạng qua lạng lại cản không cho xe Cảnh Sát vượt lên. Chiếc ‘jeep’đi trước, trên có chở Mẫm, vọt lẹ bỏ xa xe Cảnh Sát. Tới khu chợ Bến Thành đông người, viên sĩ quan thả Mẫm xuống. Mẫm mau chóng len lỏi giữa chợ và tìm tới nấp vào trong quầy bán trái cây của ‘má’ Tám Ảnh ở cửa Bắc chợ Bến Thành(7). ‘Má’ Tám liền phái người đi báo cho ‘má’ Văn Hoa là chủ tiệm may Văn Hoa số 100 đường Lê Thánh Tôn để chuẩn bị cho Mẫm được tá túc qua đêm ở đấy (8).

CHUYỆN 2:  ĐẠI TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH ĐÃ CƯU MANG HUỲNH TẤN MẪM 6 THÁNG TRỜI

DIỄN TIẾN

Tại tiệm may Văn Hoa, Mẫm gọi điện thoại kêu Nguyễn Thị Yến nhờ dân biểu Hồ Ngọc Nhuận tìm chỗ trú ẩn cho y. Dân biểu Nhuận vội gọi văn phòng Tướng Dương Văn Minh. Đến trưa hôm sau, Tướng Minh phái Thiếu tá Trịnh Bá Lộc mặc thường phục lái xe tới đón Mẫm tại điểm hẹn ngã tư Nguyễn Trung Trực – Lê Thánh Tôn, cách nhà may Văn Hoa độ 100 mét và đưa thẳng về Dinh Hoa Lan của Tướng Minh số 3, Trần Qúy Cáp. Tướng Minh cho Mẫm ở trong một căn phòng tương đối đầy đủ tiện nghi, có cả điện thoại và nhà vệ sinh. Để bảo mật, Mẫm không tiếp xúc với bất cứ ai trong dinh, ngoại trừ Thiếu tá Trịnh Bá Lộc là người ‘cung cấp thực phẩm’ cho y.  Trong bài Huỳnh Tấn Mẫm và Cái Gọi Là ‘Saigon et Moi’, Thiếu tá Trịnh Bá Lộc xác nhận:  ‘Về Sinh Viên Huỳnh Tấn Mẩm: Tôi được biết anh Mẫm vào thời gian ở Việt Nam đang chuẩn bị vận động bầu cử Tổng Thống VNCH nhiệm kỳ II, năm 1971. Lúc đó anh là Chủ Tịch Tổng hội Sinh Viên Sài Gòn. Anh hoạt động chống chánh quyền của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Anh bi truy nã. Một nhân vật trong Bộ Tham mưu chánh trị của Đai Tướng Dương Văn Minh giới thiệu anh và xin cho anh được lánh nạn trong căn nhà dùng làm văn phòng trong thời gian hoạt động tranh cử của Đại Tướng Dương Văn Minh. Đề nghị được chấp thuận với điều kiện anh không được đi ra ngoài và không được liên lạc với bên ngoài khu vực số 3 Trần Quý Cáp Sài Gòn. Vì nhà tôi cũng ở trong khu vực này nên tôi được yêu cầu của cấp trên cung cấp thực phẩm cho anh. Do đó, chúng tôi có dịp tiếp xúc hàng ngày trong các bữa cơm gia đình’ (9).
Nhờ có điện thoại riêng, Mẫm dùng ngụy danh là Hoàng để tiếp xúc với đồng bọn bên ngoài. Tướng Minh chứa chấp Huỳnh Tấn Mẫm gần 6 tháng. Mẫm chỉ bí mật rời Dinh Hoa Lan vào đầu tháng 01/1972 để ra ngoài chuẩn bị cho cuộc bầu cử Ban Đại diện Sinh viên Y khoa niên khoá 1971 – 1972.
Ngày 05/01/1972, sau phiên họp tại Y khoa, Nguyễn Văn Lang (Phó Chủ tịch Ban Đại diện Y khoa) chở Mẫm về Đại học xá Minh Mạng. Vừa tới ngang cổng Bệnh viện Hồng Bàng (nay là Bv. Phạm Ngọc Thạch) Mẫm bị nhân viên công lực chận bắt được.
Thời gian tung hoành chống phá của Mẫm (1969-1972) coi như chấm dứt từ đây.
Mẫm bị giam giữ cho tới khi có Hiệp định Paris 1973 thì được đưa lên Lộc Ninh để trao trả cùng với Huỳnh văn Trọng, Nguyễn Long,Cao Thị Quế Hương, Trần Thị Lan, Trần Thị Huệ, Nguyễn Thành Công. Nhưng do Việt Cộng còn muốn lợi dụng Mẫm hoạt động với tư thế hợp pháp công khai cho nên họ không nhận Mẫm, lấy lí do Mẫm không thuộc ‘thành phần quân sự’ nghĩa là tù binh, còn chính Mẫm phải miễn cưỡng chấp hành mệnh lệnh cho nên đã nại ra lí do chỉ là sinh viên thuần túy và kiên quyết đòi thả y về với gia đình. Mẫm chỉ thật sự được tự do vào sáng ngày 29/4/1975 khi chính tướng Cảnh Sát Bùi Văn Nhu đích thân lái xe đưa Mẫm tới tư dinh tướng Dương Văn Minh.

ĐỘNG LỰC NÀO KHIẾN ÔNG DƯƠNG VĂN MINH CHỨA CHẤP HUỲNH TẤN MẪM

Nếu lí do tướng Kỳ cứu Huỳnh Tấn Mẫm là vì thù ghét và muốn ‘phá đám’ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thì lí do khiến Tướng Minh cưu mang Huỳnh Tấn Mẫm chẳng những vì muốn chống TT. Nguyễn Văn Thiệu, mà còn vì ông Minh tin vào giải pháp hoà giải dân tộc, ngả sang  tả và sẵn sàng bắt tay với phía Cộng Sản.
01/11/1963, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng do Trung tướng Dương Văn Minh lãnh đạo đảo chánh giết chết Tổng thống Ngô Đình Diệm.
30/01/1964, khi Tướng Nguyễn Khánh từ vùng I I về làm cuộc ‘chỉnh lí’ thành công thì ‘Tam đầu chế’ xuất hiện ở cấp lãnh đạo Miền Nam, gồm có Tướng Dương Văn Minh, Tướng Trần Thiện Khiêm và Tướng Nguyễn Khánh.
Vì tham vọng nắm trọn quyền lực cho nên, ngày 01/10/1964, Tướng Khánh tìm cách ép buộc Tướng Khiêm phải đi làm đại sứ tại Hoa Kì. Ngày 12/11/1964 đến lượt Tướng Minh phải rời Sài Gòn để ‘công cán ngoại quốc’, thực ra là đi lưu vong tại Thái Lan.
Trong cuốn Hồi Ký Không Tên, tác giả cựu dân biểu đối lập Lý Quí Chung kể lại, nhân chuyến đi Bangkok (Thái Lan) để dự Hội nghi APU (Hiệp hội Dân biểu Nghị sĩ Á châu), ông đã gặpTướng Dương Văn Minh để chuyển lời của Cụ Trần Văn Hương yêu cầu Tướng Minh lên tiếng ủng hộ liên danh ứng cử tổng thống Trần Văn Hương – Mai Thọ Truyền (Lý Quí Chung là đại diện báo chí cho liên danh Trần Văn Hương trong kì bầu cử này).
Có lẽ vì ơn nghĩa đó cho nên năm 1969, Phó Tổng thống Trần Văn Hương mới can thiệp để Tướng Dương Văn Minh được hồi hương. Tướng Minh cư ngụ tại tư dinh có biệt hiệu là Dinh Hoa Lan trên đường Hồng Thập Tự (nguyễn Thị Minh Khai). Về đây, ông Minh tiếp tục mê 3 thứ:  chơi hoa lan, cá kiểng và đánh quần vợt.
Từ 1970, nơi đây trở thành trung tâm quy tụ những nhân vật mang lập trường phản chiến, chủ hòa không tưởng, mĩ danh là ‘hoà hợp hòa giải dân tộc’. Nhóm này đề nghị Tướng Minh ra tranh cử tổng thống vào năm 1971 và ông đã chấp nhận.
Nhóm ông Minh công khai đối lập với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, chống sự can thiệp của Mĩ ở Việt Nam, chủ trương hòa hợp hòa giải dân tộc, đòi thi hành Hiệp định Paris.
Nhóm này gồm có những nhân vật chính yếu như sau: Ls. Trần Ngọc Liễng, Gs. Vũ Văn Mẫu, Tướng Mai Hữu Xuân, Gs. Lý Chánh Trung (10), Bs. Hồ Văn Minh, Lm. Nguyễn Ngọc Lan (11), Dân biểu Lý Quí Chung, Dân biểu Nguyễn Hữu Chung, Dân biểu Dương Văn Ba, cán bộ công đoàn Nguyễn Văn Cước, cựu chủ tịch Tổng hội SV Sài Gòn 1963-64 Nguyễn Hữu Thái (12)…
Về chủ trương và gốc gác thành phần của nhóm được Lý Quí Chung thuật lại như sau: ‘ Xét về ‘gốc tích’ thành phần của nhóm ông Minh…lộ ra sau 1975, chúng ta sẽ không ngạc nhiên về sự chuyển dịch lập trường của nhóm ông Minh từ ‘ở giữa’ chuyển sang tả, rồi hướng đến sự sẵn sàng thỏa hiệp, liên kết với Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam (MTDTGPMN) và Hà Nội. Gần phân nửa thành viên trong nhóm có quan hệ với MTDTGPM như ông Cước, anh Nhuận, giáo sư Trung, linh mục Lan, luật sư Liễng…khi Hiệp định Paris được ký kết, nhóm ông Minh ủng hộ triệt để sự thi hành Hiệp định. Bản thân tôi cũng tham gia Lực lượng Hòa giải Dân tộc (HGDT) do luật sư Vũ Văn Mẫu đứng đầu; lực lượng này được Phật giáo Ấn Quang hậu thuẫn và có chủ trương đòi tổng thống Thiệu tôn trọng và thi hành Hiệp định. Lực lượng HGDT tổ chức nhiều cuộc hội thảo và thuyết trình về Hiệp định Paris tại chùa Ấn Quang và tại nhiều địa điểm khác tại miền Trung như Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi…Luật sư Liễng thì thành lập Tổ chức đòi thi hành Hiệp định Paris với sự tham gia của linh mục Nguyễn Ngọc Lan, thẩm phán Triệu Quốc Mạnh, nhà văn Thế Nguyên (báo Trình Bày), nhà hoạt động công đoàn Nguyễn Văn Cước v.v…’ (13).
Với lập trường chính trị chủ hòa thiên tả, việc ông Minh cưu mang  sinh viên Việt Cộng Huỳnh Tấn Mẫm đương nhiên phải xẩy ra bởi vì ông đang đóng vai hợp pháp công khai để bao che, bảo vệ một ‘người anh em’, một ‘đồng chí’. Thực ra lúc đó ông Minh không chỉ chứa chấp sinh viên Việt Cộng Huỳnh Tấn Mẫm, ông còn cho 2 cựu dân biểu thân Cộng Dương Văn Ba và Phan Xuân Huy, kí giả Kỳ Sơn (Nguyễn Đình Nam) đang bị truy nã và cán bộ Cộng Sản hoạt động công đoàn Nguyễn Văn Cước ẩn náu tại tư dinh của ông.

NHẬN XÉT

Cả hai ông Kỳ và Minh đều là những nhân vật chức cao quyền trọng một thời, thuộc hàng lãnh đạo quốc gia. Việc làm và tư tưởng của họ có ảnh hưởng tới nhiều người, có thể là nhiều thế hệ. Vấn đề là cả hai ông này dường như không có lập trường (?).  Bởi vì lập trường thì khó thay đổi. Xem ra hai ông chỉ có những quan niệm và thái độ chính trị. Quan niệm và thái độ có tính cách giai đoạn, giai đoạn sau trái ngược hẳn giai đoạn trước, nói cách khác là tiền hậu bất nhất, gió chiều nào che chiều ấy cho nên nhận xét về họ không đơn giản. Chúng ta đã được đọc nhiều tác giả viết về hai nhân vật này.
Hai câu chuyện vừa kể trên tuy là chuyện nhỏ nhưng phần nào phản ánh tính khí, bản chất và tinh thần trách nhiệm ra sao của hai ông đối với quân dân miền Nam tự do.
Ks. Võ Long Triều từng sát cánh với ông Kỳ nhận xét: ‘Những gì tôi biết, hình như có hai Nguyễn Cao Kỳ, một Nguyễn Cao Kỳ phản bội đồng đội, phản bội chính mình… Và một Nguyễn Cao Kỳ Từ 1966 đến 1975, có lòng với đất nước, muốn đội đá vá trời nhưng không thành, vì thiếu hiểu biết việc quốc gia đại sự, biến chuyển quốc tế, thế chiến lược toàn cầu, vai trò của Việt Nam trong hoàn cảnh đó và nhứt là vì những đàn em dựa hơi phá bĩnh hay nhóm “Lương Sơn Bạc” cùng ăn thề uống máu với ông ỷ thế làm hư việc’ (14).
Về ông Minh, Kissinger đã từng phê ông ‘là con người yếu mềm nhất trong các bộ mặt chính trị’; còn TT. Thích Trí Quang lại bảo ‘Ông Minh không phải là một người làm chính trị sắc bén’. Vậy mà hoàn cảnh nghiệt ngã của đất nước đã mấy phen đưa ông trở thành kẻ phất cờ, kẻ cầm lái mặc dù ông không biết phất cờ, cũng không biết bến bờ con thuyền quốc gia phải tới! Thậm chí ngay cả khi ông không còn quyền lực, ông vẫn hưởng ‘đặc miễn’ là kẻ bất khả xâm phạm, bất chấp luật pháp quốc gia. Đúng như Lý Quí Chung, kẻ thân tín của ông, đã viết: ‘Dù biết rất rõ Dinh Hoa Lan đã trở thành trung tâm hoạt động nhằm lật đổ mình, nhưng ông Thiệu và tay chân vẫn không làm gì để vô hiệu hoá trung tâm này. Ông Thiệu có thể tố cáo Dinh Hoa Lan chứa chấp nhiều phần tử đang bị chính quyền truy nã và có thể xin lệnh tòa án lục soát Dinh Hoa Lan để làm ‘bể mặt’ ông Minh. Nhưng ông chẳng làm gì hết. Tại sao? sự im lặng của ông Thiệu có thể được giải thích: Ông Minh là tướng lãnh đàn anh của ông Thiệu dù gì ông vẫn phải nhân nhượng; mặt khác ‘tấn công’ vào Dinh Hoa Lan là một xì căng đan chính trị hoàn toàn bất lợi cho ông. Ông Thiệu biết rằng ‘đụng’’ vào Dinh Hoa Lan sẽ không được tòa đại sứ Mỹ tán đồng và làm bùng nổ sự chống đối ông mạnh mẽ hơn’ (15).
Miền Nam tự do mất đã hơn 30 năm, mỗi khi có dịp nhắc lại những chuyện như thế này, bản thân ‘thất phu’ chỉ còn biết thốt lên lời tuyệt vọng bi phẫn:
Hãy khóc lên hỡi quê hương yêu dấu! 
Ôi!  Phận nước sao điêu linh, khốn khổ đến nỗi vận mạng toàn dân, toàn quân miền Nam lại bị rơi vào tay những cấp lãnh đạo như thế đấy!


CHÚ THÍCH:

1. Về cá tính mỗi nhân vật đã được chính khách nổi bật thời đó là cựu Đại sứ Bùi Diễm nhận xét như sau: ‘Ông Kỳ còn trẻ, hăng say, do đó mà nhiều khi thiếu thận trọng. Nhưng ông là người bộc trực, ngay thẳng, hiểu việc nhanh và sẵn lòng chấp nhận những ý kiến mới. Những người chỉ trích ông thì cho rằng ông thích đóng vai ‘người hùng’ và ‘điếc không sợ súng’, song vì đã có dịp làm việc bên cạnh ông, tôi nghĩ rằng mặc dầu có vài khuyết điểm, ông không thiếu thiện chí và cũng không có ác ý với ai. Ông có thể chấp nhận thử thách mà không suy nghĩ nhiều đến hậu quả sau này đối với bản thân. Và ông cũng tin rằng phải xây dựng một chính phủ hợp hiến và cải cách xã hội, những điều mà ông đã mạnh dạn trình bầy ở hội nghị Honolulu.
Trái lại, ông Thiệu đa nghi tính toán hơn. Nhẫn nại, biết nhường nhịn nếu cần và chịu đựng nhất thời, ông được thiên hạ gán cho một đặc tính gọi mỉa mai là đặc tính ‘lì’. Ông chịu khó nghiên cứu tỉ mỉ mọi vấn đề lớn nhỏ và thói ‘lì’ của ông có thể là một lợi khí chính trị, nhưng về khả năng lãnh đạo thì dường như ông không muốn nhìn xa trông rộng để vượt lên trên những mưu tính nhỏ nhặt và thủ đoạn tầm thường. Tóm lại, ông không phải là nhân vật mà đất nước đang cần.’ (Bùi Diễm. Hồi ký chính trị Gọng Kìm Lịch Sử. Cơ sở xuất bản Phạm Quang Khai, 2000. Trang 325).
2.  Võ Long Triều. Hồi kí Cái Mốc Lịch Sử. Tập  I I, kì 3.
3.  Võ Long Triều. Hồi kí Cái Mốc Lịch Sử. Tập I, kì 5 và 6.
Thực ra đến ‘giờ thứ 25’ của Miền Nam, ông Kỳ còn tính đảo chánh ông Thiệu một lần nữa (Lý Quí Chung. Hồi Ký Không Tên. Nhà xuất bản Trẻ. Trang 341).
4.  Tiền thân bí mật của Thành Đoàn vào khoảng 1960-1964 là các Ban Cán sự Sinh viên, Ban Cán sự Học sinh Khu Sài Gòn – Gia Định; mặt nổi là Hội Liên Hiệp Thanh niên Sinh viên Học sinh Giải phóng. Thời gian 1965 – 1967:  công tác SVHS do Khu Đoàn Thanh Niên Nhân Dân Cách Mạng Khu Sài Gòn - Gia Định lãnh đạo, gồm có các Đoàn ủy sinh viên, Đoàn Ủy học sinh…Theo Trần Bạch Đằng thì năm 1966,chính Nguyễn Văn Linh (Phó Bí thư Trung Ương Cục kiêm Bí thư Khu Sài Gòn – Gia Định) đã khai sinh ra Thành Đoàn với nhiệm vụ đặc trách công tác vận động thanh niên, sinh viên, học sinh nội thành (Sài Gòn – Gia Định). Tên gọi chính thức là Thành Đoàn Thanh Niên Lao Động Hồ Chí Minh (nay là Thành Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh).
5.  Năm 1970 tròn 18 tuổi, Nuôi được Thành Đoàn đưa ra chiến khu ở Mĩ Tho để kết nạp vào Đảng CS. Sau 30/4/1975, Nuôi được bầu làm đại biểu Quốc hội CSVN khoá VI, đồng khoá với Huỳnh Tấn Mẫm, rồi Bí thư Thành Đoàn.
6.  Lê Văn Nuôi. Dùng Vũ Khí Nguyễn Cao Kỳ phá bầu cử tổng thống (Theo Nhịp Khúc Lên Đàng. Nhà xuất bản Trẻ. Trang 433).
7.  ‘Má’, ‘các má’ là danh xưng sinh viên học sinh tranh đấu dùng để gọi các phụ nữ cũng ở trong tổ chức của Việt Cộng hoặc là cảm tình viên đã cung cấp thực phẩm cho họ trong các cuộc tranh đấu kéo dài, hoặc là đang bị giam giữ; có khi những phụ nữ này làm công tác giao liên, tàng trữ vũ khí, tài liệu, truyền tin hoặc cùng tham gia biểu tình, tuyệt thực, v.v…(‘các má’ tiêu biểu như: ‘Má ni sư’ Huỳnh Liên, ‘má’ Tư Điền (mẹ của 2 sinh viên Việt Cộng Trần Thị Lan và Trần Thị Huệ), ‘má’ Ngọc Điền, ‘má’ Tám Anh, ‘má’ Mười (tức ‘má Mười 36 chợ’), ‘má’ Năm Đình, ‘má’ Thái Hòa, ‘má’ Phùng Đinh, ‘má’ Văn Hoa, ‘má’ Ngọc Hoa, ‘má’ Tư Nguyễn Trãi, ‘má’ Văn Vân (chủ tiệm ảnh Văn Vân đường Bùi Thị Xuân), ‘má’ Nguyễn Thị Chúc, ‘má’ Chín Bình, ‘má’ Nguyễn Long (vợ Ls. Nguyễn Long), ‘má’ Liên (vợ nhà văn VC Vũ Hạnh), ‘má’ Hai Bàn Cờ… Ngoài ra còn có ‘các ba’, ‘các ngoại’ nữa.
8.  * Xin xem Diệu Ân. Huỳnh Tấn Mẫm Một Đời Sôi Nổi. Nhà xuất bản Lao Động, Hà Nội, 2008. Trang 116.
     * Đọc thêm Lê Văn Nuôi. Bài đd.
     * Tác giả Nguyễn Văn Lục trong bài Mặt Trận Văn Hoá Và Những Thủ Tiêu Ám Sát Trí Thức Miền Nam (motgoctroi.com) đã trích bản thảo hồi kí Đời của cựu dân biểu thân Cộng Hồ Ngọc Nhuận, trang 142, cũng kể vắn tắt về câu chuyện ‘Nguyễn Cao Kỳ ‘xớt’ Huỳnh Tấn Mẫm’ này, chỉ khác vài chi tiết nhỏ:
‘Huỳnh Tấn Mẫm một lần nữa bị bao vây, truy bắt. Trung tâm sinh viên Phật tử một lần nữa dậy sóng. Một chiếc jeep nhà binh, ngay sau khi tôi “điệu” hết cảnh sát về Tân Sơn Nhứt, chúng tôi đã ập vào trung tâm Quảng Đức, bốc Huỳnh Tấn Mẫm chạy thẳng về dinh Quốc khách ở góc đường Công Lý và Hiền Vương, nay là Trung tâm văn hoá thiếu nhi, góc đường Nam Kỳ khởi nghĩa-Võ Thị Sáu. Chiếc jeep ập vào bốc Mẫm là của Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ và dinh quốc khách lúc bấy giờ cũng thuộc quyền Phó tổng thống…Tiếp tay cho cộng sản, như vậy, không chỉ có mình tôi. Và lần này vai chánh không là tôi, mà là tướng Nguyễn Cao Kỳ’.
9. * Thiếu táTrịnh Bá Lộc là tùy viên của ông Minh từ 58 – 64 và từ 68 tới chiều 29 tháng 4 năm 1975. Chiều 29/4/1975, ông Lộc di tản sang Mĩ; nay đã liên lạc lại với Huỳnh Tấn Mẫm (từ 2005). Trong bài viết, ông Lộc làm như không biết Mẫm là một Việt Cộng thuộc Thành Đoàn, có nhiệm vụ hoạt động nội thành trong môi trường đại học. (Xin đọc Trịnh Bá Lộc. SV Huỳnh Tấn Mẫm và Cái Gọi Là ‘Saigon et Moi’ trên Calitoday.com) .
     * Xin đọc Diệu Ân. Sđd. Trang 128.
10.  Trong loạt bài 20 Năm Giới Trẻ MNVN, tác giả Nguyễn Văn Lục cho biết năm 2005, chính Lý Chánh Trung tiết lộ hồi 1968 ông Trung đã được bí mật đưa vào Khu gặp Huỳnh Tấn Phát và từ đó hoạt động mặt nổi cho MTGPMNV N.
11.  Nguyễn Ngọc Lan (cựu linh mục) vào khu năm 1968 gặp Trần Bạch Đằng cùng đợt với gs. Châu Tâm Luân, Cao Hoài Hà, nhà văn Thiếu Sơn, gs. Nguyễn Văn Chì, Lê văn Chí…(Trần Bạch Đằng. Cuộc Đời Và Ký Ức. Nhà xuất bản Trẻ. Trang 186). Khi ông Lan chết, Trần Bạch Đằng viết điếu văn tuyên dương công trạng như sau: ‘Từ năm 1968 cho đến 30 tháng 4 năm 1975, Nguyễn Ngọc Lan trước sau vẫn có mặt trong đội ngũ xung kích của những người yêu nước tại thành phố ’.
12.  Trong bài ‘30/4/1975, Ông Dương Văn Minh Và Tôi’, tác giả Nguyễn Hữu Thái xác nhận mình là người Mặt Tận Giải Phóng đưa ra tranh cử dân biểu Quảng Nam, nhưng thất cử.
13.  Lý Quí Chung. Hồi Kí Không Tên. Trang 270.
14.  Võ Long Triều. Hồi Kí Cái Mốc Lịch Sử. Tập I, Kì 16.
15.  Lý Quí Chung. Hồi Kí Không Tên. Trang 306.