Home Lịch Sử VN Chiến Tranh VN Các Nhân Vật Tư Tưởng Hồ Chí Minh và Sản Phẩm Trăm Năm Trồng Người

Tư Tưởng Hồ Chí Minh và Sản Phẩm Trăm Năm Trồng Người PDF Print E-mail
Tác Giả: Trần Nhật Kim   
Thứ Ba, 03 Tháng 11 Năm 2009 06:36

Một điều trớ trêu là đảng CSVN bắt người dân trong nước học tập “tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh” trong khi ông Hồ tự nhận ông chỉ là người thực hiện những điều có sẵn, “Bác Mao đã viết tất cả, tôi không còn gì để viết nữa.” Ông tin tưởng tuyệt đối vào chủ thuyết Marx-Lenin, tư tưởng Mao Trạch Đông, và nhắn nhủ các đồng chí “Cách mạng Việt Nam phải học tập cách mạng Trung quốc và biết ơn Mao Trạch Đông.”

 

Hình: Ông Hồ Chí Minh lúc về già.

  Sau khi cuốn phim tài liệu “Sự thật về Hồ Chí Minh” được trình chiếu tại hải ngoại và trên các diễn đàn điện tử trong nước, báo điện tử “Hà Nội Mới, tiếng nói của đảng bộ, chính quyền và nhân dân Hà Nội” đã đưa ra bài “Những thước phim trái sự thật, trái đạo lý” vào ngày 5 tháng 8 năm 2009 để đả phá cuốn phim này.

  Bài báo nhấn mạnh: “Bộ phim được tung ra vào đúng dịp cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đang được sự hưởng ứng nhiệt liệt của đồng bào trong nước và nước ngoài đồng thời cũng là dịp toàn Đảng, toàn dân ta đang kỷ niệm 40 năm thực hiện bản di chúc vĩ đại của người...”

  Cuốn phim “Sự thật về Hồ Chí Minh” đã gây trở ngại cho cuộc vận động học tập được Bộ chính trị đảng CSVN ký ban hành chỉ thị số 06-CT/TW ngày 7-1-2007, nhằm thúc đẩy người dân cả nước học tập về “tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh”. Thời gian học tập bắt đầu từ ngày 3-2-2007 đến ngày 19-5-2011.

  Ảnh hưởng ngày một lan rộng của cuốn phim đã tác động mạnh vào mọi tầng lớp dân chúng trong nước, phơi bầy sự giả dối, lường gạt người dân trong nửa thế kỷ qua, về tư tưởng cũng như đạo đức của ông Hồ, một chỗ dựa cuối cùng của đảng CSVN.

  Tư tưởng Hồ Chí Minh

Nhiều tài liệu về ông Hồ Chí Minh được phổ biến tại hải ngoại đã chứng tỏ ông Hồ là một học trò giỏi, áp dụng được bài học đàn áp sắt máu của các bậc thầy Stalin – Mao Trạch Đông. Ông chịu ảnh hưởng của chủ thuyết cộng sản khi nhận định: “chủ thuyết Lenin đối với những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là kim chỉ nam mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.”

  Một điều trớ trêu là đảng CSVN bắt người dân trong nước học tập “tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh” trong khi ông Hồ tự nhận ông chỉ là người thực hiện những điều có sẵn, “Bác Mao đã viết tất cả, tôi không còn gì để viết nữa.” Ông tin tưởng tuyệt đối vào chủ thuyết Marx-Lenin, tư tưởng Mao Trạch Đông, và nhắn nhủ các đồng chí “Cách mạng Việt Nam phải học tập cách mạng Trung quốc và biết ơn Mao Trạch Đông.”

  Ông Hồ Chí Minh có điểm nổi bật là xử dụng thành tích của những người khác làm của mình. Ông có nhiều tên từ Nguyễn Ái Quốc đến Hồ Chí Minh, mặc dù những danh xưng này không phải của ông. Ông giả danh Trần Dân Tiên để ca tụng chính ông khi viết cuốn sách “những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”, đã chứng tỏ manh tâm gian trá, lừa gạt những người vốn coi ông như một vị anh hùng dân tộc.

  Bản chất không vì dân tộc của ông Hồ càng lộ rõ, khi Bản Tuyên ngôn Độc Lập tuyên đọc ngày 2-9-1945 chưa ráo mực, đảng CSVN đã đẩy mạnh chiến dịch khủng bố những người không chung đường lối với chủ thuyết cộng sản, một số thủ lãnh đảng phái quốc gia bị bắt và bị thủ tiêu. Để che đậy chính sách khủng bố tàn nhẫn này, ông Trần Huy Liệu đã tuyên bố: “những người bị bắt là thành phần bất lợi cho chính quyền và nhân dân”.

  Để có chính nghĩa đoàn kết quốc gia hầu có hậu thuẫn của thành phần không chấp nhận chủ thuyết cộng sản, ông Hồ tạm thời giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương vào tháng 11 năm 1945. Trong tuyên cáo ký ngày 24-12-1945, ông Hồ cam kết tôn trọng các đảng phái quốc gia. Thực ra, Tuyên cáo này chỉ che đậy dã tâm độc quyền lãnh đạo, vì sau đó ông mượn tay thực dân Pháp giết hại các nhà ái quốc Việt Nam, phá tan sự đoàn kết dân tộc để thuận lợi đưa đất nước vào tay cộng sản quốc tế.

  Ông Hồ Chí Minh càng xuất sắc trong vai trò phản bội dân tộc, trở thành một tội đồ diệt chủng khi áp dụng chính sách Cải cách Ruộng Đất (CCRĐ). Ngày 4-12-1953 Quốc hội thông qua luật CCRĐ và Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành luật này. Cố vấn Trung cộng đã có mặt tại miền Bắc Việt Nam để giám sát việc thi hành chiến dịch.

  Với chỉ tiêu 5% dân số địa phương phải chết, bất kể thành phần địa chủ hay phú nông, có tội hay có công, bắt lầm chứ không tha lầm. Số người bị hành quyết lên tới 200,000 người, không kể số thân nhân trực tiếp với nạn nhân vào khoảng 500,000 người bị xua đuổi, sống trong tủi nhục ngoài lề xã hội.

  Chính sách CCRĐ gây ra sự bất mãn tại miền Bắc. Đảng CSVN phải thừa nhận sai lầm và sửa sai. Tại Hà Nội, ngày 26-10-1956 Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị, thay mặt ông Hồ và Trung ương đảng nhận sai lầm về chính sách CCRĐ. Tại Hội nghị Trung ương, ông Trường Chinh mất chức Tổng Bí thư, ông Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương mất chức Ủy viên Bộ Chính trị và ông Hồ Viết Thắng ra khỏi trung ương đảng. Ông Hồ với vai trò chủ tịch nước kiêm nhiệm chức vụ Tổng Bí thư.

  Mặc dù nhận sai lầm về chính sách CCRĐ, nhưng ông Hồ đã thực hiện được ý đồ dùng giai cấp đấu tranh để cướp chính quyền. Ông mãn nguyện vì chiến dịch đạt được thành quả mỹ mãn, thực hiện được âm mưu nhuộm đỏ các quốc gia Á Châu của cộng sản Quốc tế . Ông đã nổi danh vì làm được một việc mà ít người dám làm, là thúc đẩy phong trào “bài Phong đả Thực” để giết hại chính đồng bào của mình khi ký ban hành luật CCRĐ.

  Vì bị mê hoặc bởi chủ nghĩa không tưởng cộng sản, tội ác của ông Hồ Chí Minh và đảng CSVN chưa dừng lại sau chiến dịch CCRĐ. Theo chân Trung cộng, chính sách “Trăm hoa đua nở” đã giết hại, tù đầy thành phần trí thức, xóa bỏ văn hóa dân tộc. Chiến dịch “Cải tạo công thương nghiệp” đã phá hoại tiềm năng kinh tế miền Bắc.

  Trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi:

Sau cuộc khởi nghĩa thất bại của 13 vị anh hùng Quốc Dân Đảng tại Yên Bái ngày 17-6-1930, khí thế chống ngoại xâm lan rộng, khích động lòng người yêu nước. Nhân cơ hội này, với khẩu hiệu “Trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi”, ông Hồ đã phát động phong trào chống Pháp. Nhờ chiến tranh chống Pháp ông Hồ mới có danh chính ngôn thuận liên kết mọi thành phần yêu nước vì độc lập của dân tộc mà tiếp tay cho Việt Minh.

  Chiến tranh lan rộng khắp miền Bắc. Sách lược “tiêu thổ kháng chiến, vườn hoang nhà trống” được triệt để thi hành, khiến nhiều vùng nông thôn miền Bắc bị tàn phá, người dân lâm cảnh đói khổ, màn trời chiếu đất càng căm thù thực dân Pháp.

  Chống thực dân Pháp chỉ là cái cớ để ông Hồ có hậu thuẫn của người dân, nhưng mặt khác, vì tham vọng độc chiếm quyền hành, ông đã thỏa thuận với Pháp để thanh toán thành phần quốc gia đi ngược lại đường lối của ông. Hiệp ước Sơ bộ Sainteny ký ngày 6 tháng 3 năm 1946, công nhận Việt Nam là quốc gia tự trị trong Liên Hiệp Pháp.

  Trong cuộc chiến Việt Nam, chính sách “chia để trị” được CSVN tận dụng triệt để. Với chiêu bài chống thực dân Pháp buổi đầu, ông Hồ tiêu diệt được kẻ thù giai cấp để cướp chính quyền. Sau này, chiêu bài chống Mỹ cứu nước, giải phóng dân tộc, chỉ là cái cớ để đảng CSVN đem quân đánh chiếm miền Nam. Việc khai tử “Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam” đã minh chứng MTGPMN chỉ là một thứ công cụ nhất thời, được xử dụng nhằm phân hóa xã hội miền Nam và lôi kéo các thành phần bất mãn với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tiếp tay cho cộng sản Hà Nội.

  Trong 20 năm chiến tranh, chiêu bài “Thống nhất đất nước, giải phóng dân tộc” chỉ là lớp vỏ ngoài che đậy hành động chiếm đoạt, mà khủng bố, thủ tiêu, pháo kích đã gây tang thương cho người dân miền Nam. Sau ngày 30-4-1975, tập đoàn lãnh đạo CSVN hiện nguyên hình là một đảng cướp, vơ vét tài sản của người miền Nam làm của riêng, khiến đất nước suy sụp về kinh tế. Sự chán ghét chế độ cộng sản ngày một lan rộng tại miền Nam, mọi người đã tìm cách bỏ nước ra đi.

  Nhiều tài liệu đã nói về đạo đức tệ hại của ông Hồ khi ông kết hôn với bà Tăng Tuyết Minh tại Quảng Châu (Trung Hoa), sau đó không lâu ông chính thức kết hôn với bà Nguyễn Thị Minh Khai tai Moscow (Nga sô). Cái chết của bà Nguyễn Thị Minh Khai và Lê Hồng Phong khi về nước hoạt động cũng để lại nhiều nghi vấn liên hệ với ông Hồ. Khi ông làm Chủ tịch nước, ông không đoái tưởng tới bà vợ cũ, mặc dù bà Tăng Tuyết Minh có liên lạc với ông. Ở địa vị quyền cao chức trọng, ông Hồ lấy cô Nông Thị Xuân còn rất trẻ khi ông đã 65 tuổi. Hai người có với nhau một đứa con trai tên Nguyễn tất Trung. Ông vẫn im lặng khi cô Nông Thị Xuân bị thủ tiêu thật tàn nhẫn, ngụy tạo như một tại nạn giao thông. Thân nhân của cô Xuân bị đuổi giết để bịt miệng. Vì danh nghĩa “Cha già dân tộc”, ông Hồ cũng không đoái tưởng tới đứa con mồ côi mẹ.

  Sự nghiệp bán nước

Về “con đường cứu nước” của ông Hồ, ông Jean Francois Revel, một nhà văn và triết gia người Pháp, đã nhận định: “... mục tiêu của ông Hồ không phải là nền độc lập của nước Việt Nam mà là sự hội nhập vào cộng sản quốc tế. Mục tiêu của ông cũng không phải là giành lại cho người dân quyền tự quyết, quyền bấu cử, quyền chọn người lãnh đạo, quyền có luật pháp của mình và lối sống của mình. Mục tiêu của ông ta là cưỡng bức nhân dân phải chấp nhận chế độ toàn trị Stalin với tất cả đặc điểm của nó: những cuộc hành quyết không xét xử, trại tập trung, sự chà đạp nhân phẩm trong cải tạo, người dân chết đói và những kẻ lãnh đạo tham nhũng.”

  Với địa vị “Cha già dân tộc, Chủ tịch nước”, ông Hồ để Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký kết văn kiện “bán nước” cho Trung cộng. Khi Trung cộng tuyên bố chủ quyền về lãnh hải ngày 4-9-1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký công hàm ngày 14-9-1958 gửi Thủ tướng Chu Ân Lai, công nhận lãnh hải Trung quốc trong đó có Hoàng sa và Trường sa: “...Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa trên mặt bể.”

  Trên thực tế, vào thời điểm này Hoàng sa và Trường sa thuộc lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Năm 1974, Trung cộng đánh chiếm Hoàng sa, Việt Nam Cộng hòa đã đơn phương chống trả. Dân chúng miền Nam xuống đường biểu tình phản đối hành động xâm lăng của Trung cộng. Nhiều tổ chức, công đoàn tại miền Nam gửi Bạch thư tới các tòa đại sứ ngoại quốc tại Sài Gòn về hành động Trung cộng chiếm đoạt hải đảo của VNCH, nhưng đảng CSVN vẫn im lặng, không có hành động nào, ngay cả một lời phản đối.

  Sự im lặng này đã chứng tỏ là một trong những điều kiện để CS Hà Nội nhận được viện trợ của Nga-Hoa về quân trang quân dụng hầu có phương tiện mang quân đánh chiếm miền Nam. Liệu cuộc nội chiến này có cần thiết khi nhiều triệu người kể cả cầm súng lẫn tay không phải chết oan uổng. Một cuộc “chiến thắng” thống nhất được lãnh thổ nhưng mở đầu sự chia rẽ trầm trọng về ý thức Bắc Nam.

  Sự bất chính trong huyền thoại Hồ Chí Minh cũng được nêu lên khi ông để lại nhiều bản di chúc có nội dung trái ngược, đã được đảng CSVN chọn lựa để phổ biến. Hành động bán nước của ông Hồ chứng tỏ ông không vì dân tộc, đã nẩy sinh một nghi vấn về thân thế của ông. Một câu hỏi đặt ra trong tài liệu đang được phổ biến, ông Hồ thật đã qua đời vì bệnh vào năm 1932 tại Trung Hoa và được giả mạo thay thế bằng một người Tầu.

  Nhiều tài liệu cũng như một trong số những bản di chúc của ông Hồ, có đề cập tới việc ông bị một số đồng chí như Lê Duẩn, Lê Đức Thọ... bao vây hãm hại. Điều này không làm mọi người ngạc nhiên, vì đó là thực chất của chế độ cộng sản. Sự thanh trừng, thanh toán giữa các phe đảng vì quyền lợi đã và đang xẩy ra. Ông Hồ từng trực tiếp hoặc gián tiếp tiêu diệt các đối thủ không cùng đường lối, hãm hại những người đã giúp đỡ cưu mang ông, kể cả đồng chí tiếp tay ông trên đường khởi đầu sự nghiệp làm tay sai nô lệ. Chỉ có một điểm khác biệt, ông Hồ giết hại đồng bào vì bán mình cho cộng sản quốc tế, còn đám tay chân thân tín hãm hại ông vì quyền lợi cá nhân và phe cánh của họ.

  Trăm năm trồng “người”

Nhìn chung, chính sách “Trăm năm trồng người” đã hướng dẫn trẻ thơ mong muốn là cháu ngoan bác Hồ, biến tuổi trẻ thành một thứ công cụ chỉ biết phục vụ đảng, uốn nắn những người kế vị rập theo con đường ông Hồ để lại. Người Việt trong và ngoài nước đã đoán biết tương lai dân tộc đi về đâu khi chính sách trồng người trở thành kim chỉ nam của chế độ cộng sản Hà Nội.

  Trong đám tay chân của ông Hồ, chúng ta không thấy một nhân vật nào chứng tỏ “vì Nước” mặc dù luôn miệng nói “vì Dân”. Họ đã không có tài lại thiếu đạo đức, nhưng khả năng đàn áp, chiếm đoạt tài sản nhân dân thì tài giỏi vô cùng. Hành động của tầng lớp “lãnh đạo đảng” này đã để lại hậu qủa đen tối cho dân tộc.

  Theo gương bán nước của ông Hồ xác nhận chủ quyền của Trung cộng về Hoàng sa và Trường sa vào năm 1958, đám tay chân của ông Hồ đã tiến xa hơn trong sự nghiệp bán nước. Đảng CSVN nhượng đất cho Trung cộng qua Hiệp định biên giới ký năm 1999. Năm 2000, đảng CSVN lại tự ý thâu hẹp vùng biển khi ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ. Hiệp định Hợp tác Nghề Cá với Trung cộng, đảng CSVN đã hạn chế đất sống của người dân nghèo vùng biển và ngành hải sản có nguy cơ ngày một khô kiệt.

  Để triệt hạ thành phần dân chúng gây bất lợi cho đảng, ông Nông Đức Mạnh đã hợp pháp hóa bằng “Pháp lệnh tình báo” qua tổ chức Tổng cục 2. Với Nghị định 96 ban hành vào tháng 9-1997, ông Võ Văn Kiệt đã chi tiết hóa để phá vỡ mọi giới hạn về vai trò hoạt động nhắm tới cá nhân hay tổ chức trong ngoài nước có hoạt động chống nhà nước XHCNVN. Ông Phan Văn Khải đã ký ban hành Nghị định 31/CP, cho phép chính quyền địa phương giam giữ tại gia hay đưa đi vùng khác những người mà nhà nước thấy có hại cho chế độ. Luật hình sự mang số 88 quy định về tội chống nhà nước XHCNVN, đã tùy tiện bắt giam thành phần yêu nước. Nghị quyết 36 ra đời để chia rẽ cộng đồng người Việt hải ngoại, hầu che đậy những bất ổn đang xẩy ra trong nước có nguy cơ ảnh hưởng tới sự sống còn của đảng.

  Hành động bán nước của đám tay chân ông Hồ càng rõ nét khi đảng CSVN ra lệnh lực lượng công an giải tán, bắt giam một số người dân biểu tình phản đối Trung cộng đánh chiếm hải đảo Hoàng sa và Trường sa. Những người này được khoác tội danh “chống phá nhà nước và vi phạm an ninh quốc gia” khi họ chỉ chứng tỏ lòng yêu nước trước nạn ngoại xâm.

  Đi xa hơn nữa, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký kết để Trung cộng trá hình các công ty tư nhân đưa hàng chục ngàn công nhân sang khai thác mỏ Bauxite tại nhiều nơi từ miền Bắc tới miền Trung, trong khi nạn thất nghiệp tại Việt Nam ngày một gia tăng. Những công nhân này đã đánh đưổi, gây thương tích cho người dân địa phương như tại Hải Phòng, trong khi đảng CSVN vẫn yên lặng, không đưa ra một hành động bệnh vực nào cho người dân. Vì quyền lợi của đảng, CSVN vẫn thực hiện ý định cho Trung cộng đặc quyền khai thác tài sản Việt Nam, bất kể sự phản đối của mọi thành phần dân chúng kể cả một số đảng viên cộng sản. Việc khai thác quặng mỏ này ảnh hưởng tới an ninh lãnh thổ và phương hại tới sự sống của người dân trong vùng.

  Uy tín của ông Hồ vẫn được tận dụng như một bám víu cuối cùng, khi đảng CSVN để tên ông trong danh sách Danh nhân Thế giới để lừa gạt dư luận trong nước. Ủy ban UNESCO Việt Nam đã ngụy tạo khi tuyên bố: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là một hiện tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng cho nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ”, mặc dù không có một điều khoản nào của cơ quan UNESCO Liên Hiệp Quốc nói về việc vinh danh này. Và gần đây nhất, tượng ông Hồ được đặt trong đền, chùa, bên cạnh tượng Phật hay các vị anh hùng liệt nữ đã khích động tâm lý chán ghét chế độ CS của tín đồ các Tôn giáo.

  Kết Luận:

Nhìn chung, với thành tích giết hại 100 triệu nạn nhân trên thế giới, chứng tỏ chế độ cộng sản là một tai họa cho nhân loại. Sau 20 năm thoát khỏi chế độ sắt máu cộng sản tại một số nước Âu châu và Đông Âu, Bà Thủ tướng Đức, Angela Merkel đã phát biểu: “...Chủ nghĩa cộng sản đã tạo thành những con người dối trá, Đông Đức đã trở thành một hệ thống nhà tù kiểm soát chặt chẽ người dân. Tuy nhiên điều phá hủy được hệ thống vô luân này chính là niềm khát khao công lý và sự thật của người dân Đức, đó chính là nền tảng cho nền dân chủ.”

  Trên một khu đất được đặt tên “Memento Park” ở ngoại ô Thủ Đô Budapest (Hung), lưu giữ các hình tượng, di tích đàn áp của chế độ cộng sản thế giới như một chứng tích của tội ác diệt chủng. Mục đích để thực hiện khu đất này là muốn những thế hệ trẻ tương lai không lầm lẫn đi theo chế độ vô luân cộng sản. Cũng như tại các nước Âu Châu và Đông Âu, chính quyền Ba Lan đang từng bước thanh toán tàn dư của chế độ cộng sản đã tác hại trên đất nước này.

  Tại Thủ đô Hoa Thịnh Đốn, tượng đài kỷ niệm 100 triệu nạn nhân cộng sản đã được long trọng khánh thành ngày 12-6-2007, luôn nhắc nhở thế giới về tội ác của chế độ cộng sản, mà đảng CSVN đã đóng góp xương máu hàng triệu nạn nhân vào sự nghiệp diệt chủng. Biểu tượng trên luôn nhắc nhở người Việt Hải ngoại, nạn nhân của chế độ CSVN, về những đau thương của dân tộc.

  Qua lời tuyên bố của ông Nguyễn Minh Triết “Bỏ điều 4 Hiến Pháp là tự sát”, chứng tỏ giới lãnh đạo đảng CSVN vẫn theo gương ông Hồ là đảng độc quyền lãnh đạo. Thà mất nước hơn mất đảng. Chính sách đàn áp, bóc lột, lường gạt, ngu dân và đưa dân tộc vào vòng nô lệ đang được thực hiện tại Việt Nam.

  Cuốn phim “Sự thật về Hồ Chí Minh” đang trình chiếu tại các quốc gia trên thế giới, đã đạt được mục tiêu chính là đưa ra ánh sáng hành động bán nước, phản bội dân tộc của ông Hồ, giúp cho người dân trong nước thấy rõ bộ mặt thật của ông, đã một thời được mệnh danh “Cha già dân tộc” vì nước hy sinh. Như một số đông bạn trẻ trong nước phát biểu trên các diễn đàn điện tử, cuốn phim đã đáp ứng nhu cầu tìm hiểu sự thật, một trong những điều giả dối mà đảng CSVN đã lường gạt, che dấu trong nhiều thập niên qua.

  Vì an nguy của Tổ quốc, vì sự sống còn của dân tộc, người dân Việt trong nước đã vượt qua sự sợ hãi trước hình ảnh tù đầy, đàn áp. Nhu cầu tự do ngôn luận, đời sống dân chủ đang là một đòi hỏi cấp thiết của người dân trước sự xâm lược của kẻ thù phương Bắc với sự tiếp tay của đảng CSVN. Tội ác mà ông Hồ và đảng CSVN đã gây ra cho dân tộc trong hơn nửa thế kỷ vừa qua, sẽ được lần lượt phơi bầy trong tương lai. Thành quả “Đại thắng mùa Xuân”, “Thống nhất đất nước” không thể che đậy được dã tâm diệt chủng qua “Tết Mậu Thân”, “Mùa Hè đỏ lửa”. Đã tới lúc người dân đứng lên đòi quyền làm chủ, để có đời sống Tự do Dân chủ thật sự.