Home Lịch Sử VN Chiến Tranh VN Các Nhân Vật Tưởng niệm Trần Văn Bá

Tưởng niệm Trần Văn Bá PDF Print E-mail
Tác Giả: Ðinh Quang Anh Thái   
Chúa Nhật, 10 Tháng 1 Năm 2010 07:07

Hai mươi lăm năm năm trước, ngày 8 Tháng Giêng năm 1985, nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội tuyên án tử hình ba chiến sĩ phục quốc thuộc Mặt Trận Thống Nhất Các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam.

 

 

 
Hình 1: Sân trường Ðại Học Ðà Lạt: Trần Văn Bá (phải) nhận quà lưu niệm
của nữ sinh viên Thục Hiền Ðại Học Ðà Lạt. Thứ nhì bên phải là ông Nguyễn Mạnh,
nay là chủ nhiệm báo Việt Nam Tự Do ở San Jose. (Hình: Trần Ðại Lộc chụp năm 1973)
 

 

Hình 2: Nghĩa trang Ba Ðồn, nơi chôn tập thể nạn nhân Tết Mậu Thân ở Huế:
Trần Văn Bá (hàng đầu, thứ nhì bên phải). Thứ ba bên phải, hàng đầu,
là nghệ sĩ quá cố Thanh Hùng. (Hình: Trần Ðại Lộc chụp năm 1973)

Ðó là các ông Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch và Trần Văn Bá. Ðây là một tin dữ đối với người Việt trong và ngoài nước, cũng như đối với các dân tộc yêu chuộng tự do dân chủ trên thế giới. Mọi người đều lên án chế độ cộng sản Hà Nội và xem đây là một thái độ thách thức lương tâm loài người. Riêng trường hợp người thanh niên Trần Văn Bá, hành động vị quốc vong thân của anh là một đại tang đối với Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris và với những người trẻ khắp nơi trên thế giới.

Trần Văn Bá sinh năm 1945 tại Sa Ðéc. Anh lớn lên với ruộng đồng miền Nam và đã được un đúc, thừa hưởng tinh thần bất khuất của cha ông. Năm 1966, thân phụ của anh là Dân Biểu Trần Văn Văn đã bị cộng sản sát hại. Cái chết của cha bắt buộc anh phải rời bỏ quê hương, xa gia đình, xa bạn bè để sang Pháp sống và theo học tại Paris. Anh tốt nghiệp cao học kinh tế năm 1971 và sau đó làm giảng viên của Ðại Học Nantes. Song song với việc học, anh tích cực hoạt động trong phong trào sinh viên và trở thành Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Việt Nam tại Paris trong nhiều nhiệm kỳ, từ năm 1973 đến 1980. Chính Trần Văn Bá đã đem đến cho Tổng hội Sinh viên tại Paris một sinh khí mới. Ðể un đúc lòng yêu quê hương và tạo dịp cho các sinh viên thành tài về phục vụ đất nước, Trần Văn Bá đã tổ chức các chuyến về thăm nhà trong mùa Hè năm 1973. Từ đó, các hội đoàn ở Pháp và các nước Âu Châu khác đã liên lạc và gắn bó với nhau trong mọi sinh hoạt để chuẩn bị cho sự ra đời của Ðại hội Việt Nam Âu Châu những năm sau này.

Trong suốt mùa Hè năm 1973 tại quê nhà, Trần Văn Bá hầu như không bao giờ vắng mặt trong các hoạt động của thanh niên sinh viên. Từ những đêm hát cộng đồng, đi công tác ủy lạo chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa tại các tiền đồn ở Quảng Trị, ở Bastone, ở Rừng Sát, cho đến cứu trợ nạn nhân chiến tranh; đâu đâu cũng có mặt Trần Văn Bá.

Trần Văn Bá thâm trầm nhưng không xa cách. Trần Văn Bá ít nói, nhưng khi lên tiếng thì say sưa và nội dung phát biểu rất sâu sắc. Trần Văn Bá có cái bớt đỏ trên trán bên tay mặt, khiến cho anh khó có thể bị lẫn lộn với những người chung quanh.

Những ngày Hè năm đó, Trần Văn Bá thường mặc chiếc áo lính mà anh xin được của một binh sĩ tại đặc khu Rừng Sát và đem chiếc áo khi quay trở lại Pháp. Không biết sau này, khi anh về khu chiến phục quốc, chiếc áo lính bạc mầu đó có được theo chân Trần Văn Bá hay không.

Ngày 30 Tháng Tư, năm 1975, cộng sản chiếm miền Nam, đất nước bị quy về một mối. Nói theo cách diễn đạt trong thơ của thi sĩ Nguyễn Chí Thiện, dân tộc bị dìm trong một mối căm hờn, một mối oan khiên.

Trong giai đoạn bàng hoàng ngay sau biến cố sẩy đàn tan nghé đó, Trần Văn Bá đã bôn ba khắp nơi để kêu gọi mọi người phải tiếp tục đấu tranh. Anh thường thổ lộ với bạn bè rằng, biết bao người đã nằm xuống, chúng ta không thể ngồi yên được.

Một người bạn sinh viên từng gắn bó với Trần Văn Bá trong giai đoạn sau 1975 và hiện đang sống tại Úc là chị Phan Thị Ngọc Dung nói, “Tôi quen biết anh Trần Văn Bá vào khoảng đầu năm 1975 khi tôi bắt đầu hoạt động với Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris, lúc ấy anh Bá là chủ tịch nên tôi xem anh như một đàn anh vừa lớn tuổi hơn, vừa kinh nghiệm hơn về hoạt động. Ðiểm nổi bật của anh Bá là sự triệt để và dấn thân của anh. Tôi rất ngưỡng mộ anh ở điểm anh dám sống tới cùng cho lý tưởng của mình đối với đất nước. Hầu hết anh em tuy hoạt động nhưng cũng lo đi học, khi ra trường, đi làm, có bạn trai, bạn gái và lập gia đình. Anh Bá thì khác hẳn, anh dấn thân triệt để và trọn vẹn, anh bỏ rất nhiều thì giờ để gặp người này, người kia để liên lạc, vận động, không phải chỉ riêng gì ở Paris mà còn ở các nước khác ở Âu Châu. Anh cũng là một người biết rất nhiều tin tức và anh em luôn kinh ngạc là tại sao anh biết nhiều thế, không biết từ đâu mà anh có những tin tức này. Sau 1975 thì anh Trần Văn Bá trầm ngâm hơn, lâu lâu trong câu chuyện nói với tôi anh phải về Việt Nam mới được.”

Tết năm Kỷ Mùi 1979, Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tổ chức đêm văn nghệ tại Paris, cờ vàng ba sọc đỏ bay phất phới và tràn ngập cả hội trường Maubere với sự tham dự của hàng ngàn khán giả. Ðây là một sự thể hiện sống động nhất tinh thần của những người không chấp nhận ngày 30 Tháng Tư 1975 là sự kết thúc công cuộc đấu tranh vì hạnh phúc tự do của dân tộc.

Ðối với Trần Văn Bá, tất cả các hoạt động tại hải ngoại cũng chỉ nhằm chuẩn bị cho một ngày về chiến đấu ngay tại quê nhà. Trong đêm văn nghệ Tết năm đó, Trần Văn Bá nói những lời cuối, trước khi anh về khu chiến phục quốc,

“Kính thưa quý bác, anh chị em Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris rất hân hoan đón tiếp quý vị trong đêm hội Tết Kỷ Mùi; sự hiện diện quý báu của quý bác và quý anh chị là một khích lệ lớn lao cho tập thể sinh viên. Chúng tôi xin chân thành cảm tạ quý vị đã luôn luôn dành cho sinh viên sự ủng hộ nồng nhiệt nhất trên mọi phương diện, cụ thể là đêm hôm nay đã thành tựu với sự giúp sức tận tình của các phụ huynh và nhất là do sự đóng góp tích cực của hơn 1 ngàn sinh viên trong ròng rã 3 tháng trời. Kính thưa quý bác, thưa quý anh chị, cảm tình mà quý vị dành cho sinh viên nói lên sự tín nhiệm và sự mong ước của quý vị nơi giới trẻ để đáp lại nguyện vọng thiết tha của nhân dân trong 30 năm chiến tranh tàn phá đang bị đè nén tại quê nhà, ách thống trị khát máu đang áp đặt đã tước đoạt mọi quyền làm người của người dân Việt Nam, xô đẩy hàng trăm ngàn đồng bào phải bỏ xứ ra đi bất chấp mọi hiểm nguy; chính sự can trường của đồng bào vượt biển trước chết chóc và đời sống cơ cực trong các trại tạm cư tại Ðông Nam Á đã làm chấn động dư luận thế giới, vì thế nhiều quốc gia và đoàn thể không nỡ làm ngơ trước thảm nạn của cả trăm ngàn đồng bào, đã có hảo tâm muốn cứu vớt và giúp đỡ người tị nạn. Những thái độ cao thượng đó dù sao cũng chỉ có tính cách nhất thời nhằm xoa dịu thương đau của những người ra đi chứ không giải quyết vấn đề ở căn bản. Vấn đề tị nạn là hậu quả của việc vi phạm nhân quyền tại Việt Nam, người dân bỏ xứ ra đi là vì mọi quyền làm người của họ bị tước đoạt, an ninh bị đe dọa; như thế nguồn gốc của vấn đề tị nạn nằm ở Việt Nam, vấn đề chỉ có thể giải quyết tại Việt Nam mà thôi. Giải pháp là người Việt Nam có thể sống tại quê cha đất tổ mà nhân phẩm của họ không bị chà đạp, người ra đi có thể trở về và mạng sống của họ không bị đe dọa. Mọi thay đổi trong chiều hướng khả quan đó có thể có hay không là do ở nơi anh em kháng chiến đã hơn 3 năm lặn lội ở bưng biền tranh đấu cho tương lai của dân tộc, cứu vãn nhân dân khỏi thảm họa diệt vong. Chánh quyền Cộng Sản đang đưa đẩy dân tộc đến bờ vực thẳm, làm lính đánh thuê cho ngoại bang, đi xâm lăng các quốc gia Lào và Campuchia, đe dọa an ninh của cả Ðông Nam Á. Giải pháp cho vấn đề tị nạn và hòa bình tại Ðông Nam Á hiện nay tùy thuộc vào sự lớn mạnh của kháng chiến để ngăn chặn những ý đồ điên dại của những người cầm quyền ở Hà Nội. Cho nên lúc nào chúng tôi cũng dành sự ủng hộ của chúng tôi cho các anh em kháng chiến tại quốc nội, đó là để tiếp nối lại truyền thống của dân tộc từ thời lập quốc, lúc Lạc Long Quân và Âu Cơ chia ly có hứa hẹn khi hoạn nạn sẽ về giúp đỡ nhau. Trong hoàn cảnh thê thảm của đất nước, những đứa con ra đi như chúng ta sẽ giúp đỡ những đứa con đang tranh đấu tại quê nhà đem lại tự do cho nhân dân, giải phóng dân tộc khỏi chiến tranh diệt vong để sống chung hòa bình với các quốc gia láng giềng. Ðó là “Ðường Chúng Ta Ði”, “Ðường Chúng Ta Ði” cũng là đề tài của đêm văn nghệ Tết Kỷ Mùi nói lên truyền thống hào hùng của dân tộc. Nếu trong phần tổ chức có điều gì sơ xuất chúng tôi xin quý vị niệm tình tha thứ cho chúng tôi và Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris. Xin kính chúc quý vị một năm an khang và thịnh vượng. Xin cám ơn quý vị.”

Trần Văn Bá đã tìm đường về. Trần Văn Bá về chiến khu phục quốc ngày 6 Tháng Sáu, năm 1980, âm thầm, không một lời giã biệt. Anh trở thành một trong các cấp lãnh đạo của Mặt Trận Thống Nhất Các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam. Anh từng chỉ huy nhiều chuyến xâm nhập người và vũ khí vào Việt Nam, trong khi ở hải ngoại, nhiều người không tin rằng, con người ốm yếu như anh có thể làm được công việc đội đá vá trời đó.

Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris đã đóng góp rất nhiều trong công cuộc đấu tranh chống cộng sản trên đất Pháp, từ những năm tháng trước thời điểm 1975 cho đến mãi những năm sau này và kể cả giai đoạn hiện nay. Những năm Tổng hội dưới sự lãnh đạo của Trần Văn Bá đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong ký ức của nhiều người, trong đó có anh Ðỗ Ðăng Lưu hiện đang sống ở Úc, “Phải thành thực mà nói là uy tín của Tổng Hội Sinh Viên Paris tăng lên rất nhiều là nhờ uy tín và khả năng cá nhân của anh Trần Văn Bá. Lý do là vì anh Bá xuất thân từ một đại gia đình rất có thế lực về chính trị ở miền Nam Việt Nam và nhờ anh có những quen biết ở cấp cao nhất trong chính quyền miền Nam lúc bấy giờ, thành ra anh Trần Văn Bá có cơ hội nắm được tình hình chính trị một cách rất là vững vàng và do đó có khả năng hướng dẫn dư luận về đường hướng chính trị vào thời buổi bấy giờ.”

Trong một lá thư từ chiến khu quốc nội gởi ra cho một chiến hữu tại Pháp, Trần Văn Bá cho biết rằng, đời sống trong khu chiến cơ cực, nhưng anh không sờn lòng và anh tin tưởng mãnh liệt là quê hương chắc chắn sẽ có ngày bừng sáng. Ðau đớn thay, chí lớn chưa thành thì Trần Văn Bá đã bị cộng sản bắt năm 1984 tại Minh Hải, sau đó bị kết án tử hình.

Trần Văn Bá bị cộng sản xử bắn ngày 8 Tháng Giêng năm 1985.

Trần Văn Bá đã vị quốc vong thân, nhưng anh lúc nào cũng là một tấm gương sáng và cái chết của người thanh niên đầy nhiệt huyết này là một mất mát lớn cho toàn thể dân tộc Việt Nam.