Cha già dân tộc hay bố già dâm tặc |
Tác Giả: Võ Tấn Phong | ||||||
Thứ Ba, 22 Tháng 6 Năm 2010 05:11 | ||||||
Trong bộ phim The Edge of Heaven (tiếng Đức Auf der anderen Seite) có một câu chuyện tôi không thể quên. Nhân vật chính Nejat giận cha mình đến độ tưởng không thể nào hàn gắn được. Cho đến khi anh hồi tưởng lại, lúc nhỏ nghe câu chuyện Ibrahim dâng Ishmael làm sinh tế (tương tự câu chuyện trong Cựu ước, Abraham hiến tế con mình là Isaac), Nejat đã kinh hãi và hỏi cha anh, nếu Thượng đế bắt ông phải làm như vậy thì ông sẽ hành xử ra sao. Cha của Nejat trả lời: “Cha sẽ bảo vệ con dù có phải trở thành thành kẻ thù của Thượng đế”. Câu chuyện đó làm tôi bâng khuâng mãi. Tôi đã lục lọi trong trí nhớ xem cha mẹ tôi có khi nào dám đối đầu với kẻ mạnh để bảo vệ chúng tôi không. Và tôi phiền lòng không ít khi nhớ lại bài thơ của nhà thơ cộng sản Tố Hữu, thương cha mẹ và chính mình không bằng một phần mười tình thương dành cho Stalin. Và gần đây tôi cảm thấy hơi phiền hơn một chút khi một số người có học của Việt Nam[i] cố tình lập lờ hạ thấp công lao một người cha khai quốc của Mỹ – Washington, để tâng bốc “cha già dân tộc Việt Nam” – Hồ Chí Minh. * Washington[ii] là vị tướng Tổng Tư lệnh và Tổng thống đầu tiên của Mỹ. Ông lãnh đạo quân Mỹ chiến thắng quân Anh giành lại độc lập. Khi quyền uy lên tột đỉnh, ông đã từ chức Tổng Tư lệnh, trao quyền lại cho Quốc hội. Khi những người lính dưới quyền đề nghị lập ông làm vua, ông đã thẳng thắn từ chối. Ông đã lãnh đạo hội nghị soạn thảo hiến pháp Mỹ, mà một nét son là bảo đảm các quyền bất khả xâm phạm của công dân. Trong nhiệm kỳ Tổng thống, ông đã phải đem quân dẹp một cuộc nổi loạn (The Whiskey Rebellion), nhưng dùng uy tín để quân nổi loạn tự tan, và không xử tử ai cả. Sau nhiệm kỳ thứ hai, vị Tổng thống đầu tiên đã từ chức trở về đời sống thường dân. Lúc mất, ông đã giải phóng hết số nô lệ của mình. Thời còn sống ông đã là một huyền thoại. Và càng ngày ông càng vĩ đại trong mắt dân Mỹ và cả thế giới. Dân chúng Mỹ quý trọng Washington vì ông đã để lại nhiều tiền lệ quý giá cho đất nước, như khi từ chức Tổng Tư lệnh: đặt quân đội dưới chính quyền và ngăn ngừa nạn đảo chính; không ham quyền lực khi từ chối làm vua, và từ chức sau hai nhiệm kỳ Tổng thống: ngăn ngừa sự tham quyền cố vị; lúc dẹp loạn ông không trừng phạt tàn khốc những kẻ nổi loạn: tạo ra một chính quyền nhân từ; hành động dẹp loạn cũng tập cho dân Mỹ biết kiên nhẫn, biết dùng lá phiếu thay vì bạo lực để thay đổi chính quyền hay thay đổi những chính sách ngược lại quyền lợi của mình; lúc làm Tổng thống ông tuân thủ hiến pháp và không lạm quyền: tạo ra một chính quyền biết thượng tôn pháp luật. Ông có đáng làm người cha khai quốc của Mỹ không? * Để xét công tội Hồ Chí Minh (cũng như bất kỳ nhà chính trị nào), hãy đặt ba câu hỏi quan trọng: Tư tưởng của ông Hồ thế nào? Hành động của ông Hồ có lợi hại gì cho nước nhà? Gia tài của ông Hồ để lại là gì? Hồ Chí Minh ở Pháp sống trong giới cùng khổ. Điều đó giúp ông gần gũi và thông cảm với dân nghèo, nhưng cùng lúc làm ông căm ghét tầng lớp trung thượng lưu và không tiếp cận được với những tư tưởng tự do dân chủ khác. Điều tự nhiên là Hồ Chí Minh đi theo chủ nghĩa cộng sản mà không suy xét kỹ càng. Ngay cả quyết định bầu cho Quốc tế Cộng sản III cũng đầy cảm tính: chỉ vì Lenin có đề cập đến các dân tộc thuộc địa. Một người sáng suốt sẽ so sánh chủ nghĩa Marx với các chủ thuyết khác để xem lợi hại, hoặc sẽ so sánh lời lẽ cao cả của Lenin về thuộc địa với cách nhà nước Liên Xô của Lenin đã đàn áp vô cùng tàn bạo các nước cộng hòa trong liên bang. Sống một thời gian dài ở Liên Xô và chứng kiến cuộc thanh trừng khủng khiếp của Stalin, Hồ Chí Minh vẫn không tỉnh ngộ và vẫn kiên quyết đi theo con đường của Stalin. Những cuốn sách Hồ Chí Minh tự viết để đề cao mình cho thấy ông Hồ là một người quá khích: mọi thành quả tốt đẹp của các nước tư bản đều là giả tạo và do bóc lột, còn những khổ cực của dân chúng Liên Xô đều chỉ là tạm thời. Nhiều người bênh vực Hồ Chí Minh rằng vào thời điểm đó, con đường chủ nghĩa cộng sản là con đường duy nhất đúng. Lập luận này là ngụy biện vì Gandhi và bao nhiêu lãnh tụ Á – Phi khác không chọn con đường cộng sản cho dân tộc của họ sau khi độc lập. Hơn nữa, lãnh tụ có tầm nhìn xa thì không thể đổ thừa cho hoàn cảnh lúc này lúc nọ. Hồ Chí Minh thiếu sáng suốt, thiếu tầm nhìn, và đã chọn sai đường từ lúc đầu. Những cuộc chiến gây mất mát khủng khiếp thường được dùng để kết tội ông Hồ. Điều đó đúng một phần nhưng không phải là tất cả. Có những cuộc chiến không thể tránh khỏi, và dù phải hy sinh bao nhiêu cũng phải quyết đánh. Người Việt Nam đa số đều tin tưởng vào chính nghĩa của các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên, quân Minh dù mất mát lớn lao. Đa số mọi người dân Anh – Mỹ đều đồng ý là những hy sinh to lớn để đánh bại Đức Quốc xã trong Thế chiến II là cần thiết. Như thế, để xét hành động của Hồ Chí Minh có lợi hại gì cho nước nhà, ta nên xét xem những hy sinh to lớn của dân chúng có đáng hay không, nói cách khác, chế độ do ông Hồ và Đảng Cộng sản do ông đồng sáng lập có tốt hơn những chế độ mà ông quyết lật đổ hay không? Rõ ràng là không. Trong chế độ thực dân Pháp, tự do ngôn luận dù không hoàn hảo, vẫn có. Trong chế độ thuộc địa trước 1945, người dân bị bóc lột thì có các nhà báo, nhà văn và những người có công tâm dám lên tiếng cho họ. Những trí thức có uy tín dám lên tiếng chê bai nhà chức trách mà không bị tù đày. Nhiều người chống đối chế độ sau khi tù đày vẫn có thể trở về sống và tiếp tục chống đối thực dân Pháp. Những cuộc tàn sát vào số trăm hay ngàn người nổi dậy là đã bị báo chí đưa tin và lên án. Dù thực dân Pháp cố hạn chế, những phong trào chấn dân khí và khai dân trí vẫn được cổ võ mà không bị chính quyền chơi trò côn đồ, mà bằng các phiên tòa công khai. Ngược lại, ngay khi chiếm được miền Bắc, chế độ Hồ Chí Minh giết chết, bỏ tù và khủng bố không cần xét xử những ai dám chống đối. Trí thức thì có vụ Nhân văn – Giai phẩm là nổi bật nhất, hay nhà Phật học Thiều Chửu bị khủng bố đến tự sát. Ngay sau khi chiếm trọn miền Bắc, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản đã thực hành Cải cách Ruộng đất và giết chết hàng chục ngàn, nếu không nói là cả trăm ngàn người vô tội[iii]. Theo tiêu chuẩn quốc tế, Pinochet bị truy tố vì chính quyền của ông ta giết khoảng 3200 người[iv], và Chun Doo-hwan bị kết án tử hình vì chính quyền của ông ta tàn sát khoảng 191 đến dưới 2000 người (theo nhiều ước lượng khác nhau) trong cuộc nổi dậy ở Kwangju[v]. Theo tiêu chuẩn Việt Nam, Đại Việt sử ký toàn thư phê phán Lê Lợi: “Song đa nghi, hiếu sát, đó là chỗ kém”[vi]. Lê Lợi giết chết một số quan lại bị nghi ngờ không trung thành và gia đình họ, con số có lẽ vào ngàn người, đã bị sử quan phê phán là hiếu sát. Vào thời đại văn minh này, Hồ Chí Minh và chính quyền của ông ta trong thời bình đã giết chết hàng chục ngàn hay trăm ngàn người không hề chống đối chính quyền, có phải là hiếu sát bậc nhất trong lịch sử Việt Nam và của thế giới hay không? Vậy là, chế độ thực dân Pháp, vốn coi dân Việt ngu dốt và chỉ có một mục đích là bóc lột và dạy dỗ dân bản xứ, vẫn có công khai hóa và nhân đạo hơn với dân chúng thuộc địa, tốt hơn nhiều chế độ Hồ Chí Minh. Chế độ miền Nam, dù là một chế độ còn nhiều vấn đề, vẫn tự do dân chủ hơn nhiều lần chế độ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam sau năm 1975. Đơn cử chuyện báo chí: Có bao nhiêu tờ báo trước năm 1975 chống đối chính quyền Ngô Đình Diệm hay Nguyễn Văn Thiệu, và có bao nhiêu tờ báo sau năm 1975 chống đối chính quyền Lê Duẩn hay Đỗ Mười? Hàng triệu người Việt cả hai miền Nam Bắc liều chết bỏ nước ra đi là bằng chứng tố cáo chế độ xã hội chủ nghĩa hùng hồn nhất. Vì vậy cái chính quyền Việt Nam thối nát hiện nay không phải vì đã “đi sai con đường Bác Hồ đã chọn”, mà vì đã đi rất đúng con đường của Hồ Chí Minh vạch ra. Tội nặng nhất của Hồ Chí Minh là đã thiết lập chính quyền độc tài toàn trị tàn bạo mà không biết đến bao giờ dân Việt Nam mới vất bỏ được. Chỉ nêu ra sau đây một vài hậu quả nặng nề của cái chế độ toàn trị đó. Nhà nước cộng sản phá tan mọi giềng mối đạo đức của dân tộc và áp đặt cái đạo đức cộng sản lên dân chúng. Hôm nay khi đạo đức cộng sản bị phá sản và hiện nguyên hình là một mớ đồ giả, xã hội chẳng còn chỗ dựa, và vô số hành động suy đồi đạo đức nhâng nhâng công khai trong mọi tầng lớp xã hội. Nhà nước coi dân chúng như một thứ công cụ. Khi cần dân phục vụ chiến tranh thì mỵ dân: ca ngợi dân chúng anh hùng bất khuất. Khi cần củng cố độc đảng thì hạ thấp dân: dân chúng chưa đủ trí tuệ để thực hiện đa đảng. Nhà nước hoàn toàn đi ngược lại với quyền lợi dân chúng. Ngay dưới thời Hồ Chí Minh, văn nghệ sĩ mong tự do sáng tác thì bị đàn áp thô bạo, dân chúng thèm yên bình sau chiến chinh thì bị nạn Cải cách Ruộng đất và bị kéo vào cuộc chiến xâm lược miền Nam. Tiền thuế dân bị đem nuôi một bộ máy quân đội công an khổng lồ chỉ để trấn lột dân, đàn áp dân, chứ không phải để bảo vệ dân. Nhà nước không tự lực, không dựa vào chính mình, chỉ biết quốc sách ăn xin. Lúc còn khối xã hội chủ nghĩa thì xin viện trợ từ Trung Quốc, Liên Xô, Đông Đức, Ba Lan…; ngày nay xin xỏ Mỹ, Nhật viện trợ xây đường sá, xe điện cao tốc…; một đất nước trải qua bao chinh chiến vẫn không có một nhà máy sản xuất súng đạn, xe tăng, hay đại bác, mà chỉ biết xin viện trợ. Nhà nước không pháp luật, hành xử tùy tiện, trí trá. Ví dụ thì vô số, có thể kể những phiên tòa nhân dân của cuộc Cải cách Ruộng đất, hoặc những hành xử côn đồ với tôn giáo và những người bất đồng chính kiến hôm nay. Sự trí trá này bắt nguồn chính từ Hồ Chí Minh. Khi cần thiết thì Hồ Chí Minh chối bỏ bản chất cộng sản của mình để thoát thân, hay để xin Mỹ giúp đỡ. Vì biết phần lớn dân chúng không ưa cộng sản nên buổi ban đầu Hồ Chí Minh chỉ giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, thành lập Việt Minh, để lôi kéo mọi tầng lớp yêu nước. Nếu Hồ Chí Minh lật bài ngửa từ đầu, tuyên bố sau khi độc lập sẽ làm cuộc Cải cách Ruộng đất và chỉ có Đảng Cộng sản nắm hết mọi quyền lực, thử hỏi có bao nhiêu người theo? Nhà nước không có tầm nhìn lâu dài. Sự nô lệ tinh thần đã nảy nở ngay vào buổi bình minh của chế độ Hồ Chí Minh[vii]; Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản ảo tưởng về thân tình quốc tế cộng sản, không nhìn thấy dã tâm của Trung Quốc. Về giáo dục chỉ biết đào tạo nô tài. Ngày nay Đảng của ông Hồ cho thấy rất nhiều dấu hiệu là những kẻ bán nước-bán đất-bán biển-bán rừng-bán dân. Nhà nước chỉ hám danh vô thực. Quân đội cộng sản Việt Nam mượn móng vuốt của Liên Xô, Trung Quốc để đánh Pháp, Mỹ mà cứ khoe tài giỏi. Đến hôm nay Trung Quốc trở mặt, Liên Xô sụp đổ vẫn chưa tỉnh ngộ. Chỉ biết phí tiền dân vào những kế hoạch ngu ngốc: đào tạo 20 ngàn tiến sĩ, làm đường xe lửa siêu tốc… Nhà nước nghiền nát nhân phẩm con người, thích nịnh bợ và triệt tiêu mọi phê phán. Ngay thời Hồ Chí Minh, càng nịnh bợ đê hèn càng được tưởng thưởng. Những ai phê phán dù với mục đích xây dựng cho chế độ tốt hơn đều bị trừng trị. Nịnh thần đầy dẫy không phải là điềm báo hiệu suy vong? Cho đến hôm nay trí thức không lập thân bằng trí tuệ mà bằng đầu gối[viii]. Những Nguyễn Tuân, Phạm Duy, Nguyễn Cao Kỳ dưới chế độ tiền cộng sản đều ngang tàng không sợ ai, khi sống trong chế độ cộng sản cũng biết xu nịnh. Những người thất trận và những người chống đối không được bảo toàn nhân phẩm mà phải chịu khủng bố, tù tội, đói khát, hành hạ đến không còn ra con người mới thôi. Nhà nước chỉ biết đổ thừa, không bao giờ chịu trách nhiệm. Hồ Chí Minh là người phát động cuộc Cải cách Ruộng đất bằng bài viết tố cáo tội ác bà Nguyễn Thị Năm[ix], đến khi dân chúng nổi giận, Hồ Chí Minh đã đổ thừa và cách chức Trường Chinh, cho Võ Nguyên Giáp xin lỗi dân, tạo dựng huyền thoại Bác Hồ nhỏ nước mắt thương bà Nguyễn Thị Năm. Sử liệu chính thống thường hay biện hộ: chiến thắng Điện Biên Phủ là vì Võ Đại tướng không nghe lời khuyên của cố vấn Trung Quốc, còn sai lầm Cải cách Ruộng đất là vì Bác Hồ và Đảng bị sức ép của Mao Trạch Đông. Đúng là: Mất mùa là bởi thiên tai, Được mùa là bởi thiên tài Đảng ta[x]. * Bằng ấy tội ác, Hồ Chí Minh có xứng là cha già dân tộc không? Khi có đầy đủ chứng cớ Hồ Chí Minh là bạo chúa tàn ác nhất trong lịch sử nước nhà và để lại nhiều di hại lâu dài cho đất nước, không phải bỗng nhiên nhiều người lại rỗi hơi đi phê phán một nhà lãnh đạo Việt Nam. Khi Hồ Chí Minh “bại nhân nghĩa nát cả đất trời”, thì tố cáo tội ác của Hồ Chí Minh, để lấy lại công đạo cho hàng triệu nạn nhân và làm bài học (quá đắt giá) cho hậu thế, là nhiệm vụ của kẻ thức giả có công tâm. Không phải Mạnh Tử đã từng coi kẻ làm hại nhân nghĩa chỉ là giặc đó ư?[xi] © 2010 Võ Tấn Phong
|