Home Lịch Sử VN Chiến Tranh VN Các Nhân Vật Nguyễn Trường Tộ (1828 – 1871)

Nguyễn Trường Tộ (1828 – 1871) PDF Print E-mail
Tác Giả: Saigon Echo sưu tầm   
Chúa Nhật, 10 Tháng 10 Năm 2010 07:24

Nguyễn Trường Tộ (chữ Hán: 阮長祚; 1828 – 1871) là một chí sĩ, danh sĩ, kiến trúc sư và là một tín đồ Công giáo yêu nước.


 
    Nguyễn Trường Tộ
Nguyễn Trường Tộ

Cuộc đời

Nguyễn Trường Tộ sinh năm 1828, ở làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An, trong một gia đình theo đạo Công giáo. Ông học thông tứ thư ngũ kinh của Nho giáo. Năm 27 tuổi, ông được giám mục Gauthier (hay Ngô Gia Hậu) mời vào chủng viện Tân Ấp, thuộc xứ Xã Đoài để dạy chữ Hán và được giám mục dạy lại tiếng Pháp cùng các kiến thức khoa học châu Âu.

Năm 30 tuổi (1858), ông được giám mục Gauthier đưa qua Hương Cảng, Singapore, Thuỵ Sĩ. Trên đường đi ông có ghé Roma yết kiến Giáo hoàng rồi cuối cùng sang Paris theo học trong gần 2 năm.

Trong thời gian ngắn ngủi này, ông đã miệt mài học tập tiếp thu tri thức khoa học hiện đại, tìm hiểu thực tế xã hội phương Tây, với mong muốn trở về giúp ích cho đất nước.

Năm 1861, Nguyễn Trường Tộ về nước, giữa lúc thực dân Pháp đang lần lượt chiếm lục tỉnh Nam Kỳ, ông miễn cưỡng làm chức từ hàn (phiên dịch) cho Pháp.

Năm 1862, Đô đốc Louis-Adolphe Bonard mở cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, ông xin thôi, không làm việc cho Pháp nữa. Thời gian này ông đem những hiểu biết của mình giúp ích cho quê hương đất nước. Việc đầu tiên là ông hướng dẫn dân làng Xuân Mỹ, một nơi khí độc, đất xấu đi đến một vùng đất mới, xây dựng làng xóm trù phú, đường xá dọc ngang như bàn cờ (Làng Xuân Mỹ nay thuộc xã Nghi Đồng, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An).

Năm 1862-1863, ông thiết kế xây dựng tòa nhà nguyện của dòng tu nữ ở Sài Gòn. Năm 1864-1866 ông thiết kế xây dựng 4 ngôi nhà trong tòa Giám mục Xã Đoài. Các công trình này của ông thuộc về những công trình kiến trúc đầu tiên theo kiểu giữa thế kỷ 19 của châu Âu.

Cùng thời gian này, ở quê nhà, ông đã giúp Tổng đốc Nghệ An Hoàng Kế Viêm đào kênh Sắt, một công trình xưa Hồ Quý Ly dự định làm nhưng không thể.
Ở ẩn nơi quê nhà, ông lần lượt gởi lên triều đình nhiều bài điều trần giá trị, đề nghị chính quyền cải cách chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục...

Ông còn để lại đời hơn 14 bản điều trần về quốc kế dân sinh và khá nhiều bài thơ hay được truyền tụng.

Ông mất vì một cơn bệnh hiểm nghèo, ở làng quê Bùi Chu ngày 10 tháng 10 năm Tự Đức thứ 24, tức ngày 23 tháng 11 năm 1871, với niềm ân hận:
Nhất thất túc, thành thiên cổ hận
Tái hồi đầu, thị bách niên cơ...
(Một kiếp sa chân, muôn kiếp hận
Ngoảnh đầu cơ nghiệp ấy trăm năm...)

Đánh giá

Theo nhiều học giả và công chúng, các bản điều trần của ông nếu được áp dụng là một sách lược lớn biến Việt Nam thành một nước hùng cường, tạo nên chuyển biến quan trọng trong lịch sử giữ nước của dân tộc Việt Nam.

Học giả Lê Thước phê bình công nghiệp bình sinh của ông:
"...Nguyễn Trường Tộ là nhà khoa học, nhà chính trị và cũng là nhà tân học nước ta xưa. Tư tưởng và kiến thức của tiên sinh hơn người đồng thời muôn nghìn."

Tên ông được đặt cho nhiều trường học và đường phố tại Việt Nam.

Nội dung các bản điều trần

Nguyễn Trường Tộ đã liên tiếp gửi lên triều đình Huế 30 bản điều trần đề xuất canh tân xây dựng đất nước giàu mạnh. Gần sáu chục bản điều trần này đề cập đủ mọi lĩnh vực, các mặt chủ yếu:
• Về mặt kinh tế: Nguyễn Trường Tộ quan tâm đến công, nông, thương nghiệp. Mở mang buôn bán trong nước và giao thương với nước ngoài, mời các công ty nước ngoài đến giúp ta khai thác tài lợi, sửa đổi thuế khoá làm sao cho "nước giàu dân cũng giàu"....
• Về mặt văn hóa - giáo dục: Nguyễn Trường Tộ đề xuất cải cách phong tục, chủ trương coi trọng dân, sửa đổi chế độ thi cử mở mang việc học hành, thay đổi nội dung giáo dục, lấy quốc âm thay thế chữ Hán, lập trại tế bần...
• Về mặt ngoại giao: Nguyễn Trường Tộ phân tích cho triều đình thấy rõ cục diện chính trị trên toàn thế giới thời đó, những mâu thuẫn về quyền lợi giữa Pháp với Anh và Tây Ban Nha, khuyên triều đình nên ngoại giao trực tiếp với chính phủ Pháp tìm cách ngăn chặn âm mưu xâm lược của bọn Pháp bên này, khéo léo chọn thời cơ lấy lại 6 tỉnh Nam Kỳ, xác lập "tư thế làm chủ đón khách"....
• Về mặt quân sự: Nguyễn Trường Tộ, thời đó, tuy "chủ hoà" nhưng không có tư tưởng "chủ hàng" một cách nguyên tắc. Ông khuyên triều đình cải tu võ bị, trọng võ trọng văn, ưu ái người lính, biên soạn binh pháp, đào tạo sĩ quan, mua sắm tàu thuyền vũ khí, xây dựng phòng tuyến cả ở thành thị lẫn nông thôn, đề phòng quân Pháp xâm lược lan ra cả nước...