Phan Bội Châu (1867 – 1940) |
Tác Giả: Saigon Echo sưu tầm | |||||||||||||
Thứ Năm, 28 Tháng 10 Năm 2010 10:38 | |||||||||||||
Phan Bội Châu (chữ Hán: 潘佩珠; 26 tháng 12 năm 1867 – 29 tháng 10 năm 1940) là một nhà cách mạng Việt Nam, hoạt động dưới thời kỳ Pháp thuộc. Ông đã thành lập phong trào Duy Tân Hội và khởi xướng phong trào Đông Du.
Tên: Phan Bội Châu Ngày mất: 29 tháng 10, 1940 (72 tuổi)
Năm 1904, ông cùng 20 người họp mặt tại Quảng Nam để thành lập Hội Duy Tân. Xem thêm: Minh Trị Duy Tân Năm 1905, ông cùng Tăng Bạt Hổ sang Trung Quốc rồi sang Nhật Bản, để gặp gỡ các nhà cách mạng Nhật Bản và Trung Quốc và cầu viện trợ tài chính cho phong trào do ông thành lập. Tại Trung Quốc ông gặp Lương Khải Siêu, và được khuyên nên dùng thơ văn để thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam. Nghe lời khuyên, ông viết nhiều tác phẩm có tác động lớn với sĩ phu trong nước (xem bên dưới). Cùng thời điểm này, Hải quân Đế quốc Nhật Bản đánh tan tác Hải quân Đế quốc Nga trong trận hải chiến tại eo biển Tsushima. Chiến thắng của đế quốc Nhật Bản trước đế quốc Nga trong chiến tranh Nga-Nhật đã tạo nên nhiều quan trọng các phong trào chống thực dân ở châu Á. Do đó, các tác phẩm của ông đã tạo nên một làn sóng mới thúc đẩy nhiều thanh niên yêu nước tham gia phong trào Đông Du, xuất ngoại học tập để tìm đường chống Pháp. Năm 1906, Phan Bội Châu đưa Kì Ngoại Hầu Cường Để và một số học sinh người Việt khác sang Nhật. Cũng trong năm đó ông mời được Phan Chu Trinh, một nhà cách mạng nổi tiếng khác, đến thăm ông tại thủ đô Tokyo. Sau hai tuần thảo luận, hai người không giải quyết được bất đồng chính kiến về cách chống Pháp. Trong khi Phan Bội Châu muốn giữ thể chế quân chủ, Phan Chu Trinh muốn hủy bỏ chế độ này để tạo một quốc gia dân chủ. Năm 1907, Phan Bội Châu thành lập Việt Nam Cống Hiến Hội, một phong trào gồm có 100 học sinh du học ở Nhật. Việc này có ý nghĩa tượng trưng vì những học sinh có được cơ hội để cộng tác với nhau với tư cách là những người Việt, không phải người Bắc Kì, Nam Kì hay Trung Kì mà người Pháp đã chia ra. Tuy nhiên, dưới áp lực của Pháp, Nhật Bản đã trục xuất họ trong năm sau. Trong năm 1907, trường Đông Kinh Nghĩa Thục được thành lập để huấn luyện các nhà cách mạng chống thực dân Pháp. Các tác phẩm của ông được nghiên cứu và Phan Chu Trinh giảng dạy tại trường này. Nghi rằng Phan Bội Châu có liên quan đến trường này, Pháp đã đóng cửa trường trong vòng gần một năm. Họ cũng cho rằng ông có trách nhiệm trong các cuộc biểu tình chống thuế tại các tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi cũng như tại Huế vào đầu năm 1908. Ngoài ra, họ còn cho rằng ông có dính líu đến một cuộc nổi dậy bị thất bại tại Hà Nội vào tháng 6 năm 1908. Pháp đã xử tử 13 người tham gia cuộc nổi dậy này và bỏ tù hàng trăm người khác tại Côn Đảo (trong đó có Phan Chu Trinh). Hoạt động ở Trung Quốc Sau Chiến tranh Nga-Nhật, đế quốc Nhật Bản dù thắng trận nhưng nền kinh tế cũng phải chịu nhiều gánh nặng. Nhật Bản cần rất nhiều vốn để tái thiết, đầu tư vào kinh tế. Chính phủ Pháp đồng ý cho Nhật Bản vay 300 triệu franc, nhưng đổi lại, về mặt chính trị Nhật Bản phải hợp tác với Pháp chống lại phong trào Đông Du. Vì lí do đó, tháng 3 năm 1909, Phan Bội Châu bị Nhật Bản trục xuất. Sau đó, ông đến Hồng Kông, Bangkok và Quảng Châu. Trong những năm này, các tác phẩm cách mạng của ông ảnh hưởng đến phong trào chống Pháp ngay tại Việt Nam. Năm 1912, nức lòng vì thành quả của cuộc Cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Quốc của Tôn Dật Tiên, Phan Bội Châu cùng một số nhà cách mạng quốc gia Việt Nam lưu vong tại Quảng Châu thành lập một tổ chức cách mạng thay thế cho Hội Duy Tân. Tôn chỉ của tổ chức mới với tên Việt Nam Quang phục Hội (VNQPH) là đánh đuổi người Pháp ra khỏi đất nước, khôi phục chủ quyền của Việt Nam, và thành lập "Việt Nam Cộng hòa Dân quốc". Trong thời điểm này, Phan Bội Châu đã thay đổi chính kiến của ông về thể chế quân chủ. Tuy nhiên, ông vẫn duy trì Kì Ngoại Hầu Cường Để trong vai trò chủ tịch chính phủ lâm thời Việt Nam Quang Phục Hội. Nhằm gây tiếng vang, tạo ủng hộ trong quần chúng quốc nội, năm 1913 ông cho tổ chức ám sát và đặt chất nổ phá hoại nhiều nơi trong nước. Nhà cầm quyền Pháp đã phản ứng gay gắt. Nhân cơ hội Viên Thế Khải lên cầm quyền tại Trung Quốc, chính quyền Pháp đã nhờ ông này bắt giam Phan Bội Châu cùng các đồng chí. Có sách chép Lương Tế Quang, không phải Viên Thế Khải, đã bắt Phan Bội Châu[5]. Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, Pháp đưa 50.000 binh lính và 50.000 lao công người Việt sang châu Âu tham chiến. Pháp còn buộc người dân Việt Nam phải chịu thêm nhiều sưu thuế nặng nề để tài trợ nỗ lực chiến tranh của Pháp. Nhiều cuộc nổi loạn chống thực dân bộc phát tại Việt Nam nhưng đã bị Pháp đàn áp dễ dàng. Năm 1916, vị vua trẻ Duy Tân xuất cung tham gia cuộc nổi dậy do Thái Phiên và Trần Cao Vân tổ chức. Người Pháp được mật báo kế hoạch nổi dậy nên đã bắt giam và xử chém những người lãnh đạo cuộc nổi dậy. Vua Duy Tân bị truất ngôi và bị đày ra đảo Réunion ở Ấn Độ Dương. Một trong những cuộc nổi dậy kháng Pháp hữu hiệu nhất năm 1916 là cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên. Khoảng 300 binh lính người Việt đã nổi dậy, phóng thích và cấp súng ống cho 200 tù binh chính trị cùng vài trăm dân địa phương. Nghĩa quân đánh chiếm và làm chủ Thái Nguyên trong nhiều ngày liền, với hi vọng được tiếp viện bởi Trung Quốc Quốc Dân Đảng. Khi không ai đến giúp họ, Pháp đã đánh chiếm lại Thái Nguyên và truy bắt hầu hết các nghĩa quân. Năm 1917, Phan Bội Châu được phóng thích. Ông lưu lạc tại Trung Quốc suốt tám năm sau đó, ông học tập và viết báo sinh nhai ở Hàng Châu, làm biên tập viên của tờ Bình sự tạp chí, nhưng không còn trực tiếp ảnh hưởng đến các cao trào cách mạng tại Việt Nam. Trong thời gian từ 1921 đến 1924, sự kiện Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), liên minh Quốc - Cộng tại Trung Quốc... đã có ảnh hưởng lớn đến Phan Bội Châu. Ông tìm hiểu về cuộc Cách mạng Tháng Mười, và viết báo tôn vinh Vladimir Ilyich Lenin.[6] Giữa năm 1924, phỏng theo Quốc dân Đảng của Tôn Trung Sơn, ông định cải tổ Việt Nam Quang phục Hội thành Việt Nam Quốc dân Đảng. Nhưng sau khi gặp Nguyễn Ái Quốc, ông bỏ ý định đó và có những ý tưởng theo hướng xã hội chủ nghĩa [7]. Tháng 12 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc (khi đó là thư ký và thông dịch viên cho Borodine, người Nga, cố vấn cao cấp cho Quốc dân đảng Trung Quốc) đã có cuộc tiếp xúc với Phan Bội Châu, cùng trao đổi về xu hướng Quốc - Cộng hợp tác cho cách mạng Việt Nam, vốn đang thịnh hành tại Trung Quốc bấy giờ. Bị Pháp bắt và an trí Ngày 30 tháng 6 năm 1925, ông lại bị Pháp bắt tại Hàng Châu, ông bị dẫn giải về Hà Nội và xử án chung thân khổ sai. Các nguồn sử liệu và nghiên cứu khác nhau đã đặt nghi vấn về người tiết lộ cho Pháp tung tích của ông[8]. Về sau, bản án được đổi lại thành án quản thúc tại gia. Theo Việt Nam Pháp Thuộc Sử, ông được giảm án vì phản ứng mạnh mẽ của toàn dân đối với nhà cầm quyền Pháp.
Trong thời gian này, tư tưởng chống Pháp của Phan Bội Châu đã ôn hòa hơn. Vào tháng 3 năm 1927, trong dịp kỉ niệm ngày giỗ một năm của Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu đã viết: "Than ôi! Ông có thứ cho tôi chăng? Lúc ông [từ Nhật Bản] về nước [1906], tôi tiễn chân ông đến Hương Cảng, ông cầm tay tôi dặn mấy lời sau hết: ‘Từ thế kỉ 19 về sau, các nước tranh nhau ngày càng dữ dội, cái tính mạng một nước, gửi trong tay một số người đông, chứ không thấy nước nào không có dân quyền mà khỏi mất nước bao giờ. Thế mà nay Bác lại còn dựng cờ quân chủ lên hay sao?’ Ông nói thế, lúc bấy giờ tôi chưa có câu gì đáp lại, nay đã hơn 20 năm rồi, lời ôn càng lâu, càng nghiệm. Tôi mới biết cái óc suy nghĩ cùng cái mắt xem xét của tôi thiệt không bằng ông! Phỏng ngày nay ông còn sống thì cầm cờ hướng đạo cho chúng ta, hẳn phải nhờ tay ông mới được. Than ôi! Ngày nay những kẻ cúng vái ông, kính mến ông, có phải là chỉ ngắm tượng ông, đọc văn ông góp nhặt năm ba câu làm bộ ái quốc, ái quần đầu miệng mà thôi ư? Phải biết rằng ông Hi Mã mà được danh tiếng lưu truyền với sử xanh là vì ông có chủ trương thiệt, tinh thần thiệt." Phan Bội Châu mất ngày 29 tháng 12 năm 1940 tại Huế. Tên ông đã được đặt cho trường chuyên của quê nhà-tỉnh Nghệ An và một con phố lớn tại Hà Nội, gần Ga Hà Nội, nối từ đường Trần Hưng Đạo đến đường Điện Biên Phủ (Cửa Nam). Quan hệ với Hồ Chí Minh Nhà cách mạng Phan Bội Châu đã từng quen biết với Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 - 1969). Nguyễn Ái Quốc đã từng có bài báo viết về cuộc tiếp xúc và đối đầu giữa Alexandre Varenne (Toàn quyền Đông Dương thời đó) và Phan Bội Châu nhan đề "Những trò lố, hay là Varenne và Phan Bội Châu" ("Turlupinades, ou Varenne et Phan Boi Chau" - báo Le Paria (Người cùng khổ), số 36-37, tháng 9 - tháng 10 năm 1925). Bài viết có nội dung đả kích hành động của thực dân Pháp mà đại diện toàn quyền Đông Dương là Varenne, trong việc giả vờ đón tiếp cụ Phan từ nước ngoài về, nhưng thực chất thì "tay phải giơ ra bắt tay Phan Bội Châu, còn tay trái thì nâng cái gông để siết chặt Phan Bội Châu trong nhà tù ảm đạm". Theo cuốn Sổ tay tra cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh (NXB Hải Phòng, 1998) dựa vào Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch của Trần Dân Tiên thì Nguyễn Tất Thành đã từ chối ý định của Phan Bội Châu đưa anh sang Nhật Bản mà anh chọn con đường khác là sang Pháp. Theo Phan Bội Châu niên biểu, Phan Bội Châu kể rằng Nguyễn Tất Thành thường nghe ông ngâm hai câu thơ và sau này Nguyễn Tất Thành thường nhắc lại: Mỗi bữa không quên ghi sử sách Lập thân hèn nhát ấy văn chương. Đã từng gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong khoảng năm 1924, ông từng có ý định đi theo đường lối xã hội chủ nghĩa. Thế nhưng, ông bị bắt và quản thúc ít lâu sau đó, nên chưa thể theo xã hội chủ nghĩa được.[9]. Về sự kiện Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt, bản thân Phan Bội Châu cho rằng kẻ phản bội mình là Nguyễn Thượng Huyền (thư ký cho ông, sau này ra làm cho Pháp). Kỳ Ngoại hầu Cường Để, trong hồi ký, quy cho Lâm Đức Thụ là người chủ mưu.[8] Các tác giả Mạc Định Hoàng Văn Chí và Joseph Buttinger cho rằng Nguyễn Ái Quốc đã bán tin tức về Phan Bội Châu cho Pháp [8], còn Sophie Quinn-Judge và William J. Duiker cho rằng các bằng chứng chống lại Nguyễn Ái Quốc là không thuyết phục và phủ nhận giả thuyết này[8]. Trong bài thơ khóc thương tiếc ông của Phan Bội Châu có đoạn: Cờ xã hội những toan lên thẳng bước Gánh giang sơn chẳng chút chịu nhường ai! Đau đớn thay! Trời chẳng chìu người, Người bước tới mà trời giằng kéo lại. Công nghiệp sống chưa ra vòng thất bại, Tuổi chết nay đã trải chẵng mười năm Nhớ bạn xưa khôn nỡ khóc thầm, Một hàng chữ gởi thôn tâm cùng thiên cổ! Kẻ tiền đạo ấy ai là người hậu lộ? Nhận định Các sử gia Việt Nam[cần dẫn nguồn] cho rằng đóng góp của Phan Bội Châu vào nền độc lập của Việt Nam là một đóng góp cực kì lớn lao. Lúc đầu ông hết lòng bôn ba vận động chủ trương kháng Pháp bằng vũ lực với sự giúp đỡ của triều đình Nhật Bản. Tuy cá nhân ông không giải quyết được phương thức thực thi công việc đó, nhưng nghĩa khí và lòng tận tụy của ông biến thành sao Bắc Đẩu cho các cao trào cách mạng bạo động Việt Nam[cần dẫn nguồn]. Ông hô hào nhân dân học hỏi từ các cuộc cách mạng và các lãnh tụ Đông Á, và cho rằng, với sự giúp đỡ của các nước Đông Á đồng văn, người Việt có thể giành lại độc lập cho chính mình. Theo một số sử gia[cần dẫn nguồn], khuyết điểm lớn nhất của ông là đã không lôi kéo được thành phần dân nghèo, số người chiếm 80% dân số Việt Nam thời điểm đó, vào công cuộc giành độc lập. Theo họ, thay vì cố tập trung đấu tranh tại tầng lớp làng xã, ông và những người đồng chí hướng chỉ chú trọng vào tầng lớp đứng đầu xã hội, tin tưởng rằng dân chúng bần nông sẽ tự động theo gương đấu tranh của các bậc học giả trí thức. Các lãnh tụ cách mạng bước sau ông và các nhà cách mạng tiên phong khác nhờ vậy học hỏi được từ sai lầm này, cũng như thấu hiểu được tầm quan trọng của việc vận động địa phương[cần dẫn nguồn]. Sinh thời, Phan Bội Châu được một luật sư người Pháp tên là Bona ca ngợi: [9] “ Cụ Phan (Phan Bội Châu) là người quả không hổ là kẻ ái quốc, ái quân chân chính. Dầu tôi là người Pháp, đối với cụ Phan tôi cũng phải ngưỡng mộ. Tôi ngưỡng mộ là ngưỡng mộ cái thân thế quang minh, cái tinh thần cao thượng, cái nghị lực bất di, bất khuất đã chứng tỏ ra trong việc làm của cụ. ” —Luật sư Bona Tác phẩm
• Việt Nam Quốc sử khảo (1909) • Ngục Trung Thư (1913) (loc) – Sài Gòn: NXB Tân Việt, 1950 • Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư (19??) • Việt Nam vong quốc sử (1905) • Việt Nam Quốc sử bình diễn ca (1927) • Cao Đẳng Quốc Dân Di Cảo (19??) (loc) – Huế: NXB Anh-Minh, 1957 • Chủng diêt dự ngôn(19??) (loc) – Hà Nội: NXB Khoa hoc xã hội, 1991 • Tân Việt Nam (19??) (loc) – Hà Nội: NXB Cục lưu trữ nhà nước, 1989 • Thiên Hồ Đế Hồ (19??) (loc) – Hà Nội: NXB Khoa học xã hội, 1978 • Khuyến quốc dân du học ca (19??) • Hải ngoại huyết thư (1906) • Dĩ cửu niên lai sở trì chủ nghĩa (19??) • Hà thành liệt sĩ ca (19??) • Truyện Lê Thái Tổ (19??) • Tuồng Trưng nữ vương (19??) • Gia huấn ca (19??) • Giác quần thư (19??) • Nam quốc dân tu tri (19??) • Nữ quốc dân tu tri (19??) • Truyện Chân tướng quân (1917) • Truyện tái sinh sinh (19??) • Truyện Phạm Hồng Thái (19??) Tác phẩm biên khảo, thi ca • Kí niệm lục (19??) • Vấn đề phụ nữ (19??) • Luận lí vấn đáp (19??) • Sào nam văn tập (19??) • Hậu Trần dật sử (19??) (loc) – Hà Nội: NXB Văn hóa-thông tin, 1996 • Khổng Học Đăng (19??) (loc) – Houston, TX: NXB Xuân Thu, 1986 • Phan Bội Châu Niên Biểu (19??) (loc) – Sài Gòn: Nhóm nghiên-cứu Sử Địa, 1971 • Phan Bội Châu Toàn Tập (19??) (loc) – Huế: NXB Thuận hóa: Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2001 • Trùng Quang Tâm Sử (19??) (loc) Hà Nội: NXB Văn học, 1971 Lưu ý: các bản có đánh dấu (loc) hiện còn lưu trữ.
|