Lý Thuyết Các Mác, Một Sai Lầm Vĩ Đại Của Lịch Sử |
Tác Giả: Chu tất Tiến. | |||
Chúa Nhật, 31 Tháng 1 Năm 2010 18:00 | |||
Mỗi khi bị bắt buộc phải bước vào các nhà “tù-tư-tưởng” Mác Xít ấy, sinh viên cảm thấy ngạt thở... Các bạn thân mến, Sự thật chua chát đó đã làm tỉnh mộng hàng tỷ người trên thế giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam, nhóm thiểu số cầm quyền vẫn cố bám vào “cái dù” Mác xít rách nát đó để cai trị dân đen. Họ biết rằng nếu không có một “cái dù” chủ nghĩa để núp, thì Cộng Sản Việt Nam hiện nguyên hình là một lũ du đãng, côn đồ, băng đảng chuyên dùng võ lực để đàn áp dân lành và vơ vét đặc quyền đặc lợi cho chính bản thân của chúng. Vì thế, họ vẫn dùng những tên tay sai nằm vùng ở hải ngoại để đưa Mác Xít ra hù những người ngây thơ, cả tin. Nhiều bài báo vẫn ca tụng Mác Xít; nhiều kẻ trơ trẽn còn đưa ra một cái dù rách te tua khác là “tư tưởng Hồ Chí Minh, dựa trên tư tưởng Mác Xít”. Năm 1854, Marx viết thư cho Engels: "Phước thay cho ai không có gia đình!" (Blessed is he that hath no family!) Câu này được các đệ tử lượm và quảng cáo cho tư tưởng "Vô gia đình". Thực chất, Marx rất khoái gia đình riêng nên đẻ sáu đứa cả thẩy, dù cho nghèo rớt mùng tơi. Vì nuôi con dở quá, nên chết mất ba. Marx bất mãn, viết bài chống đối linh tinh, bị truy nã, nên rời quê hương từ Đức sang Pháp, bị đuổi, qua Bỉ, rồi trở lại Pháp, về Đức, lại qua Anh, có thời gian qua Algeria, rồi trở về Anh và chết ở đây. Cho tới chết, Marx vẫn là nguời ngụ cư. Cho nên Mác nói là "Vô tổ quốc!" cũng rất đúng. Vì không có việc làm chính thức, Mác sống vất vả, và phải dựa dẫm vào Engels, một đại phú ông chuyên nghề làm bông gòn ở Anh để trả tiền nhà và mua thức ăn. Nếu không có Engels, thì chắc cuốn Tư Bản Luận không thể ra đời. Điều đau khổ cho Mác là dù ông ta cổ võ cho lý thuyết Cộng Sản, nhưng những đồng chí Cộng sản để cho ông thiếu đói triền miên, không ai giúp đỡ, ngoài Engels! Marx chống đối tôn giáo (vô tôn giáo), nói đúng ra là chống lại hệ thống đạo ở quê hương. Nhưng đến lúc gần chết, Marx viết lá thư tỏ lòng ân hận với Thiên Chúa, và xin Chúa tha tội cho những điều ông viết có tính cách vô luân lý (begging for a forgiveness from God if he had ever written anything "immoral"). Sự thật là tuy Mác làm bộ chê bai, chửi bới cách sống vô luân, sa đọa, nhưng theo những người bạn của Mác, ông ta lại khoái xem những cảnh trụy lạc (“Although he railed all the libertinism and promiscuity, he enjoyed watching amorous escapades” -Theo Stanford Encyclopedia of Philosophy). Mác viết nhiều sách, ký tên mình, làm thiên hạ tưởng ông là cha đẻ của những lý thuyết đó, nhưng không ai biết rằng Mác đã "cọp dê" lại ý tưởng của người khác, và biến thành của riêng mình. (Mác xác nhận điều này trong Manifesto of the Communist Party, tr. 497) Từ đầu thế kỷ 18, đã có nhiều lý thuyết gia, kinh tế gia nói về chủ nghĩa tư bản rồi. Những nhân vật nổi tiếng về kinh tế như Adam Smith, David Ricardo, Jean-Baptiste Say, Saint Simon, Fourier, Owen, và John Stuart Mill đã viết nhiều về sản xuất, phân phối và trao đổi hàng hóa trong một nền kinh tế tư bản dựa vào sự nghiên cứu về những nhà kinh tế cận đại nhất. Ngoài ra còn David Hume và Richard Cantillon nũa. Những nhân vật này đã để lại nhiều nghiên cứu giá trị. Mác chỉ lựa các bài viết của người, rồi tập hợp thành một cuốn Tư Bản Luận của mình. Theo sau Adam Smith, Mác đã phân biệt "giá trị xử dụng" của hàng hóa và sự sai biệt giữa tiền vốn và tiền bán được thành tiền lời của giới tư bản. Tác phẩm của Mác không được ai quan tâm áp dụng, mãi cho đến vài chục năm sau khi chết, mới được Lê Nin đem tô điểm và biến thành một vũ khí lợi hại tấn công nhân loại. Thực tế chứng minh, những cuộc cách mạng cộng sản đã nổ ra nhiều nơi trên thế giới, nhưng đến cuối thế kỷ 20, nhân loại đã nhận thấy rằng những cuộc cách mạng đó chỉ đem lại đau thương, tàn ác, hết bạo quyền này đến bạo quyền khác, mà không mang lại hạnh phúc cho nhân loại, nhất là giới lao động, đã nghèo khổ còn bị bóc lột hơn, nên dần dần các thành trì xã hội chủ nghĩa cộng sản đã đổ nhào. Hiện nay chỉ còn lại vài lãnh tụ Cộng Sản cực kỳ lỳ lợm là Việt Nam, Cu Ba, và Bắc Hàn, những kẻ vẫn núp dưới cây dù lý thuyết Các Mác để thâu tóm quyền hành vào trong tay mình. Giới cầm quyền này còn áp đảo công nhân và nông dân một cách độc ác gấp trăm lần ngày trước. Sau 32 năm sống dưới chủ nghĩa xã hội, giới công nhân và nông dân lao động vẫn là khối lượng khổng lồ, khốn khổ khốn nạn, bị bóc lột, bị chủ lột truồng, đánh đập, bị chủ mạ lị, bị thiếu ăn, bị giam lỏng. Nữ công nhân phải đi làm vợ thuê để sống qua ngày. Có chút nhan sắc thì làm nô lệ tình dục cho ngoại quốc, hay bán thân ở mấy nước cần công nhân rẻ mạt ở Việt Nam. Công nhân được nhà nước đem bán cho ngoại quốc để lấy ngoại tệ, nhưng nếu công nhân có bị hành hạ như nô lệ, thì cũng mặc kệ. Đôi khi công nhân còn bị Lãnh sự mắng mỏ, tát tai vì đã làm họ “mất mặt” khi khiếu nại về tình trạng bị áp bức. 2-Sai lầm về giá trị thặng dư: Mác cho là tiền lãi của Tư Bản là do sự bóc lột của giới chủ nhân qua giá trị thặng dư biến thành tiền tệ. Mác cả quyết: “Không bóc lột, không thể làm giầu được”. Vì thế, Đảng Cộng Sản phải triệt tiêu mọi sở hữu cá nhân để tạo công bằng xã hội. (Manifesto of the Communist Party, tr.485, cùng sách.) Điều này chỉ đúng cho thời điểm đó, khi kỹ nghệ bắt đầu phát triển, những máy móc, phương tiện được sản xuất ào ạt, xe lửa và đầu máy hơi nước là phương tiện di chuyển hàng loạt, nên cần công nhân rất nhiều. Vì đa số những tay tư bản thời đó ở Âu châu còn ngần ngại không dám nhào vào các phương tiện mới lạ, chỉ có một số mạo hiểm làm giầu, nên lợi nhuận tập trung vào một số nhỏ. Cùng với sự suy thoái của chế độ phong kiến, những quý tộc cũ còn tiền của chuyển hướng sang kỹ nghệ. Với tài sản sẵn có, những người này tạo nên một hệ thống tập quyền với hàng rào phe đảng bao che vững chắc, do đó, họ tự tung tự tác, bóc lột công nhân tối đa để mong làm giầu thêm nữa. Nhưng đến cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, với giao thông dễ dàng hơn, với thông tin nhiều nguồn hơn, liên hệ kinh tế - xã hội thay đổi. Nhiều nghiên cứu thực tiễn chứng minh rằng lợi tức của Tư bản không nhất thiết phải là sự bóc lột giá trị lao động của công nhân. Như trường hợp Bill Gates, anh ta không làm chủ xí nghiệp như các chủ nhân thời Marx mà nhờ cái bộ óc của anh. Như một anh chuyên gia Việt Nam ở Thung Lũng điện tử, chỉ bán con "chíp" và "sóp oe" là đột nhiên trở thành tỉ phú! Mấy tay Chủ Nhân "Google.com" cũng thế! Đâu có cần phải bóc lột giá trị thặng dư của công nhân! Đa số các công ty, các hãng xe Nhật đều có công nhân trong ban quản trị, được góp ý kiến, được chỉ huy công ty. Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, nhiều người thành tỷ phú trong một thời gian ngắn mà không cần thuê công nhân. Mác còn sai hơn nữa khi cho rằng Tư Bản nhất định phải bao hàm một chế độ độc tài mà ông ta cũng còn gọi là Đế Quốc (Imperalism). Điều này bị lịch sử chứng minh ngược lại. Các chế độ đế quốc độc tài giờ đã biến mất trên mặt địa cầu, còn trơ lại có Đảng Cộng Sản là độc tài mà thôi. Vài quốc gia có chế độ quân chủ, chỉ còn lại là những biểu hiện lịch sử, không có giá trị chính trị. 3-Sai lầm về cái nôi của cách mạng vô sản. Mác tiên đoán rằng một cuộc cách mạng vô sản sẽ nổ ra ở các nước tư bản Âu Châu, nơi mà người bóc lột người, đặc biệt là nước Đức, Anh và Pháp (Cùng sách, tr. 500) Marx viết: "Hãy để bọn lãnh đạo rung động với một cuộc cách mạng cộng sản! Những người bị bóc lột chả có gì để mất ngoài xiềng xích trên chân họ!" (Let the ruling class tremble at a commnunistic revolution! The proletarian have nothing to lose but their chains!) Trong các cuốn sách của Mác, các ý tưởng về Tư Bản đều đặt trên hệ thống kinh tế xã hội Âu Châu, tiêu biểu là nước Anh. Mác muốn thay đổi trật tự xã hội cho các nước Tư Bản Âu châu đang trên đà phát triển kỹ nghệ. Đúng ra, cuốn Tư Bản Luận phê bình thậm tệ về nền Tư Bản Kỹ Nghệ (Industial Capitalism) chứ không chủ trương nói về các nước còn trong chế độ Quân chủ. Mác đã sai lầm lớn: cuộc cách mạng đầu tiên lại nổ ra ở Nga sô, nơi mà chế độ quân chủ còn tồn tại. Nga lúc đó ở trong giai đoạn quân chủ, chưa tiến tới tư bản, vì vẫn còn Nga Hoàng. 4-Sai lầm về tiến trình của lịch sử thế giới. Theo Mác, lịch sử thế giới tiến theo một trình tự như sau: Nhân loại đầu tiên theo chế độ Cộng Sản nguyên thủy (Primitive Communism) vì hồi đó, ai có đồ hái lượm đều chia cho nhau xài chung. Mác đã võ đoán khi cho rằng trong thời hồng hoang, con người chia đồ cho nhau xài chung. Thực tế, không thể chỉ dựa vào một số đồ dùng đá, sắt nhặt ở chung một chỗ và xem mấy cái hình khắc trên hang động mà kết luận rằng mọi người thương yêu nhau, xài chung đồ! Chưa chắc! Có thể là do một kẻ mạnh nhất đi tập trung lại cho mình xài trước rồi mới chia cho kẻ nào nịnh bợ hoặc quen thân hơn! Ngoài ra, mấy dụng cụ lao động mà người ta tìm thấy, có cái còn nằm trong thân người khác, có nghĩa là đã biết đâm chém nhau, giành giật từ xưa. 5-Sai lầm về tâm lý học. Mác cho rằng sau khi cách mạng thành công, thì những kẻ tiên phong hay những đại diện cho giới công nhân, nông dân cách mạng sẽ thực hiện một chế độ “không có người bóc lột người”, để dần dần tiến tới chế độ “Mình vì mọi người, và mọi người vì mình” và “Làm theo năng lực và hưởng theo như cầu.” Thực tế của mọi cuộc cách mạng vô sản là sau khi nhóm lãnh đạo đã cầm quyền được tồi thì nắm luôn, trời gầm cũng không nhả. Đã lượm được tiền, vàng bạc, ngân khố rồi thì cất luôn! Từ đó, sinh ra phe đảng, chém giết lẫn nhau thậm tệ. Mà một khi đã say máu giết người để cướp của mà không bị ai trừng trị, thì cứ thế mà say máu, giết người! Do đó, mà sau các cuộc cách mạng xã hội, số người chết nhiều không thể đếm được. Người ta chỉ có thể ước lượng, Trung Cộng giết hơn BA CHỤC TRIỆU người, Liên Xô ít hơn, chỉ có hơn MƯỜI TRIỆU NGƯỜI thôi. Còn Việt Nam? Hãy hỏi Bác Hồ kính yêu vẫn còn đang nằm dài trên giường kia xem bàn tay ông vấy máu bao nhiêu người? Nguyên một cuộc Cải Cách Ruộng Đất với các cuộc đấu tố dã man, đã có khoảng nửa triệu người bị hại chết. Đến khi sửa sai, thì chính những cán bộ cải cách ruộng đất lại bị lên án. Khoảng 100 ngàn cán bộ bị sửa sai, bị đầy vào Lý Bá Sơ và các trại trừng giới khác. Cho đến bây giờ, đã 34 năm từ ngày dứt chiến tranh, những nhà lãnh đạo đảng vẫn là những con người cũ từ cách đây hơn 34 năm, chưa thấy chia quyền cho ai, chỉ có thủ tiêu, thanh trừng, và cất chức. Nhân dân Việt Nam hiện tại là những người khổ nhất trên hành tinh, vì tuy họ hiểu cái cay đắng của xã hội, nhưng chân yếu tay mềm, không nói lại, không chống lại đươọc những âm mưu thủ đoạn tàn phá môi trường, hủy hoại đất nước và bán đứng Tổ Quốc yêu quý cho ngoại bang.
|