Luật Sư Nguyễn Hữu Thống Gửi Văn Thư Cho Tổng Thống Fidel Ramos Về Vấn Đề Luật Pháp Và Trật Tự Tại Biển Đông Nam Á |
Tác Giả: LS. Nguyễn Hữu Thống | |||
Thứ Năm, 04 Tháng 6 Năm 2009 12:45 | |||
Ngày 14-7-1995, nhân kỳ Đại Hội ASEAN tại Brunei, Luật Sư Nguyễn Hữu Thống, Chủ Tịch Hội Luật Gia Việt Nam tại California đã gửi văn thư cho 7 vị nguyên thủ quốc gia trong Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á là Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam Dương, Brunei, Tân Gia Ba, Thái Lan và Việt Nam để trình bày về vấn đề giải quyết các vụ tranh chấp tại Biển Đông Nam Á theo những quy luật dự liệu trong Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982. Theo các quan sát viên quốc tế, văn thư này đưa ra giải đáp ưu tiên hàng đầu trên thế giới cho vấn đề tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc (World’s leading Vietnamese method. Dùng phương thức tranh nghị để đi đến hòa bình (The Discussion Proceeds for Peace). Dưới đây là văn thư của Luật Sư Nguyễn Hữu Thống gửi Tổng Thống Phi Luật Tân Fidel Ramos: Thưa Tổng Thống, Nhân danh Hội Luật Gia Việt Nam tại California, chúng tôi xin trình bày cùng Tổng Thống vấn đề tranh chấp tại quần đảo Trường Sa. 7 năm trước đây, có trận hải chiến giữa Việt Nam và Trung Quốc tại vùng biển Trường Sa. Trong dịp này Trung Quốc đòi chủ quyền lãnh thổ tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và đã chiếm cứ một số hải đảo gây nên mâu thuẫn và tranh chấp giữa Trung Quốc với Việt Nam và Phi Luật Tân. Mới đây Trung Quốc còn lấn chiếm một số cồn, đá, bãi toạ lạc tại thềm lục địa Phi Luật Tân như Mischief Reef, Haft Moon Shoal, Sabina Shoal và Jackson Bank. Hành động này đe dọa an ninh toàn vùng Đông Nam Á và cản trở sự tự do giao thương tại Biển Nam Hải. Từ 3 năm trước, Trung Quốc cũng xâm chiếm một vùng biển tại Bãi Tứ Chính (Vanguard Bank) mà họ gọi là Bãi Vạn An (Wanan Bei) để tự tiện nhượng quyền khai thác dầu khí cho Hãng Crestone. Vùng bãi này nằm trong Thềm Lục Địa Việt Nam cách bờ biển 190 hải lý về phía đông nam. Phía đông Bãi Tứ Chính nơi Hãng Crestone đang khai thác dầu khí là quần đảo Trường Sa, đối tượng tranh chấp giữa Trung Quốc, Việt Nam, Phi Luật Tân, Mã Lai, Brunei, Nam Dương và Đài Loan. Lưỡi Rồng Trung Quốc hình chữ U, mà Bắc Kinh gọi là “Đặc Khu Hành Chánh Hải Nam”, chiếm 80% Biển Nam Hải, phía đông giáp Phi Luật Tân, phía tây giáp Việt Nam và phía nam giáp Mã Lai, Brunei và Nam Dương, điểm xa nhất cách Hoa Lục 1,100 hải lý (hay 2000km). Hành động như vậy Trung Quốc coi Biển Nam Hải là nội hải của họ (internal waters), cũng như Đế Quốc La Mã ngày xưa gọi Địa Trung Hải là “Biển Của Chúng Tôi” (Mare Nostrum). Chiếu Điều 57 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, các quốc gia duyên hải có đặc quyền đánh cá tại Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý (Exclusive Economic Zone). Chiếu Điều 76 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, các quốc gia duyên hải có đặc quyền thăm dò và khai thác dầu khí tại thềm lục địa (continental shelf) kéo dài từ 200 hải lý đến 350 hải lý, nếu về mặt địa hình, thềm lục địa là sự tiếp nối tự nhiên của nền lục địa (continental margin) từ đất liền ra ngoài biển. Về mặt pháp lý các quốc gia duyên hải đã ký kết hay tham gia Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển đương nhiên được hưởng quy chế thềm lục địa pháp lý 200 hải lý. Đó là trường hợp của các quốc gia Đông Nam Á như Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam Dương, Brunei, Tân Gia Ba, Thái Lan và Việt Nam (Việt Nam đã đăng ký thềm lục địa pháp lý 200 hải lý từ năm 1982). Chiếu Điều 77 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển các quốc gia duyên hải có chủ quyền tuyệt đối tại thềm lục địa để thăm dò và khai thác những tài nguyên thiên nhiên. Đây là đặc quyền chuyên hữu theo đó không ai có quyền thăm dò và khai thác dầu khí nếu không có sự ưng thuận minh thị của quốc gia duyên hải. Những quyền này không tùy thuộc vào điều kiện phải có sự chiếm cứ hay công bố minh thị. Điều 81 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển một lần nữa xác nhận chủ quyền tuyệt đối và đặc quyền chuyên hữu của quốc gia duyên hải trong việc tự mình đứng ra thăm dò và khai thác dầu khí, hay ký hiệp ước cộng tác với các quốc gia đệ tam về những dịch vụ này. Chiếu nguyên tắc “các hiệp ước quốc tế phải được tôn trọng”, Điều 26 Công Ước Vienna về Luật Hiệp Ước (1969) quy định như sau: “Các hiệp ước có hiệu lực chấp hành buộc các quốc gia kết ước phải ngay tình thi hành hiệp ước”. Ủy Ban Liên Hiệp Quốc về Luật Quốc Tế coi đó là “một nguyên tắc căn bản về luật hiệp ước, có lẽ là nguyên tắc quan trọng nhất trong công pháp quốc tế”. Chiếu nguyên tắc về giá trị thượng tôn của Luật Quốc Tế đối với Luật Quốc Nội, các quốc gia kết ước phải thực sự thi hành những quyến hạn và nghĩa vụ ghi trong các hiệp ước hay công ước quốc tế . Họ không thể viện dẫn luật quốc nội để khước từ thi hành nghĩa vụ của họ ghi trong các hiệp ước và công ước quốc tế mà họ đã ký kết hay tham gia. Đó chính là trường hợp của Trung Quốc. Sau khi ký Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982, 10 năm sau, năm 1992, Bắc Kinh ban hành Luật Quốc Gia về Biển (Domestic Law of the Sea) xâm phạm chủ quyền lãnh thổ tại các Thềm Lục Địa Việt Nam và Phi Luật Tân, cũng như tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những vi phạm luật biển phải được đệ trình Tòa Án Quốc Tế (The Hague) hay các Tòa Án Luật Biển thiết lập do Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. Muốn giải quyết những mâu thuẫn và tranh chấp về thềm lục địa, về hải phận hay về hải đảo, các quốc gia đương tụng phải, trước hết, tuân hành những phương thức ôn hòa như điều đình, hòa giải, thương nghị hay trọng tài. Nhân dịp này chúng tôi cũng thỉnh cầu các quốc gia hội viên trong Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á ra quyết định đổi danh xưng Biển Nam Hải thành Biển Đông Nam Á. Danh từ Nam Hải chỉ áp dụng cho Trung Quốc. Đối với Việt Nam nó có tên là Biển Đông. Đối với Tân Gia Ba, Nam Dương, Mã Lai và Brunei nó là Bắc Hải. Đối với Phi Luật Tân nó là Biển Tây. Hãy trả Caesar những gì của Caesar. Chúng tôi xin cám ơn sự chú tâm của Tổng Thống về vấn đề này. ----------------------------- Law of the Sea: The Discussion Proceeds for PeaceIn the Matter of Law & Order in Southeast Asian Sea CALIFORNIA VIETNAMESE LAWYERS ASSOCIATION, Inc. President FIDEL RAMOS Dear Mr. President, On behalf of the California Vietnamese Lawyers Association, I would like to submit for your consideration the Spratly conflict. Article 77 of the LOS Convention gives sovereign and exclusive rights to the coastal States over the continental shelf: Concerning the drilling on the continental shelf, Article 81 of the LOS Convention provides that "the coastal State shall have the exclusive right to authorize and regulate drilling on the continental shelf for all purposes". The Rule Pacta Sunt Servanda applies for the observance of treaties.Article 26 of the Vienna Convention on the Law of Treaties (1969) declares that "every treaty in force is binding upon the parties to it and must be performed by them in goodfaith". The United Nations International Law Commission in its commentaries to this rule characterized it as a "fundamental principle of the law of treaties, perhaps the most important principle of international law". (See 1966 Report on the I.L.C. reproduced in 61 Am. Int’l L. 248 at 334)(1967). According to the rule of supremacy of international law, the rights and obligations which a state has by international law are, on the international plane, superior to any rights or duties it may have under its domestic law. Article 27 of the Vienna Convention provides that "a party may not invoke the provisions of its internal law as justification for its failure to perform a treaty". That failure to perform would constitute a breach of international law requesting remedies with provisional measures in case the urgency of the situation required it. Therefore, China should not invoke its domestic Law of the Sea promulgated in 1992 to encroach upon the Vietnamese and Philippine Continental Shelves and the whole Spratly and Paracel archipelagoes. These violations of the Law of the Sea should be submitted to the International Court of Justice or the International Tribunal for the Law of the Sea for the resolution of disputes in case the parties do not reach an agreement by negotiation and conciliation. The International Court of Justice has jurisdiction over the matters relating to the interpretation or application of the LOS Convention. Until December 1982, the Convention was signed by 119 states. It has come into force on November 16, 1994 after its ratification by 60 states. On July 29, 1994, the United States signed the Agreement Relating to the Implementation of Part XI of the LOS Convention. Last October, President Bill Clinton transmitted a letter to the U.S. Senate asking its consent to accession to the LOS Convention. I would like to seize this opportunity to propose that you change the name "South China Sea" to "Southeast Asian Sea”. The appellation of South Sea (Nan Hai) is good only for China; the East Sea (Bien Dong) applies only to Vietnam. As for Singapore, Indonesia, Malaysia and Brunei, it should be called North Sea; and for the Philippines, the correct name should be West Sea. Furthermore, the name South China Sea could be interpreted erroneously as the Sea of China in the South. Let us give to Caesar what belongs to Caesar, and give Southeast Asian Sea to the Southeast Asian countries. Thank you for your attention to this matter.
|