Home Lịch Sử VN Thời Cận Đại Lịch Sử Việt Nam và các Vua Chúa Nhà Nguyễn

Lịch Sử Việt Nam và các Vua Chúa Nhà Nguyễn PDF Print E-mail
Tác Giả: Lịch sử Việt Nam   
Thứ Năm, 26 Tháng 2 Năm 2009 13:23

Mục Lục

Chương Một : Khái lược về nhân văn

I. Đại Cương Về Người Việt
II. Địa lý và quốc hiệu
III. Đại cương về văn hóa Việt tộc

Chương Hai

I. Thời đại Thái cổ (trước Thế Kỉ 29 tr.D.L.)
II. Thời đại Hồng Bàng (2879 tr.D.L. 257 tr.D.L.)
III Thời Thục (257 tr.D.L. 207 tr.D.L.)
IV. Thời Triệu (207 tr.D.L. - 111 tr.D.L.)
V. Thời kỳ bị Tàu đô hộ (111 tr.D.L. - 39) (Lần thứ nhất)
VI. Thời Nữ vương họ Trưng (40-43)
VII. Thời kỳ bị Tàu đô hộ (43-544) (Lần thứ hai) - Bà Triệu
VIII. Thời Lý (544 - 602)
IX. Thời kỳ bị Tàu đô hộ (603-939) (Lần thứ ba)
X. Thời Ngô (939 - 965)
XI. Thời Đinh (968 - 980)
XII. Thời Lê (980 - 1009) (Tiền Lê)
XIII. Thời Lý (1009 - 1225) (Hậu Lý)
XIV. Thời Trần (1225 - 1400)
XV. Thời Hồ (1400 - 1407)
XVI. Hậu Trần Kháng Chiến Chống Tàu (1407 - 1413) (Hậu Trần)
XVII. Thời kỳ bị Tàu (nhà Minh) đô hộ (1414 - 1427)
XVIIỊ Thời Lê (Hậu Lê) (1428 - 1527)
XIX. Thời Lê - Mạc tranh quyền (1527 - 1592)
XX. Thời Lê trung hưng (1592 - 1788)
XXI. Thời Tây Sơn (1788 - 1802)
XXII. Thời Nguyễn (1802 - 1884)
XXIII. Pháp Xâm Chiếm Việt Nam
XXIV. Nhật tranh quyền đô hộ với Pháp ở Việt Nam
XXIII. Pháp Xâm Chiếm Việt Nam
 
Ạ Chiến tranh xâm lược (1858 - 1884)
 
B. Thời kỳ đô hộ (1884 - 1945)
 
1. Chính Sách Thực Dân
2. Công Cuộc Kháng Pháp Của Dân Tộc Việt Nam
 
Ạ Chiến tranh xâm lược (1858 - 1884)
 
1. Ba tỉnh Miền Đông Nam kỳ bị thất thủ (1862)
2. Ba tỉnh Miền Tây Nam kỳ thất thủ (1867)
3. Pháp đánh Bắc kỳ lần thứ nhất (1873)
4. Pháp đánh Bắc kỳ lần thứ hai (1882)
 
B. Thời kỳ Pháp Đô Hộ (1884 - 1945)
 
1. Chính sách thực dân
2. Công cuộc kháng pháp của dân Việt Nam
 
1a. Chính sách thực dân
2a. Công Cuộc Kháng Pháp Của Dân tộc Việt Nam
 
a* Miền Nam
b* Miền Trung
c* Phong Trào Đông Du
d* Phong Trào Duy Tân
e* Cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
f* Việc Ném Tạc Đạn ở Sa Điện, Quảng Châu
g* Cuộc khởi nghĩa Yên Bái
h* Cuộc Khởi Nghĩa Lạng Sơn
i* Các Đảng Phái, Tổ Chức Chính Trị Khác.

Chương Một : Khái lược về nhân văn.

III. Đại cương về văn hóa Việt tộc.

Việt Nam là một nước văn hiến từ lâu. Văn hoá Việt đã đạt mức cao cả từ xa xưa nên đủ uy lực để bảo tồn được Việt tính và giữ vững sự trường tồn của dân tộc. Văn minh Việt là nền văn minh nhân tính, đó là đặc trưng của văn minh nông nghiệp. Lý chính của văn hoá Việt là tâm linh, là sự quân bình tình lý. Văn hoá Việt là nền văn hoá nhân chủ, đạt được ý thức hoà giữa người, trời và đất. Đạt được lý nhân hoà, thích ứng được siêu nhiên và cụ thể. Nhưng sau nhiều thăng trầm của lịch sử, lớp vỏ của nền văn hoá Việt đã bị sứt mẻ bởi các nền văn minh du mục phương bắc và văn minh phù động tây phương cố sức đập phá, tuy vậy sự phá phách này chỉ mới làm sứt mẻ được lớp vỏ mà thôi.

Chương Hai

I. Thời đại Thái cổ (trước Thế Kỉ 29 tr.D.L.)

Từ thời rất xa xưa có những bộ lạc cư trú tại vùng bao quanh châu thổ sông Hồng. Lúc đó châu thổ còn là vịnh biển, mực nước cao hơn hiện nay 50 thước. Các bộ lạc tiền sử sống rải rác trên vùng cao (có mức thấp nhất là cao hơn mức nước biển hiện tại 50 thước), từ bắc Trường Sơn tới Hoàng Lyên Sơn và bao ra biển ở các rặng Bắc Sơn, Ngân Sơn và quanh các nơi có cuồng lưu nước ngọt. Khoảng thời gian đó cách nay chừng một triệu năm. Mãi về sau có hai trung tâm phát triển mạnh là Hoà Bình và Bắc Sơn. Thời gian ấy cách nay khoảng từ 60 ngàn năm tới 40 ngàn năm.

Các người tiền sử sống bằng săn thú và hải sản. Phương tiện lúc đầu là tay chân, sau biết dùng xương thú vật làm tăng khả năng của tay để phát triển lượng số thực phẩm. Dần dần người tiền sử biết dùng lửa, nhờ đó đời sống quy củ hơn.

Khi nước biển rút dần tới mức hiện tại khoảng chừng 40 ngàn năm trước các bộ lạc tiền sử bỏ dần vùng cao và tụ tập hợp sinh tại vùng châu thổ sông Hồng. Lúc đầu vùng châu thổ còn nhiều đầm lầy, rừng rậm và hầu hết mặt đất chưa ráo nước, người tiền sử vẫn phải sống bằng săn thú và hải sản.

Khi đất đồng bằng đủ vững, các bộ lạc này sống bằng trồng tỉa, sau biết trồng lúa gạọ Đó là thời kỳ mở đầu cho nông nghiệp; văn minh nông nghiệp manh nha. Trong suốt thời gian hợp sinh tại châu thổ khoảng 40 ngàn năm trước các bộ lạc tiền sử tương giao trong khoảng thời gian chừng 30 ngàn năm rồi hình thành một chủng tộc là Việt tộc. Việt tộc đã tạo nên nền văn minh nông nghiệp đầu tiên trên thế giới khoảng 15 ngàn năm trước dương lịch (văn minh Hoà Bình: đồ đá khoảng 20 ngàn năm trước dương lịch nông nghiệp khoảng 15 ngàn năm tr.D.L. đồ gốm khoảng trước 10 ngàn năm tr.D.L.). Địa bàn căn bản là châu thổ sông Hồng. Văn hoá Việt đã được xây dựng dần dần để trở thành nền văn hoá tâm linh và dân Việt là một dân tộc văn hiến từ xa xưa.

IIỊ Thời Thục (257 tr.D.L. 207 tr.D.L.)

Năm 257 tr.D.L. Thục Phán thắng vua Hùng thứ 18. Lên ngôi lấy hiệu An Dương, đặt tên nước là Âu Lạc, đóng đô ở Phong Khê, nay thuộc Đông Anh, tỉnh Vĩnh Yên.

Để phòng bị giặc phương bắc, vua An Dương cho xây thành Cổ Loa rất kýên cố. Thành có ba tầng vòng quanh xoáy vào trung tâm như trôn ốc nên cũng gọi là Loa Thành.

Về sau, Triệu Đà là tướng của Tàu ở vùng Nam Hải (nay thuộc tỉnh Quảng Đông của Tàu) kéo quân sang Âu Lạc đánh phá nhiều lần nhưng đều thất bạị Thấy đánh mãi không được Triệu Đà bèn lập mưu cầu hoà, cho con là Trọng Thuỷ sang nước Việt xin cưới công chúa Mị Châu, rồi lập mưu đánh úp. Vua An Dương bị bại trận, chạy tới Mộ Dạ (Thanh Hoá) thì tự tử (207 tr.D.L.).

IV. Thời Triệu (207 tr.D.L. - 111 tr.D.L.)

Sau khi chiếm được Âu Lạc, Triệu Đà sát nhập Âu Lạc vào quận Nam Hải (nay thuộc Quảng Đông của Tàu) và quận Quế Lâm (nay thuộc Quảng Tây của Tàu) để lập thành nước Nam Việt. Nhờ học được văn hoá Việt tộc, Triệu Đà bỏ tính cương bạo du mục, nên tách ra khỏi thế lực nhà Tần của Tàu, rồi định lập kế đời đời với dân Việt, bèn lập nước riêng và lên làm vuạ Lấy hiệu là Triệu Vũ Vương, đóng đô ở Phiên Ngung (nay thuộc tỉnh Quảng Tây của Tàu). Triệu Đà chia nước Âu Lạc thành hai quận Giao Chỉ (Bắc Việt) và Giao Châu (Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh). Triệu Đà mất (137 tr.D.L.), nhà Triệu còn truyền thêm được bốn đời vuạ

- Triệu Văn Vương (Hồ) 137 tr.D.L. - 125 tr.D.L.
- Triệu Minh Vương (Anh Tề) 125 tr.D.L. - 113 tr.D.L.
- Triệu Ai Vương (Hưng) 113 tr.D.L. - 112 tr.D.L.
- Triệu Dương Vương (Kiến Đức)112tr.D.L. - 111 tr.D.L.

Vào đời Ai Vương, thái hậu Cù Thị xúi vua dâng nước cho nhà Hán, tể tướng Lữ Gia bèn giết vua cùng thái hậu rồi lập người anh khác mẹ của Ai Vương là Kiến Đức (mẹ của Kiến Đức là người Việt) lên ngôi, gọi là Dương Vương, để cùng bầy kế chống nhà Hán, nhưng thế lực không đủ nên năm 111 trước dương lịch bị tướng Hán là Lộ Bác Đức đánh chiếm mất nước.

V. Thời kỳ bị Tàu đô hộ (111 tr.D.L. - 39) (Lần thứ nhất)

Nhà Tây Hán (của Tàu) chiếm được nước Nam Việt, đổi tên là Giao Chỉ Bộ và chia thành 9 quận, riêng địa phận Âu Lạc cũ gồm ba quận: Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Giao Chỉ Bộ đặt dưới quyền cai trị của một Thứ Sử, mỗi quận có một Thái Thú cai quản. Ỏ các địa phương, các Lạc Hầu, Lạc Tướng người Việt vẫn được giữ chức cũ nhưng hàng năm phải nộp thóc lúa và phẩm vật cho các quan Tàụ Các Thái Thú và Thứ Sử người Hán lúc đó hầu hết rất bạo tàn.

VI. Thời Nữ vương họ Trưng (40-43)

Vào thời Tô Định làm thái thú quận Giao Chỉ, một thủ lãnh người Việt tên là Thi Sách vì mưu việc đuổi Tàu mà bị giết.

Vợ Thi Sách là Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị tiếp tục ý chí cách mạng, phất cờ khởi nghĩa đánh Tàu giành độc lập. Hai bà được dân chúng khắp nơi hưởng ứng, chiếm lại được 65 thành trì và đánh đuổi quân Tô Định về Tàụ Hai bà xưng vương năm 40, đóng đô ở Mê Lynh (nay thuộc tỉnh Phúc Yên). Nhà Hán phải sai một danh tướng tên là Mã Viện sang đánh. Hai bà yếu thế, thất trận, tự trầm ở sông Hát vào năm 43.

Ngày nay ở làng Đồng Nhân, gần Hà Nội, có đền thờ hai bà. Ngày ký? niệm hai bà Trưng là ngày mồng 6 tháng hai âm lịch hàng năm.


VII. Thời kỳ bị Tàu đô hộ (43-544) (Lần thứ hai)

A. Việc đô hộ khắc nghiệt

Từ khi Mã Viện chiếm được Giao Chỉ, chế độ đô hộ của Đông Hán lại càng khắc nghiệt hơn. Đổi Giao Chỉ thành Giao Châụ Các lạc hầu, lạc tướng đều bị mất hết quyền hành, Giao Châu bị chia thành nhiều huyện, do các huyện lệnh người Tàu cai tri..

Đời sống dân chúng rất khốn cực vì bị bọn đô hộ hành hạ, bóc lột đến tận cùng.

B. Bà Triệu khởi nghĩa (248)

Năm 248, Bà Triệu khởi nghĩa ở quận Cửu Chân, đánh thắng quân Tàu nhiều trận, khiến chúng khiếp sợ, nên gọi là bà là Lệ Hải Bà Vương. Nhưng vì quân ít, thế cô, bà Triệu bị thất trận, chạy tới làng Bồ Điền (Thanh Hoá) thì tự tử. Ngày nay tại đó còn có đền thờ Bà Triệụ

VIIỊ Thời Lý (544 - 602)

- Lý Nam Đế 544 - 549
- Triệu Việt Vương 549 - 571
- Hậu Lý Nam Đế 571 - 602

Năm 541 Lý Bôn khởi nghĩa đánh đuổi quân Tàu, chiếm được Long Biên, thứ sử Tiêu Tư phải chạy trốn về Tàu.

Năm 544, Lý Bôn lên ngôi vua, lấy hiệu Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân.

Nhà Lương bên Tàu sai Trần Bá Tiên sang gây chiến, Lý Nam Đế phải lui về Khuất Lyêu (Hưng Hoá) và trao quyền cho Triệu Quang Phục. Thấy thế giặc mạnh, Triệu Quang Phục bèn lập căn cứ ở đầm Dạ Trạch (phủ Khoái Châu tỉnh Vĩnh Yên) và dùng lối đánh du kých khiến quân Tàu phải thất trận, rồi chiếm lại kýnh độ Lúc đó Lý Nam Đế bị bịnh mất, Triệu Quang Phục lên ngôi, xưng là Triệu Việt Vương, năm 549. Tới năm 571 Lý Phật Tử cướp ngôi của Triệu Việt Vương, rồi xưng là Hậu Lý Nam Đế.

Năm 602, quân Tàu lại kéo sang đánh phá, Lý Phật Tử thế yếu phải hàng giặc.

IX. Thời kỳ bị Tàu đô hộ (603-939) (Lần thứ ba)

Thời kỳ này các quan lại Tàu rất khắc nghiệt. Năm 679, nhà Đường của Tàu thiết lập An Nam Đô Hộ Phủ ở Giao Châu, để gia tăng bóc lột hà hiếp dân chúng. Khắp nơi trong nước, dân chúng nổi lên chống bọn đô hô..

Ạ Mai Hắc Đế khởi nghĩa ở Châu Hoan (Nghệ An) (722)

Mai Thúc Loan khởi binh đánh Tàu, chiếm lại vùng châu Hoan (Nghệ An) năm 722, rồi xưng Hoàng Đế, người đời thường gọi ông là Mai Hắc Đế. Ông liên kết vây cánh với Lâm Ấp và Chân Lạp, nhưng việc chuẩn bị chưa xong thì ông bị bại trận, rồi mắc bệnh mà mất.

B. Cuộc khởi nghĩa của Bố Cái Đại Vương (791)

Năm 791 Phùng Hưng khởi nghĩa chiếm được phủ đô hộ rồi sửa sang việc cai trị, được mấy tháng thì mất. Dân chúng lập đền thờ tôn ông là Bố Cái Đại Vương.

Con Phùng Hưng lên cầm quyền nhưng thế yếu phải ra hàng quân Tàu (lúc đó là nhà Đường của Trung Hoa).

C. Họ Khúc dấy nghiệp (906 - 923)

Vào cuối đời Đường, nước Tàu rất loạn lạc, thừa cơ ấy dân Việt khởi nghĩa khắp nơi, Tiết độ sứ thất bại phải chạy về Tàụ Năm 906 dân chúng tôn Khúc Thừa Dụ người Hồng Châu (Hải Dương) lên làm tiết độ sứ.Nhà Đưòng vì suy yếu phải thuận phong cho Khúc Thừa Du.. Cai trị được một năm thì ông mất, con là Khúc Hạo lên thaỵ Sửa sang lại việc cai trị như một nước tự chủ. Năm 917 Khúc Hạo mất, Khúc Thừa Mỹ lên nối nghiệp. Năm 923, quân Tàu Nam Hán sang đánh chiếm Giao Châu, rồi sai Lý Tiến làm thứ sử.

X. Thời Ngô (939 - 965)

- Tiền Ngô Vương 939 - 944
- Dương Tam Kha 945 - 950
- Hậu Ngô Vương 950 - 965
- Loạn 12 Sứ Quân 945 - 967

Năm 931, tướng cũ của họ Khúc là Dương Diên Nghệ nổi lên đánh đuổi quân Nam Hán, rồi tự xưng làm tiết độ sứ. Cai trị được 6 năm thì bị bộ tướng là Kiều Công Tiện ám sát để cướp quyền.

Con rể của Dương Diên Nghệ là Ngô Quyền mang quân từ châu Ái (Thanh Hoá) ra báo thù. Kiều Công Tiện bị thua bèn cầu cứu Nam Hán. Ngô Quyền giết Tiện rồi tiến binh phá tan quân Nam Hán trong trận sông Bạch Đằng, chấm dứt thời kỳ bị Tàu đô hộ, lập lại nền độc lập cho nước Việt.

Năm 939 Ngô Quyền lên làm vua, đóng đô ở Cổ Loa (Phúc Yên). Vua Ngô Quyền sửa sang việc cai trị, tổ chức chế độ quân chủ và thiết lập nền độc lập vững bền, nhưng mới trị vì được 5 năm thì mất. Con là Ngô Xương Ngập lên ngôi, nhưng lại bị cậu là Dương Tam Kha (em vợ của Ngô Quyền) cướp ngôi (945). Em Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Văn diệt Dương Tam Kha (950) rồi hai anh em cùng làm vua, xưng là Hậu Ngô Vương. Đến năm 965, Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn bị chết trận tại Thái Bình. Thế lực vua Ngô càng ngày càng suy yếu, thổ hào các nơi nổi lên tranh cướp quyền hành, chia nước thành 12 vùng cai trị riêng biệt, thủ lãnh mỗi vùng xưng là sứ quân. Thời này của nước Việt gọi là "Loạn 12 Sứ Quân".

Loạn bắt đầu năm 945, mãi tới năm 967, Đinh Bộ Lĩnh mớI chấm dứt được.

XỊ Thời Đinh (968 - 980)

- Đinh Tiên Hoàng 968 - 979
- Đinh Tuệ 979 - 980

Đinh Bộ Lĩnh là một vị tướng tài ba, dẹp tan loạn 12 Sứ Quân năm 968, lập nên triều đại nhà Đinh.

Đinh Bộ Lĩnh người ở Hoa Lư (nay thuộc tỉnh Ninh Bình), con của Đinh Công Trứ làm thứ sử châu Hoan dưới thời nhà Ngộ Ngay khi còn bé đã tỏ ra có mưu trí hơn người, lớn lên theo giúp và làm con nuôi sứ quân Trần Lãm. Khi Trần Lãm mất, Đinh Bộ Lĩnh đem quân về Hoa Lư để rèn luyện. Khi cử binh đánh các sứ quân, trận nào cũng thắng nên được tôn là Vạn Thắng Vương. Chỉ trong vòng một năm, dẹp tan loạn 12 sứ quân.

Năm 968 Vạn Thắng Vương lên ngôi, lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng, đổi tên nước là Đại Cồ Việt, lập đô ở Hoa Lự Đinh Tiên Hoàng sửa sang việc nước, thiết lập triều quy, tổ chức quân đội, đặt hình luật rất nghiêm khắc.

Vì muốn yên mặt bắc, vả lại thế lực nhà Tống bên Tàu đang mạnh, Đinh Tiên Hoàng cho con sang triều cống nhà Tống để giữ tình hoà hảọ Năm 972 Tống vương phong Đinh Tiên Hoàng là Giao Chỉ quận vương.

Đinh Tiên Hoàng làm vua được 12 năm thì bị tên cận vệ Đỗ Thích ám sát năm 979. Con nhỏ là Đinh Tuệ được lập làm vua, nhưng chỉ được một năm thì bị truất ngôi.

XIỊ Thời Lê (980 - 1009) (Tiền Lê)

- Lê Đại Hành 980 - 1005
- Lê Trung Tông 1005
- Lê Long Đĩnh 1005 - 1009

Cuối đời Đinh Tiên Hoàng, nhà vua chỉ ham mê tửu sắc, rồi bị ám sát cùng với thái tử Đinh Lyễn năm 979. Đinh Tuệ mới 6 tuổi được lập làm vua, nhưng quyền hành về cả tay Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn.

Năm 980, nhà Tống của Tàu lấy cớ đó mang quân sang đánh nước Việt. Lê Hoàn được triều thần tôn lên làm vua để lo việc chống ngoại xâm. Quân Tàu kéo sang theo đường Lạng Sơn và sông Bạch Đằng. Nhưng mới chỉ tới Chi Lăng thì bộ binh của Tàu bị vua Lê Đại Hành đánh tan, thuỷ quân Tàu thấy vậy hoảng sợ phải rút luị Vua Tống thấy đánh không được phải tôn phong vua Lê Đại Hành là Giao Chỉ Quận Vương để giữ tình hoà hảo (993). Vua Đại Hành lại đánh phá quân Chiêm ở phía nam, khiến nước này phải thần phục năm 982.

Vua Đại Hành mất năm 1005, các hoàng tử tranh giành ngôi vua, thái tử Long Việt lên ngôi, nhưng mới được 3 ngày thì bị em là Long Đĩnh sai người ám sát để cướp ngôi. Long Đĩnh lên ngôi năm 1005, là người rất hung ác, đam mê tửu sắc và bệnh hoạn. Khi ngự triều phải nằm. Người trong nước gọi ông là Lê Ngoạ Triềụ Long Đĩnh chết năm 1009.

XIIỊ Thời Lý (1009 - 1225) (Hậu Lý)

- Lý Thái Tổ 1010 1028
- Lý Thái Tông 1028 1054
- Lý Thánh Tông 1054 1072
- Lý Nhân Tông 1072 1127
- Lý Thần Tông 1128 1138
- Lý Anh Tông 1138 1175
- Lý Cao Tông 1176 1210
- Lý Huệ Tông 1211 1225
- Lý Chiêu Hoàng 1225

Lê Long Đĩnh chết, triều thần tôn Lý Công Uẩn lên ngôi, ông xưng là Lý Thái Tổ, rời kýnh đô về thành Đại La, nay là Hà Nộị Tục truyền rằng khi Lý Thái Tổ vào thành Đại La thì thấy rồng vàng bay lên đón rước do đó mà đổi tên là thành Thăng Long.

Lý Thái Tổ rất sùng đạo Phật nên cho xây chùa khắp nơi và truyền bá rất nhiều kýnh Phật cho dân chúng.

Đến đời Lý Thánh Tông tên nước đổi là Đại Việt (1054). Năm 1069, Lý Thánh Tông mở mang bờ cõi về phía nam. Đem quân đánh Chiêm Thành, bắt vua Chiêm là Chế Củ mang về Thăng Long. Chế Củ phải dâng đất để chuộc mạng, gồm các châu Địa lý, Ma Lynh và Bố Chính (nay là Quảng Bình, Quảng Trị).

Năm 1075, Lý Nhân Tông cử Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đem 10 vạn quân chia thành hai đạo thuỷ bộ đánh chiếm 3 châu Khâm, Lyêm và Ung của Tàu (lúc đó nhà Tống đang cai trị nước Tàu).

Thời Lý kéo dài hơn 200 năm, truyền được 9 đời vua. Vị cuối cùng là một nữ vương, lên ngôi mới 7 tuổi, xưng là Lý Chiêu Hoàng. Vì Lý Chiêu Hoàng còn nhỏ tuổi nên quyền hành đều ở trong tay Điện tiền Chỉ huy sứ Trần Thủ Đô.. Trần Thủ Độ lập mưu để Lý Chiêu Hoàng lấy cháu mình là Trần Cảnh rồi ép Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng năm 1225.

XIV. Thời Trần (1225 - 1400)

- Trần thái tông 1225 1258
- Trần thánh tông 1258 1278
- Trần Nhân Tông 1278 1293
- Trần Anh Tông 1293 1314
- Trần Minh Tông 1314 1329
- Trần Hiến Tông 1329 1341
- Trần Dụ Tông 1341 1369
- Trần Nghệ Tông 1370 1372
- Trần Duệ Tông 1372 1377
- Trần Phế Đế 1377 1388
- Trần Thuận Tông 1388 1398
- Trần Thiếu Đế 1398 1400

Trần Cảnh lên ngôi vua, xưng là Trần Thái Tông, nhưng mọi quyền hành đều nằm trong tay Thái sư Trần Thủ Đô..

Thời Trần nho học rất thi.nh. Ỏ kýnh đô, ngoài Quốc Tử Giám đã có từ thời Lý, triều đình cho lập thêm Quốc Học viện để giảng tứ thư, ngũ kýnh. Nước chia thành 12 Bộ, tại mỗi bộ đều có trường dạy học.

Văn học thời Trần rất thi.nh. Đời này có nhiều nhân tài như Lê Văn Hưu đã soạn bộ Đại Việt Sử Kí rất có giá trị; Mạc Đĩnh Chi, nhà văn học lỗi lạc, nổi tiếng trong việc ngoại giao với nhà Nguyên của Tàu; Chu An, nhà văn học tài ba nêu gương thanh khiết và cương trực; Nguyễn Thuyên có công xây dựng nền tảng cho văn Nôm.

Trần Quốc Tuấn soạn "Hịch Tướng Sĩ" được đời truyền tu.ng. Các vua nhà Trần đều có soạn Ngự Tập.

Võ công thời Trần rất hiển hách, đã tạo được một võ nghiệp oanh liệt trong lịch sử thế giới, là đánh bại đoàn quân bách thắng Mông Cổ. Lúc đó Mông Cổ đã toàn thắng khắp nơi từ Trung Á tới Đông Âu và chiếm trọn nước Tàu ở phía bắc nước Việt. Thế mà ba lần Mông Cổ sang xâm lấn nước Việt đều bị thất bại (năm 1257, năm 1284, năm 1287). Chiến thắng đại quân Mông Cổ, Đức Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn xứng đáng là vị tướng tài ba bậc nhất cổ kim.

Đời Trần Anh Tông mở mang bờ cõi về phía nam. Nhà vua gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Chế Mân. Hôn lễ của vua Chiêm là châu Ô và châu Rị Năm 1307, vùng này được đổi thành châu Thuận và châu Hoá (nay là vùng Thừa Thiên).

Cuối thời Trần, các vua trở nên kém cỏi, triều đình suy yếu, dân nước đói khổ, quyền hành đều nằm cả trong tay Hồ Quý Lỵ

XV. Thời Hồ (1400 - 1407)

- Hồ Quý Ly 1400
- Hồ Hán Thương 1401- 1407

Các vua cuối nhà Trần trí kém, tài hèn nên Hồ Quý Ly nắm trọn quyền hành. Đến năm 1400 Hồ Quý Ly truất phế Trần Thiếu Đế rồi xưng làm vua, đóng đô ở Tây Đô (Thanh Hoá), đổi tên nước là Đại Ngụ

Hồ Quý Ly cải tổ mọi việc trong nước, lập thuế thuyền buôn, chế tiền giấy thay tiền đồng để tiện lưu dụng, dịch sách chữ Nho sang chữ Nôm; dùng chữ Nôm trong việc giáo dục cùng trong các văn kýện hành chánh. Tổ chức binh bị rất chu đáo, lập sổ dân và tuyển thêm quân, định binh chế, đóng chiến thuyền, xây thành luỹ, lập kho lương và xưởng chế tạo vũ khí.

Năm 1402 đánh Chiêm Thành mở rộng bờ cõi phía nam, Chiêm Thành thất trận, phải dâng đất Chiêm Động (Quảng Nam) và Cổ Luỹ (Quảng Ngãi).

Năm 1406 nhà Minh bên Tàu lấy cớ giúp nhà Trần sai Trương Phụ và Mộc Thạch đem đại quân sang đánh nước Việt. Quân sĩ nhà Hồ yếu hèn, lực lượng quốc gia suy kém, dân chúng bị đói khổ vì những năm suy vi cuối thời Trần, nên quân Minh đã thắng dễ dàng. Hồ Quý Ly và con cháu chạy vào tới Hà Tĩnh thì bị quân Minh bắt, rồi giải sang Tàụ Về sau, nhà Minh khai thác tài trí con cháu nhà Hồ để phát triển nền văn minh Trung Hoa.

XVỊ Hậu Trần Kháng Chiến Chống Tàu (1407 - 1413) (Hậu Trần)

- Giản Định Đế 1407 - 1409
- Vua Trùng Quang 1409 - 1413

Sau khi dứt nhà Hồ, quân Tàu chiếm nước Việt, thiết lập việc cai tri..

Con cháu nhà Trần phải chịu lao khổ kháng chiến chống quân Minh. Hoàng Đế Giản Định (Trần Quỹ), vua Trùng Quang (Trần Quý Khoách) gặp nhiều gian nan. Cuối cùng, thế yếu tất cả đều bị thất bạị

XVIỊ Thời kỳ bị Tàu (nhà Minh) đô hộ (1414 - 1427)

Ạ Việc Tàu đô hộ

Thắng được nhà Hồ và con cháu nhà Trần, quân Minh thiết lập việc đô hộ rất tàn bạo, bóc lột dân Việt đến cùng cực: tiêu huỷ sách vở, tận thu tài liệu văn hoá Việt mang về Tàu để mạo thành tài liệu của Tàu, bắt dân Việt học chữ Hán, đầy đoạ dân chúng trong cảnh khốn cực, lầm than.

B. Lê Lợi Đánh Tàu Phục Quốc (1418 1427)

Năm 1418 Lê Lợi xưng là Bình Định Vương, khởi nghĩa đánh Tàu ở Lam Sơn (Thanh Hoá). Lúc đầu, thế còn yếu, Lê Lợi phải rút quân về núi Chí Lynh ba lần để thế thủ và rèn luyện quân sĩ.

Tới năm 1424, theo sách lược của Nguyễn Trãi, Bình Định Vương đánh thắng quân Minh liên tiếp, chiếm lại các đất từ Thanh Hoá vào nam.

Năm 1426 Bình Định Vương tiến quân ra bắc, đánh tan đại quân của Vương Thông tại Tuỵ Động, chém chết Liễu Thăng ở Chi Lăng, giành lại độc lập cho người Việt năm 1427.

XVIIỊ Thời Lê (Hậu Lê) (1428 - 1527)

- Lê Thái Tổ 1428 - 1433
-Lê Thái Tông 1433 - 1442
- Lê Nhân Tông 1442 - 1459
- Lê thánh Tông 1460 - 1497
- Lê Hiến Tông 1497 - 1504
- Lê túc Tông 1504
- Lê Uy Mục 1505 - 1509
- Lê Tương Dực 1509 - 1516
- Lê Chiêu Tông 1516 - 1524
- Lê Cung Hoàng 1524-1527

Sau khi đuổi xong giặc Tàu, Bình Định Vương lên ngôi Hoàng Đế, xưng là Thái Tổ, đóng đô ở Thăng Long, tên nước vẫn là Đại Việt.

Ỏ thời Lê, mọi việc trong nước đều được sửa sang. Việc cai trị sắp đặt tốt đẹp, luật pháp nghiêm minh. Bộ luật Hồng Đức là bộ luật rất hoàn bị đã được ban hành dưới triều Lê Thánh Tông (1460 1497)

Việc học được khuyến khích. Triều đình đặt lệ khắc tên những người đỗ tiến sĩ vào bia đá và được vinh quy bái tổ.

Thời này có nhiều tác phẩm danh tiếng còn truyền đến nay như: Đại Việt Sử Kí Toàn Thư của Ngô Sĩ Lyên, thơ văn của Nguyễn Trãi (Gia Huấn Ca, Bình Ngô Đại Cáo, v.v.).

Võ công và việc mở mang bờ cõi cũng rất lẫy lừng, Lê Thánh Tông đánh Chiêm Thành, lấy đất, lập thành đạo Quảng Nam (1471). Năm 1479 xứ Bồn Man (Trấn Ninh, nước Lào) liên kết với nước Lão Qua (nước Lào) nổi lên quấy phá, Lê Thánh Tông sai quân đánh dẹp, xứ Bồn Man xin quy thuận.

Vào cuối thời Lê, các vua sinh tật, ham mê tửu sắc, xa xỉ thái quá, khiến dân nước khổ sở, giặc giã nổi lên khắp nơị Quan triều thì giành nhau quyền lợi. Tướng Mạc Đăng Dung dẹp yên loạn ở triều rồi giết vua Lê Cung Hoàng (1527), soán đoạt ngôi vuạ

XIX. Thời Lê - Mạc tranh quyền (1527 - 1592)

- Thái Tổ Mạc Đăng Dung 1527 - 1529
- Thái Tông Mạc Đăng Doanh 1529 - 1540
- Hiến Tông Mạc Phúc Hải 1540 - 1546
- Tuyên Tông Mạc Phúc Nguyên 1546 - 1561
- Mạc Mậu Hợp 1561 - 1592

Mạc Đăng Dung giết vua Lê Cung Hoàng rồi soán ngôi, lập nên nhà Mạc. Mạc Đăng Dung lên ngôi xưng là Minh Đức, vẫn theo chính sách của các triều Lê mà trị nước.

Đến năm 1540, Mạc Đăng Dung hàng phục Tàu và nhận chức phong Đô Thống Sứ của nhà Minh. Đa số các quan triều không phục, người thì ẩn tránh, người thì nổi lên chống lại.

Con một cựu thần nhà Lê là Nguyễn Kim nổi lên, lập con cháu nhà Lê lên làm vua để chống nhà Mạc. Nguyễn Kim đánh chiếm được từ Thanh Hoá vào nam, chia đôi đất nước với nhà Mạc.

Năm 1545, Nguyễn Kim mất, con rể là Trịnh Kiểm thế quyền. Trịnh Kiểm sợ con cái Nguyễn Kim không chịu bèn giết em vợ là Nguyễn Uông và bắt Nguyễn Hoàng vào trấn ở đất Thuận Hoá (1558). Trịnh Kiểm mất, Trịnh Tùng lên thay năm 1592. Trịnh Tùng đem quân đánh nhà Mạc ở bắc, giết được Mạc Mậu Hợp, chiếm kýnh thành, diệt xong nhà Mạc, hoàn thành việc trung hưng nhà Lê.

Ạ Các Vua Lê Trong Thời kỳ Lê Mạc Chiến Tranh (1533 - 1592)

- Lê Trang Tông 1533 - 1548
- Lê Trung Tông 1548 - 1556
- Lê Anh Tông 1556 - 1573
- Lê Thế Tông 1573 - 1599

B. Các Vua Lê trong Thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh

- Lê Kính Tông 1560 - 1619
- Lê Thần Tông 1619 - 1643
- Lê Chân Tông 1643 - 1649
- Lê Thần Tông 1649 - 1662 (làm vua lần thứ hai)
- Lê Huyền Tông 1663 - 1671
- Lê Gia Tông 1672 - 1675
- Lê Hi Tông 1676 - 1705
- Lê Dụ Tông 1706 - 1729
- Lê Đế Duy Phương 1729 - 1732
- Lê Thuần Tông 1732 - 1735
- Lê Ý Tông 1735 - 1740
- Lê Hiển Tông 1740 - 1786
- Lê Mẫn Đế (Chiêu Thống) 1787 - 1788

XX. Thời Lê Trung Hưng (1592 - 1788)

Trong thời Lê Trung Hưng thì từ năm1627 tới 1672 là giai đoạn Nam Bắc phân tranh giữa họ Trịnh và Nguyễn, kéo dài 45 năm.

Trong thời Trung Hưng, vua Lê chỉ có hư vị, Trịnh Tùng xưng chúa, rồi cha truyền con nối, nắm hết quyền hành ở miền Bắc, gọi là Đàng Ngoàị Nguyễn Hoàng xưng chúa ở miền Nam, lập thành một khu vực tự trị, gọi là Đàng Trong. Chúa Trịnh, chúa Nguyễn đều muốn tiêu diệt nhau để nắm trọn quyền hành, nên sinh thù nghịch và gây việc chiến tranh.

Năm 1627, chúa Trịnh lấy cớ chúa Nguyễn không chịu nộp thuế cho vua Lê nên sai quân vào đánh miền Nam, bắt đầu cuộc chiến tranh Nam Bắc.

Trong vòng 45 năm Trịnh, Nguyễn đánh nhau 7 lần không phân thắng bại nên hai bên phải giảng hoà, cắt nước làm đôi, lấy sông Gianh làm ranh giới hai miền Bắc, Nam.

Chính trị miền Bắc (Đàng Ngoài) chỉ quanh quẩn việc ngôi vị và cai trị địa phương cùng lăm le đánh chiếm miền Nam.

Miền Nam (Đàng Trong) các chúa Nguyễn ngoài việc lo chống các chúa Trịnh ở Bắc, vẫn lo được việc mở mang bờ cõi. Lấy các đất của Chiêm Thành, Thuỷ Chân Lạp để thành lập các tỉnh Bình Định năm 1558, Phú Yên năm 1611, Khánh Hoà năm 1653, Biên Hoà và Gia Định năm 1698, Hà Tiên năm 1708.

Nhưng ở miền Nam từ khi chúa Nguyễn Phúc Khoát mất năm 1765 thì sinh rối loạn do quyền thần Trương Thúc Loan, làm nhiều điều tàn ác, dân chúng oán giận.

Năm 1771, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ khởi nghĩa ở làng Tây Sơn (Bình Định), đánh chiếm Quy Nhơn rồi lấy luôn từ Quảng Ngãi vào Bình Thuận.

Chúa Trịnh thừa cơ miền Nam rối loạn bèn sai quân vào đánh lấy Phú Xuân (1775). Chúa Nguyễn bị thua, chạy vào
Quảng Nam, nhưng lại bị Nguyễn Nhạc đánh bại, nên phải trốn vào Gia Đi.nh. Ỏ đây chúa Nguyễn Phúc Thuần bị
tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ giết chết.

Lúc đó, Nguyễn Nhạc thấy quân Trịnh đang mạnh bèn hàng thuận để khỏi lo mặt Bắc, rồi tiến quân đánh chúa Nguyễn. Chiếm lấy đất Gia Định (1777).

Sau khi thắng miền Nam, Nguyễn Nhạc lên ngôi vua, xưng hiệu là Thái Đức, lập kýnh đô ở thành Đồ Bàn năm 1778.

Còn ở Đàng Ngoài thì rối loạn. Cuối đời Trịnh Khải có loạn kýêu binh (1782). Nguyễn Huệ nhân dịp đó chiếm Thuận Hoá, rồi thừa thế tiến ra Thăng Long. Trịnh Khải bị thua phải tự tử. Thế là cơ nghiệp nhà chúa chấm dứt (1786).

Nguyễn Huệ trả quyền cai trị cho vua Lê Hiển Tông rồi rút quân về Nam. Lê Hiển Tông mất, cháu là Duy Kỳ nối ngôi, niên hiệu Chiêu Thống. Lê Chiêu Thống nhu nhược, bất tài nên Trịnh Bồng lại ép vua để lập lại nghiệp chúạ Nguyễn Hữu Chỉnh từ Thanh Hoá ra giúp Chiêu Thống dẹp được Trịnh Bồng, rồi từ đó Nguyễn Hữu Chỉnh cậy công mà chuyên quyền.

Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đóng đô ở Thuận Hoá được tin Nguyễn Hữu Chỉnh áp chế vua Lê bèn sai Vũ Văn Nhậm ra bắt giết Nguyễn Hữu Chỉnh. Chiêu Thống thấy Vũ Văn Nhậm đưa quân ra bắc thì sợ hãi rồi chạy trốn và gởi con sang Tàu cầu viện quân Thanh (1788).

Vũ Văn Nhậm ở bắc có ý phản nghịch, Bắc Bình Vương phải thân chinh ra bắt Nhậm giết đi, rồi trao quyền cai trị đất bắc cho Ngô Văn Sở và Ngô Thời Nhiệm.

Các Chúa Trịnh ở Bắc Các Chúa Nguyễn ở Nam

Trịnh Tùng 1570 - 1623 Nguyễn Hoàng 1600 - 1613 Chúa Tiên
Trịnh Tráng 1623 - 1657 NguyễnPhúcNguyên 1613 1635 Chúa Sãi
Nguyễn Phúc Lan 1635 - 1648 Chúa Thượng
Trịnh Tạc 1657 - 1682 Nguyễn Phúc Tần 1648 - 1687 Chúa Hiền
Trịnh Căn 1682 - 1709 Nguyễn Phúc Trăn 1687 - 1691 Chúa Nghĩa
Trịnh Cương 1709 - 1729 Nguyễn Phúc Chu 1691 - 1725 Quốc Chúa
Trịnh Giang 1729 - 1740 Nguyễn Phúc Trú 1725 - 1738
Trịnh Doanh 1740 - 1767 Nguyễn Phúc Khoát 1738 - 1765
Trịnh Sâm 1767 - 17882 Nguyễn PhúcThuần 1765 - 1777
Trinh Cán 1782 - 1783 (làmm chúa được 2 tháng)
Trịnh Khải 1783 - 1786

XXỊ Thời Tây Sơn (1788 - 1802)

- Vua Quang trung 1788 - 1792
- Vua Cảnh Thịnh 11792 - 1802

Vua Thanh Càn long mượn cớ Lê Chiêu Thống cầu viện để thôn tính nước Việt, đã sai Tôn Sĩ nghị đem 20 vạn quân sang đánh. Quân Thanh theo ba đường: Tuyên quang, Cao bằng và Lạng sơn (1788).

Ngô Văn Sở thấy không thể kháng cự nổi, bèn rút quân về núi Tam điệp.

Lê Chiêu Thống theo quân Tôn Sĩ nghị vào Thăng long và nhận chức An Nam Quốc vương do vua Thanh Càn long phong cho, rồi ỷ vào thế quân Tàu thả sức lo việc chém giết báo thù. Còn quân Thanh thì thả sức cướp bóc, giết hại dân Việt. Dân chúng miền Bắc phải sống trong cảnh vô cùng kýnh hoàng khốn cực.

Được tin quân Thanh sang xâm lăng, Bắc Bình Vương lên ngôi Hoàng Đế (1788), lấy hiệu Quang Trung, rồi kéo 10 vạn quân ra Bắc tiễu phạt quân Tàụ

Ngày 10 tháng chạp quân Việt tới núi Tam Điệp, Hoàng Đế Quang Trung cho dừng binh để quân sĩ ăn tết trước, rồi ngày 30 tháng chạp hỏa tốc tiến đánh. Quân Tàu liên tiếp bị thất bại ở các mặt trận Phú Xuyên, Hà Hồi, Ngọc Hồi, Đống Đạ Các danh tướng Tàu Hứa Thế Hanh, Sầm Nghi Đống đều bị chết trận. Tôn Sĩ Nghị quá sợ hãi phải rút tàn quân chạy trốn về Tàụ Thế là chỉ trong vòng năm (5) ngày, Quang Trung đại phá quân Thanh (1789). Lê Chiêu Thống và gia đình chạy theo Tôn Sĩ Nghị sang Tàu, rồi sau này bị chết nhục ở nước ngườị

Sau khi đại phá quân Thanh, Quang Trung lo sắp xếp, ổn định nội trị và ngoại giaọ

Vì vua Thanh Càn Long có lòng kýnh nể Hoàng Đế Quang Trung nên việc giao hoà giữa hai nước sớm được ổn định tốt đẹp. Việc nội trị, Quang Trung định đô tại Nghệ An, là Phượng Hoàng Trung Đô và gọi Thăng Long là Bắc Thành. Nước được chia thành nhiều trấn, có trấn thủ coi việc võ, hiệp trấn coi việc văn.

Lập sổ điền, khuyến khích nông nghiệp, phát triển buôn bán, đúc tiền đồng, cải cách và khuyến khích văn học, dùng chữ Nôm làm quốc tự, bỏ chữ Hán.

Nhà vua rất chú trọng việc quân sự, lập sổ đinh, tuyển chọn binh sĩ và tập luyện chuyên cần, để lo việc tương lai đánh Tàu lấy lại đất Lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây). Nhưng vị vua anh tài bậc nhất trong lịch sử bị mất sớm (1792) nên quốc sách không thi hành được.

Con của Quang Trung là Quang Toản lên ngôi lấy hiệu Cảnh Thi.nh. Quang Toản nhỏ tuổi, trong nước gặp lúc khó khăn lộn xộn, nên về sau bị Nguyễn Ánh lấy mất nghiệp (1802).

Thời Tây Sơn, nước Việt bị chia làm ba miền: Miền Bắc do Nguyễn Huệ cai trị; Miền Trung do anh cả Nguyễn Nhạc cai quản; Miền Nam do anh thứ hai Nguyễn Lữ chỉ huỵ Khi chúa Nguyễn mất nghiệp thì còn sót lại một người dòng dõi nhà Nguyễn là Nguyễn Ánh, tụ tập quân sĩ đánh nhau với Nguyễn Lữ, chiếm được thành Gia Định, xưng vương năm 1780.

Sau Nguyễn Ánh lại bị thất bại phải chạy ra vùng hải đảo cùng trốn sang Xiêm La (Thái Lan) cầu cứu quân Xiêm và thế lực Tây Phương.

Năm 1788 Nguyễn Ánh lại chiếm được Gia Định, rồi nhân cơ hội anh em Tây Sơn bất hoà, cùng nhờ được một số người Pháp giúp sức và luyện tập binh sĩ nên tính việc đánh Bắc Hà.

Từ năm 1790 cứ theo mùa gió nồm (thổi từ nam lên bắc) Nguyễn Ánh đem binh thuyền ra đánh phá Tây Sơn, khi đổi chiều gió thì rút đị Cho nên dân chúng gọi các trận ấy là "giặc mùa".

Nguyễn Ánh đánh Quy Nhơn 3 lần mới thắng (1799) rồi đổi tên là Bình Đi.nh.

Năm 1801 Nguyễn Ánh mang toàn lực hạ thành Phú Xuân (Huế). Vua Cảnh Thịnh phải chạy ra Bắc. Chiếm được Phú Xuân, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, xưng là Gia Long năm 1802. Lập kýnh đô ở Phú Xuân và đổi tên nước là Việt Nam.

Gia Long ra đánh Bắc Hà trong vòng một tháng thì toàn thắng, vua Quang Toản cùng các tướng đều bị bắt rồi bị giết. Thời Tây Sơn chấm dứt năm 1802, Nguyễn Ánh chiếm được Thăng Long và thống nhất đất nước ngày 20 tháng 7 năm 1802.

XXIỊ Thời Nguyễn (1802 - 1884)

Ạ Các Vua Nhà Nguyễn Trong Thời Độc Lập

Thế Tổ - Gia Long 1802 - 1819
Thánh Tổ - Minh Mệnh 1820 - 1840
Hiến Tổ - Thiệu Trị 1841 - 1847
Dực Tông - Tự Dức 1847 - 1883. Không con, có ba người
con nuôi : Dục Đức, Chánh Mông và Dưỡng Thiện

B. Các Vua Nhà Nguyễn Trong Thời kỳ Việt Pháp Chiến Tranh

- Dục Đức 1883 làm vua được 3 ngàỵ Con nuôi trưởng của vua Dực Tông
- Hiệp Hòa 1883 làm vua được 4 tháng thì bị giết. Em vua Dực Tông
- Kiến Phúc 1883 - 1884 làm vua được 6 tháng thì mất; con nuôi thứ ba của vua Dực Tông
- Hàm Nghi 1884 - 1885 bị Pháp đầy sang nước Algérie năm 1885. Em vua Chánh Mông

C. Các Vua Nhà Nguyễn do Pháp lập nên

- Đồng Khánh 1885 - 1888. Tên là Chánh Mông,con nuôi thứ hai của vua Dực Tông
- Thành Thái 1888 - 1907. Con vua Dục Đức, bị Pháp đầy sang đảo Réunion (Phi Châu) năm 1915 vì mưu việc đuổi
Pháp
- Duy Tân 1907 - 1916. Bị Pháp đầy sang đảo Réunion năm 1916, vì đánh đuổi Pháp
- Khải Định 1916 - 1925
- Bảo Đại (lần thứ nhất) 1926 - 1945 (lần thứ hai) 1948 - 1955

Sau khi thống nhất, Gia Long (1802 - 1820) sắp đặt việc cai trị trong nước và ngoại giaọ

Tổ chức triều chính gồm có 6 bộ trông coi các việc.

Bộ Lại : coi việc quan lại, hành chánh.
Bộ Hộ : coi việc thuế khoá, tài chính.
Bộ Lễ : coi việc lễ nghi, giáo dục.
Bộ Hình : coi việc luật pháp.
Bộ Binh : coi việc quân sư..
Bộ Công : coi việc xây cất, giao thông.

Đứng đầu mỗi bộ là Thượng Thự

Nước chia thành 23 trấn, 4 doanh, đứng đầu trấn là Trấn Thủ. Miền Bắc gọi là Bắc Thành gồm 11 trấn. Miền Nam gọi là Gia Định Thành gồm 5 trấn. Ỏ mỗi thành có Tổng Trấn đứng đầụ Triều đình trực tiếp cai trị 7 trấn và 4 doanh miền Trung. Trấn chia thành Phủ, Huyện, Châu, Tổng, Xã; Đứng đầu là Trị Phủ, Tri Huyện, Tri Châu, Cai Tổng, Xã Trưởng.

Bộ luật Gia Long ban hành năm 1815. Bộ luật này phỏng theo luật Hồng Đức thời Lê và luật nhà Thanh bên Tàu.

Phép cân đo được quy định rõ ràng. Lập sở đúc tiền. Thuế lệ chia thành: thuế đinh, thuế điền, thuế sản vật.

Kế vị Gia Long là Minh Mạng (1820 - 1840). Minh Mạng đặt thêm nội các và cơ mật viện để lo việc triều chính. Bãi bỏ chức Tổng Trấn, đổi các Trấn, Doanh thành tỉnh. Đặt chức Tổng đốc và Tuần phủ để cai tri.. Chức Bố chánh coi việc thuế khoá, Án Sát coi việc hình luật, Lãnh Binh coi việc quân sư.. Đặt thêm thuế muối và thuế Minh hương (người Tàu cư trú ở Việt Nam).

Các triều Thiệu Trị (1841 - 1847), Tự Đức (1847 1883), việc nội trị vẫn theo nếp cũ.

Việc học thời Nguyễn được khuyến khích theo lối học của Trung hoa, chú trọng nhiều vào từ chương, khoa cử. Lập miếu thờ Khổng Tử ở các Trấn, Doanh. Tại Kinh Đô Huế lập thêm Quốc Tử Giám để dạy con cái nhà quyền thế, đặt chức Đốc học ở Trấn, chức Giáo thụ ở Phủ, Huấn Đạo ở Huyện để trông coi việc giáo dục.

Năm 1807 mở khoa thi Hương, chọn các cử nhân ra làm việc triều đình. Vua sai người soạn sách Địa lý và Quốc sử.

Thời này có nhiều tác phẩm văn chương giá trị như: Kim Vân Kiều của Nguyễn Du, Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự, Mai Đình Mộng ký của Nguyễn Huy Hổ.

Thời Minh Mạng đặt lệ cấp lương cho các giám sinh học ở Quốc Tử Giám và mở khoa thi Hội, thi Đình để chọn các tiến sĩ. Lập Quốc Sử Quán để sưu tập tài liệu sử Việt Nam. Thời này có các sách sử, địa như: Đại Nam Thực Lục, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú, Gia Định Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, Nhất Thống Địa Dư Chí của Lê Quang Định, Bắc Thành Địa Dư Chí của Lê Chất.

Có các tác giả văn học nổi tiếng như: Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Công Trứ, Lý Văn Phức, Hồ Xuân Hương, Phạm Đình Hổ.

Thời Tự Đức, hoàn thành bộ sử có giá trị là Khâm Định Việt Sử và các bộ Đại Nam Thực Lục, Đại Nam Lyệt Truyện cùng sách địa lý như Phương Đình Địa Dư Chí Loại của Nguyễn Văn Siêụ

Thời này cũng có nhiều tác giả văn chương nổi tiếng như: Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Tuy Lý Vương, Tùng Thiện Vương, Phan Huy Vịnh, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Quý Tân, Cao Bá Nha.. Văn chương truyền khẩu trong dân gian cũng rất thi.nh. Lại thêm nhiều tác phẩm có giá trị viết bằng chữ Nôm của các tác giả vô danh.

Về việc ngoại giao, nước Tàu chỉ là cái xác khổng lồ, thế lực suy nhược, nhưng vẫn được các vua nhà Nguyễn kýnh sơ.. Khi Gia Long lên ngôi đã sai sứ sang Tàu xin phong và chịu lệ triều cống 3 năm một lần để cầu hoà hiếu với Tàụ Đối với các nước nhỏ thì hống hách. Nguyên nước Chân Lạp vốn thuộc quyền bảo hộ của chúa Nguyễn, đến khi nước Việt bị rối ren thì Chân Lạp thần phục Xiêm Lạ Sau khi thống nhất Việt Nam Gia Long sai Lê Văn Duyệt đem binh đánh đuổi quân Xiêm giành lại quyền bảo hộ Chân Lạp (Campuchia).

Năm 1833, Lê Văn Khôi khởi nghĩa chống Minh Mạng, quân Xiêm thừa cơ đó sai 5 đạo binh theo đường Chân Lạp, Ai Lao sang đánh nước Việt, nhưng bị tướng Trương Minh Giảng dẹp tan. Ai Lao lại thần phục Việt Nam cùng dâng các đất Trấn Ninh, Savanakhet, Cam Môn và Sầm Nứạ

Năm 1845, quân Xiêm sang quấy nhiễu Nam Vang, vua Chân Lạp cầu cứu vua Thiệu Trị, nhà vua bèn sai Nguyễn Tri Phương sang đánh quân Xiêm, lấy lại Nam Vang. Quân Xiêm cầu hoà, Việt Nam lại nắm quyền bảo hộ Chân Lạp.

Việc bang giao với các nước Tây phương không được tốt đẹp. Ngay từ thời Gia Long, nhà vua đã từ chối việc thông thương với các nước Tây phương. Gia Long chỉ đãi ngộ đặc biệt riêng những người Pháp đã có công giúp trong việc đánh Tây Sơn. Các vua sau không những cương quyết từ chối giao thiệp với Tây phương mà còn ban lệnh cấm đạo Thiên Chúa là đạo do Tây phương truyền đến. Đó là cớ để Pháp và Tây Ban Nha gây chiến tranh sau nàỵ

Dưới triều Tự Đức có Nguyễn Trường Tộ là nhân tài sáng suốt đưa nhiều đề nghị canh tân đất nước để theo kiệp đà tiến bộ khoa học. Về giáo dục ông đề nghị bỏ lối học từ chương, dạy các môn khoa học thực nghiệm, dùng quốc văn, bỏ chữ Hán và cho học sinh xuất dương cầu học. Về quân sự ông đề nghị tổ chức và huấn luyện quân đội cùng trang bị theo lối Âu Mỹ. Về kýnh tế ông đề nghị phát triển canh nông, ký~ nghệ, thương mại và lập đường giao thông cùng khai mỏ. Về ngoại giao ông đề nghị mở bang giao với các cường quốc Âu Mỹ. Nhưng những điều trần của ông đều bị bác bỏ.

Vua dốt nát, không quyết đoán. Các quan triều, người vì địa vị, quyền lợi tư riêng, người đần độn, tối tăm, nên cứ khăng khăng theo lối hủ lậụ Những người có trách nhiệm với quốc gia và có địa vị cao mà còn tệ như thế nên nạn nô lệ ngoại dương tất hẳn chẳng thoát được.

XXIIỊ Pháp Xâm Chiếm Việt Nam

Ạ Chiến tranh xâm lược (1858 - 1884)

B. Thời kỳ đô hộ (1884 - 1945)

1. Chính Sách Thực Dân
2. Công Cuộc Kháng Pháp Của Dân Tộc Việt Nam

Ạ. Chiến tranh xâm lược (1858 - 1884)

Từ thế ký? 19, hầu hết các thị trường của Pháp ở Ấn Độ và Trung Hoa đều bị Anh Cát Lợi chiếm hoặc phong toả. Thị trường lớn của Pháp ở Trung Hoa là Vân Nam bị chận đường thông thương ở Hương Cảng từ năm 1842 (sau khi Anh thắng Tàu trong trận "nha phiến"), nên Pháp phải tìm đường khác từ Thái Bình Dương vào Vân Nam. Sông Cửu Long bất lợi, vì vậy phải tính việc dùng sông Hồng Hà.

Lúc đầu, Pháp chỉ muốn được quyền sử dụng các sông kể trên, nhưng sau khi chiến tranh với Việt Nam thì thấy triều đình nhà Nguyễn quá yếu hèn và thị trường Việt Nam cũng trở nên rất quan trọng, vì thế Pháp đã chiếm trọn để đô hộ và khai thác.

1. Ba tỉnh Miền Đông Nam kỳ bị thất thủ (1862)

Quân Pháp và Tây Ban Nha lấy cớ triều đình Huế cấm đạo Thiên Chúa mà đem quân vào can thiệp. Đầu năm 1859 quân Pháp hạ thành Gia Định, Tự Đức sai Nguyễn Tri Phương vào lập đồn kỳ Hoà lo chống cư.. Năm 1861, quân Pháp hạ đồn kỳ Hoà rồi tiến chiếm Định Tường, Biên Hoà và Vĩnh Long (1862). Tự Đức cử Phan Thanh Giản vào Gia Định nghị hoà. Hoà ước ký ngày 9 5 1862, nhượng ba tỉnh miền Đông Nam kỳ (Gia Định, Biên Hoà, Định Tường) cho Pháp.

2. Ba tỉnh Miền Tây Nam kỳ thất thủ (1867)

Năm 1863, Tự Đức sai Phan Thanh Giản cầm đầu phái đoàn sang Pháp để điều đình chuộc lại ba tỉnh miền đông. Vua Pháp chấp thuận với điều kýện để Pháp bảo hộ luôn sáu tỉnh Nam kỳ. Việc bàn chưa xong thì Pháp rút lại đề nghị đó. Thấy vậy vua Tự Đức phải cử Phan Thanh Giản làm kýnh lược sứ nắm giữ 3 tỉnh miền Tây Nam kỳ. Mặc dù đã 70 tuổi ông vẫn phải chịu trách nhiệm khó khăn ấỵ

Quân Pháp viện cớ triều đình Nguyễn giúp nghĩa quân chống Pháp ở 3 tỉnh miền Đông để tiến quân chiếm nốt ba tỉnh miền Tây: Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Phan Thanh Giản liệu sức không cự nổi và sợ dân chết khổ vì chiến tranh, nên ra lệnh nộp thành rồi uống thuốc độc tự tử, 1867. Thế là 6 tỉnh Nam kỳ bị thuộc Pháp.

3. Pháp đánh Bắc kỳ lần thứ nhất (1873)

Sau khi chiếm Nam kỳ, Pháp thấy sông Cửu Long không thuận tiện cho việc giao thông với Vân Nam ở Tàu, bèn tính tới con đường sông Hồng Hà. Pháp sai tên Jean Dupuis giả làm lái buôn dùng sông Hồng Hà để chở hàng vào Vân Nam. Sau khi thấy sông Hồng Hà thuận tiện cho việc giao thương, tên này trở lại Hà Nội gây chuyện với quan lại Việt Nam để quân Pháp ở Sài Gòn có cớ ra can thiệp. Soái phủ Sài Gòn cử tên đại uý Francis Garnier đem binh thuyền ra tấn công Hà Nộị Quan thủ thành là Nguyễn Tri Phương và con là phò mã Nguyễn Lâm cự không lạị Nguyễn Lâm tử trận, Nguyễn Tri Phương bị bắt rồi ông tự tử chết (1873).

Sau khi chiếm được Hà Nội, Garnier tiến chiếm Ninh Bình, Nam Định và Hải Dương.

Triều đình Huế sai Hoàng Kế Viêm tổ chức phòng thủ. Hoàng Kế Viêm gọi quân cờ đen giúp sức để lấy lại Hà Nộị Quân Cờ Đen vốn là dư đảng của quân Thái Bình bên Tàu chạy sang Việt Nam, được Hoàng Kế Viêm chiêu dụ ở Lào Caỵ Quân Cờ Đen phục kých quân Pháp ở Ô Cầu Giấy và giết được Garnier.

Soái phủ Nam kỳ sai Philastre từ Sài Gòn ra Hà Nội lo việc giảng hoà và trả lại các thành cho Việt Nam rồi lui tầu bè xuống Hải Phòng. Sau đó Nguyễn Văn Tường cùng Philastre vào Sài Gòn tiếp tục thương nghi..

Ngày 15 tháng 3 năm 1874, Thượng thư Lê Tuấn, Thượng thư Nguyễn Văn Tường và Thiếu tướng Dupré cùng ký bản hoà ước 1874, gồm 22 khoản, các khoản chính là:

Việt Nam nhượng đứt cho Pháp 6 tỉnh Nam kỳ, mở của Ninh Hải (Hải Phòng), thành Hà Nội và sông Hồng Hà cho người ngoại quốc vào buôn bán.

Pháp công nhận quyền độc lập của Việt Nam, không phải thuần phục nước nào nữạ Mọi việc đánh dẹp sẽ do Pháp lo liệu, và phải y theo sách lược ngoại giao của Pháp.

4. Pháp đánh Bắc kỳ lần thứ hai (1882)

Về sau, thấy triều đình Nguyễn càng ngày càng suy nhược, Pháp tính việc chiếm Bắc kỳ. Soái phủ Sài Gòn lấy cớ bảo vệ quyền lợi của người Pháp, sai đại tá Henri Rivière ra Bắc. Rivière đánh chiếm Hà Nội ngày 28 tháng 4 năm 1882, quan thủ thành là Hoàng Diệu phải tự tử. Tự Đức thấy nguy bèn cầu cứu nhà Thanh bên Tàu. Lợi dụng cơ hội này Thanh triều đem quân sang đóng ở Bắc Ninh và Sơn Tây đợi dịp tranh quyền lợi với Pháp ở Việt Nam. Pháp cũng tăng cường thêm quân ra Bắc. Khi Rivière đem quân chiếm Nam Định, quân triều đình cùng quân Cờ Đen tấn công Hà Nộị Rivière vội trở lại giải vây thì bị quân Cờ Đen phục kých, giết chết ở Ô Cầu Giấỵ Pháp thấy nguy phải cử cấp tướng ra chỉ huy và tăng thêm quân, rồi sai Harmand làm toàn quyền kýnh lý việc Bắc kỳ.

Dân chúng Bắc kỳ nổi lên kháng Pháp khắp nơi và quân Việt phản công ở Hà Nội, Nam Định nhưng đều bị thất bạị Trong tình trạng cam go đó, triều đình Huế sinh nhiều việc rối loạn. Tự Đức mất (1883), Dục Đức lên ngôi được ba ngày thì lại bị hai tên quyền thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết truất ngôi, lập Hiệp Hoà. Khi đó quân Pháp đánh Thuận An, uy hiếp Huế. Triều đình phải cử Trần Đình Túc, Nguyễn Trọng Hợp cùng với Harmand, De Champeaux ký hoà ước ngày 23 7 1883. Hoà ước có 27 khoản. Theo đó triều đình Huế chịu nhận Pháp bảo hô.. Pháp được đặt công sứ, chỉ huy các tỉnh, vua Việt chỉ có quyền cai trị từ tỉnh Thanh Hoá tới đèo Ngang.

Hoà ước ký xong nhưng không thi hành được vì Bắc kỳ vẫn trong tình trạng chiến tranh, quân Tàu và quân triều đình vẫn tiếp tục đánh. Pháp phải gọi thêm quân tiếp viện từ chính quốc sang rồi tiến chiếm Sơn Tây, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Hưng Hoá, Tuyên Quang. Quân Tàu thua, phải rút lên vùng biên giới Hoa Việt, quân Nam phải lui về Huế. Ỏ Huế, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường vẫn tiếp tục gây rối, phế vua Hiệp Hoà lập vua Kiến Phúc. Triều đình Huế yêu cầu Pháp ký hoà ước khác để quyền hành của vua Việt được nới rộng hơn. Nguyễn Văn Tường cùng Patenôtre ký hoà ước ngày 6 6 1884, gồm 19 khoản. Hoà ước này cũng như hoà ước 1883, nhưng giới hạn cai trị của triều đình Huế được nới rộng thêm từ Thanh Hoá tới Bình Thuận.

Tại vùng biên giới Hoa Việt, quân Tàu vẫn chiếm đóng, quân Pháp tiến đánh nhưng bị thất trận ở Bắc Lệ và Lạng Sơn. Nước Pháp bèn đem hải quân đánh Phúc Châu và Đài Loan của Tàụ Trung Hoa phải ký hoà ước Thiên Tân năm 1885, nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Việt Nam và rút quân về Tàu.

Xem vậy, việc bang giao giữa nước này với nước khác đều vì lợi, nhưng nước mạnh bao giờ cũng trưng việc nghĩa để che đậy ý gian, rồi kết quả mọi điều lợi đều về nước mạnh, chứ chẳng vì nghĩa chi cả. Thế mà triều đình Huế, cũng như nhiều người cứ u u, mê mê đi cầu cạnh người, không biết lo làm cho dân giầu, nước mạnh, thật là phường ích ký?, vị lợi chỉ biết chăm lo bản thân mà coi thường quốc gia dân tộc.

Sau nhiều năm chiến tranh và qua 4 bản hoà ước 1862, 1874, 1883 và 1884 nước Pháp đã hoàn tất việc xâm lăng thực dân ở Việt Nam. Nam kỳ trở thành thuộc địa, Bắc kỳ là đất bị bảo hộ và Trung kỳ là nơi Pháp lập chế độ trú sứ, nhưng trên thực tế cả ba miền đều là thuộc địa của Pháp, nhà Nguyễn ở Huế không có quyền hành gì cả.

Hoà ước 1884 xác định quyền đô hộ của Pháp ở Việt Nam đã thi hành tới ngày 9 tháng 3 năm 1945.

B. Thời kỳ Pháp Đô Hộ (1884 - 1945)

1. Chính sách thực dân
2. Công cuộc kháng pháp của dân Việt Nam

1. Chính sách thực dân

Theo hoà ước 1884, chế độ cai trị của Pháp được phân biệt tùy miền. Nam kỳ thuộc địa, Bắc kỳ bảo hộ, Trung kỳ trú sứ. Nhưng trên thực tế cả ba miền đều bị chung dưới ách đô hộ như nhaụ Mọi quyền hành đều nằm trong tay người Pháp. Sau khi chiếm Việt Nam và Ai Lao, Cao Mên, Pháp thiếp lập chế độ thuộc địa chặt chẽ. Lúc đầu mỗi xứ (Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Ai Lao, Cao Mên) có một viên thủ hiến lo việc cai tri.. Đến năm 1887 Pháp thiết lập phủ Toàn quyền để thống nhất việc cai trị toàn vùng (Đông Dương). Tại mỗi xứ, cắt đặt như sau: Thống Đốc Nam kỳ, Khâm Sứ Trung kỳ, Khâm Sứ Cao Mên, Thống Sứ Bắc kỳ, Thống Sứ Ai Laọ Các viên chức này đều phải theo lệnh của viên Toàn Quyền.

Dân chúng Việt Nam bị đầy đoạ khốn cực, bị bóc lột tận cùng, phải chịu khổ nhục để phục vụ lớp quan đô hộ, phải chịu sưu cao thuế nặng để bọn này hưởng thụ và chi dùng vào việc chém giết dân Việt. Hơn thế nữa, thực dân Pháp dùng mọi cách để phá huỷ cơ cấu văn hoá Việt.

2. Công Cuộc Kháng Pháp Của Dân tộc Việt Nam

Ngay khi ba tỉnh miền đông Nam kỳ bị thất thủ, nghĩa quân miền Nam nổi lên đánh Pháp, nhưng thế lực còn yếu nên đều bị thất bạị Tuy vậy, trong suốt thời gian bị đô hộ, dân Việt trên toàn quốc liên tiếp khởi nghĩa đuổi Pháp, qua các phong trào Cần Vương, Văn Thân, Đông Du, Duy Tân và các đảng phái quốc gia.

* Miền Nam

- Trương Công Định (Trương Định) 1860 - 1864

Trương Công Định chiêu mộ nghĩa quân, lập căn cứ ở Gò Công, đánh theo lối du kých, gây nhiều thiệt hại cho quân đi.ch. Trận lớn nhất là trận Cần Giuộc. Về sau bị tên Huỳnh Công Tấn phản bội, chỉ điểm cho Pháp vây đánh ông ở Kiến Phước (Gò Công). Trận này ông bị đạn rồi tự tử, năm 1864.

- Nguyễn Trung Trực 1860 - 1868

Nguyễn Trung Trực kháng chiến ở Tân An, Rạch Giá, chiến thắng lớn trong trận đốt tầu Pháp ở vàm Nhật Tảo (Tân An) và trận đánh thành Kiên Giang (Rạch Giá), sau lập chiến khu ở đảo Phú Quốc. Tên Việt gian Huỳnh Công Tấn bày mưu bắt mẹ ông, ông phải bỏ khí giới để cứu me.. Ông bị Pháp chém ở Kiên Giang (27-10-1868)

- Phan Tòng 1869 - 1870. Khởi nghĩa ở Hóc Môn, Gò Vấp, Ba Tri.
- Tri Huyện Thoại (Đỗ Trinh Thoại) 1861. Hoạt động ở vùng Mỹ Tho, Cao Lãnh, Cai Lậỵ
- Thiên Hộ Dương (Võ Duy Dương) 1860 - 1886. Lập chiến khu ở Đồng Tháp Mườị Cuối năm 1886, ông bị mắc bệnh chết.
- Thủ Khoa Huân (Nguyễn Hữu Huân) 1862 - 1875. Kháng chiến ở Mỹ Tho và Tân An.
- Đoàn Công Bửu, Nguyễn Xuân Phụng 1874 - 1875. Khởi nghĩa ở Trà Vinh.
- Lê Tấn Kế, Trần Bình 1874 - 1875. Khởi nghĩa ở Ba Đô.ng.
- Phan Tôn, Phan Liêm (con Phan Thanh Giản). Khởi nghĩa ở Vĩnh Long, Sa Đéc, Trà Vinh và Bến Trẹ
- Quản Hớn, Nguyễn Văn Bường 1885. Khởi nghĩa ở 18 Thôn Vườn Trầu, Bà Điểm, Hóc Môn thuộc Gia Đi.nh.
- Phan Văn Đạt, Lê Cao Dõng khởi nghĩa ở miền Nam, bị Pháp bắt và bị giết.

* Miền Trung

- Vua Hàm Nghi lãnh Đạo Phong Trào Cần Vương

Vua Kiến Phúc mất, hai phụ chánh Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết lập vua Hàm Nghi (1884). Chính phủ Pháp đòi tham dự vào việc phế lập và đòi triều đình Huế phải để Pháp phong vương cho vua Hàm Nghị Khi đó khắp nơi đều có nghĩa quân nổi lên và triều đình thì dùng dằng chưa quyết định thi hành hoà ước 1884. Tướng Pháp De Courcy bèn đem quân vào Huế bắt triều đình phải chịu nhận bảo hộ ngaỵ Triều đình chống lạị Đêm mồng 3 rạng ngày mồng 4 tháng 7 năm 1885 quân Nam tấn công dinh Khâm Sứ và đồn quân Pháp ở Mang Cá. Ngày hôm sau quân Nam thất thủ, phải bỏ kýnh thành. Tôn Thất Thuyết đem vua Hàm Nghi ra Quảng Trị, tiếp tục đánh Pháp. Nguyễn Văn Tường về Huế đầu hàng rồi lập Đồng Khánh lên làm vua.

Vua Hàm Nghi ở Quảng Trị phát hịch kêu gọi dân chúng nổi lên chống Pháp rồi lui về Tân Sở và tính ra Bắc nhưng không thành. Sĩ phu trong nước hưởng ứng rất đông, nổi lên ở nhiều nơị Đồng Khánh ở Huế nhiều lần sai người đi mời vua Hàm Nghi và chiêu dụ các cựu thần, nhưng không ai chịu về hàng Pháp.

Về sau Pháp mua chuộc được tên hầu cận vua Hàm Nghi là Trương Quang Ngọc, tên này bắt vua nộp cho Pháp (1888), nhà vua bị Pháp đầy sang Algérie, thuộc địa Pháp ở Châu Phi.

- Phan Đình Phùng

Hưởng ứng hịch Cần Vương, Phan Đình Phùng được vua Hàm Nghi trao quyền chỉ huy nghĩa binh (1886). Sau khi vua bị bắt, ông tiếp tục kháng chiến và chỉ huy Phong Trào Văn Thân, lập chiến khu ở Ngà

- Hoàng Hoa Thám

Khi kháng chiến chống Pháp, Hoàng Hoa Thám được triều đình phong làm Đề Đốc nên thường gọi là Đề Thám. Năm 1886, ông lập chiến khu ở Yên Thế, Bắc Giang. Kháng chiến ròng rã 25 năm gây tổn thất nặng nề cho quân Pháp. Dân chúng rất ngưỡng mộ, gọi ông là hùm thiêng Yên Thế. Nhiều lần thế lực suy yếu, ông phải trá hàng, vào những năm 1894 và 1897, để chỉnh đốn hàng ngũ rồi lại tiếp tục đánh Pháp. Năm 1908, ông mưu đánh úp Hà Nội nhưng bị thất bạị Về sau quân Pháp mua chuộc thủ hạ của ông là tên Lương Tam kỳ, lập kế ám sát ông (1913).

- Vua Thành Thái và Vua Duy Tân chống Pháp

Vua Đồng Khánh chết non (1888, lúc 25 tuổi), Pháp lập vua Thành Thái con vua Dục Đức, lúc đó mới 10 tuổị Lớn lên, nhà vua hiểu rõ tình trạng đất nước nên phản đối Pháp và tìm cách liên lạc với các nhà cách mạng Việt Nam ở hải ngoại như kỳ Ngoại Hầu Cường Để. Vì thế vua Thành Thái bị Pháp bắt thoái vị và bị đầy sang đảo Réunion (Phi Châu) (1907).

Pháp lập Hoàng Tử Vĩnh San, mới 8 tuổi lên ngôi lấy hiệu là Duy Tân. Năm 1912, vua Duy Tân yêu cầu nước Pháp thi hành đúng tinh thần bản hoà ước 1884, nhưng không có kết quả.

Năm 1916, nhà vua lãnh đạo đảng Tân Việt, cùng với các nhà ái quốc Trần Cao Vân và Thái Phiên để mưu việc khởi nghĩạ Kế hoạch bị bại lô.. Pháp đầy vua Duy Tân sang đảo Réunion. Các người tham dự vào kế hoạch khởi nghĩa đều bị Pháp giết hoặc bị đầỵ

Sau đó, thực dân Pháp lập con vua Đồng Khánh (vị vua dễ sai bảo) lên ngôi năm 1916, lấy hiệu là Khải Đi.nh. Năm 1925, Khải Định mất, con là Vĩnh Thuỵ, đang học tại Pháp, được gọi về lên ngôi, lấy hiệu là Bảo Đạị Ông này không thiết tha tới việc nước, nên đã ký thêm Hiệp định ngày 25 11 1925 trao mọi quyền hành cho viên Khâm sứ Huế và cho Tôn Thất Hân làm phụ chánh để lo việc cúng tế, rồi lại qua Pháp. Năm 1932, Bảo Đại về Việt Nam, nhưng chỉ lo ăn chơi, không có quyền hành gì cả. Mọi việc trong nước đều do viên Toàn Quyền Pháp nắm giữ.

* Phong Trào Đông Du

Sau khi Phong trào Cần Vương tan rã, nhà ái quốc Phan Bội Châu, người Nghệ An, đứng ra kết nạp các nghĩa sĩ Cần Vương còn sót lại (1902). Ông đi khắp trong nước tìm đồng chí để thực hiện chương trình giải phóng quốc dân. Ông thành lập hội Duy Tân và tôn kỳ Ngoại Hầu Cường Để, cháu đích tôn vua Gia Long, làm Hội Chủ. Để khích động đám sĩ phu trong nước, Phan Bội Châu viết "Lưu Cầu Huyết Lệ", rất được truyền tụng, có công dụng làm sống lại lòng yêu nước của dân chúng. Các đồng chí quan trọng đã cùng Phan Bội Châu bôn ba khắp trong nước cũng như ngoại quốc là Trịnh Hiền, Lê Võ, Đặng Thái Thân, Thái Nam Xương, Trịnh Công Kiều, Chu Thư Đồng, Tôn Thất Toại, Đặng Nguyên Cẩm, Ngô Đức Kế, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Nguyễn Thượng Hiền, Lương Ngọc Can v.v...

Năm 1904, Nga Nhật chiến tranh kết liễụ Sự thắng lợi vẻ vang của Nhật gây xúc động mạnh mẽ trong tầng lớp sĩ phu và các nhà ái quốc Việt Nam. Nhờ đó, khuynh hướng Đông Du (sang Nhật) cầu học được nhiều người hưởng ứng.

Năm 1095, Phan Bội Châu cùng Tăng Bạt Hổ và Đặng Tử Kính khởi hành đi Hồng Kông, Thượng Hải rồi sang Nhật. Tại Nhật cụ Phan tiếp xúc với học giả Trung Hoa Lương Khải Siêu, đang tị nạn tại Tokyọ Lương Khải Siêu giới thiệu cụ với các chính khách Nhật như Khuyển Dưỡng Nghị, Bá tước Đại Ôi (đã hai lần làm Thủ tướng). Cụ Phan ngỏ ý cầu viện nhưng bị từ chối.

Cường Để sang Nhật năm 1906. Chương trình du học Nhật Bản được Nguyễn Hải Thần tích cực giúp đỡ. Về sau han Bội Châu và Phan Chu Trinh bất đồng ý kýến về kế hoạch cứu quốc. Phan Bội Châu chủ trương bài Pháp, dành độc lập. Phan Chu Trinh chủ trương bài quân chủ, dựa vào Pháp để cầu học Thái Tây, ông bỏ về nước cổ xuý cho lập trường của mình.

Năm 1910, Pháp điều đình với Nhật trục xuất các nhà cách mạng và du học sinh Việt Nam. Phan Bội Châu phải chạy sang Trung Hoa, rồi bôn ba nhiều nơi: Xiêm La, Nam Dương. Khi được tin cách mạng Trung Hoa thành công (1911) cụ lại sang Tàu hoạt đô.ng. Năm 1912, cụ giải tán Duy Tân Hội để lập Việt Nam Quang Phục Hội, chủ trương Dân Chủ Cộng hoà. Hội giúp đỡ du học sinh và hô hào cách ma.ng. Năm 1913, Pháp (Toàn Quyền Sarraut) mưu với Đô đốc Quảng Đông là Long Tế Quang bắt giam Phan Bội Châụ Cùng năm đó, ở trong nước Hội Đồng Đề Hình Pháp xử 14 án tử hình, trong đó Phan Bội Châu và Cường Để bị tử hình vắng mặt. Năm 1917, Long Tế Quang bị quân cách mạng Trung Hoa đánh thua, cụ Phan được thả ra.

Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) âm mưu bắt cóc Phan Bội Châu ở Thượng Hải (Trung Hoa) giao cho Pháp. Phan Bội Châu bị Pháp kết án chung thân khổ saị Đồng bào toàn quốc biểu tình đòi tự do cho cụ, Pháp nhượng bộ, bắt cụ Phan an trí ở Huế. Phan Bội Châu mất năm 1940.

Phong Trào Duy Tân

Biến cố Nhật thắng Tàu năm 1894 và Nhật thắng Nga năm 1904, đã làm các dân tộc Châu Á thức tỉnh. Ỏ Trung Hoa, Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi hô hào cải cách Duy Tân. Ỏ Việt Nam, các chí sĩ hăng hái trong phong trào Duy Tân, đề cao dân quyền gồm có Phan Chu Trinh, Đặng Tử Kính, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế.

Năm 1906, Phan Chu Trinh sang Nhật, gặp Phan Bội Châu; Nhưng hai người bất đồng ý kýến. Phan Chu Trinh trở về hoạt động trong nước. Năm 1908, nhân vụ biểu tình yêu cầu giảm nhẹ sưu thuế của dân các tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam, Thừa Thiên, một số nhân sĩ Trung, Bắc kỳ bị bắt, trong đó có Phan Chu Trinh. Cụ bị đầy ra đảo Côn Lôn.

Năm 1911, nhờ Hội Nhân Quyền Pháp can thiệp Phan Chu Trinh được thạ Cụ qua Pháp, làm nghề chụp ảnh. Năm 1922, Khải Định sang Pháp, cụ gởi thơ chỉ trích, năm 1925, cụ về nước. Năm sau, Phan Chu Trinh mất ở Sài Gòn.

Một tổ chức có ảnh hưởng rất nhiều cho công cuộc duy tân là trường Đông Kinh Nghĩa Thục. Trường mở ở Hà Nội năm 1907, do các ông Nguyễn Quyền, Ngô Đức Kế, Lương Ngọc Can, Dương Bá Trạc,& #272;ào Nguyên Phổ, Phan Huy Thịnh, Hoàng Tăng Bí... đứng ra tổ chức. Trường dạy miễn phí cho các thanh niên nam nữ cả ba thứ chữ Việt, Pháp, Hán. Việt văn, khoa học, công nghệ thường thức được chú trọng đặc biệt. Trường cũng thường tổ chức các buổi diễn thuyết về văn hoá, khoa học ... Trường soạn sách giáo khoa và các bài hát khích động lòng yêu nước, phát không cho dân chúng.

Đông Kinh Nghĩa Thục chỉ hoạt động được 9 tháng thì bị Pháp bắt đóng cửa.

* Cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên

Nhà cách mạng Lương Ngọc Quyến (con cụ Lương Ngọc Can, người sáng lập Đông Kinh Nghĩa Thục) đã từng học trường võ bị Chấn Võ ở Nhật Bản, tham dự vào đoàn quân cách mạng Trung Hoạ Bị người Anh bắt ở Hương Cảng rồi giao cho Pháp, bị giam ở Thái Nguyên. Trong ngục ông tiếp tục cổ động ái quốc, được nhiều người nghe theo, trong đó có Trịnh Văn Cấn là một hạ sĩ quan cấp Đội (trung sĩ) thuộc đơn vị Khố Xanh của Pháp ở Thái Nguyên. Lương Ngọc Quyến và Trịnh Văn Cấn định kế hoạch khởI nghĩạ Đêm 31 tháng 8 năm 1917, Trịnh Văn Cấn nổi lên lấy danh nghĩa Quang Phục quân, mang 200 binh lấy thành Thái Nguyên. Trịnh Văn Cấn được phong làm Quang Phục quân Đại Đô Đốc. Quân Pháp phải đem đại binh từ Hà Nội lên đánh. Quang Phục quân giữ Thái Nguyên được 3 ngày thì phải rút vào rừng. Lương Ngọc Quyến, vì bị Pháp tra tấn làm liệt chân, không theo nghĩa quân được nên tự tử.

Trịnh Văn Cấn ẩn nấp trong vùng Tam Đảo, Yên Thế tiếp tục đánh Pháp được vài tháng. Đến khi quân bị hao mòn, thế lực suy tàn, Trịnh Văn Cấn tự tử ở vùng núi Phú Tho..

* Việc Ném Tạc Đạn ở Sa Điện, Quảng Châu

Năm 1923, viên toàn quyền Đông Dương là Martial Merlin trên đường từ Nhật trở lại Việt Nam, ghé tớI Sa Điện, Quảng Châu (Trung Quốc) để dự bữa tiệc do Pháp kiều ở đây khoản đãi tại khách sạn Victoriạ Đương khi ăn, tên này bị nhà ái quốc Phạm Hồng Thái ném tạc đạn, nhưng hắn thoát chết. Bị thất bại, Phạm Hồng Thái nhẩy xuống sông tự trầm.

* Cuộc khởi nghĩa Yên Bái

Phan Bội Châu bị bắt năm 1925 và Phan Chu Trinh chết năm 1926 đã gây ảnh hưởng mạnh mẽ trong dân chúng, nhất là tầng lớp thanh niên trí thức.

Năm 1927, một đảng chính trị cách mạng đầu tiên ra đời do Nguyễn Thái Học lãnh đạo. Nguyễn Thái Học đã từng tranh đấu ôn hoà với Pháp nhưng không có kết quả, nên ông chủ trương dùng võ lực. Vì thế, Việt Nam Quốc Dân Đảng được thành lập, với mục đích giành độc lập cho đất nước. Năm 1930, Việt Nam Quốc Dân Đảng định kế hoạch khởi nghĩa chiếm lại Bắc kỳ. Nguyễn Thái Học ra lệnh tổng khởi nghĩa vào ngày 10 2 1930, nhưng lệnh không tới ký.p các địa phương, nên cuộc khởi nghĩa không đúng ngày đã hoạch đi.nh.

Đêm ngày mồng 9 rạng ngày mồng 10 tháng 2 năm 1930, chi bộ Yên Báy khởi công đánh các trại lýnh Pháp, giết được nhiều đi.ch. Đến sáng ngày hôm sau, quân Pháp phản công ký.ch liệt, nghĩa quân bị tan rã.

Đêm mồng 9 tháng 2, Nguyễn Khắc Nhu đánh Hưng Hoá và Lâm Thao bị Pháp phản công mạnh, quân cách mạng thua, Nguyễn Khắc Nhu tự tử.

Đêm mồng 10 tháng 2, Đoàn Trần Nghiệp (Kí Con) chỉ huy đánh Hà Nộị

Đào Văn Thế chỉ huy mặt trận Thái Bình chiếm được huyện Phủ Dực.

Đêm 15 rạng ngày 16 tháng 2, Trần Quang Diệu chỉ huy mặt trận Hải Dương chiếm huyện Vĩnh Bảọ

Nguyễn Thái Học chỉ huy đánh đồn Phả Lại.

Pháp dùng toàn lực không quân và bộ binh phản công, ném bom tiêu diệt làng Cổ Am nơi có nhiều quân cách ma.ng. Ỏ khắp nơi, nghĩa quân đều bị thất bạị Nguyễn Thái Học bị bắt tại ấp Cổ Vịt (Hải Dương) ngày 20 tháng 2. Ngày 17 tháng 6 năm 1930, Nguyễn Thái Học và 12 nhà cách mạng Việt Nam Quốc Dân Đảng bị Pháp chém tại Yên Bái.

* Cuộc Khởi Nghĩa Lạng Sơn

Trong đại chiến thứ hai (1939 1945) Pháp đầu hàng Đức. Nhật cùng phe với Đức, đánh chiếm Trung Hoa rồi tràn qua biên giới Việt Hoa ngày 22 8 1940. Nhân cơ hội đó, Trần Trung Lập và Đoàn Kiểm Điểm chỉ huy đoàn quân Việt Nam Phục Quốc Hội nổi lên đánh quân Pháp ở Lạng Sơn và vùng lân cận.

Nhưng về sau có sự thoả hiệp giữa Nhật và Pháp, quân phục quốc bị Nhật bỏ rơi, nên đã bị Pháp đánh thua. Trần Trung Lập bị bắt, Đoàn Kiểm Điểm tử trận.

* Các Đảng Phái, Tổ Chức Chính Trị Khác

Ngoài các tổ chức kháng Pháp kể trên, người Việt còn thành lập nhiều đảng phái, tổ chức chính trị khác để tranh đấụ

- 1923, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long lập đảng Lập Hiến với chủ trương ôn hoà và bảo thủ.
- 1930, Phạm Quỳnh tranh đấu ôn hoà. Kết quả, được Pháp mời làm thượng thự
- 1925, Lê Văn Huân lập đảng Phục Việt, sau đổi tên là Tân Việt Cách Mạng Đảng. Hoạt động tích cực chống Pháp, bị Pháp và Cộng Sản tiêu diệt.
- 1927, Nguyễn An Ninh tổ chức đảng bí mật ở Hóc môn có khuynh hướng Cộng Sản, bị Pháp bắt đầy ra Côn Lôn.
- 1932, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch lập đảng, theo khuynh hướng Đệ Tứ Quốc Tế (Cộng Sản Đệ Tứ) hoạt động ở Sài Gòn.
- 1937, Nguyễn Văn Thinh thành lập phong trào Dân Chủ ở Nam kỳ.
- Lý Đông A thành lập đảng Đại Việt Duy Dân, có lý thuyết vững chắc nhưng tầm mức hoạt động hạn hẹp.
- 1940, Nguyễn Tường Tam thành lập Đại Việt Dân Chính, (sau đổi tên là Đại Việt Quốc Xã) dựa vào thế lực Nhật Bản để chống Pháp, nhưng sau bị Nhật bỏ rơị Pháp thẳng tay đàn áp, một số đảng viên bị bắt, Nguyễn Tường Tam trốn sang Tàụ
- 1941, Trương Tử Anh thành lập đảng Đại Việt Quốc Dân. Bị Pháp đàn áp, đảng bị suy sụp.
- 1943 1944, Nguyễn Xuân Chữ, Lê Toàn, Vũ Đình Di lập Việt Nam Ái Quốc Đảng.
- Vũ Đình Hoè, Dương Đức Hiền lập Dân Chủ Đảng.
- 1945, Nhượng Tống, Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Văn Tiếu thành lập Đại Việt Quốc Gia Lyên Minh (gồm Việt nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Quốc Xã và các đảng phái quốc gia khác).

Hầu hết đảng phái quốc gia không có nguyên lý hành động độc lập. Nhất là sinh hoạt chính trị chỉ lẩn quẩn ở trong tầng lớp xa rời quần chúng.

Vào thời Việt Pháp chiến tranh, thói thường các nhà cách mạng Việt Nam mỗi khi bị truy lùng thường trốn sang Trung Hoa, nương náu ở vùng Hoa Nam giáp giới với nước Việt, như Quảng Châu, Nam Ninh, Vân Nam ... Trong thời gian Đại Chiến thứ hai, ở vùng này có người của các đảng: Phục Quốc, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Dân Chính, Đại Việt Quốc Dân, Đại Việt Duy Dân v.v. cùng các lãnh tụ có uy tín như: Nguyễn Hải Thần, Trương Bội Công, Lý Đông A ... Lúc đó chính phủ Trung Hoa có ý dung túng những nhà cách mạng Việt Nam vì muốn lợi dụng họ vào việc đối phó với Pháp về vấn đề quyền lợi ở Việt Nam. Người cầm quyền ở Quảng Đông là Trương Phát Khuê và Tiêu Văn được lệnh tập họp các nhà cách mạng Việt Nam vào một mặt trận duy nhất.

Tháng 10 năm 1942 họp đại hội ở Lyễu Châu (Đông Dương Cộng Sản Đảng không được mời). Đại diện các đảng cách mạng đồng ý cùng gia nhập vào một mặt trận gọi là Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội, Nguyễn Hải Thần được cử làm Chủ ti.ch. Nhưng vì bất đồng ý kýến, không thành lập nổi Ban Quản Trị Trung Ương.

Tháng 3 năm 1944, đại hội lần thứ hai được thiết lập ở Liễu Châụ Lần này đại hội thoả thuận lập chính phủ Cộng Hoà Việt Nam Lâm Thờị Trương Bội Công được cử làm Chủ tịch và các uỷ viên gồm có Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Tùng Sơn, Nghiêm Kế Tổ, Bồ Xuân Luật, Hồ Chí Minh. Chủ trương đánh Phát xít Nhật và Thực dân Pháp để thâu hồi độc lập cho Việt Nam.

Chính phủ lâm thời còn đang dùng dằng bàn kế hoạch, chưa quyết định hành động thì Hồ Chí Minh đã lợi dụng chiêu bài quốc gia đó tức tốc về Việt Nam vận động cướp chính quyền Trần Trọng Kim ngày 25 tháng 8 năm 1945.

XXIV. Nhật tranh quyền đô hộ với Pháp ở Việt Nam

Năm 1940, Pháp đầu hàng Đức, phải nhận để Nhật lập căn cứ chống Mỹ ở Việt Nam.

Năm 1945, phe Trục Đức Nhật Ý yếu thế, Pháp ngầm chuẩn bị đánh đuổi Nhật khỏi Việt Nam.

Ngày 9 3 1945 Nhật vội tấn công lật Pháp để giành quyền cai trị ở Việt Nam.

Ngày 11 3 1945 vua Bảo Đại tuyên bố huỷ bỏ hoà ước Việt Pháp 1884, cuộc đô hộ của thực dân Pháp chấm dứt.

Trần Trọng Kim thành lập chính phủ, nhưng mọi quyền hành đều do Nhật nắm giữ. Nhật và Pháp cộng tác trong kế hoạch tiêu huỷ thực phẩm, gây nạn đói khủng khiếp ở Việt Nam vào tháng 3 năm 1945. Khoảng 2 triệu người bị chết đói.

Tháng 8 năm 1945, Mỹ thả bom nguyên tử ở Nagasaki và Hiroshimạ Nhật đầu hàng ngày 15 - 8 - 1945. Nước Việt Nam bị quốc tế phân đôi, trao quyền cho Anh quản trị ở miền Nam và cho Trung Hoa ở miền Bắc.

Từ ngày ấy, nước Việt bị rơi vào nạn chiến tranh giành giật giữa các thế lực đế quốc.

Viết xong tại Ottawa, Canada
Ngày 26 tháng 2 năm 1982

Tài Liệu Tham Khảo :

Annam chí lược Lê Tắc
A description of the kýngdom of Tonquin Samuel Baron
Bài tựa "Ngạn Ngữ Phong Dao" Nguyễn can Mộng
Cơ Cấu Việt Nho Kim Định
Cổ Sử (tài liêu giảng khoá Đ.H.V.K. Sài gòn) Trần Kính Hòa
Cổ Sử (tài liêu giảng khoá Đ.H.V.K. Sài gòn) Nghiêm Thẩm
Chữ Thời Kim Định
Cà Mâu xưa và An Xuyên nay Nguyễn văn Lương
Chu dịch Phan bội Châu
Cổ sử (tài liêu giảng khoá Đ.H.V.K. Sài gòn) Saurin
Cổ kim chú Thôi Báo
Connaissance du Vietnam P.Huard et M.Durand
Đại Việt thông sử Lê quí Đôn
Đại Nam nhất thống chí Quốc Sử Quán
Đại Nam thực lục tiền biên Quốc Sử Quán
Đại Nam thực lục chánh biên Quốc Sử Quán
Đại Nam chánh biên liệt truyện Quốc Sử Quán
Đại Việt sử ký toàn thư Ngô sĩ Lyên
Dương sự thuỷ mạt Quốc sử quán
Điều trần Nguyễn trường Tộ
Dã sử Xuân phong Hồ đắc Ý
Đông kýnh nghĩa thục Đào trinh Nhất
Dân tộc miền nam tây nguyên Jacques Dourmes
Dân tộc học Cardière
Đề cương văn hoá Việt Nam Đảng cộng sản Việt Nam công bố 1943
Đại cương về văn học sử Việt Nam Nguyễn khánh Toàn
Decent Interval Frank Snepp
Dictionarium Annamiticum, Lusitanum et Latinum Alexandre de Rhodes
Đối chiếu tiếng Hán Việt và tiếng Bắc Kinh Phạm văn Hải
Gia Định thành thông chí Trịnh hoài Đức
Góp phần vào sự nghiên cứu một vị
thành hoàng Việt Nam, Lý phục Man Nguyễn văn Huyên
Hán Việt thành ngữ Bửu Cân
Hà thành thất thủ chí công quá ca
(Hà thành chính khí ca) Nguyễn văn Giai
Hạnh thục ca Nguyễn nhược Thị
Huấn địch Thập Điều
Thánh dụ vua Thánh Tổ (Nguyễn)
Diễn nghĩa vua Dực Tông (Nguyễn)
Hậu Hán thư Phạm Việp
Histoire ancienne des peuples de
l'Orient classique Maspéro, Gaston
Historic documents of 1975 Elizabeth Wehr
Histoire ancienne des etats Hindouises
d'extreme Orient G. Coedes
La Chine antique Maspero, Henry
Lịch sử văn học Việt Nam
Văn học dân gian Chu xuân Diên
Lược khảo về thần thoại Việt Nam và
Việt Nam cổ văn học sử Nguyễn đổng Chi
Lĩnh Nam Trích Quái Vũ Quỳnh và Kiều Phú
Lạc Thư Minh Triết Kim Định
Lịch Sử Nhật Bản Thích thiện Ân
Le Peuple Vietnamien Levy, Paul
Lịch sử Việt Nam Khoa học xã hội
Hà NộI xuất bản
Le dossier du Pentagone E.W.Kenworthy and Fox Butterflield
L'empire d'Annam Gosselin
Le Vietnam Philippe Devillers
Les Origines du Tonkýn J. Dupuis
Les philosophies de l'Inde H.Zimmer
Miến Điện Nguyễn bích Lyên
Memoire historique sur le Tonkýn Gaubil
Monde en collision ĐVelikovsky
Memoire sur la Cochinchine Benique Vachet

Nhật Bản tư tưởng sử Ishi Dakzu Yoshi
(Châm vũ Nguyễn văn Tần: dịch)
Nguyễn Trường Tộ et son temps Đào đăng Vĩ
Nguyễn Triều Long Hưng sự tích Trần văn Tuân
Nguyễn Trãi toàn tập Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam,
viện sử học, Hà nội xuất bản
Nguyễn trường Tộ Nguyễn Lân
Nam sử liệt truyện Lê thúc Thông
Nhân chủng
(tài liệu giảng khoá Đ.H.V.K Sàigòn) Paris ấn hành (Vernon)
New light on a forgotten past W.G.Solheim II
No exit from Vietnam Sir Robert Thompson
Notice historique sur la Cochinchine Gaubil
Our Vietnam night mare Marguerite Higgins
Phủ Biên Tạp Lục Lê quý Đôn
Pháp chế sử
(tài liệu giảng khoá Đ.H.V.K. Sàigòn) Vũ quốc Thông
Phan Đình Phùng Đào trinh Nhất

Qua thực tiễn văn nghệ
kháng chiến Nam bộ Lưu quý Kỳ
Reviewing world history AMCO
School publication Inc.
Revolutionary
thought from Marx to Mao Công hòa Nhân dân Trung quốc ấn hành
Recherches archeologiques en Indochine Đại học Harvard
Relation sur le Tonkýn Baldinotti
Relatione della provincia del Giappone Antonio Francisco Cardim

Sơ Lược Về Ảnh Hưởng Trung Hoa
Trong Tiếng Việt Phạm văn Hải
Sử ta so với sử Tàu Nguyễn văn Tố
Sử ký Tư mã Thiên
Sociologie d'une guerre Paul Mus
South East Asia Guy Hunter
Thư tịch
(tài liệu giảng khoá Đ.H.V.K.Sàigòn) Bửu Cầm
Trước Thời Bắc Thuộc
Người Việt Đã Có Chữ Viết Chưả Phạm văn Hải
Tư Tưởng Đông Tây Khái Luận Nguyễn phút Tấn
Tự Điển Chữ Nôm Nguyễn Quang Xỹ và
Vũ Văn Kính
Từ Điển Việt Hán Bắc Kinh xuất bản
Tỉnh Bến Tre Nguyễn Duy Oanh
Trung kỳ dân biến thì mạt ký Phan Chu Trinh
Tây phù nhật ký Phạm Phú Thứ
Tự phán Phan Bội Châu
Tân An ngày xưa Đào văn Hội
Thanh Hoá quan phong Vương duy Trinh
Tục ngữ phong dao Nguyễn văn Ngọc
The birth of Vietnam Taylor, Keith Weller Berkeley: University of
California press
Tư tưởng và học thuật Lương Khải Siêu
Trung quốc dân tộc học Vương đồng Lynh
Trung quốc thông sử Chu cốc Thành
The Influence of T'ang Poetry
on Vietnamese Poetry Written
in Nôm Characters and in the
Quốc Ngữ writing system Phạm văn Hải
Thông Chí Trịnh Tiều

The ancient history of China to the end
of the Chou Dynasty Đại học Columbia Newyork
The two Viet Nams Bernard.B.Fall
The last Confucian Denis Warner
The irony of Vietnam:
the system worked Leslie H.Gelb with Richard K.Betts
Texte et commentaire du miroir
comple de l'histoire du Viet M.Durand
Việt Nam Sử Lược Trần Trọng Kim
Việt Nam phong sử Nguyễn văn Mại
Việt Nam phong tục Phan kế Bính
Việt Nam văn học sử
giản lược tân biên Phạm thế Ngũ
Việt Nam Pháp thuộc sử Phan Khoang
Việt Nam văn minh sử Lê văn Siêu
Việt Nam văn học sử (1802 1945) Phạm văn Hải và
Phạm quân Khanh
Việt kýều ở Kampuchia Lê Hương
Việt Nam văn học toàn thư Hoàng trọng Miên
Việt Nam tổ quốc tuý ngôn Nguyễn hữu Tiến và
Nguyễn trọng Thuật
Việt Điện u linh tập Lý Tế Xuyên
Việt sử Thông giám cương mục Lý Tế Xuyên
Việt sử toàn thư Phạm văn Sơn
Việt lý tố nguyên Kim Định
Việt Nam Phật giáo sử T.T.Mật Thể
Việt Nam văn học sử yếu Dương quảng Hàm
Việt Nam văn hóa sử cương Đào duy Anh
Việt Nam máu lửa Nghiêm kế Tổ
Vân đài loại ngữ Lê quý Đôn
Vietnamese architecture Nguyen quang Nhac
Nguyen nang Dac
Vietnamese tradiction
on trial, 1920 1945 Marr.David.G.
Berkeley: University of California press
Viet Nam Marvin E.Gettleman
Viet Nam witness Bernard B.Fall
Vietnam diary Richard Tregaskýs
Vietnam, history of Encyclopaedia Britannica
William Benton, Publisher 1943 73) (Helen H.Benton, Publisher 1973 74)
Vietnam Encyclopedia of the third world (by: George Thomas Kurian)
Xã hội học Bửu Lịch

- 1927, Nguyễn An Ninh tổ chức đảng bí mật ở Hóc môn có khuynh hướng Cộng Sản, bị Pháp bắt đầy ra Côn Lôn.
- 1932, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch lập đảng, theo khuynh hướng Đệ Tứ Quốc Tế (Cộng Sản Đệ Tứ) hoạt động ở Sài Gòn.
- 1937, Nguyễn Văn Thinh thành lập phong trào Dân Chủ ở Nam kỳ.
- Lý Đông A thành lập đảng Đại Việt Duy Dân, có lý thuyết vững chắc nhưng tầm mức hoạt động hạn hẹp.
- 1940, Nguyễn Tường Tam thành lập Đại Việt Dân Chính, (sau đổi tên là Đại Việt Quốc Xã) dựa vào thế lực Nhật Bản để chống Pháp, nhưng sau bị Nhật bỏ rơị Pháp thẳng tay đàn áp, một số đảng viên bị bắt, Nguyễn Tường Tam trốn sang Tàụ
- 1941, Trương Tử Anh thành lập đảng Đại Việt Quốc Dân. Bị Pháp đàn áp, đảng bị suy sụp.
- 1943 1944, Nguyễn Xuân Chữ, Lê Toàn, Vũ Đình Di lập Việt Nam Ái Quốc Đảng.
- Vũ Đình Hoè, Dương Đức Hiền lập Dân Chủ Đảng.
- 1945, Nhượng Tống, Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Văn Tiếu thành lập Đại Việt Quốc Gia Lyên Minh (gồm Việt nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Quốc Xã và các đảng phái quốc gia khác).

Hầu hết đảng phái quốc gia không có nguyên lý hành động độc lập. Nhất là sinh hoạt chính trị chỉ lẩn quẩn ở trong tầng lớp xa rời quần chúng.

Vào thời Việt Pháp chiến tranh, thói thường các nhà cách mạng Việt Nam mỗi khi bị truy lùng thường trốn sang Trung Hoa, nương náu ở vùng Hoa Nam giáp giới với nước Việt, như Quảng Châu, Nam Ninh, Vân Nam ... Trong thời gian Đại Chiến thứ hai, ở vùng này có người của các đảng: Phục Quốc, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Dân Chính, Đại Việt Quốc Dân, Đại Việt Duy Dân v.v. cùng các lãnh tụ có uy tín như: Nguyễn Hải Thần, Trương Bội Công, Lý Đông A ... Lúc đó chính phủ Trung Hoa có ý dung túng những nhà cách mạng Việt Nam vì muốn lợi dụng họ vào việc đối phó với Pháp về vấn đề quyền lợi ở Việt Nam. Người cầm quyền ở Quảng Đông là Trương Phát Khuê và Tiêu Văn được lệnh tập họp các nhà cách mạng Việt Nam vào một mặt trận duy nhất.

Tháng 10 năm 1942 họp đại hội ở Lyễu Châu (Đông Dương Cộng Sản Đảng không được mời). Đại diện các đảng cách mạng đồng ý cùng gia nhập vào một mặt trận gọi là Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội, Nguyễn Hải Thần được cử làm Chủ ti.ch. Nhưng vì bất đồng ý kýến, không thành lập nổi Ban Quản Trị Trung Ương.

Tháng 3 năm 1944, đại hội lần thứ hai được thiết lập ở Liễu Châụ Lần này đại hội thoả thuận lập chính phủ Cộng Hoà Việt Nam Lâm Thờị Trương Bội Công được cử làm Chủ tịch và các uỷ viên gồm có Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Tùng Sơn, Nghiêm Kế Tổ, Bồ Xuân Luật, Hồ Chí Minh. Chủ trương đánh Phát xít Nhật và Thực dân Pháp để thâu hồi độc lập cho Việt Nam.

Chính phủ lâm thời còn đang dùng dằng bàn kế hoạch, chưa quyết định hành động thì Hồ Chí Minh đã lợi dụng chiêu bài quốc gia đó tức tốc về Việt Nam vận động cướp chính quyền Trần Trọng Kim ngày 25 tháng 8 năm 1945.