Trong thơ nên có… vú |
Tác Giả: Chân Phương | |||||||
Chúa Nhật, 17 Tháng 6 Năm 2012 07:30 | |||||||
Đàn ông đóng khố đuôi lươn ... Đàn bà mặc yếm hở lườn mới xinh Trong thơ nên có… vú nhớ Bình Nguyên Lộc Tôi có kinh nghiệm về những trái vú cụ thể vào khoảng 16, 17 tuổi. Lúc ấy tôi đang học năm seconde trường Tây và các đêm bal cuối tuần tôi không thiếu cơ hội ôm ghì những bộ ngực đầm tơ rồi đôi khi may mắn được vùi cả đầu mặt vào đó mà hôn hít. Dạo đó tôi cũng đang tập tành viết từng câu alexandrin vừa dọ dẫm bước vào thế giới Baudelaire với những bài thơ tuyệt vời nhục cảm. Đôi khi nổi hứng tôi còn búng ghi-ta nghêu ngao mấy câu La femme qui est dans mon lit mà danh ca Serge Reggiani đã mượn tứ một bài trong Les Fleurs du Mal phổ nhạc và làm xao xuyến các quán rượu Paris vào cuối thập niên 60 nhiều biến động.
Nhưng mấy mối tình học trò ấy qua nhanh. Khi cú sét thần tiên đánh cháy quả tim vào năm thứ hai đại học, thi ca của thế kỷ 20 cũng vừa mở rộng cửa đón tôi vào các cuộc tình hiện đại kiểu Apollinaire, Eluard, Breton... Những chiều mưa phòng trà lãng mạn, những đêm nhiệt đới nồng nàn, làn da nóng ấm, môi mắt gợi tình... Và trái vú trần của người yêu sẽ trở thành niềm ám ảnh khôn nguôi đọng hoài trong ký ức, đúng như hai câu chớp loé của Valéry chỉ một lần hiện lên mà in dấu trọn kiếp người: l’instant d’un sein nu entre deux chemises... Cũng may cho tôi; thay chỗ những quả trái trần thế lần lượt theo nhau ra đi tôi phát hiện ra kho tàng vô tận của chúng trong thơ! Không bằng lòng với bộ ngực Phục Hưng (Shakespeare, Ronsard, Donne...) tôi ngược thời gian Trung cổ (Les Troubadours) tìm về La Mã, Hy Lạp để bàng hoàng trước cặp vú để trần của Propertius và Catullus, hoặc ngẩn ngơ trước đôi gò của người đẹp Sappho... Như một kẻ say mê đồ cổ, tôi truy lùng thời gian đã mất của nòi tình để tìm lại từng vết tích thẩm mỹ bên dưới các manh vải và bên kia hằng cửu. Và làm sao kể xiết niềm vui một ngày nọ khi bắt gặp giữa hai trang Cựu Ước lời hát ca ngợi tình nhân của Salomon: cặp vú em như hai con nai sinh đôi... (lặp đi lặp lại, Chương 4&7) Đến đây có lẽ bạn đọc không ít người đã bất bình: tác giả bài viết này mất gốc vọng ngoại quá mức! Hết ca tụng thơ ca Âu Tây lại thần phục Kinh Do Thái!Tại sao có thể lãng quên mấy nghìn năm văn hiến Á Đông! Cả đời nhai cơm, húp phở lại đi khen ngợi vú đầm (chưa nói là phần lớn chúng nó chỉ ẩn hiện trên tờ giấy ố vàng mục rách!) Thú thật tôi cũng có đôi lần thắc mắc, nhất là những năm sau này khi tóc râu bắt đầu điểm bạc: thơ ca dân tộc với láng giềng đã tiếp nhận... vú như thế nào? Có được hồn nhiên thoải mái như các sắc dân da trắng không? Tình trai gái trong thơ của chúng ta có khi nào để lộ toà thiên nhiên của phái đẹp? Và một lần nữa thú chơi đồ cổ đã dắt tôi vòng vo từ Đường thi, Tống từ đến Kinh Thi với Sở Từ, thi thoảng lại ghé qua các kho ca dao tục ngữ. Tôi đã mất khá nhiều thời gian mà kết quả chẳng mấy khả quan: gấm lụa xiêm y thì nhiều nhưng trái vú sờ được nhìn thấy thì hầu như vắng bóng! Chỉ một lần trong bài “Có Con Nai Chết” (Kinh Thi, Quốc Phong) khi người con gái xin chàng trai đừng cởi dây thắt lưng của nàng là thấp thoáng niềm hy vọng mong manh nhưng rồi cũng vuột mất.[1] Phải chăng truyền thống Nho giáo đã trói buộc tình tự Á đông?[2] Đọc Lý Bạch, gã playboy tài hoa sớm tối vào ra thanh lâu tửu quán hoặc Đỗ Mục, tay chơi khét tiếng bạc tình thời Vãn Đường, thấy được má hồng cùng lưng thon là may lắm rồi! Tả sắc đẹp nghiêng thành của Dương Quí Phi trong bài “Trường Hận Ca”, họ Bạch chỉ hé ra tấm thân mỡ màng của nàng dưới làn nước ấm rồi nín lặng![3] Tôi chịu khó lật lại từng trang Tục Ngữ Phong Dao của Nguyễn Văn Ngọc, đôi khi cũng bắt gặp một khoảnh da thịt hấp dẫn, Đàn ông đóng khố đuôi lươn Đàn bà mặc yếm hở lườn mới xinh hoặc một màn striptease kín đáo, Thương nhau cởi áo cho nhau Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay nhưng tuyệt nhiên không thấy cặp vú gợi hứng đâu cả![4] Bóng gió thì có bóng gió, hiện thực lại rất mông lung, Gió nam đánh tốc yếm đào Anh nghĩ oản trắng, anh vào thắp nhang... Cho đến Bà Chúa thơ Nôm cũng tránh né vấn đề; gặp cô gái ngủ ngày da thịt tênh hênh nhà thơ nổi tiếng tả chân của chúng ta lại dùng ẩn dụ: ... Yếm đào trễ xuống dưới nương long Đôi gò Bồng đảo sương còn ngậm... Nghĩ hơi buồn! Dân Việt cũng thuộc loài động vật có vú như ai, sao thơ Việt lại thiếu đi bộ phận này? Té ra kiểm duyệt văn hoá không chỉ là căn bệnh của các chế độ công an, quân phiệt mà thôi!
Tôi lại tiếp tục đào bới. Biết đâu bên dưới các địa tầng văn hoá Khổng Mạnh và Tam giáo vẫn còn tàng ẩn tính nết hồn nhiên chân chất của dân gian? Đi ngược ảnh hưởng của phương Bắc, tìm về nguồn gốc Đông Nam Á thử xem - chẳng phải tổ tiên xa xưa đã từng xâm mình, nhuộm răng ăn trầu hay sao? Đẩy sang một bên các sách Hán tự, tôi bắt đầu sưu tập các tài liệu văn hoá Môn-Khờme và Mã Lai, mày mò tự học các chữ orang, kampung, makan, minum... và làm quen với những bài pantun nguyên tác.[5] Rồi sau nhiều mùa lặn lội trong rừng chữ lạ lẫm tôi đã được mãn nguyện, đã tận mắt nhìn thấy susu, trái vú dân tộc nguyên sơ, bầu sữa mẹ Mã Lai chính gốc! Mời các bạn cùng tôi về thăm cội nguồn văn hoá, ngâm nga mấy câu thơ tỏ tình đặc sản sau đây: Sakit kaki ditikam jeruju Jeruju ada di dalam paya Sakit hati memandang susu Susu ada di dalam kebaya[6] tạm dịch Dẫm phải gai đau chân Lá gai mọc giữa đầm Nhìn thấy vú đau lòng Vú dưới yếm đầy căng
Di mana kuang bertelur? Di atas lata, di ruang batụ Di mana abang nak tidur? Di atas dada, di ruang susu.[7] tạm dịch Ó làm tổ ở đâu? Nơi lũng sâu, góc núi. Người tình muốn ngủ đâu? Gối đầu trên đôi vú. Tôi xin phép tạm ngưng ở đây; gọi là dẫn chứng vài câu khai vị. Mấy trang này đã giúp tôi xoa dịu phần nào cái mặc cảm mất gốc của mình. Bây giờ mời các bạn làm một chuyến hành hương văn hoá, tự thân tìm lại lai lịch tâm tình của giống nòi. Biết đâu ngày nào đó một người trong các độc giả của bài viết lôi thôi tuỳ hứng này sẽ nhẫn nại đi xa thật xa, sẽ may mắn tìm ra nơi chôn nhau cắt rốn văn hoá của các tộc Việt ngày xưa. Nguồn: Trong thơ nên có… vú. Chân Phương. Ăn mày văn chương. DCVOnline minh họa. Chú thích của tác giả. [1] Xem nguyên tác “Dã hữu Tử Quân”, bài 23 trong Bernhard Karlgren, The Book of Odes, Stockholm, 1950.
|