Home Tin Tức Bình Luận 30- 4 -1975, Ngày Bức Tử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

30- 4 -1975, Ngày Bức Tử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa PDF Print E-mail
Tác Giả: Đặng thiên Sơn (ĐĐ1/Trinh Sát/SĐND/QLVNCH)   
Thứ Ba, 14 Tháng 4 Năm 2009 03:08

Sau Hiệp Định Genève với nghị quyết của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, những nước nhược tiểu bị cường quốc thống trị lần lượt được trao trả độc lập. Vào thời điểm này, Việt Nam chia thành hai quốc gia. Miền Bắc theo Chủ nghĩa Xã hội. Miền Nam theo Chủ nghĩa Tư bản.

- Để chuẩn bị cho việc nhuộm đỏ thế giới, Liên Xô và Trung cộng dùng Cộng sản Bắc Việt làm tên xung kích tại mặt trận Đông Nam Á .

Tuân theo chỉ thị của quan thầy, tập đoàn cộng sản Bắc Việt xua quân xâm lăng miền Nam gây nên cảnh máu đỗ thịt rơi, nhà tan, cửa nát cho nhân dân hai miền Nam Bắc trong suốt 1/4 thế kỷ.

- Để ngăn chận hiểm họa Cộng sản, Hoa Kỳ chọn miền Nam Việt Nam làm tiền đồn chống cộng của thế giới tự do. Với tiềm năng kinh tế dồi dào, Hoa Kỳ phát triển lý thuyết tư bản-tự do-dân chủ qua con đuờng viện trợ kinh tế như một thứ vũ khí, khuyến khích chính quyền miền Nam đương đầu với ý đồ đen tối của khối Cộng sản.

Chính nghĩa thuộc về ai?!
Từ chế độ Quân chủ Lập hiến bước qua chế độ Tự do - Dân chủ một cách đột ngột thiếu chuẩn bị nên hầu hết dân chúng Việt Nam không ý thức rõ ràng về mức độ dân chủ theo quan điểm kiểu tây phương. Trong khi ấy, nhứt là ở nông thôn mọi người chưa thấy rõ bộ mặt thật của Cộng sản. Cho nên ý thức chống cộng của họ thật mù mờ. Điều này đã khiến chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ gặp nhiều khó khăn không nhỏ trong việc dân chủ hóa Miền Nam. Một nước mà Hoa Kỳ muốn biến thành đồng minh trong thế chiến lược, để ngăn chận sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng Sản.

Vì muốn chiến thắng Cộng sản và luôn phô trương sức mạnh của mình, Hoa Kỳ thường hay trực tiếp nhúng tay vào nội bộ các quốc gia họ giúp đở. Sự kiện này đã bị Cộng sản lợi dụng để bóp méo sự thật về cuộc chiến tự vệ, bảo vệ chính nghĩa của quân dân miền Nam. Cộng sản Bắc Việt đã biến cuộc chiến tranh xâm lược của bọn chúng, thành cuộc chiến “Chống Mỹ cứu nước”.

Không muốn tạo điều kiện để CSBV tuyên truyền láo khoét làm sai lạc ý nghĩ cuộc chiến đấu tự vệ của quân dân Miền Nam, Tổng thống Ngô Đình Diệm từ chối -không chấp nhận sự can thiệp trực tiếp của quân đội Hoa Kỳ vào chiến cuộc Việt Nam. Ông chỉ yêu cầu Hoa Kỳ viện trợ kinh tế, vũ khí đạn dược và cố vấn để Việt Nam Cộng Hòa đủ sức bình định nông thôn, tiêu diệt đứa con đẻ của CSBV là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

Quốc Sách Ấp Chiến Lược của TT. Diệm đã làm tê liệt các cơ sở hạ tầng của Việt cộng, khiến chiến thuật “lấy nông thôn bao vây thành thị” của cộng quân gặp nhiều khó khăn

Trong một cuộc họp báo tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn vào năm 1963, Tổng thống Hoa Kỳ John Kennedy đã nói huỵch toẹt với giới truyền thông: "Người Mỹ đến Việt Nam không phải để giúp ông Diệm mà họ có mặt tại Việt Nam là để phục vụ chính quyền lợi của nước Mỹ và cũng để chứng tỏ cho Liên Xô và Trung Cộng thấy rằng Hoa Kỳ sẵn sàng chống lại các cường quốc Cộng sản tại bất cứ chỗ nào trên mặt địa cầu. Nếu anh em ông Diệm không để cho người Mỹ thực hiện ý định của họ thì Hoa Kỳ sẽ tìm kiếm những người Việt Nam khác sẵn sàng đáp ứng quyền lợi của Mỹ". (Theo The Pentagone Papers, do nhà phát hành The New York Times, năm 1971, trang 190)

Với tinh thần yêu nước cực đoan, thiếu uyển chuyển không muốn quân đội Hoa Kỳ có mặt tại chiến trường VN. Và với sự cố vấn của ông Ngô đình Nhu, lúc ấy, đang lén lút liên lạc với CS Bắc Việt bàn thảo giải pháp Trung Lập Hóa Miền Nam không như ý Hoa Kỳ mong muốn, nên Tổng thống Ngô đình Diệm đã bị đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963.

Nhân chứng bên cạnh TT. Diệm tới giờ phút chót kể lại, thì các tướng đảo chính đã hứa là sẽ bảo đãm an toàn cho ông rời khỏi nước. Vì thế, Tổng thống Diệm chẳng những không ra lệnh kháng cự lại mà còn nói với vị Chỉ huy phó Liên Binh Phòng Vệ Tổng Thống Phủ rằng: “Nếu các anh em đánh, quân đội cả hai đều chết. Thà là giết Cộng sản. Nếu ta chiến đấu thì chiến đấu chống Cộng sản. Dành đạn mà giết Cộng sản”.

Đối với cái chết của ông Ngô đình Diệm và người em là ông Ngô đình Nhu, tướng Dương văn Minh, người chỉ huy đảo chính đã công bố là hai anh em ông Diệm tự sát. Tuy nhiên qua phóng ảnh do phóng viên ngoại quốc chụp được người ta thấy TT. Diệm và ông Ngô đình Nhu bị trói thúc ké, trên đầu có nhiều vết đạn và thân thể hai người còn có nhiều vết dao đâm ( Việt Nam Thắng Và Bại của Lê quế Lâm, NSM 1993, tr. 342).

Khi TT. Ngô đình Diệm bị lật đổ, Nguyễn hữu Thọ, Chủ tịch MTGPMN mừng rỡ thốt lên: “Người Mỹ đã làm giùm chúng tôi điều mà 9 năm chúng tôi không làm được”. Nguyễn hữu Thọ đã ví cuộc đảo chính và cái chết của TT. Diệm: “Chẳng khác nào quà tặng từ trên trời rơi xuống”.(Theo Richard M. Nixon, No More Vietnams, Arbor House NY, 1985, tr. 72)

Sau khi TT. Ngô đình Diệm bị sát hại, Dương văn Minh lên nắm quyền chuẩn bị cho giai đoạn “Mỹ Hóa chiến tranh”. Tại Mỹ, Bộ trưởng Quốc phòng McNamara đã họp khẩn với các cố vấn của TT. Kennedy tìm biện pháp chiến lược cho vấn đề Việt Nam. Tuy nhiên chỉ ba ngày sau phiên họp, TT. Kennedy bị ám sát tại Dallas, Texas nên kế hoạch của McNamara có nhiều thay đổi.

Mỹ hóa chiến tranh Việt Nam
*Chính trường Miền Nam rối như tơ vò vì đảo chính liên miên. Tổng thống Ngô đình Diệm chết, Quốc Sách Ấp Chiến Lược bị hũy bỏ. Nhân cơ hội này chiến thuật “lấy nông thôn bao vây thành thị”, của Cộng sản được dịp hồi sinh. Tình hình nông thôn trở nên kém an ninh. Trong khi ấy tại thủ đô Sài Gòn rối bời vì nhiều xu hướng chính trị khác nhau của các ông tướng trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng. Các tướng thân Pháp thì muốn giải quyết chiến tranh Việt Nam theo con đường của TT. Pháp De Gaulle đã vạch ra là Trung Lập Hóa Miền Nam. Nhưng Trung Lập Hóa Miền Nam không phải là giải pháp Hoa Kỳ mong muốn, nên ngày 30 tháng 1 năm 1964 Hoa Kỳ đã ủng hộ tướng Nguyễn Khánh làm cuộc “chỉnh lý” để hất cẳng tất cả các tướng có ý muốn Trung Lập miền Nam ra khỏi quyền lực. Ông Khánh cho ra đời Hiến Chương Vũng Tàu, hạ bệ Dương văn Minh, thăng cấp ào ào cho các sĩ quan trẻ để tạo vây cánh, đồng thời cho các sĩ quan già về vườn.

Do không ý thức và hiểu biết sâu rộng về chính trị. Do không nắm vững khuynh hướng can thiệp vào Việt Nam của Hoa Kỳ. Những nhân vật ông tướng, ông tá thời đó đã thay phiên nhau làm đảo chánh để tranh giành quyền lợi khiến tình hình chính trị trong Nam càng ngày càng tồi tệ.

Ngày 20 tháng 2 năm 1965, sau khi dẹp tan cuộc đảo chính của các ông Lâm văn Phát, Phạm ngọc Thảo, Hùynh văn Tồn, hai ông Nguyễn chánh Thi -Tư Lệnh Quân Đoàn Giải Phóng Thủ Đô và Nguyễn cao Kỳ -Tư Lệnh Không Quân đã áp lực buộc ông Nguyễn Khánh rời nước lưu vong sang Pháp.

Lợi dụng tình trạng chia rẽ trong Nam, cộng sản Hà Nội gia tăng các hoạt động quân sự. Bọn chúng giết người bất chấp thủ đoạn. Để khủng bố tinh thần người dân, chúng pháo kích bừa bãi vào các khu dân cư, trường học, chợ búa, nhà thương. Tạo nên cảnh chết chóc thê lương cho người vô tội. Đồng thời, liên tiếp mở những trận dánh cấp Tiểu đoàn, Trung Đoàn, Sư Đoàn.

Quân đội Mỹ đổ bộ vào Việt Nam.
Trước áp lực quân sự gia tăng của cộng quân tại chiến trường VN, Nghị quyết 288 ký ngày 17/3/1964 của Hội Đồg An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ đã mở đường cho quân đội Mỹ trực tiếp tham chiến tại VN.

Tháng 5 năm 1965, trước tình hình chiến sự ngày càng gia tăng, Quốc trưởng Phan khắc Sữu và Thủ tướng Phan Huy Quát dưới áp lực của các tướng lãnh đành phải bàn giao chính quyền cho quân đội, để kết thúc vai trò lãnh đạo quốc gia trong thời chinh chiến của giới dân sự.

Tướng Nguyễn văn Thiệu, Tổng trưởng Quốc phòng kiêm Tổng thư ký Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng nhận lãnh trách nhiệm với chức vụ Chủ tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, tướng Nguyễn cao Kỳ làm Chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương.

Ngày 19 tháng 6 năm 1965, Nội Các Chiến Tranh của Thiếu tướng Nguyễn cao Kỳ ra đời. Ngày 19/6 còn được chọn là Ngày Quân Lực để đánh dấu sự trưởng thành của quân đội VNCH.

Do sự giựt dây của Việt cộng, Nội Các Chiến Tranh của ông Kỳ đã bị nhiều thành phần nổi lên phản đối kịch liệt. Phật giáo thì xuống đường từ Sài Gòn ra đến Huế, sinh viên thì biểu tình, Tổng Liên Đoàn Lao Công thì ra Tuyên cáo đòi phải có một Nội Các Hòa Bình chớ không phải Nội Các Chiến Tranh v.v... tạo nên tình trạng hết sức hỗn loạn.

Vào năm 1965, dưới áp lực quân sự của cộng sản Bắc Việt ngày càng khốc liệt theo yêu cầu của chính phủ VNCH, Hoa Kỳ cho đổ bộ 4 tiểu đoàn TQLC lên Đà Nẵng. Đây là những đơn vị đầu tiên của Hoa Kỳ có mặt tại chiến trường Việt Nam. Sau đó, do thương lượng được với Trung Cộng, Hoa Kỳ đã ồ ạt đổ thêm quân vào VN với quyết tâm ngăn chận tham vọng thôn tính miền Nam của Cộng sản Bắc Việt. Số quân nhân Hoa Kỳ tham chiến tại VN lên đến gần nửa triệu người, không kể số quân đồng minh khác như Úc, Tân Tây Lan, Nam Hàn, Thái Lan. Cuộc chiến bắt đầu leo thang.

Mao trạch Đông đã nói với ký giả Mỹ Edgar Snow về sự kiện Mỹ đổ quân vào VN như sau: “Quân Trung quốc sẽ không vượt biên giới của mình để đánh nhau. Đó là điều hoàn toàn rõ ràng, chỉ khi nào Mỹ tấn công, người Trung quốc mới chiến đấu”. (Trong Sự thật về quan hệ VN Trung quốc trong 30 năm qua. Văn kiện của Bộ Ngoại giao Việt cộng, của nhà xuất bản Sự thật Hà Nội 1979 trang 44).

Để chuẩn bị tư tưởng cho cuộc chiến lâu dài, Hồ chí Minh trong diễn văn đọc ngày 17 tháng 7 năm 1966, tại Hà Nội đã nói: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm hay lâu hơn nữa. Hà nội, Hải phòng và một số xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân VN quyết không sợ. Không có gì quí hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. (Trong Hồ chí Minh, vì độc lập tự do, vì Xã Hội Chủ Nghĩa, của NXB Sự Thật, Hà Nội, 1970, trang 282).

Bắc Việt đã thua QLVNCH trong trận dọ sức Tết Mậu Thân
Trước năm 1968, với chiến thuật vừa đánh vừa đi đêm với Hoa Kỳ để đợi thời cơ Tổng Tấn Công Miền Nam, Cộng sản Bắc Việt đã âm thầm đưa nhiều sư đoàn chính quy vào chiến trường cao nguyên Nam phần, Quân khu 5 và miền Đông Nam phần dưới sự chỉ huy của tướng VC Nguyễn chí Thanh. Tướng Erth G.Wheeler, Chủ tịch Hội Đồng Tham Mưu Trưởng Liên Quân đã so sánh việc chuẩn bị của cộng quân cho trận đánh sắp diễn ra là: “Cộng sản tung ra một nỗ lực tuyệt vọng rất giống như trận đánh ở rừng Ardenne của Đức hồi thế chiến thứ II” (Big Story của Peter Braestrup, Anchor Press, NY 1978,Vol I,pp 60).

Sau nhiều chuyến đi đêm, Hoa Kỳ đồng ý án binh bất động để quân đội Bắc Việt thử lửa với Quân lực VNCH trong một trận quyết định mà chiến trường, thời gian do CSBV chọn lựa.

Trong điều kiện đi đêm Hoa kỳ đã hứa với Hồ chí Minh, nếu quân của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và bộ đội CSBV thắng được quân của chính phủ VNCH, tức thắng được QLVNCH thì Hoa Kỳ sẽ rút quân để MTGPMN và nhân miền Nam toàn quyền định đoạt thể chế của mình. Còn ngược lại, nếu thua, thì MTGPMN phải hợp tác với chính quyền quốc gia miền Nam, giải quyết chiến tranh bằng con đường hòa bình.

Thế rồi, qua bài thơ chúc tết vào đêm giao thừa năm Mậu Thân, Hồ chí Minh đã mật lệnh Tổng Công Kích Miền Nam. Bài thơ chúc tết của họ Hồ như sau:

Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua,
Thắng trận tin vui khắp mọi nhà,
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ,
Tiến lên toàn thắng ắt về ta.

Cộng sản Bắc Việt đã lợi dụng dịp hai bên hưu chiến. Lợi dụng dịp chỉ có 1/2 quân số QLVNCH cấm trại để tấn công Miền Nam. Với cơ hội bất thần này, Hồ chí Minh tin tưởng nắm chắc phần thắng trong tay. QLVNCH sẽ tan rã và chính phủ VNCH sẽ bị lật đổ. Nhưng, những tính toán của Hồ chí Minh đã hoàn toàn sai lầm.

Mặc dù chỉ với quân số 1/2 trong tình trạng cấm trại để giữ gìn an ninh đơn vị, các chiến sĩ QLVNCH với tinh thần chiến đấu dũng cảm, thiện chiến, đã cho bọn cộng phỉ khát máu nếm mùi thất bại chua cay. Trên 30 ngàn cộng quân bị QLVNCH loại ra khỏi vòng chiến. Gần như toàn bộ quân du kích và lực lượng địa phương của MTGPMN bị tiêu diệt . Hàng chục ngàn tên cán binh cuồng tín nhứt, có kinh nghiệm nhứt từ vùng rừng núi nhẩy vào vùng đồng bằng và thôn quê để phơi xác -trả giá cho sự vi phạm hưu chiến một cách trắng trợn trong ba ngày tết thiêng liêng của dân tộc.

Tóm lại, qua trận Tổng Công Kích Tết Mậu Thân, Việt cộng đã làm mất cả một thế hệ chiến binh mà chúng đã đào tạo và xây dựng trong nhiều năm.

Quân sử gia Hoa Kỳ, đại tá Dave Palmer trong tác phẩm Summons Of The Trumper nhận xét rằng: “Cuộc tấn công của cộng sản đã mang lại kết quả trái ngược. Binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã tỏ ra có tinh thần và dũng cảm làm ngạc nhiên nhiều người nhứt là các tên lính Bắc Việt. Cộng sản chờ đợi nhân dân nổi dậy tiếp tay với chúng, người dân quả thật có nổi dậy- nhưng để đánh lại quân xâm lược BV”. (Việt Nam Thắng và Bại, Lê quế Lâm, Ngọc Thu XB, Sydney 1993, tr 372).

Việt Nam hóa chiến tranh
Sau trận Mậu Thân, Cộng sản Bắc Việt mất địa bàn hoạt động tại nông thôn và các tỉnh quanh thủ đô Sài Gòn. Hầu hết các đơn vị Việt cộng phải rút về mật khu của chúng tại biên giới Việt Miên. Hồ chí Minh vì quá thất vọng không nuốt được miền Nam đã sanh bệnh và trút hơi thở cuối cùng vào ngày 3/9/69, chấm dứt sự nghiệp '-bán nước -hại dân' của kẻ tội đồ dân tộc.

Sau trận Mậu Thân, Quân Lực VNCH tái chiếm và bình định lại các vùng nông thôn trước đó đã bị Việt Cộng kiểm soát. Tình hình nông thôn sáng sủa hơn với chương trình “Người Cày Có Ruộng”.

Với chủ trương muốn kết thúc cuộc chiến trong hòa bình và danh dự, các màn đi đêm giữa ngoại trưởng Hoa Kỳ Kissinger với CSBV vẫn tiếp tục diễn ra. Để có thời gian chỉnh đốn lại hàng ngủ gần như tan rã sau trận Mậu Thân, CSBV mới chấp nhận vào bàn hội nghị.Tại Hoa Kỳ phong trào phản chiến lan tràn nhiều tiểu bang đã khiến các cuộc thương lượng của Hoa Kỳ gặp nhiều khó khăn. Trước làn sóng phản chiến, TT. Richard Nixon quyết định rút quân, mở đường cho kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh.

Với hơn một triệu quân gồm quân đội, cảnh sát, nhân dân tự vệ và với tình hình an ninh khắp nơi tương đối ỗn định, TT. Nguyễn văn Thiệu tin tưởng quân dân Miền Nam đủ sức đập tan mộng xâm lược của cộng sản Bắc Việt. Ông Thiệu cho rằng, Bắc Việt đã có dã tâm thôn tính miền Nam, thì CSBV có ngồi vào bàn đàm phán cũng chỉ là chiến thuật quỷ quái vừa đánh vừa đàm của chúng mà thôi. Do đó, chính phủ VNCH chẳng còn con đường nào khác hơn là phải chiến đấu tới cùng để bảo vệ vùng đất tự do. Phải tiêu diệt đến tên cộng sản cuối cùng và phải chiến thắng. Trong khi đó Hoa Kỳ muốn rút chân ra khỏi Việt Nam và giải quyết chiến tranh trên bàn hội nghị với 3 điểm:

- Mỹ rút quân khỏi VN.

- Ủy hội quốc tế kiểm soát việc ngưng bắn.

- Tổng tuyển cử tự do có Ủy hội quốc tế kiểm soát.

Vào tháng 4/1970, để chuẩn bị cho việc rút quân và thực hiện kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh, quân đội Hoa Kỳ phối hợp với QLVNCH tấn công vào căn cứ đóng quân của CSBV tại các mật khu Mõ Vẹt và Lưỡi Câu trong lãnh thổ Miên.

Trong cuộc hành quân này Chiến đoàn 8/Sư đoàn 5 BB và lực lượng Thiết vận xa của QLVNCH gặp nhiều tỗn thất tại Snoul, nhưng cuộc hành quân đã cầm chân không cho cộng quân vượt biên đã tạo thuận lợi cho chính quyền VNCH tiến hành kế hoạch bình định nội địa. Cũng nhằm bảo đảm an toàn cho kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh, QLVNCH mở cuộc hành quân sang Hạ Lào với chiến dịch Lam Sơn 719 đánh thẳng vào bản doanh của Tổng Cục Hậu Cần tiền phương quân đội CSBV với sự tham dự của lực lượng Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Thiết Giáp, 13 tiểu đoàn Pháo Binh và Sư Đoàn I bộ binh.

Hành quân Lam Sơn 719 chấm dứt sau 44 ngày quần thảo giữa hai bên. Phần lớn tổn thất của QLVNCH trong chiến dịch Lam Sơn 719 đều do pháo kích ngày đêm của cộng quân từ các pháo đài được đặt trong các khe núi. Chiến dịch Lam Sơn 719 không mang lại kết quả như ông Thiệu và Hoa Kỳ mong muốn, nhưng đã cho cộng quân thấy rằng chúng không có những vùng bất khả xâm phạm và tinh thần chiến đấu vì lý tưởng tự do của các chiến sĩ QLVNCH luôn luôn sáng ngời.

Từ việc đổ quân vào chiến trường Việt Nam với quân số kỷ lục dưới thời TT. Johnson đến việc muốn rút quân khỏi miền Nam một cách nhanh chóng vội vàng của Hoa Kỳ, khiến Bộ Chính Trị CSBV vừa mừng vừa lúng túng. Sự rút quân của Hoa Kỳ đã làm mất chiêu bài “Chống Mỹ Cứu Nước” của Cộng sản Bắc Việt. Để biện minh cho hành động tiếp tục gây chiến, xâm lăng miền Nam, Cộng sản Hà Nội đã lên án kế hoạch “Việt Nam Hóa Chiến Tranh”. Với bản chất vừa ăn cướp vừa la làng Việt Cộng gọi “Việt Nam Hóa Chiến Tranh” là âm mưu thâm độc của Mỹ-Ngụy, vì TT. Nixon đã dùng người Việt Nam chết thay cho binh sĩ Mỹ để tiếp tục duy trì chế độ thực dân mới.

Vào năm 1972, Bắc Việt đã huy động trên hàng chục sư đoàn chính quy, trên 20 trung đoàn độc lập và trên 700 chiến xa mở những cuộc tấn công QLVNCH tới tấp. Chúng mở các mặt trận cấp sư đoàn tại vùng Ashau, A Lưới, khu Cửa Việt, Darto, Tân Cảnh. Chúng tấn công Lộc Ninh, An Lộc, Bình Long, Cỗ thành Quảng Trị... Trước thái độ hung hăn, háo chiến vừa đánh vừa đàm và bỏ bàn hội nghị của Cộng sản Bắc Việt, Tổng thống Nixon đã ra lệnh phong tỏa cảng Hải Phòng và tái oanh tạc Bắc Việt. Ngay buổi chiều hôm bị Hoa Kỳ dội bom, CSBV đã đồng ý trở lại bàn hội nghị tiếp tục đàm phán và hứa sẽ bàn thảo nghiêm chỉnh.

Hoa Kỳ dội bom Bắc Việt
Sau gần 5 năm đàm phán với 204 lần công khai và 24 lần mật đàm giữa Mỹ và Cộng sản Bắc Việt để giải quyết cuộc chiến Việt Nam, ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris ra đời gồm có chữ ký của Ngoại trưởng Hoa Kỳ William Rogers, Ngoại trưởng Cộng sản Bắc Việt Nguyễn duy Trinh, Ngoại trưởng Chính Phủ Lâm Thời Cộng hòa Miền Nam Nguyễn thị Bình tức Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, và Ngoại trưởng Việt Nam Cộng Hòa Trần văn Lắm.

Sau khi Hiệp Định Paris được ký kết, ngày 29/3/73, tại Bộ Tư Lệnh MAC-V trong phi trường Tân Sơn Nhứt, 42 quân nhân Mỹ đại diện cho các quân binh chủng từng tham chiến tại VN làm lễ cuốn cờ dưới sự có mặt của Đại sứ Bunker và tướng Weyand, Tự Lệnh Quân Lực Mỹ tại VN. Và trong buổi chiều cùng ngày người quân nhân cuối cùng của quân đội Mỹ đã rời Việt Nam dưới sự chứng kiến của Ủy Hội Quốc Tế kiểm soát đình chiến. Thế là vài trò quân sự của Mỹ tại VN đã chấm dứt.

Trong bản Hiệp Định Paris ký ngày 27/1/73, có ghi rõ: “Nhằm mục đích tái lập hòa bình ở Việt Nam trên cơ sở tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam và quyền tự quyết của nhân dân Miền Nam Việt Nam góp phần củng cố hòa bình ở Châu Á và thế giới “.

Trong chương 4 điều 10 bản Hiệp Định viết: “Hai bên Miền Nam cam kết tôn trọng ngưng bắn và giữ hòa bình ở Miền Nam Việt Nam, giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng thương lượng và tránh mọi xung đột bằng vũ lực”. Ấy vậy! Mà chỉ vài ngày sau khi ký kết cộng quân đã mở những cuộc tấn công nhắm vào các đơn vị QLVNCH và chiếm nhiều khu vực để lấn quyền kiểm soát buộc lòng QLVNCH phải đánh trả, đã tạo nên tình trạng phi hòa - phi chiến. Chính phủ của TT. Nguyễn văn Thiệu đòi CSBV phải rút quân về Bắc - không Liên Hiệp với Chính Phủ Lâm Thời VC - không hợp tác với hành phần thứ ba. Cộng sản Bắc Việt chẳng những không rút quân mà còn gởi thêm vũ khí và chiến cụ tối tân vào Nam bằng đường mòn Hồ chí Minh một cách trắng trợn vì không còn sợ bị phi cơ Mỹ oanh kích.

Việc hòa hợp, hòa giải giữa Việt Nam Cộng Hòa và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam không thành. Chiến tranh lại tiếp diễn. Nguyên do, một phần do thái độ cứng rắn của ông Thiệu, nhưng phần lớn là do quyết tâm phải nuốt trọn miền Nam của CSBV theo lệnh của quan thầy Nga -Tàu.

Trước tình trạng Hiệp Định Ba Lê bị vi phạm nghiêm trọng, tháng 6/1973, Kissingers và Lê đức Thọ lại gặp nhau tại Paris tìm biện pháp cải thiện việc thi hành. Nhưng từ đó trở về sau thì việc thi hành Hiệp Định Paris không còn được CSBV quan tâm đến khi biết chắc chắn Hoa Kỳ đã phủi tay.

Đến cuối năm 73, áp lực quân sự của cộng quân mỗi ngày mỗi đè nặng lên VNCH, viện trợ quân sự Hoa Kỳ dành cho VNCH từ 1,126 triệu đô la giảm xuống còn 900 triệu. Tính đến tháng 4/74 thì số đạn đại bác - vũ khí nồng cốt của QLVNCH tồn kho chỉ còn đủ dùng không đầy 60 ngày với điều kiện cuộc chiến không gia tăng cường độ. Trong khi ấy chiến cụ của QLVNCH có khoảng 35% quân xa, 50% thiết giáp và phi cơ bất khiển dụng vì thiếu phụ tùng thay thế. Trong khi VNCH gặp khó khăn, thì CSBV lại được Nga -Tàu viện trợ tối đa. Cán cân lực lượng quân sự giữa hai bên đã nghiêng phần bất lợi cho VNCH một cách rõ rệt.

Vào năm 1974, thì chiến cụ và tiếp liệu của QLVNCH đã bắt đầu thiếu thốn. Lợi dụng tình trạng đó cộng quân gia tăng các hoạt cộng tấn công, phá hoại, khiến nhiều khu vực VNCH lâm vào tình trạng mất an ninh.

Về mặt chính trị thì các phong trào trong nước rần rộ nổi lên tố cáo TT. Thiệu bè phái và tham nhũng. Nhiều đoàn thể, đảng phái, tôn giáo trước đó ủng hộ ông Thiệu cũng lên tiếng phản đối, đồng thời họ kêu gọi hai bên Quốc gia cũng như Cộng sản hãy ngưng chiến và thi hành Hiệp Định Ba Lê một cách đứng đắn.

Lợi dụng tình hình chính trị rối loạn tại Sài Gòn, cộng quân đã mở trận đánh thăm dò trên quốc lộ 14, cắt đứt con đường nối liền tỉnh Phước Long với Bộ Tư Lệnh SĐ 5 BB đóng tại Lai Khê. Sau đó đến ngày 6/1/75, cộng quân huy động 2 sư đoàn cùng với chiếc xa, pháo binh, súng phòng không đánh chiếm tỉnh Phước Long. Đó là lần đầu tiên cộng sản Bắc Việt chiếm trọn một tỉnh của VNCH kể từ khi phát động chiến tranh xâm lược.

Ngày 8/1/75, trong diễn văn đọc bế mạc đại hội tại Hà Nội, Lê Duẫn công khai tuyên bố thời cơ chiếm miền Nam đã đến vì: “quân Mỹ đã rút ra rồi, quân đội ta có sẵn trong Nam và cuộc chiến đấu ở miền Nam được thực lực mạnh ở miền Bắc dấy lên thành sức mạnh cả nước”. (Văn tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, NXB/QĐND, Hà nội,1976, tr.39).

Trước việc cộng quân chiếm tỉnh Phước Long, vi phạm trắng trợn Hiệp Định Ba Lê, chính phủ VNCH đã lên tiếng phản đối, nhưng Ủy Hội Quốc tế và Hoa Kỳ vẫn im hơi lặng tiếng. Tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford, người thay thế TT. Nixon sau vụ Watergate vẫn không có phản ứng gì, trái với lời hứa lúc nhậm chức là không bỏ rơi Việt Nam. Lúc ấy, ông Ford chỉ yêu cầu quốc hội Hoa Kỳ phê chuẩn gấp để viện trợ cho VNCH 300 triệu.

Vào lúc 2 giờ sáng ngày 10/3/1975, cộng quân tấn công Ba Mê Thuộc. Cộng sản Bắc Việt đã dùng 3 sư đoàn chính quy tấn công Bộ Tư Lênh sư đoàn 23 BB và Bộ chỉ huy Tiểu khu Darlac mở màn cho chiến dịch Tây Nguyên.

Để tìm biện pháp ngăn chận cuộc tiến quân của cộng sản Bắc Việt. Ngày 14/3/75, TT. Nguyễn văn Thiệu ra Cam Ranh họp với 4 tướng Tư lệnh 4 Vùng chiến thuật với sự có mặt của 3 cố vấn cật ruột là các tướng Trần thiện Khiêm, Cao văn Viên và Đặng văn Quang. Buổi họp đã đi đến quyết định bỏ ngỏ cao nguyên vì TT. Thiệu cho rằng, trong tình trạng thiếu quân viện QLVNCH không đủ khả năng bảo vệ toàn bộ lãnh thổ nên phải bỏ bớt những vùng kém trù phú, gom lực lượng về bảo vệ vùng duyên hải và đồng bằng. Sau buổi họp, tướng Phạm văn Phú Tư Lệnh Quân Đoàn II nhận chỉ thị lo việc di tản quân dân VNCH khỏi vùng cao nguyên, tướng Phú ủy thác nhiệm vụ lại cho Đại tá Tất vừa được vinh thăng chuẩn tướng. Cuộc di tản do thiếu tổ chức, không có kế hoạch chu đáo đã diễn ra một cách hỗn loạn trên đường bộ. Đoàn người di tản kẹt cứng tại bến phà sông Ba làm mồi cho những trận mưa pháo của quân thù. Rốt cuộc chỉ có 1/6 trong số 260 ngàn dân và 3 tiểu đoàn trong số 8 tiểu đoàn chạy thoát được về vùng duyên hải.

Thừa thắng, cộng quân xua quân chiếm Quảng Trị ngày 19/3/75, dân chúng cố đô Huế hốt hoảng ùn ùn chạy về Đà Nẳng. TT. Thiệu cho rút toàn bộ Sư Đoàn Dù và Lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến về bảo vệ thủ đô vì sợ bị đảo chính. Không đủ lực lượng phòng thủ, tướng Ngô quang Trưởng Tư Lệnh Vùng I Chiến thuật phải lui binh về cố thủ Đà Nẵng. Cuộc thoái quân cũng không kém phần hỗn loạn. Chừng khi tướng Trưởng được lệnh phải trở lại cố thủ Huế thì đã muộn, không dễ dàng, vì gặp khó khăn bởi làn sóng người di tản ào ào như nước chảy đang đổ về phương Nam.

Ngày 30/3/75, thành phố Đà Nẵng hoàn toàn lọt vào quyền kiểm soát của cộng quân. Việt Nam Cộng Hòa đang trên đà sụp đổ. Năm sư đoàn bộ binh và các lực lương Không quân, Hải quân, Địa phương quân, Nghĩa quân và nhiều lực lượng Tổng Trừ Bị, tổng cộng gần 300 ngàn quân đã tan rã. Một tỷ đô la vũ khí đạn dược, 16 tỉnh, 5 thành phố lớn của VNCH chỉ trong vòng 15 ngày 1/3 lãnh thổ đã lọt vào tay kẻ thù vì cuộc triệt thoát quân vô tổ chức, thiếu kế hoạch của ông Thiệu và tập đoàn tham mưu bất tài. Với chiến thắng bất ngờ không đổ nhiều xương máu, không tốn nhiều gian khổ, cộng sản Bắc Việt quyết định mở chiến dịch Hồ chí Minh tiến đánh Sài Gòn sớm hơn kế hoạch chúng dự trù là đến năm 1976.

Tính đến trung tuần tháng 4/75 thì Vùng I và Vùng II chiến thuật, các vùng duyên hải trung phần đã hoàn toàn lọt vào tay cộng quân. Từ cao nguyên Trung phần cộng quân tiến về Sài Gòn. Khi đến phòng tuyến Xuân Lộc quân CSBV phải khựng lại vì chạm phải sức kháng cự mãnh liệt, anh dũng của các chiến sĩ QLVNCH. Phòng tuyến Xuân Lộc đã đứng vững vàng trong suốt một tuần lễ từ 9-15/4/75. Chính tướng Homer Smith, Tùy viên Quân sự sứ quán Hoa Kỳ đã gởi thơ cho tướng George S. Brown Chủ tịch Hội Đồng Tham Mưu Trưởng Liên Quân Hoa Kỳ ca ngợi lòng dũng cảm và ý chí chiến đấu của các quân nhân QLVNCH trong tình thế vô cùng bất lợi về hỏa lực cũng như quân số. (Nguyễn tiến Hưng, Hồ sơ mật Dinh Độc Lập, C&K Promotion, Los Angeles, 1987, tr. 568).

Ngày 21/4/75, TT. Nguyễn văn Thiệu từ chức, trao quyền lại cho Phó TT. Trần văn Hương theo quy định của hiến pháp, chấm dứt thời kỳ quân đội điều hành quốc gia trong cuộc chiến Quốc-Cộng. Vào chiều ngày 25/4/75, ông Thiệu, ông Khiêm với gia đình và đoàn tùy tùng rời Việt Nam đi Đài Loan an toàn với sự hộ tống trùm CIA Sàigòn Thomas Polar, tướng Charles Times và đại sứ Martin.

Sau khi nhận chức TT. Trần văn Hương mời Dương văn Minh đứng ra thành lập chính phủ để nói chuyện với phía cộng sản, nhưng Dương văn Minh đòi TT. Hương phải bàn giao trọn quyền tổng thống thì ông ta mới có uy thế nói chuyện với phía bên kia. Tổng thống Hương biết Dương văn Minh là kẻ bất tài, thiển cận về chính trị nên đã không làm theo ý của ông Minh. Tổng thống Hương đành phải tự giải quyết việc thương thuyết với CSBV, nhưng CSBV trả lời rằng họ chỉ muốn nói chuyện với Dương văn Minh.

Ngày 24 tháng 4/75, tổng thống Pháp D'Estaing gọi điện thoại cho ông Merillon ra lệnh phải giải quyết gấp việc hòa giải giữa Sàigòn và Hà Nội mà Pháp đang làm vai trò trung gian. Được lệnh TT. Pháp, đại sứ Merillon đã vào Dinh Độc Lập thuyết phục TT. Trần văn Hương rút lui và bàn giao chức vụ cho Dương văn Minh, nhưng ông Hương không đồng ý. Ông cho biết theo hiến pháp ông sẵn sàng trao quyền lại cho Chủ tịch quốc hội là ông Trần văn Lắm.

Sáng ngày 26/4/75, TT. Trần văn Hương điều trần trước lưỡng viện quốc hội đã đưa ra hai vấn đề:

- Nếu quốc hội đồng ý, ông sẽ trao quyền cho Dương văn Minh.

- Nếu quốc hội đồng ý ông sẽ chỉ định thành lập chính phủ thương thuyết với CSBV trong tinh thần hòa giải - hòa hợp để vãn hồi hòa bình cho đất nước.

Trong ngày điều trần, TT. Hương đã nhấn mạnh: ”Nếu cộng sản đưa ra điều kiện của kẻ thắng cho người bại trận, thì không còn cách gì hơn là nếu được, chúng ta cứ việc chiến đấu đến cùng... Chừng đó dẫu Sài Gòn này có biến thành biển máu, tôi nghĩ rằng người Việt Nam vì thể diện mình không thể nào mà từ chối được, trừ một số người mới chấp nhận cái chuyện đó... VNCH có thể phải chịu một vài điều kiện khó khăn đau đớn, nhưng điều kiện đó không phải là những bước hoàn toàn để đầu hàng. Nếu thương thuyết để đầu hàng thì thương thuyết gì nữa, thà là chết, chiến đấu đến cùng...chớ không thể chấp nhận đầu hàng được”. ( trong diễn văn của TT. Trần văn Hương đọc trước quốc hội ngày 26/4/75).

Vào ngày 27/4/75 trong lúc quốc hội đang thảo luận nên trao quyền lãnh đạo cho ai thì một phái đoàn gồm có ông Nguyễn văn Hảo Phó thủ tướng, Trần văn Đôn Phó thủ tướng (thay thế ông Nguyễn bá Cẩn Thủ tướng đã bỏ đi hôm trước), và tướng Cao văn Viên đến quốc hội thúc giục biểu quyết trao quyền tổng thống cho ông Dương văn Minh. Cuối cùng quốc hội đã biểu quyết với số phiếu 134 thuận và 2 chống. Chiều ngày 28/4/75, Dương văn Minh lên nhậm chức tổng thống VNCH. Sau khi Dương văn Minh lên nắm quyền, các ông Trần văn Đôn, Cao văn Viên và nhiều tướng lãnh cao cấp khác thuộc Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH mạnh ai nấy tìm đường cao bay xa chạy trong khi các chiến sĩ QLVNCH đang bảo vệ thủ đô, và những phần đất còn lại không hay biết gì hết nên vẫn tiếp tục kiên cường chiến đấu. Riêng TT. Trần văn Hương mặc dù được Hoa Kỳ đặc biệt cung cấp phương tiện để rời nước, nhưng ông từ chối không đi. Ông ở lại đối đầu với VC cho tới giờ phút Sài Gòn thất thủ và mãi mãi.

Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, đại sứ Martin và những người Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam, bốn quân đoàn Cộng sản Bắc Việt từ từ siết chặt vòng vây quanh thủ đô Sài Gòn với những đợt pháo kích vào sân bay Tân Sơn Nhứt, Bộ Tổng Tham Mưu, Dinh Độc Lập. 10 giờ sáng ngày hôm đó, Dương văn Minh lên đài phát thanh kêu gọi toàn thể quân nhân QLVNCH ngưng bắn, nằm yên tại chỗ để bàn giao chính quyền cho chính phủ của MTGPMN. Đến11 giờ 30, hai xe tăng đầu tiên của CSBV tiến vào ủi sập cổng Dinh Độc Lập.

Một tên cộng quân trên xe tăng nhảy xuống đất hét to: “Minh lớn đâu? Minh lớn đâu?... ra đây quỳ xuống”. Khi tên thượng tá VC Bùi văn Tùng bước vào phòng khánh tiết của Dinh Độc Lập, toàn thể nội các của ông Vũ văn Mẫu và ông Dương văn Minh đã có mặt sẵn tại đó. Dương văn Minh đứng dậy nói ngay: “Sáng hôm nay chúng tôi sốt ruột quá. Chúng tôi chờ các ngài đến bàn giao”. Bùi văn Tùng trả lời: “Chính quyền của các anh từ trung ương đến cơ sở đã sụp đỗ tan tành thì còn có cái gì để bàn giao? Có lẽ nào người ta có thể bàn giao những cái người ta không còn nữa. Các anh đã bại trận và chỉ có đầu hàng vô điều kiện”. Sau đó Tùng đưa Dương văn Minh và Vũ văn Mẫu đến đài phát thanh đọc lệnh đầu hàng nguyên văn như sau: “Nhân danh tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, tôi đại tướng Dương văn Minh, kêu gọi toàn thể Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa hãy bỏ súng và đầu hàng vô điều kiện với Quân Đội Giải Phóng Miền Nam. Tôi tuyên bố giải tán tất cả các cơ quan chính quyền từ trung ương đến địa phương”.(Saigon, the Historic Hours, 1975- VNTVB, Lê quế Lâm, NXB Ngọc Thu, Sydney 93).

Lời tuyên bố đầu hàng của Dương Văn Minh đã giết chết nền Cộng Hòa Việt Nam và giết chết Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa - một đơn vị thiện chiến - dũng cảm trong lịch sử chiến tranh thế giới đã làm cộng quân khiếp sợ.

Năm 1982, khi nhắc đến chiến tranh Việt Nam, học giả Hoa Kỳ Norman Podheretz, người từng lên án Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam đã nói: “Chế độ tự do ở Miền Nam Việt Nam sụp đổ không phải “trước những du kích quân mặc áo bà ba đen” thực hiện cuộc chiến tranh nổi dậy của nhân dân Miền Nam Việt Nam, mà họ đã thua trước một đội quân xâm lăng được trang bị khí giới tối tân. Thua một đạo quân như thế thì không thể nói là Miền Nam Việt Nam tồi tệ như nước Pháp đã thua Đức Quốc Xã như hồi năm 1940”. (Norman Podheretz, Why We Were In Vietnam, Simon &Schuster, NY 1982,p.117-Bản dịch Phạm kim Vinh, Nước Mắt Việt nam ,Tr.740)

Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bất tử trong dòng sử Việt
Mấy chục năm đã trôi qua, kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975, Miền Nam Việt Nam lọt vào tay bạo quyền Việt cộng, bọn chúng đã tìm đủ mọi cách để chà đạp lên ý nghĩa cuộc chiến đấu bảo vệ tự do của người lính VNCH. Nhưng chắc chắn bây giờ và cho mãi đến ngàn sau, chúng sẽ không bao giờ đạt thành ý nguyện.

Điều này, được chứng minh hùng hồn qua hiện tượng hàng năm người Việt tha hương khắp mọi nơi trên thế giới đã long trọng tổ chức ngày quốc hận 30 tháng 4, ngày Quân Lực 19/6, để nói lên tinh thần chiến đấu bảo vệ tự do của một dân tộc và một quân lực hào hùng, dũng cảm.

Trong các ngày lễ này quốc kỳ màu vàng ba sọc đỏ của Việt Nam Cộng Hòa, quân kỳ của các quân binh chủng trong QLVNCH bay phất phới giữa lòng các thành phố nơi hải ngoại. Tới nay, hình ảnh này đã là một thực tế làm Cộng sản Việt Nam nhức nhối, điên đầu, khó chịu, không vui.

Việt cộng nhức nhối, điên đầu, khó chịu, không vui vì hình ảnh ngày 30 tháng 4 là hình ảnh của sự xâm lăng, chà đạp nhân quyền. Đây cũng là biểu tượng của sự tham lam, nghèo đói, chết chóc, đau khổ, bịnh tật và ngục tù mà cộng sản Bắc Việt đã gieo rắc lên nhân dân hai miền Nam Bắc khi chúng cam tâm hiến đất, dâng biển chịu làm thân trâu, ngựa cho Tàu Cộng.