Home Tin Tức Bình Luận Mê Lộ Của Hệ Thống Tiền Tệ Hoa Kỳ

Mê Lộ Của Hệ Thống Tiền Tệ Hoa Kỳ PDF Print E-mail
Tác Giả: Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên   
Thứ Tư, 05 Tháng 8 Năm 2009 03:36

Lời nói đầu : Cả năm qua báo chí Mỹ thường hay nói tới việc mất giá của đồng dollar... việc mắc nợ của chánh phủ Mỹ... tới Federal Reserve... và tới cả tên Ông Alan Greenspan. Tôi không học ÉcoPo của Pháp, không học MBA của Mỹ nên mù tịt... nhưng vì tò mò muốn hiểu biết, nên cố gắng tìm tòi đó đây. Mới thấy rằng vấn đề tiền tệ của Mỹ là cả một mê-lộ có đường hầm, một con đường màng nhện chằng chịt mà nếu không có bản chỉ dẫn sẽ dể bị lạc. Thiết nghĩ trong số độc giả, chắc cũng có một số Vị mù tịt như tôi, nhưng không có thời giờ nghiên cứu đó đây, nên tôi viết bài tóm lược và giản-dị-hóa tối đa một vấn đề vô cùng phức tạp đã kéo dài theo lịch sử của HK, để giúp phần nào hiểu sơ vấn đề về đồng dollar là một thực thể mà mình phải đốí phó hằng ngày. 
Tôi sẽ dùng hình thức Hỏi và Đáp để dẫn đường trên mê lộ và trong đường hầm ấy.     
Tạo ra tiền 

Hỏi : Dollar là tiền chính thức của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ [HCQHK]. Vậy ở Mỹ cơ quan nào có quyền phát hành dollar ?

Đáp : Câu trả lời tự nhiên và thông thường mà cũng hợp lý là Bộ Tài Chánh của Chính Phủ Liên Bang [CPLB]. Nhưng thực tế thì không hẳn như vậy. Bộ Tài Chánh [BTC] của CPLB chỉ có quyền phát hành “coins” nghĩa là đúc [mint] như : đồng tiền One Cent, Five Cents, One Dime, One Quarter, và một số đồng tiền One Dollar.

Hỏi : Vậy thì cơ quan nào có quyền phát hành giấy xanh dollar ?

Đáp : Chỉ có Federal Reserve [FED] mới có quyền phát hành giấy xanh dollar. 

Hỏi : Trên giấy xanh dollar nào cũng có hình một Tổng Thống Mỹ, cũng có chữ ký tên của “Treasurer of the United States” và của “Secretary of the Treasury” mà không phải do Department of Treasury của CPLB phát hành là gì ?

Đáp : Đúng, nhưng coi vậy mà không phải vậy. Hãy nhìn kỹ : Trên tờ giấy xanh dollar nào cũng có in hàng chữ “Federal Reserve Note” mà chữ note ở đây có nghĩa là “a paper acknowledging a debt and promising payment; promissory note”. Tức là tờ giấy xanh dollar nào cũng chỉ là một tờ giấy nợ. 

Hỏi : Ai nợ ai ?

Đáp : Chính Phủ Liên Bang nợ FED. 

Hỏi : Sao lại có chuyện đó ?

Đáp : Số tiền CPLB cần luôn luôn nhiều hơn số tiền thuế của dân đóng góp, nên CPLB phải mượn.

Mượn ai ? Mượn FED là cơ quan duy nhứt có quyền phát hành tiền dollar.
Mượn bằng cách nào ? Bằng cách cho phép BTC [Treasury Department] in giấy nợ dưới hình thức “Federal Bonds” [tức là giấy IOU (I Owe You) trong đó Chính Phủ cam kết sẽ trả lại với tiền lời] mà bách-phân lời [% interest] là do FED [chủ nợ] quyết định.
FED chấp nhận và in [thí dụ như một tỷ dollars $1 billion] đưa cho Chính Phủ.
Thế là CPLB [tức là quốc gia, là dân Mỹ...] nợ FED một tỷ dollars với tiền lời.
Rồi mỗi năm tiền nợ đó chồng chất... nên đến năm 1995 số tiền nợ là $5 trillion [1 trillion = 1 ngàn tỷ] và đến ngày 16/03/2006 là hơn $8,21 trillion.  

Hỏi : FED là một cơ quan của Liên Bang, vậy CPLB mà nợ FED thì có khác gì là “Tôi nợ Tôi”?

Đáp : Khác chứ, vì FED là một cơ quan mang tên là “Liên Bang” [Federal] nhưng không phải của Liên Bang.

FED là một Công-Ty độc lập tư-nhân [a corporation independent privately owned].     

Hỏi : Privately Owned thì ai Own nó ?

Đáp : FED gồm có 12 cái Fed bank địa phương (twelve regional federal reserve banks) mỗi cái là sở-hữu của những nhà bank buôn bán tư thành viên của Fed địa phương đó. Các Fed địa phương có 12 trụ sở ở : Boston - New York - Philadelphia - Cleveland - St Louis - San Francisco - Richmond - Atlanta - Chicago - Minneapolis - Kansas City và Dallas. Fed Bank của New York có đa số cổ phần [53% of shares].

Riêng trong Fed bank của New York, Citibank và J.P.Morgan Chase Co nắm đa số cổ phần.

Citibank là của gia-đình Rockefeller
J.P. Morgan Chase Co là của gia-đình Morgan.
Hai gia đình này và gia đình Carnegie với gia đình Rothschild là thành phần quan trọng nhứt của một nhóm người mà học giả Mỹ gọi là “the Robber Barons” [những Nam-tước Trộm Cắp].
 

Hỏi : Nhưng trong Ban Quản Trị của FED ở Washington DC có Ông Tổng Trưởng Tài Chánh [Treasury Secretary] và Ông Giám Sát Ngân Khố [Comptroller of Treasury] là nhân viên Chính Phủ ?

Đáp : Đúng, vì vậy mà trên các giấy xanh dollar mới có chữ ký của 2 ông này. Và TT Mỹ cũng bổ nhiệm [với sự chấp thuận của Senate] Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị [Chairman of The Governing Board] của FED, cho nên FED được coi như là một cơ-quan “gần như chính thức” [quasi-governmental].

Hội Đồng này gồm 7 người, với nhiệm kỳ 14 năm, mà TT chỉ có quyền thay thế một người mỗi hai năm.

Như vậy, thí dụ như một TT muốn sửa đổi FED theo ý của ông, thì trong nhiệm kỳ 4 năm TT, Ông chỉ thay thế được 2 người [vì chỉ có quyền thay thế một người mỗi 2 năm]. Cho rằng Ông tài ba lổi lạc, vượt qua được những khó khăn và chống đối mà Ông đã gây ra (vì quan niệm muốn sửa đổi FED) trong hàng ngũ Dân-biểu và Nghị-sĩ của cả 2 đảng, trong chính trường và trong media, để Ông được đắc cử một nhiệm kỳ thứ hai, thì Ông sẽ bổ nhiệm được 2 người nữa trong Governing Board (nếu được Senate chấp thuận) thì cho đến gần cuối nhiệm kỳ 2, Ông mới đưa ra được một dự luật sửa đổi, mà chưa chắc dự luật ấy sẽ có được số phiếu cần thiết ở 2 viện để trở thành một đạo luật... trước khi Ông phải rời Nhà Trắng !

Mặt khác Ban Quản Trị [Board] không kiểm soát được cả 12 Fed bank địa phương và các Fed bank địa phương phải theo chính sách của Fed Bank New York (do nắm đa số cổ phần). Vả lại FED kể từ khi thành lập cho tới nay, chưa bao giờ bị Chính Phủ “audit” [soát xét] vì năm 1975 dự luật HR4316 cho phép Chính Phủ “audit” FED, được đưa ra Congress, nhưng dự luật không thong qua được, vì không đủ phiếu.

Hãy xem như ông Alan Greenspan đang khi làm Giám đốc công ty [corporate director] cho J.P. Morgan, thì được TT Reagan bổ nhiệm năm 1987 làm Chủ Tịch của FED, giử chức đó gần 19 năm... Đến năm 2006, dưới thời TT George W. Bush mới về hưu.  Nghỉa là đã làm Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị FED với bốn đời TT (!) Mà trong lúc tại chức, Ông không bao giờ có họp báo, không bao giờ cho phỏng vấn, tức là không có việc hỏi han chất vấn lôi thôi. 

Hỏi : Trở lại đồng dollar. Bây giờ biết rằng CPLB chỉ có quyền đúc coins, còn quyền phát hành giấy xanh là do FED, mà FED thì do các bank tư nắm... Vậy trong tổng số tiền của HK, tỷ lệ của mổi thứ tiền là bao nhiêu ?

Đáp : Tiền coin của CPLB đúc chỉ khoảng một phần ngàn (1/1000) tổng số tiền của Mỹ, cộng với tổng số tiền giấy xanh của FED phát hành... thành ra, cái được gọi là “tiền sờ thấy được” [tangible currency] chỉ có lối 10% tổng số tiền được cung cấp [American Money Supply]  

Hỏi : Sao kỳ vậy ? Còn 90% kia là tiền gì ở đâu ra ?

Đáp : Phần 90% còn lại là tiền ma [phantom money].  

Hỏi : Tiền ma là tiền gì ?

Đáp :  Là tiền “không có thật”, là tiền được tạo ra từ chổ “không có gì hết” [money created from nothing], do cái trò ảo-thuật cho vay [“loan”] tạo ra. 

Hỏi : Thật sự khó hiểu !!!

Đáp : Thực ra thì cũng không có gì khó hiểu cho lắm. Trò ảo thuật tạo ra tiền từ con số không [create money out of nothing] dựa trên cái gọi là “fractional reserve banking” do đạo-luật [act] tạo ra FED cho phép. Theo đó, khi nhà bank có trong kho của nó một số tiền X... là tiền thật [hồi xưa là vàng, bây giờ là giấy xanh] được coi như là để dự-trữ [reserve], thì nó có quyền phát ra 10X  [tức là có 9X tiền ma, không có bảo đảm reserve].

Thí dụ : Tôi gởi vào checking account của tôi $10,000 thì nhà bank để số tiền đó trong kho của họ như reserve, và họ có quyền phát ra $100,000 [tức trong đó có $90,000 là tiền ma, vì không có reserve bảo đảm]. Cũng như thế, anh B để vào saving account $20,000, thì nhà bank có quyền phát ra $200,000 [tức có $180,000 là tiền ma]. Tổng cộng nhà bank có quyền phát ra $300,000 mà trong đó có $270.000 là tiền ma. Rồi khi anh C đến mượn nhà bank $300,000 [để mua sửa nhà hay làm gì khác] thì nhà bank cho anh ta mượn [dưới hình thức loan] $300,000 đó. Anh C sẽ trả cho nhà bank số tiền đó cộng với lời [x...%] dưới hình thức mortgage hằng tháng, trong 15 hay 30 năm chẳng hạn, bằng tiền dollar thật, mà anh C có được nhờ lương của anh hoặc nhờ việc làm [như phòng mạch] của anh ta. Tức là nhà bank, nhờ cái “loan” đã “create money out of nothing”.

Thí dụ trên là lấy cá nhân A, B, C làm mẩu, nên chỉ nói tới tiền với con số ngàn, nếu là nhà buôn, là nhà hàng, là hãng, là cơ sở sản xuất... thì tiền phải là tới số triệu. Mà cả HCQHK có hằng bao nhiêu triệu cá nhân, nhà buôn, hãng, xưởng v.v.. cần tiền và phải vay tiền của nhà bank dưới hình thức “loan” thì không có gì lạ khi thấy rằng trong tổng số tiền cung cấp cho nền kinh tế Mỹ [american money supply] năm 2005 là $9.7 trillion trong đó tiền thật [tangible currency] chỉ có $1.4 trillion, còn $8.3 trillion là tiền ma. Và sau này nguyên tắc đó cũng được áp dụng cho việc credit card [Visa, Master Card, American Express v.v..] với một lãi xuất [% interest] còn cao hơn gắp bội.  

 Một chút lịch sử 

Hỏi : Từ đâu, tại sao, và từ hồi nào mà có cái quái thai đó ?

Đáp : Nói là “quái thai” thì cũng đúng, nhưng học giả Mỹ thường ví FED như một con “Hydra”. 

Theo từ-điển Hydra là một con rắn có chín đầu [trong thần thoại] hể chặt đầu này thì nó mọc đầu khác, và nó có nhiều cái vòi [tentacles] rất dài để bắt mồi từ xa.

FED [con hydra dưới hình thức hiện tại] sinh ra nhờ cái Federal Reserve Act năm 1913 do Tổng Thống HK Woodrow Wilson ký [về sau này Ông hối tiếc]. Còn từ đâu và tại sao có nó, thì phải xem lại hết cái lịch sử của HCQHK vì trong dĩ vãng nó cũng đã bị chặt đầu nhiều lần... mổi lần lại sống lại với một tên khác !  

Hỏi : Có thể Sơ Lược được không ?

Đáp : Tóm tắt câu chuyện dài mấy thế kỷ và chiếm vài trăm trang trong mỗi cuốn sách nói đến như sau :

Ở Trung học, chúng ta đọc trong sách rằng : HCQHK hồi xưa là 13 thuộc địa của Anh-quốc. Đến 1774, để phản đối việc mẫu-quốc Anh đánh thuế vào trà [tea tax] một “buổi tiệc” được tổ chức ở Boston [Boston Tea Party], trong đó, một số người Mỹ giả trang người Da-đỏ nhảy lên tàu chở trà và vất các thùng trà xuống biển... Bị Chính quyền đàn áp, những đòan dân quân được hình thành để chống trả lại, và Ông Benjamin Franklin triệu tập một Hội Nghị (congress) ở Philadelphia để đưa ra “Bản Tuyên Ngôn Quyền Của Người Mỹ Có Đóng Thuế” [Declaration des Droits du Contribuable Americain] năm 1774. Sau chiến thắng của dân quân Massachusetts, Congress đưa ra Bản Tuyên Ngôn Độc Lập [Déclaration De L’Independance ngày 4 tháng 7 năm 1776]. Rồi dưới sự chỉ huy của Tướng George Washington, quân Mỹ đánh thắng quân Anh dưới quyền Tướng Cornallis ở Georgetown năm 1781, và theo Hòa Ước Versailles năm 1785 Anh-Quốc công nhận cho HCQHK độc lập.  

Sau này, một số học giả nghiên cứu kỹ lại những tác phẩm của chính ông Benjamin Franklin viết hồi thời ấy, mới thấy là sự thật phức tạp hơn nhiều :  

(1) - Vì không có tiền vàng hay bạc, nên kể từ năm 1691, các thuộc địa của Anh trên đất Mỹ phát hành tiền giấy gọi là “Colonial Scrip” để trả lương cho công chức và để cho dân xài trong việc mua bán trao đổi hàng hóa trả tiền công v.v.. Mà người chủ nhà in lại chính là Ông Benjamin Franklin, người làm việc cho dân, vì dân, không tìm cái lời cái lợi trong việc in giấy bạc nên chỉ phát hành đúng theo nhu cầu, cần bao nhiêu thì phát hành bấy nhiêu, nên không cần lấy thuế của dân để Chính phủ có tiền, mà không tạo ra sự lạm phát [inflation] hay sự kém phát [deflation] nên giá vật và giá công [product and service] vẫn được đều hòa và thăng bằng. 

Nhờ vậy mà các thuộc địa trở nên phồn thịnh, không có thất nghiệp, không có ăn mày… trong lúc tại London của mẫu-quốc ngoài đường đầy ăn mày và người đi lang thang lêu lổng. Các chủ nhà bank Anh lobby triều đình, nên năm 1751, vua George II ra lệnh cấm các thuộc địa  phát hành tiền giấy, mà phải dùng tiền “coins” của mẩu-quốc [do các nhà bank Anh đã hợp thành dưới tên là Bank of England phát hành].  Vua George III kế vị từ 1752 giữ nguyên lệnh ấy... thì các thuộc địa bị ảnh hưởng tai hại. Vì thiếu tiền coins [do mẩu quốc siết để tạo sự kém phát, người làm ruộng hay trồng tỉa không đủ tiền mướn người làm nên lúa không ai gặt, trái cây không ai hái. Người có hảng xưởng không đủ tiền mướn thợ, hàng hóa không được sản xuất. Cả một vùng đất rộng lớn của 13 thuộc địa bị nghèo đói không gia đình nào không bị ảnh hưởng... nên họ đứng lên chống đối Chính quyền và đó là nguyên do sâu xa của cuộc Cách Mạng Mỹ năm 1774. Vụ “Boston Tea Party” chỉ là giọt nước làm tràn cái bình.  

(2) - Việc đầu tiên Congress làm là phát hành tiền giấy được gọi “the Continental” dưới hình thức IOU [I owe you.]  nghĩa là giấy nợ mà Chính Phủ Cách Mạng cam kết sẽ trả lại bằng tiền coins [vàng hay bạc] sau này. Lối chừng 200 triệu dollars dưới hình thức “continental scrip” được phát hành để chi phí cuộc chiến giành độc lập.

Mẫu quốc phản ứng bằng cách in “tiền giả” để đổ ào ạt vào thị trường các thuộc địa, gây ra môt cuộc đại lạm phát, làm cho đến ngày độc lập tiền “Continental” hầu như không còn giá trị gì hết. Thế là mẫu-quốc thua trên chiến trường, nhưng thắng trên mặt trận kinh tế [dính liền với tài chánh]. 

(3) - Thấy tiền Continental gần như không còn giá trị, nên các “Quốc Phụ Lập Quốc” [Founding Fathers], không còn tin tưởng nơi giấy bạc, nên trong Hiến Pháp được viết ra, các Ngài không nói tới tiền giấy mà ghi rằng Congress có quyền “coin money” [thay vì create money] và có quyền vay tiền dựa trên uy tín Chính Phủ [and to borrow money on the credit of the US]. Lập tức, các nhà bank của mẫu-quốc Anh củ, là các ngân hàng Anh quốc tư nhân, xâm nhập vào HCQHK tạo dựng US Bank theo mẫu của England Bank. Mà England Bank từ thời thành lập cho đến ngày hôm nay là do các nhóm tài phiệt tư nhân gốc gác Hòa-lan [Amsterdam] nắm và chính các nhóm này xâm nhập vào hệ thống US Bank, khai thác lỗ hở to lớn đó [enormous loophole] mà nói rằng chiếu theo Hiến Pháp, Chính phủ chỉ có quyền phát hành coins, và nhà bank có quyền phát hành tiền giấy. Vì tiền coins thì cồng kềng và quá nặng khi cần tới nhiều, nên nhà bank in giấy cam két sẽ trả lại đúng số coins [bằng vàng hay bạc] ghi trên giấy, thì được dân chúng chấp nhận coi những giấy ấy như là tiền.  

(4) - Rồi thời gian qua đi, các nhà bank để ý rằng rất ít người trở lại nhà bank để đòi lấy lại các đồng tiền coins. Trung bình hằng năm chỉ có độ 10% người làm việc đó, còn 90% người còn lại thì không bao giờ thấy đến đòi lấy lại tiền coins. Các nhà bank nghĩ rằng mình có thể phát hành thêm 90% nữa mà không sao. Đó là nguồn gốc của cái gọi là “fractional reserve” dẫn tới việc phát hành “tiền ma”. 

(5) - Tổng Thống Thomas Jefferson (1801-1809) – vị TT thứ ba của Mỹ – thấy cái nguy hại cho đất nước và gọi liên đoàn các nhà bank [the banking cartel] là “con quái vật ăn thịt người có cái đầu của con hydra” và Ông nói rằng “Nếu dân Mỹ để cho nhà bank kiểm soát việc phát hành tiền tệ của mình, thì trước hết bằng sự lạm phát [inflation] rồi bằng sự kém phát [deflation] các nhà bank và các công ty [corporations] sẽ phát triển và tước đoạt hết tài sản của dân, thì con cháu chúng ta sẽ vô gia-cư trên cái lục địa mà cha mẹ của chúng đã chiếm được”. Nên năm 1811, Congress không chấp nhận tái ban cho đặc quyền [renew the charter] cho First US Bank... thì chiến tranh với Anh quốc [the War of 1812] bùng nổ. Chiến tranh đưa quốc gia đến sự lạm phát [inflation] và nợ nần [debt]. Vì những lý do đó, James Madison (1809-1817) – vị TT thứ tư của Mỹ – phải ký một đặc quyền 20 năm [a twenty year charter] cho Second Bank of The United States vào năm 1816.    

(6) - Andrew Jackson (1829-1837) – vị TT thứ 7 của Mỹ – veto dự luật của Congress cho phép tiếp tục ban đặc quyền cho Second Bank of the United States. Trong bản veto, Ông viết “Không có cái gì nguy hại cho sự tự do và độc lập của chúng ta hơn là khi mà hệ thống nhà bank nằm trong tay của người ngoại quốc. Kiểm soát tiền tệ của chúng ta, lấy tiền của dân ta, và bắt giữ cả ngàn công dân của chúng ta phải lệ thuộc, thì còn đáng sợ hơn và nguy hiểm hơn là một thủy binh hay một quân đội của địch”. Nhưng Ông cũng biết cái veto chỉ là bước đầu của cuộc chiến với nhà bank nên Ông nói “Con hydra của sự đồi bại mới bị chận lại chớ chưa chết”. 

Ông lệnh cho Tổng Trưởng Tài Chánh chuyển hết tiền deposits của Chính Phủ từ Second US Bank qua các nhà bank của Tiểu Bang [state banks] thì ông này từ chối làm... nên liền bị cách chức và thay thế bằng người khác. Ông kế tiếp cũng lại từ chối làm... thì TT Jackson bổ nhiệm người thứ ba. Đến Ông này thì lệnh được thực hiện, nên TT Jackson vui mừng mà nói “Tôi đã trói được con quái vật rồi”. Nhưng, chủ nhà Bank lại lobby Senate không chấp thuận người mới được bổ nhiệm và gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế với việc siết chặt cung cấp tiền, để tạo ra một sự kém phát [deflation] bằng cách hồi (call in) các “loan” cũ, không cho thêm “loan” mới, khiến một sự hoảng hốt tài chánh [financial panic] xẩy ra trong dân chúng... báo chí lại đổ tội vào TT Jackson. May thay, Ông Governor của Pennsylvania [nơi có trụ sở của nhà bank] xuất hiện để ủng hộ TT Jackson và phê bình nhà bank rất gắt gao và kế hoạch làm lũng đọan kinh tế của nhà bank bị phơi bày trước công chúng.

Cho nên đến tháng 4/1834, Hạ Viện với 134 phiếu thuận và 82 phiếu chống, đã hủy bỏ việc tái ban đặc quyền [rechartering] cho Second U.S.Bank.  Đến tháng 1/1835 thì TT Jackson trả được hết các nợ của Chính Phủ. Ngày 30/01/1835, khi TT Jackson đến Capitol dự tang lể của Dân-biểu Warren Davis của South Carolina thì bị mưu sát bởi một tên thợ sơn (?) núp trong rotunda cách 6 feet bắn trật 2 phát. Sau khi TT Jackson cho đóng cửa nhà bank trung ương thì tiền giấy được dùng là những banknotes của các nhà banks tư của các Tiểu Bang, hứa sẽ trả lại bằng vàng hay bạc chớ không phải là tiền của  quốc gia [national currency].  

(7) - Sau TT Jackson, vị Tổng Thống dám đánh con hydra tiền tệ là Abraham Lincoln (1861-1865) – vị TT thứ 16 của Mỹ – liền sau khi đắc cử và trước khi nhậm chức, Nội Chiến Nam-Bắc [The Civil War] bùng nổ (1860) vì vấn đề “Nô-lệ” [Slavery]. Các nhà bank của vùng Đông [tức thuộc Union] đề nghi cho CP vay $150 triệu với bách phân lời từ 24 tới 26% quá nặng. TT Lincoln từ chối và quyết định CP sẽ in tiền lấy. Tiền in ra có tên chính thức là “United Note” dân chúng quen gọi là “Greenback” vì phía sau in bằng mực màu xanh lá cây. Tiền được quan niệm không phải là một giấy nợ [IOU] với cam kết trả lại bằng vàng hay bạc, mà là một tờ giấy chứng nhận công lao cho xã hội. Công lao sản xuất từ lúa gạo, trái cây cho tới vải sồ và vật dụng, công lao dịch vụ từ thợ, cai, đến giám đốc, công lao bảo vệ an ninh trật tự, và gìn giữ đất nước, từ lính cảnh sát đến lính và quan trong quân đội, công lao điều khiển bộ máy cai trị, từ thơ ký đến giám đốc đến nguyên thủ quốc gia. Lãnh lương là lãnh giấy chứng nhận công lao, để mua thức ăn đồ dùng là trao giấy chứng nhận công lao của mình để nhận lấy món hàng được sản xuất với công lao tương đương của người bán.

Vì tiền được in ra vừa đúng nhu cầu của dân, cho dân, và vì dân, chớ không phải cho hay vì tư lợi nào hết, cũng như hồi thời Ông Benjamin Franklin lúc HK còn là 13 thuộc địa phồn thịnh, nên trong 4 năm tại chức mà ngoài việc chiến thắng loạn Miền Nam được Anh giúp tiền, và việc giải phóng 4 triệu người nô lệ, TT Lincoln đã thực hiện cho nước Mỹ những công tác vĩ đại như :  xây dựng và võ trang một quân đội lớn nhứt thế giới lúc bấy giờ, biến HK thành một nước kỹ-nghệ khổng lồ, kỹ nghệ thép được thành lập, một hệ thống hỏa-xa xuyên luc-địa dược xây dựng, Bộ Canh Nông được thành lập để thúc đẩy viêc chế tạo máy và dụng cụ làm ruộng rẻ tiền, một hệ thống đại học miễn phí được thành lập nhờ Land Grant College System, lập lên những  bộ máy hành chánh cho các vùng Miền Tây, tăng múc sản xuất lao động lên từ 50 đến 75%. Tất cả những viêc ấy thục hiện được là nhờ có một việc rất giản dị là chính CP phát hành tiền. Tức, cái đầu của con hydra tiền tệ đã bị TT Lincoln chặt. 

Nhưng đến ngày 14/04/1865, TT Lincoln đã bị tên kịch sĩ John Wilkes Booth ám sát trong lúc Ông đang xem vở hát Our American Cousin tại rạp Ford’s Theatre ở Washington. Thế là con hydra lại có cơ mọc đầu lại... và đầu nó mọc lại thật, vì dân vốn thích tiền vàng nên tiền greenback mất giá dần dần so với đồng tiền dollar vàng. Các nhà bank lại phát hành banknotes bảo đảm trả lại bằng vàng. Dân chúng tin nên dùng những banknotes đó như tiền thật, cho tới năm 1913 thì một con hydra mới xuất hiện nhờ luật Federal Reserve Act 1913. 

Tân hydra chào đời  

Hỏi : Tại sao có Luật đó ?

Đáp : Vì năm 1907 xẩy ra cuộc “Khủng hoảng Tài Chánh” nên năm 1908 TT Theodore Roosevelt (1901-1909), cho thành lập National Monetary Commission để chỉnh đốn. Chủ tịch Commission là Nghị Sĩ Nelson Aldrich. Ông Aldrich dẫn cả commission sang Âu-châu nghiên cứu trong hai năm. Khi trở về, Ông bí mật lập một nhóm gọi là “The First Name Club” và cấm triệt để không được nhắc tới Last Name để cho đầy tớ và người làm, dù có nghe trộm được cũng không biết là ai, để nói lại cho người ngoài và báo chí biết có những ai. Nhóm gồm một số người được chọn lọc rất cẩn thận trong giới tài chánh và ngân hàng. Trong số đó người đóng vai quan trọng nhất là Paul Warburg (1868-1932) gốc Đức di cư sang Mỹ năm 1904, nhập quốc tịch Mỹ năm 1911, và là thành viên của ngân hàng Kuhn, Loeb and Company Bankers ở New york [thuộc vào tài sản của Rothschild].

“First Name Club” được triệu tập đến một hòn đảo nhỏ, riêng biệt và vắng vẻ có tên Jekyll Island, ở Georgia, hợp trong 9 ngày, để viết một dự luật cải tổ hệ thống nhà bank và luật pháp tiền tệ [the banking and currency legislation] trình cho Congress.   

Hỏi : Dự luật có gì là đặc biệt ?

Đáp : Có rất nhiều cái đặc biệt. Trước hết là cái tên : vì dân đã quá ghét nên phải tránh cụm-từ “Central Bank” rồi phải làm sao cho dân tưởng rằng cơ quan này là của CP, do nhân viên CP điều khiển vì vậy mà có danh từ “Federal” và “Reserve“ [không phải Central Bank] và có Governing Board mà ông Chủ tịch là do TT bổ nhiệm, và trong đó có 2 nhân viên CP, mà trong thực tế thì Governing Board không có điều khiển được chánh sách của cơ quan. Rồi phải dùng những danh từ mờ ám khó hiểu để che giấu thực ý : như trong Lời Mở Đầu dự luật nói : mục đích của luật là để FED có thể “cung cấp một thứ tiền co dãn” [elastic currency] nghĩa là trong thực tế, khoản tiền mà nhà bank đã có thì nhà bank có thể, tùy nghi, thổi phồng lên. Rồi như danh từ “tái chiết khấu” [rediscounting] trong thực tế nghĩa là : một kỹ thuật cho phép nhà bank dùng để tăng gia tiền hiện có trong quỹ của nó, bằng cách cho vay thêm mà không cần chờ cho tới khi các “loan” trước hết hạn.

Kết quả là Luật cho phép một nhà bank trung ương tư [a private central bank] tạo ra tiền từ chỗ không có gì hết [create money out of nothing] rồi cho CP vay số tiền đó để lấy lời và kiểm soát sự cung cấp tiền cho quốc gia bằng cách bơm phòng nó lên hay hút bớt nó xuống tùy theo ý muốn [control the national money supply, expanding or contracting it at will]. 

Hỏi : Các Nghị sĩ hay Dân biểu không ai thấy điều đó ?

Đáp : Có chớ. Một số thấy và la làng lên. Như ở Hạ Viện, Dân Biểu Charles Lindbergh Sr. nói “Luật tạo ra FED là một cái tội tệ hại nhứt của mọi thời đại  Hệ thống tài chánh đã bị lật lại cho một nhóm ngừơi chỉ có biết lợi dụng. Hệ thống là của tư-nhân, được hướng dẫn về muc tiêu duy nhứt là lấy cho được những cái lợi tối đa từ việc xử dụng tiền của người khác”.

Cũng có một số Dân biểu và Nghị sĩ khác la lên... nhưng họ không đủ túc số để đánh bại số Dân biểu và Nghị sĩ đã bị mua chuộc, đúng như lời của một người trong nhóm Rothschild ở London nói với một hội-viên của nhà bank ở New York ngày 25/06/1863 rằng “Số nhỏ người hiểu cái hệ thống là gì, thì, hoặc vì thấy có lợi cho mình, hoặc vì đã tùy thuộc vào những ân huệ đang được hưởng, nên sẽ không có sự chống đối từ những hạng người đó. Còn nhóm đa số người không có đủ trí khôn để hiểu, thì sẽ chịu cái gánh nặng mà không than phiền”.

Bởi vậy cho nên ngày 18/09/1913, dự luật được Hạ Viện chấp thuận với 287 phiếu thuận và 85 phiếu chống, rồi lên Thượng Viện thì ngày 19/12/1913, dự luật được chấp thuận với nhiều sửa đổi bằng 54 phiếu thuận và 34 phiếu chống. Đến đây lại một việc lạ nhứt chưa từng xẩy ra trong lịch sử của HCQHK, là trong bản văn của dự luật ở Hạ Viện có cho tới 40 điểm mà Thượng Viện không đồng ý nên đã sửa lại. Sau khi Thượng Viên biểu quyết... Lưỡng Viện phải ngồi chung lại để sữa sao cho cả 2 bên đều đồng ý. Thế mà việc đó được thực hiện chỉ có trong một weekend. Cho nên ngày Thứ Hai 22/12/1913 dự luật được biểu quyết ở Hạ Viện với 282 phiếu thuận và 60 phiếu chống rồi, cùng ngày, sang Thượng Viện được chấp thuận luôn với 43 phiếu thuận và 23 phiếu chống. Và TT Woodrow Wilson (1913-1921) – vị TT thứ 28 của Mỹ – ký thành Luật ngày 23/12/1913..  

Tất cả những việc ấy xẩy ra một cách hết sức mau lẹ và trái ngược với tục lệ và truyền thống của Quốc Hội và của CP Mỹ là không bao giờ Lập Pháp Congress [Thượng và Hạ Viện] thảo luận và biểu quyết một Dự Luật vào lúc gần Noel, để cho Congress “recess” [thường thường kể từ 15-17/12] và các Nghị Sĩ và Dân Biểu về quê mình ăn mừng Christmas và New Year. Và, không bao giờ Hành Pháp ký một Đạo Luật vào Noel để cho TT về nhà riêng hay “ranch” của mình ăn mừng Christmas và New Year. Thế mà lần này, Thượng Viên hợp lại, thảo luận, và biểu quyết ngày Thứ Sáu 19/12. Rồi cả 2 viện làm việc với nhau weekend 20-21/12, để ngày Thứ Hai 22/12 cả hai viện họp + thảo luận + biểu quyết dự luật... và ngày Thứ Ba 23/12... Tổng Thống ký thành Luật (!)

Dân Biểu Lindbergh nói ở Hạ Viện “Dự luật này lập ra cái “trust” khổng lồ nhất trên thế giới ! Khi mà TT ký cái dự luật này (thành Luật), thì cái CP vô hình của Mãnh Lực Tiền Tệ sẽ được hơp-pháp-hóa ! Dân chúng có thể không biết chuyện đó ngay, nhưng mà rồi sự biết được chuyện chỉ được dời lại vài năm sau mà thôi”.  Trong lúc đó thì báo chí [đã ở trong tay của “Mãnh Lưc Tiền Tệ”] thì ca tụng hết lời. Báo New York Times viết bằng chữ lớn ở trang đầu : TT Wilson ký Dự Luật Tiền Tệ Sự phồn thịnh được tự do và sẽ giúp mọi giai cấp. 

Hỏi : Thế là con hydra được khai sanh là đứa con hơp pháp của HCQHK để lớn lên với đất nước ?

Đáp : Hay đúng hơn thì phải nói “để lớn lên với đứa em song thai”. 

Hỏi : Nói gì lạ vây, đứa em song-thai nào ?

Đáp : Khi nhóm của Nghị sĩ Nelson Aldrich có Ông Paul Warburg chuẩn bị viết dự luật FED để trình cho Congress, họ đã tiên đóan rằng với sự áp dụng luật này thì CPLB sẽ mắc nợ FED càng ngày càng nhiều nên phải tìm cách làm sao cho phép CP đánh thuế vào dân để có tiền trả nợ cho FED. thì họ kèm theo dự luật FED một Tu chính Hiến Pháp [là Sixteenth Amendment] cho phép CPLB đánh thuế income tax vào dân. Lúc ấy bản văn Tu-Chính chỉ có một trang giấy và nguyên Bộ Luật về thuế má chỉ có14 trang mà bây giờ thì nó dày đến 17,000 trang, cũng như nợ của CP do FED gây ra lớn lên từ số không cho tới bây giờ là $8.5 trillion.  

Hỏi : Bộ trước đó dân không phải đóng income tax cho CPLB sao ?

Đáp : Không, trước 1913, dân chỉ đóng thuế income cho Tiểu Bang của mình mà thôi. 

Hỏi : Đã được hợp pháp hóa rồi, con hydra còn phá phách gì nữa không ?

Đáp : Phá phách thì không, nhưng hợp pháp hóa rồi thì FED hoạt động tích cực hơn, nên gây tai nạn cho dân.

Hỏi : Tai nạn gì ?

Đáp : Cuộc Đại Khủng Hoảng [The Great Depression] năm 1930.  

Hỏi : Bằng cách nào ?

Đáp : Bằng cách tạo ra tiền “out of nothing” qua trò ảo-thuật “loan”. Để khuyến khích dân vay tiền, nên FED hạ thấp bách phân lời thì dân ùn ùn vay để có tiền tiêu xài thả ga. Nhà bank thảy vào nền kinh tế quốc gia một số tiền khổng lồ, tạo ra một cuộc lạm phát [inflation]. Rồi nói để kềm hảm sự lạm phát, thì lại siết chặt việc cung cấp tiền, thu hồi các “loan” đả phát ra, không cho vay “loan” mới thì dân thiếu nợ phải vội vàng bán nhà cửa ruộng đất để trả nợ, nên những người có liên hệ với “Mãnh Lực Tiền Tệ” có tiền mua những bất động sản ấy với giá rẻ mạt. Còn con cháu những kẻ thiếu nợ trở nên vô gia cư vô nghề nghiệp, lang thang thất thểu ngoài đường như hồi còn là 13 thuộc địa dưới thời George II và George III, trước ngày American Revolution 1774.    Nhưng nhờ chánh sách “New Deal” của TT Franklin D.Roosevelt (1933-1945) – vị TT thứ 32 của Mỹ– và việc lập lên FDIC [Federal Deposit Insurance Corporation] mà tình thế trở lại yên ổn. GS Milton Friedman, Nobel Prize về kinh tế, viết : Nhứt định là FED đã gây ra cuộc Đại Khủng Hoảng vì thu rút lại một phần ba [1/3] số tiền đang lưu hành.từ năm 1929 tới năm 1930”.

Còn ông Louis McFadden Chủ tịch The House Banking and Currency Commttee, nói “Cuộc khủng hoảng không phải là bất ngờ ngẫu nhiên mà là một việc được trù liệu rất cẩn thận… Những chủ bank quốc tế tìm cách đem đến đây sự thất vọng để rồi họ có thể trở thành nhưng kẻ ra lệnh cho tất cả chúng ta”. 

Hỏi : Thế rồi từ đó không có ông Tổng Thống nào dám đụng tới FED nữa ?

Đáp : Có chớ, TT John F. Kennedy (1961-1963) – vị TT thứ 35 của Mỹ – ngày 4/06/1963, TT Kennedy đã ký Pháp Lệnh [Executive Order] số 11110 cho phép CPLB phát hành tiền mà không phải qua FED bằng cách cho phép BTC phát hành những giấy chứng nhận bạc đối với mọi thoi bạc, bạc, hay mọi dollar dựa trên bản vị bạc của Bộ [the power to issue silver certificates against any silver bullion, silver or standard silver dollars in the Treasury]. Nghĩa là một khi BTC có trong kho một ounce bạc nào, thì Bộ có quyền phát hành ra một giấy bạc để lưu hành trong nền kinh tế. Như vậy TT Kennedy đã tung ra $4.3 tỷ dollars cho lưu hành.

FED bank của New York sẽ phá sản, vì dân chúng biết rằng các giấy chứng nhận bạc [silver certificates] của CPLB được bạc yểm trợ [backed by silver] chớ giấy bạc của FED [Federal Reserve Notes] không có cái gì yểm trợ hết. Lệnh số 11110 nói trên còn giúp CP trả hết nợ của mình mà không phải qua FED để trả tiền lời, do FED tạo ra tiền out of nothing. Tức, trên thực tế, Lệnh sô 11110 cho CPLB quyền tạo ra tiền của mình có bạc yểm trợ, đúng theo Điều I - Phần 8 của Hiến Pháp HK.

Năm tháng sau, ngày 22/11/1963, TT Kennedy bị tên Lee Harvey Oswald ám sát... rồi hai ngày sau... tên này đã bị tên Jack Ruby (Rubenstein) giết chết trong Dallas Police Station. 

Hỏi : Phải chăng có nhóm tài phiệt cai trị xứ này vì người ta hay nói: “Ai nắm được tiền là nắm được quyền” ?

Đáp : Tôi không dám trả lời là phải hay là không [yes or no] vì tôi không đọc được sách nào nói rõ là đã có một Tòa Án nào kết án một người nào trong giới Mãnh Lực Tiền Tệ hay một vị nào trong nhóm những Nam Tước Trộm Cắp [Robber Barons] về tội dùng tiền của mình mua được quyền thế.  Cho nên xin để bạn đọc mỗi người kết luận theo ý kiến của mình.  

Chỉ xin phép nhắc lại lời nói của Ông Nathan Rothschild hồi năm 1838 “để cho tôi phát hành và kiểm soát tiền của một quốc gia, thì tôi cóc cần biết ai viết luật pháp”, và cũng xin được phép nhắc lại số phận của những vị Tổng Thống đã có gan dám chặt đầu con hydra tiền tệ :

Tổng Thống Andrew Jackson bị mưu sát,
Tổng Thống Abraham Lincoln và Tổng Thống John F.Kennedy bị ám sát.             
Tài liệu tham khảo :

The Web of Debt by Ellen Hodgson Brown, nxb Third Millennium, Baton Rouge, 2007

The Secrets of the Federal Reserve by Eustace Mullins nxb Bankers Research Institute Staunton, 1993

Modern Money Mechanics published by the Federal Reserve Bank of Chicago, now out of print:

The Federal Reserve is a privately owned corporation by Thomas D. Schauf. 11/28/1998

 HYDRA TIỀN TỆ TRÊN TRƯỜNG QUỐC TẾ

Lời nói đầu : Trong bài “Mê-Lộ Của Hệ Thống Tiền Tệ Hoa Kỳ” chúng ta đã thấy con hydra tiền tệ Mỹ có tên là FED hoạt động như thế nào trên Hiệp Chủng Quốc HK. Bây giờ, chúng ta tìm xem có con Hydra tiền tệ nào hoạt động như thế trên trường quốc tế ?

Nhắc lại một sự kiện lịch sử :

Ngày 18/06/1815, cuộc chiến tại Waterloo đang diển tiến, ông Nathan Rothschild, lúc đó đang là một trong số những chủ ngân hàng lớn nhứt của London, nắm được tin Hoàng Đế Napoléon sẽ đại bại trước nhà cầm quyền Anh trong 24 tiếng đồng hồ. Ông liền tung tin nói rằng Napoléon sẽ đại thắng. Giá cổ phiếu trên tòan bộ thị trường chứng khóan lập tức tuột xuống tận đáy. Lập tức, Nathan Rothschild liền ra tay mua gom, vét hết, các cổ phiếu với giá rẻ mạt. Cuối cùng khi chiến thắng của Tướng Wellington được lan truyền khắp thủ đô London thì giá các cổ phiếu lại tăng vọt lên... Chỉ trong vài giờ, Ông Nathan Rothschild lại tung các cổ phiếu này bán lại, và thu được những khoản chênh lệch kếch xù...

Đó là chuyện thời xưa. Bây giờ chúng ta hãy xem xét chuyện thời nay. 

Thỏa Hiệp Bretton Woods 

Báo chí thường hay nhắc tới cụm từ Bretton Woods. Vậy nó là gì, ở đâu ? 

Tra từ-điển Webster mới biết đó là tên của một nơi nghỉ mát [resort] trong núi White Mountains ở Tiểu-Bang New Hampshire. Xem bản đồ Tiểu Bang mới thấy nó nhõ xíu nằm trên đường 320 ở giữa hai thành phố nhỏ Twin Mountain và Crawford House. Thế mà năm 1944, trước khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt năm 1945, nó được chọn [theo ý của Ô. David Rockefeller] làm địa điểm hội họp cho một Hội Nghị Quốc Tế về Tiền Tệ. 

Hai nhân vật đóng vai chánh trong Hội Nghị là kinh-tế-gia Anh danh tiếng quốc tế John Maynard Keynes và Thứ Trưởng Tài Chánh Mỹ Harry Dexter White.

Hội nghị đưa đến một thỏa hiệp được gọi là Thỏa Hiệp Bretton Woods [the Bretton Woods Accords]. Theo Thỏa Hiệp này thì bản-vị vàng [the gold standard] vẫn được giữ và được đồng dollar yểm trợ [backed by the US dollar] vì đồng dollar được coi là “tốt như vàng” [as good as gold] và Mỹ cam kết sự có thể đổi [convertibility] dồng dollar ra vàng theo giá $35 dollars một ounce vàng. Bản vị vàng của Bretton Woods “chạy đều” được một thời gian, vì ít có nước nào đổi dollars của mình ra vàng, và người ta còn tin tưởng nơi khả năng trả được [solvency] của Hoa Kỳ. 

Nhưng kể từ năm 1965, chiến tranh ViệtNam đã kéo nước Mỹ vào vòng xoắn của nợ nần [the spiral of debt] thì TT De Gaulle của Pháp, nhận thấy Mỹ  tiêu xài quá cái mức vàng được dự trữ, nên đòi Mỹ phải trả lại cho Pháp số vàng tương đương với $300 triệu dollars mà Pháp đang có. Mỹ làm đúng theo lời yêu cầu của De Gaulle... Nhưng kho dự trữ vàng của Mỹ bị “xẹp” đến nỗi mà năm 1971 TTNixon phải rút dollar ra khỏi bản-vị vàng [took the dollar off the gold standard] và hủy bỏ luôn việc đổi dollar ra vàng.

Các ngân hàng tư nhân và FED lại có dịp dở lại cái trò ảo-thuật “loan” để “create money out of nothing”.  

Rồi thêm một trò ảo-thuật mới nữa được gọi là “short selling” một thứ “mượn đầu heo nấu cháo” dựa trên hai nguyên tắc căn bản của “Kinh Tế Thị Trường” là :

Luật cung cầu : Hể cung [offre] mà nhiều hơn cầu [demande] thì giá hàng xuống, và hể cung mà ít hơn cầu thì giá hàng tăng lên. 
Mục đích hoạt động của một công-ty là làm sao cho có lợi cho người có cổ phần [shareholder] và ý muốn của người [hay của nhóm người] nắm đa số cổ phần là “ý muốn của vua” giám đốc công ty phải tuân theo.
Và đây là lối hành động của “short selling”. Thí dụ như tôi đã nghiên cứu và khám phá ra được một lối chế tạo một món hàng mà tôi cho rằng sẽ được dân chúng thích, thì tôi phải dựng lên một công ty để sản xuất món hàng đó; nhưng vì không có đủ tiền nên tôi phải kêu gọi người ngoài hùn vốn bằng cách “bán cổ phần” thí dụ như tung ra một triệu cổ phần, mỗi cổ phần giá là $50 dollars. Nhờ có nhiều người hưởng ứng vì thấy món hàng tốt sẽ được dân mua dùng, nên người thì mua vài chục, kẽ thì mua vài trăm, có khi một mhóm kinh doanh mua vài ngàn cổ phần... nên tôi có được 50 triệu dollars để dựng lên “Công ty V”có nhà máy sản xuất, có cơ sở giao dịch, có văn phòng, v.v.. Nhờ hàng tốt dân chúng thích, mua nhiều, nên “Công-ty V” phát đạt. Giá trị của cổ phần công ty mỗi ngày một tăng lên tới (thí dụ như $70 dollars mỗi cổ phần).

Thường thường người muốn mua cổ phần là mua qua một môi-giới [“broker”] và gởi giấy số cổ phần đó cho “broker” giữ (chớ đâu có đem về nhà). Ông chủ nhà bank B, thấy “Công ty V” phát đạt nên muốn chiếm lấy nó. Ông [là “bồ tèo”có khi là chủ nhân thật của tên broker] đến “mượn” một số X.. cổ phần của “Công ty V” và tung số đó ra càng ngày càng nhiều vào thị trường... Trên thị trường số cung [của cổ phần “Công ty V”] càng ngày càng tăng, mà số cầu thì có hạn, nên giá của cổ phần càng ngày càng xuống. Những người ở nơi khác có cổ phần “Công ty V” thấy giá cổ phần xuống liền liền, thị vội vã biểu broker của mình bán mau mau cổ phần “Công ty V” của mình, thì trên thị trường tràn ngập cổ phần “Công ty V” với giá rẻ, thí dụ như chĩ còn có $25 dollars mỗi cổ phần. Ông B lấy tiền nhà bank mình quơ [rafler] hết các cổ phần “Công ty V” có trên thị trường. Ông trả lại cho broker “bồ tèo” của ổng số X cổ phần mà ổng đã “mượn”. Còn phần Y còn lại thì ổng giữ như là của riêng của ngân hàng B.  Bấy giờ ông B có thể có 2 quyết định :

Một là để cho “Công ty V” vẩn sống, thì ổng bớt hẳn số cung [bán ra] cổ phần Công ty V trên thị trường làm cho giá của nó tăng lên trở lại để đem cái lời cái lợi về cho các chủ cổ phần [mà chính ngân hàng B được hưởng thụ nhiều nhứt vì là nắm đa số cổ phần] Hai là ổng có thể giết chết luôn Công ty V... vì trong hội nghị hằng năm (hay hằng tam cá nguyệt) của công ty “ý muốn của người có đa số cổ phần là ý muốn của vua” nên ổng quyết định dẹp bỏ công ty vì quá lỗ lã, bán mau với giá rẽ tất cả máy móc cơ sở công ty [không còn tên trong danh sách các cơ sở].
Một “bồ tèo” hay “tay sai” của ổng mua hết máy móc dụng cụ cơ sở đó, để dựng lên một Công ty mới, sản xuất cùng một thứ hàng mà dân đã thích mua. Còn tôi, người tìm ra phương pháp chế tạo hàng thì được mướn ở lại làm công như một kỷ-sư chuyên môn, hay bị đuổi đi. Thế là “Công ty V” mà bao nhiêu năm tôi đã tốn không biết bao nhiêu thời giờ và công khó nhọc để nghiên cứu, suy nghĩ, thử đi thử lại mới chế tạo ra được món hàng được dân ưa thích và tạo dựng lên được một cơ sở mà tôi lấy làm hãnh diện, trong chốc lát, đã bị nhà bank B nuốt hết, nhờ cái trò ảo thuật “short selling” !
 

Trên bình diện quốc tế, nếu có một tổ chức nào mạnh và giàu, đem áp dụng trò ảo-thuật “short selling” đó  vào một quốc gia yếu và nghèo, thì cả hệ thống kinh tế và hệ thống kỷ nghệ còn non nớt của quốc gia ấy, sẽ bị “nuốt” mất hết… Mà tổ chức mạnh và giàu đó đã có rồi… !!!   Đấy là IMF & World Bank. 

Ngoài việc đưa đến một Thỏa Hiệp, hội nghị Bretton Woods nói trên còn đẻ ra được 2 con hydra khổng lồ là :

IMF [the International Monetary Fund Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế]
World Bank [the International Bank for Reconstruction and Development Ngân Hàng Quốc Tế]
Nói là để giúp Đệ Tam Thế Giới [the Third World] và các quốc gia đã bị chiến tranh tàn phá. Nhưng trên thực tế thì khác hẳn, vì IMF và World Bank sẽ áp dụng cho Đệ tam Thế Giới 2 trò ảo-thuật “loan” và “short selling” cộng với 2 quan niệm “cho chắc ăn” rất đặc biệt như sau : 
 

1/- Để “cho chắc ăn”, các nhà bank thích “chơi” với các Chính Phủ “vững chắc”, nghĩa thông thường là các CP độc tài [preferred “stable” governments for clients. Generally that meant governments controlled by dictators]. Còn từ đâu các nhà độc tài đó có được quyền hành và họ làm gì với tiền... thì không phải mối lo của ngân hàng. Cho nên một số quốc gia ở Nam-Mỹ được thí nghiệm :

Ở ChíLợi, ngày 11/09/1973, TT Salvador Allende được dân bầu một cách dân chủ, bị Tướng Augusto Pinochet đảo chánh.
Ở Peru, Chính Phủ bình dân [populist] của TT Alan Garcia bị cho vào “black list” của IMF, nên ngày 28/07/1990 thì bị CP Alberto Fujimori thay thế để áp dụng cái gọi là “economic shock therapy”.
Rồi Argentina, các cuộc đảo chánh do bọn “Chicago Boys” gây ra.   

2- Để “cho chắc ăn” các thứ tiền viện trợ cho y-tế, cho giáo-dục, cho sức khỏe trong các quốc gia mắc nợ phải bị bỏ đi, theo lệnh của IMF, để cho các nhà bank được trả nợ đúng kỳ [public spending for health, education and welfare in debtor countries was slashed, following IMF orders to ensure that the banks got timely debt service on their petrodollars]. Cho nên trong  các quốc gia có nhận viện trợ của IMF,[như Bangladesh, Bolivia, Brazil, Peru Ethiopia, Somalia, Uganda, Việt Nam và một số quốc gia trong khối Liên Bang Soviet URSS cũ], con nít đi học phải trả tiền, người đau ốm vào bệnh viện phải trả tiền, chớ không còn được miển phí như trước.

Kết quả là ở trong đa số các quốc gia ấy [trong đó có VN thời “bao cấp”] nền giáo dục bị phá tan [Destruction of Education], hệ thống bảo vệ sức khỏe bị sụp đổ [Collapse of the Health System] thì các bệnh nhiễm trùng tái phát [Resurgence of Infectious Diseases].

Riêng ở VN còn có một chuyện lạ nữa là : sau khi CSBV chiến thắng, thì IMF đòi Hànội phải trả một số tiền $140 triệu dollars mà CP Saigon [VNCH] hồi trước còn nợ IMF, rồi IMF mới giúp. Thì Hànội phải chịu và may cho Hànội, là Pháp với Nhật lập lên một “Ủy Ban Bạn của VN” [Friends of VN Committee] cho Hànội mượn khoản tiền đó để trả cho IMF.

Ngoài các tai hại về y tế và giáo dục nói trên, IMF còn gây ra nhiều tai họa khác độc ác hơn nữa, như đem nước sông vào ruộng để cày cấy mà phải trả tiền nước [ở Bolivia Nam Mỹ] nạn đói [như ở Somalia, Ethiopia] nạn thiếu dinh dưởng [khắp nơi] nạn thiếu an ninh, lọan vì biểu tình chống đối và đàn áp [ở cùng hết], nạn nội chiến vì chủng tộc [như Uganda] có thể đưa đến nạn diệt chủng [như ở Rwanda] v.v.. mà các sách đã tham khảo diễn tả rất đầy đủ trong vài ba trăm trang. Tất cả việc đó xẩy ra sau khi áp dụng cái được gọi là “ IMF shock therapy” với “privatization” [tư-hửu-hóa], với “deregulation” [bỏ luật lệ ràng buộc] để “giúp đở”, để “khuyến khích” để “chỉ dẩn” cho dân địa phương. Luôn luôn, dưới chiêu bài là “để thực hiện dân chủ”, “ để gia nhập kinh tế thị trường” và  để xây dụng một “Nền Trật Tự Mới”[a New World Order].  

Riêng VN không bị những tai họa ấy, nhờ chính sách “Đổi Mới” biến hơn hai triệu “ngụy” đã hèn nhát bỏ trốn ra nước ngoài, trở thành những kiều bào hải ngoại yêu quý, “khúc ruột xa ngàn dậm” của dân tộc, được ân cần mời đi nhũng tours du lịch về VN, để đổ vào nền kinh tế của quê hương hằng năm một hai tỷ, rồi ba bốn tỷ, rồi năm sáu tỷ dollars. Nhờ số tiền đó, vì không phải của IMF cho mượn, thì không bị luật lệ của chủ nợ ràng buộc, cho nên tất cả các cơ quan nghiên cứu quốc tế độc lập đều công khai công nhận là VN tiến bộ, có một nền kinh tế vững chắc, một hệ thống cơ sở căn bản [infrastructure] tốt, đứng hàng đầu trong việc chống nạn nghèo [against poverty], trong việc chống nạn thất học [against illiteracy] và trong số 20 quốc gia có số lượng Internet nhièu nhứt trên thế giới VN đứng hàng thứ 16 với số 16,500,000 máy [trên Turkey thứ 17 với 16,000,000 máy,  trên Australia thứ 18, với 15,085,000 máy, trên Taiwan thứ 19 với14.500.000 máy và Philippines thứ 20 với 14,000,000 máy]. VN có một dân số hơn 83  triệu người, tức là tỷ lệ người dùmg Internet ở VN là 19,40% cũng là đứng hàng thứ 16 [trước PhiLuậtTân thứ 17 với 16,00%, trước TrungQuốc thứ 18 với 12,30%, trước Indonesia thứ 19 với 8,90% và trước India thứ 20 /3.70%].