Home Tin Tức Bình Luận Chính Nghĩa Dân Tộc Tất Thắng Chiêu Bài Dân Tộc

Chính Nghĩa Dân Tộc Tất Thắng Chiêu Bài Dân Tộc PDF Print E-mail
Thứ Bảy, 07 Tháng 11 Năm 2009 09:24
Và đó chính là lúc xuất hiện con người ‘’Tout Ou Rien’’ Ngô Đình Diệm.
 
            Ngô Đình Diệm

 Ngày chủ nhật 31.5.2009 gần 300 đồng hương đã hội họp tại nhà  hàng Kim Sơn ở Houston, Texas để thảo luận về đề tài  Chính Nghĩa Dân Tộc lấy từ nhan đề cuốn sách mới nhất của Minh Võ nhan đề: Ngô Dình Diệm và Chính Nghĩa Dân Tộc xuất bản tháng 11 năm 2008 và tái bản tháng 1.2009. Cuộc hội thảo xảy ra chỉ bốn ngày trước ngày kỷ niệm một biến cố lịch sử quan trọng của Việt Nam là hiệp ước ký kết giữa Hoàng Thân Bửu Lộc, Thủ Tướng Chính Phủ Việt Nam và Thủ Tướng Pháp Joseph Laniel (1890-1975), ngày 4.6.1954. Hiệp Ước này không được nhắc tới nhiều như các hiệp ước Élysée (8.3.1949) hay Hiệp Định Genève (20.7.1954), vì dường như nó bị làm cho lu mờ đi bởi biến cố Điện Biên Phủ (7.5.1954) và sự chia cắt đất nước xảy ra liền trước và sau đó chỉ ít ngày. Nhưng đó là một biến cố có ý nghĩa quan trọng vì nó là một cử chỉ dứt khoát của chính phủ Pháp,trước sức ép của tình hình bi đát Đông Dương cùng một lúc với tình hình khẩn cấp Algérie, muốn trao trả độc lập hoàn tòan cho một Việt Nam phi cộng sản. Nó cũng là kết quả nhiều năm tranh đấu của những người yêu nước, trong đó có ông Ngô Đình Diệm. (1)

Thời  điểm đó cũng là lúc chẳng những cựu Hoàng Bảo Đại là Quốc Trưởng Việt Nam mà cả những nhà lãnh đạo đại cường Pháp, Mỹ cũng đều tập trung chú ý vào việc tìm kiếm, hay trông chờ sự xuất hiện, một nhân vật của thời thế khả dĩ kham nổi tình thế tuyệt vọng của phe Quốc Gia và có thể đương đầu với cộng sản đang ở thế thượng phong trên chiến trường và chính trường Đông Dương.

Và đó chính là lúc xuất hiện con người ‘’Tout Ou Rien’’ Ngô Đình Diệm.

Vì  vậy, nhân dịp này chúng tôi xin khai triển thêm một  điểm quan trọng đã được nhắc qua trong một bài quan điểm khá dài về Mối Nguy Của Dân Tộc đã được đăng tải trong những ngày đầu tháng 5.2009.

‘’Chính Nghĩa Dân Tộc tất thắng Chiêu Bài Dân Tộc’’  (2)

Cho đến nay hầu như không còn ai nghĩ Hồ chí  Minh không phải là cộng sản nữa. Nhưng trong những năm đầu và giữa thập niên 1940 nhiều người đã tin lời ông ta chối mình không phải là cộng sản, mà chỉ là người theo chủ nghĩa dân tộc. Trong số những người tin lời nói dối của ông Hồ phải kể đến những sĩ quan cấp Úy Hoa Kỳ như Archimèdes Patti và Charles Fenn. Vì ngây thơ hay vì bị thuyết phục bởi những lời lẽ xảo quyệt của ông Hồ, họ tin ông ta hơn cấp trên của họ là những nhân vật có đầy đủ tài liệu bằng chứng về quá khứ và họat động của họ Hồ. Là bởi vì lúc ấy rất ít người hiểu thế nào là chủ nghĩa cộng sản, một chủ nghĩa mà ngày nay ai cũng thấy là hoang tưởng, vì nó chủ trương thế giới đại đồng, phi quốc gia dân tộc.

Hơn nữa thực tế lịch sử đã chứng tỏ tất cả các nước đem áp dụng nó đều đã điêu  đứng, tan hoang về vật chất cũng như tinh thần. Chỉ vài nước như Trung Quốc và Việt Nam cộng sản còn tồn tại vì đã biết sớm bỏ nó mà  đi theo kinh tế thi trường, mặc dù vẫn còn lừng khừng, miễn cưỡng thòng thêm cái đuôi ‘’theo định hướng xã hội’’.

Lúc  ấy cũng rất ít người biết rõ lý lịch của Hồ chí Minh đã từng là cán bộ cao cấp của quốc tế cộng sản. Vì vậy khi ông ta về  nước lập ra mặt trận Việt Minh, rồi tuyên bố Việt Nam Độc Lập, lập chính phủ Liên Hiệp thì không chỉ thường dân ít học, mà cả các nhà trí thức, các đảng phải chống cộng như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh... đều (vui vẻ hay miễn cưỡng) tham gia. Họ còn nhận 70 ghế trong Quốc Hội mà Hồ chí Minh tặng, không phải qua bầu cử!

Do đó đa số nhân dân trong nước và cả  nhân dân thế giới (do một số đông ký giả  thiên tả, hoặc không hiểu biết về chủ nghĩa cộng sản, và không rõ lý lịch của Hồ chí  Minh mô tả) đều coi ông Hồ là nhà ái quốc, tức người theo chủ nghĩa dân tộc thực sự. Mà sự lầm lẫn này cho đến nay vẫn còn tồn tại trên những tác phẩm nổi tiếng thế giới. Vì lúc ban đầu ngay một số đông nhà trí thức, đại trí thức cỡ Bertrand Russel, hay Jean Paul Sartre...cũng bị lầm bởi học thuyết Mác mà họ coi như khoa học xã hội tiến bộ.

Nhưng nếu đã hiểu thấu chủ nghĩa cộng sản của Mác và  biết rõ lý lịch của Hồ chí Minh, và  có kinh nghiệm sống với thực tại đẫm máu của cộng sản (như chúng ta ngày nay) thì ai cũng nhận ra ngay cái gọi là lòng ái quốc hay chủ nghĩa dân tộc của Hồ chí Minh chỉ là chiêu bài giả dối phát xuất từ sách lược giai đoạn hay nói trắng ra là do âm mưu xảo trá bịp bợm của Lênin, tác giả đề cương về chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa dân tộc.

Ông Ngô Đình Diệm là người có viễn kiến chính trị và kiến thức sâu rộng về cộng sản đã không lầm như những người khác. Ngay khi còn làm Tuần Vũ Tỉnh Phan Thiết từ 1929 đến 1933 ông đã phải đương đầu với cộng sản lúc ấy trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh với khẩu hiệu sắt máu Trí Phú Địa Hào đào tận gốc, trốc tận rễ. Sau này khi ông bị Việt Minh bắt giam ở Việt Bắc, rồi Hồ chí Minh ra lệnh đưa ông về Bắc Bộ Phủ, ngỏ lời mời ông tham gia chính phủ Liên Hiệp trong chức vụ bộ trưởng nội vụ, ông đã nhìn thấu tâm can đối thủ và cương quyết từ chối. Ông không mắc mưu cộng sản như các lãnh tụ đảng phái khác.

Ngay lúc ấy ông đã thấy rõ Hồ chí Minh là kẻ thù tối ư nguy hiểm mà  ông sẽ phải đối phó trong tương lai. Ông đã thấy cái chiêu bài ái quốc, chiêu bài chủ  nghĩa dân tộc của ông Hồ lúc ấy lợi hại như thế nào. Và ông nhìn ra ngay chỉ có dùng chính nghĩa dân tộc và lòng yêu nước thực sự mới có thể đánh thắng cộng sản.

Là một nhà ái quốc, ở tuổi 32 đã lên đến chức Thượng Thư Bộ Lại, tương đưong với  Thủ Tướng thời nay, ông đã không chút do dự ‘’rũ áo từ quan’’ để phản đối thực dân Pháp và Nhà Vua. Ông đã không màng danh vọng, bổng lộc, coi vàng muôn lượng nhẹ tựa lông hồng, Ngôi báu xem nhường dép nửa đôi như lời thơ của Nhà Cách Mạng Phan Bội Châu đề tặng ông và gọi ông là chí sĩ, vĩ nhân.  

Ông từ chức không phải để cầu an, trốn tránh trách nhiệm, để rút lui về ở ẩn, trùm chăn, như nhiều người lầm tưởng. Nhưng ông đã lợi dụng thời gian không bận bịu với công danh, phú quý, để tiếp tục tranh đấu, đòi cho bằng được một nền độc lập hoàn toàn cho Tổ Quốc. Vì ông biết rõ, chỉ khi nào nước nhà có được một nền độc lập hoàn toàn thực sự ông mới có chính nghĩa để lột trần mặt nạ chiêu bài yêu nước giả dối, một thứ chủ nghĩa dân tộc giả hiệu của Hồ chí Minh.  

Với thái độ cương quyết, ‘’tout ou rien’’ (hay ‘’all or nothing’’), ông đã cố vấn cho Quốc Trưởng Bảo Đại ở Hương Cảng tranh đấu với Bolaert và đích thân ông cũng tranh luận gắt gao với vị Cao Ủy Pháp này để đạt một nền độc lập hoàn toàn hay ít nhất cũng giống như một nền độc lập mà người Anh đã trả cho Ấn Độ và Pakistan chẳng hạn. Nhưng vì thất bại trong việc này, nên khi Cựu Hoàng mời ông làm Thủ Tướng để ký với Bolaert thông cáo chung Vịnh Hạ Long (ngày 5.6.1948) ông không nhận. Rồi sau đó, ngay cả khi Pháp đã nhượng bộ hơn và chính Tổng Thống Pháp Vincent Auriol ký với Quốc Trưởng Bảo Đại hiệp ước Élysée ngày 8.3.1949 trao trả độc lập rộng rãi hơn, ông vẫn không nhận lời mời của Bảo Đại làm Thủ Tướng. Vì ông nhận thấy độc lập trong Liên Hiệp Pháp vẫn chưa đủ uy tín cho ông có thể đương đầu với chiêu bài dân tộc của cộng sản. Vì uy thế của Hồ chí Minh đã được củng cố và tăng nhanh, sau cái gọi là Cách Mạng Tháng Tám, rồi bản tuyên ngôn độc lập mà Hồ chí Minh đọc tại quảng trường Ba đình ngày 2.9.1945 đánh dấu ngày ra đời của cái gọi là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.  

Lúc  ấy không chỉ đa số nhân dân trong nước, mà phần lớn dư luận thế giới cũng cho rằng ông Hồ và đảng cộng sản có công lớn trong việc thu hồi độc lập. Vì tuy rằng các bản thông cáo chung Vịnh Hạ Long và Hiệp Ước Élysée là những văn kiện pháp lý được quốc tế công nhận, đối với đa số người dân và ký giả ngọai quốc chúng chỉ có ý nghĩa trên giấy tờ, trên pháp lý. Còn trên thực tế thì suốt từ 1946 đến 1954 người ta chỉ thấy quân Việt Minh của họ Hồ kháng chiến chống hàng trăm ngàn quân Pháp do các Tướng lãnh nổi tiếng của Pháp chỉ huy. Rất ít thấy có những trận đánh lớn với quân của Quốc Trưởng Bảo Đại. Vì vậy người ta có cớ để coi phe Quốc Gia bên cạnh quân Pháp chỉ là phản động, Việt gian.  

Ông Diệm nhìn rõ điều đó.  

Cho nên chỉ cho đến khi Pháp đã thua rõ ràng sau trận Điện Biên Phủ và nước nhà bị qua phân, và phía người Việt Quốc Gia lâm vào tuyệt vọng, ông mới ra tay cứu nước. May là lúc ấy cũng là lúc chính phủ Laniel của Pháp vừa ký với chính phủ Bửu Lộc hiệp ước trao trả độc lập hoàn toàn cho Việt Nam.

Qua lăng kính chủ nghĩa Mác không tưởng và độc hại và với nhãn quan về một cuộc chiến toàn cầu do cộng sản phát động, ông Diệm đã nhìn rõ kẻ thù chính của dân tộc (cũng như của nhân loại) không phải người Pháp mà là cộng sản (3). Nhưng không dành được Độc Lập từ tay người Pháp thì sẽ không thể phá vỡ chiêu bài dân tộc của cộng sản để chiến thắng cộng sản. Vì vậy Pháp tuy là kẻ thù thứ yếu nhưng cần phải thanh toán trước.

Nhiều độc giả đã hỏi, tác giả có nghĩ nếu ông Diệm không bị lật và bị giết thì đã không có thảm họa 30 tháng Tư không ?  Lịch sử không có chữ nếu. Cho nên tôi chỉ yêu cầu xem kỹ hai sự kiện lịch sử đã được kể lại bởi Nguyễn văn Linh và Văn tiến Dũng. Nguyễn văn Linh, nguyên tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam đã thổ lộ với Neil Sheehan (là một trong ba nhà báo trẻ chuyên chỉ trích, đả kích và thóa mạ ông Ngô Đình Diệm) và được y ghi lại trong cuốn After The War Was Over. Còn Văn tiến Dũng là viên tướng tư lệnh chiến dịch Hồ chí Minh đánh chiếm miền Nam năm 1975 thì đã đích thân ghi lại trong cuốn Về Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước, mà chúng tôi đã dẫn chứng nơi trang 140 Ngô Đình Diệm và Chính Nghĩa Dân Tộc, ấn bản tháng Giêng năm 2009. Theo hai tác phẩm của Sheehan và Văn tiến Dũng thì thời Đệ Nhất Cộng Hòa, cộng sản đã mất từ 75 % (theo Nguyễn văn Linh) đến trên 90 % cán bộ.  

Sở  dĩ có được thành quả đó là nhờ  miền Nam lúc ấy có chính nghĩa dân tộc. Quân Pháp đã rút hết. Dinh Norodom của Pháp đã trở thành Dinh Độc Lập. Dân chúng lại được sống trong phồn vinh, trù phú (Như đã dẫn chứng nơi trang 83-84 tác phẩm Ngô Đình Diệm và Chính Nghĩa Dân Tộc nói trên). Dựa vào những sự kiện thực tế rõ ràng như trên, việc thuyết phục các cán bộ cộng sản rời bỏ hàng ngũ cộng sản để quay về với chính nghĩa dân tộc không khó khăn lắm Và có thể quả quyết: Ông Diệm đã thành công mà không cần có lực lượng võ trang hùng hậu trong việc chiến thắng cộng sản là nhờ có chính nghĩa dân tộc và chính sách chiêu hồi sáng suốt.

Và khi ông Diệm không còn nữa và Mỹ đã tự  ý đưa đại quân vào bao thầu cuộc chiến, thì cảnh quân ngoại quốc nhan nhản trên khắp nước đã lại tái diễn. Và cảnh lệ thuộc ngoại bang mà chính quyền Bảo Đại đã phải chịu, lại tái phát. Do đó chiêu bài ái quốc giả dối của Hồ chí Minh lại có dịp thắng thế một lần nữa cho đến khi cộng sản chiếm trọn miền Nam.

Minh Võ (Nam Cali 1.11.2009)  

Chú Thích:

1.- Sự  kiện này đã được ông Diệm tiên liệu từ  những năm 1947-1948 và nói trước với ông Hồ Sỹ Khuê và được ông này ghi lại trong tác phẩm Hồ chí Minh Ngô Đình Diệm và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (trang 164) và được Minh Võ trưng dẫn nơi trang 241 cuốn Ngô Đình Diệm và Chính Nghĩa Dân Tộc: ‘’Ông Diệm bảo tôi: ...Thành ra nguy cơ không phải là óc ly khai của người Nam Kỳ. Nguy cơ là cộng sản. Pháp là vấn đề giai đoạn. Cộng sản mới là vấn đề tâm huyết và dài hạn. Pháp thắng hay bại trong cuộc chống Việt Minh vẫn phải đi đến chỗ công nhận Việt Nam độc lập. Điều quan trọng là buộc họ phải trả chủ quyền trong tay chúng ta (trong tay ông Diệm).’’

Những gì ông Diệm đã làm trong một năm khi mới về  nước đã buộc Pháp trả độc lập hoàn toàn trong tay ông Diệm, vì hiệp ước 4.6.1954 dầu sao cũng chỉ là trên giấy tờ. Để cụ thể hóa nó và biến nó thành hiện thực ông đã phải vượt qua vô vàn khó khăn và tranh đấu cam go mới đạt được.

2.- Đây chỉ là một phần bổ túc và quảng diễn thêm về một điểm của bài trước, Mối nguy của dân tộc. Vì vậy mong độc giả đặt bài này vào khuôn khổ bài trước để có một cái nhìn tổng quát và đầy đủ hơn.

3.- (Xin xem Ngô Đình Diệm và Chính Nghĩa Dân Tộc lần tái bản trang 241.